|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
Một cuốn sách nhỏ bé dạy hành thiền trong đời sống hàng ngày bằng những lời lẽ giản dị nhất, giản dị đến nổi hầu như ai cũng có thể đọc được. Sách không một lời lẽ thiền mà lại ngát hương thiền làm cho bao người ngạc nhiên về nó. Kính mời quư bạn ghé vào đây nơi mà các bạn có thể thưởng thức được hương thơm của hoa Quỳnh và hương thơm của thiền học ḥa quyện vào nhau (Như Hải) |
|
|
Nguyên-Tác AT THE FEET OF THE MASTER Tác Giả ALCYONE (KRISHNAMURTI) Tủ Sách Thông Thiên Học
Dựa theo ấn bản thứ mười hai của ông BẠCH LIÊN XIN DÂNG CHO NHỮNG NGƯỜI TẦM ĐẠO Xin dắt tôi từ cõi gỉa đến cõi CHƠN, Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi SÁNG SUỐT, Xin dắt tôi từ cửa tử đến cõi TRƯỜNG SANH BẤT TỬ. TÁNH PHÂN BIỆN (Le discernement) Tánh phân biện chia ra làm năm khoản như sau đây: 1- Những mục đích thật (Les buts véritables); 2- Cách sanh hoạt của ba thể : xác, vía trí (La vie des corps); 3- Điều lành và điều dữ (Le bien et le mal); 4- Phải hết sức ngay thật (Soit absolument vrai); 5- Tình bác ái và Thiên mạng (sự sống thiêng liêng) (L’altruisme et la vie divine) DỨT BỎ (ĐOẠN TUYỆT Le détachement) Tánh dứt bỏ hay đoạn tuyệt chia làm năm khoản : Một là : Dứt tuyệt sự ham muốn (La suppression du désir) Hai là : Duy có một điều ham muốn tốt hơn hết (Le seul bon désir) Ba là : Những phép thần thông (Les pouvoirs psychiques) Bốn là : Những sự ham muốn nhỏ nhen (Les petites envies) Năm là : Hăy lo lắng việc nào có can hệ tới con (Occupez vous de ce qui vous regarde)
HẠNH KIỂM TỐT (La bonne conduite) Chơn Sư kể sáu điểm đặc biệt thuộc về hạnh kiểm tốt buộc phải có như sau đây: Một là : Tự chủ trong khi tư tưởng (La maîtrise de soi quant au mental) Hai là : Tự chủ trong lúc hành động (La maîtrise de soi dans l’action) Ba là : Đức khoan dung (La tolérance) Bốn là : An phận (Le contentement) Năm là : Đi thẳng một đường tới mục đích (Unité de direction vers le but) Sáu là : Lòng tin cậy (La confiance) (Tôi vẫn biết có chỗ dịch tên vài khoản tôi mới kể ra khác hơn tôi và cũng dịch khác các đức tánh buộc phải có nữa. Nhưng tôi luôn luôn lấy những tên mà Chơn Sư dùng trong lúc Ngài cắt nghĩa cho tôi nghe). L̉NG TỪ ÁI (L’Amour) Ḷng Từ ái chia làm sáu điểm :Một là : Thoát kiếp luân hồi (La libération) Hai là : Ḷng từ ái trong sự sinh hoạt hằng ngày (L’amour dans la vie quotidiene) Ba là : Sự nói hành (La médisance) Bốn là : Điều hung ác (La cruauté) Năm là :Thói dị đoan (La superstition)
Sáu là :
Phụng sự (Le service) VÀI LỜI NÓI ĐẦU Tôi được cái đặc quyền như người chị cả, viết vài lời giới thiệu quyển sách nhỏ bé này, quyển sách đầu tiên của một đứa em c̣n ít tuổi; thật ra, xác phàm của em còn nhỏ chớ linh hồn em không nhỏ. Những lời giáo huấn trong đó vốn của Thầy em chỉ bảo trong khi Ngài huấn luyện cho em được Điểm Đạo. Em viết thuộc lòng mấy lời này song chậm chạp và khó khăn bởi vì năm ngoái em học tiếng Anh chưa được giỏi như bây giờ [1]. Phần lớn cuốn này vốn lập lại y nguyên lời của Thầy em đă nói, còn câu nào không phải nguyên văn lời của Ngài thì cũng là tư tưởng của Ngài được em viết lại. Có hai câu bỏ sót, Ngài đă điền vào. Trong hai chỗ khác em quên một chữ, Ngài cũng đă thêm vô. Ngoài những điều ấy ra, tác phẩm này hoàn toàn là của Alcyone [2], ấy là món quà đầu tiền em cống hiến cho đời .Cầu xin tác phẩm này giúp ích cho kẻ khác cũng như lời khẩu truyền đă giúp ích cho Alcyone vậy. Bởi Alcyone cũng mong mỏi như thế cho nên em mới đem truyền lại cho chúng ta. Những lời giáo huấn này có hiệu quả chỉ khi nào người ta ăn ở y như Alcyone vậy, một ḷng nghe theo lời huấn thị của Ngài. Nếu bắt chước gương nầy cùng theo những giới luật tức thì Cửa Đạo mở rộng, đọc giả sẽ bước vào đó cũng như tác giả đă bước vô rồi vậy Tháng 12, 1910 ANNIE BESANT (Lời nói đầu ở trên được viết khi ông Krishnamurti lên 15 tuổi và sống dưới sự giám hộ của bà Annie Besant. Lời Nhà Xuất bản Anh Văn).
TỰA
Muốn bước vào Đường Đạo phải có bốn điều kiện sau: - Một là : PHÂN BIỆN (Le discernement). - Hai là : DỨT BỎ (Đoạn tuyệt) (Le détachement) - Ba là : HẠNH KIỂM TỐT (La bonne conduite) - Bốn là : L̉NG TỪ ÁI (L’amour) Tôi sẽ cố gắng nói cho anh nghe những lời Sư Phụ tôi dạy tôi về mỗi điều kiện ấy.
đầu sách
cuốí sách
thiên một
thiên hai
thiên ba lthiên tư
mục lục
TÁNH PHÂN BIỆN (Le discernement) Tánh phân biện chia ra làm năm khoản như sau đây: 1- Những mục đích thật (Les buts véritables); 2- Cách sanh hoạt của ba thể : xác, vía trí (La vie des corps); 3- Điều lành và điều dữ (Le bien et le mal); 4- Phải hết sức ngay thật (Soit absolument vrai); 5- Tình bác ái và Thiên mạng (sự sống thiêng liêng) (L’altruisme et la vie divine) I.- Những mục đích thật. mục lục(Les buts véritables) Đứng đầu trong bốn điều kiện là tánh Phân biện. Thường thường người ta hiểu nghĩa phân biện đây là phân biện sự chơn và sự giả nó dắt con người vào Đường Đạo. Hiểu như thế thật đúng, nhưng mà còn nhiều hơn thế nữa; và phải thực hành phân biện, không những khi mới bước vào đường Đạo, mà luôn mỗi ngày mỗi bước đi cho tới lúc đắc đạo thành chánh quả. Con bước vào Đường Đạo bởi vì con biết rằng duy trong đó mới có những việc đáng thâu lãnh mà thôi. Những người chưa hiểu biết làm lụng đặng trở nên giàu sang và có quyền thế, nhưng hai cái tước lộc nầy dùng được lâu lắm bất quá là một đời mà thôi, bởi thế chúng nó là mộng ảo. Có nhiều việc lớn lao đáng tìm lấy hơn sự giàu sang và quyền thế – mấy việc ấy chơn thật và không hề hư hoại; một khi người ta thấy rồi, không c̣n muốn điều ǵ khác nữa.Trên thế gian nầy chỉ có hai hạng người : những người hiểu biết và những người không hiểu biết; duy chỉ có sự hiểu biết mới là hệ trọng mà thôi.Con người giữ Đạo nào hay thuộc về giống dân nào là những việc không trọng hệ. Điều thật trọng hệ là sự hiểu biết đó, sự hiểu biết Cơ Trời đối với con người. Bởi v́ Trời có một Cơ, mà Cơ đó là sự tiến hóa. Chừng nào con người thấu rơ được Thiên Cơ (God's plan) và khi thật biết rồi, th́ con người chỉ lo hiệp tác với Thiên Cơ, đồng hóa với Thiên Cơ và giúp cho Thiên Cơ được thực hiện. Đó là sự vinh diệu và sự tốt đẹp của con người. Ấy vậy, bởi con người hiểu biết rồi nên mới thuận theo lẽ Trời [1a], khắn khắn một ḷng làm lành và chống chỏi với sự ác, lo giúp cho muôn loài vạn vật tiến hóa chứ không vì tư lợi. Người mà thuận theo lẽ Trời tức là người một nhà với chúng ta, dầu y nói y giữ đạo Bà la môn hay giữ đạo Phật, giữ đạo Thiên Chúa Giáo hay giữ đạo Hồi, hoặc y nói y là người Ấn Độ hay là người Anh, người Trung Quốc hay là người Nga th́ cũng không thành vấn đề. Những người nào thuận theo lẽ Trời thì biết rằng tại sao ḿnh thuận theo vậy. Họ biết bổn phận ḿnh phải làm cái chi và cố gắng hoàn thành công việc đó. C̣n những người khác không thuận lẽ trời không biết ḿnh phải làm điều chi, cho nên họ thường hành động như những kẻ ngông cuồng. Họ cố tạo ra những đường lối cho chính họ mà họ tưởng rằng chúng nó sẽ làm cho họ được hài ḷng chớ không biết rằng "vạn vật đồng nhất thể", và v́ lẽ đó, chỉ ư Trời mới làm cho mọi người được thực sự đẹp ḷng. Họ đeo đuổi theo sự mộng ảo chớ không phải sự chơn thật và nếu ngày nào mà họ không học cách phân biệt hai việc ấy thì ngày đó họ chưa thuận theo lẽ Trời. Bởi vậy sự Phân Biện là bước đầu tiên. Nhưng dẫu khi chọn lựa rồi đi nữa, con cũng phải nhớ rằng sự chơn và sự giả có nhiều loại khác nhau; và con phải biết phân biệt cái lành với cái dữ, cái trọng hệ với cái không trọng hệ, cái hữu ích với cái vô ích, cái thực với cái hư, cái ích kỷ với cái vô tư lợi. II.- Cách sinh hoạt của ba thể mục lục(La vie des corps) Một bên lành, một bên dữ, có khó chi trong sự chọn lựa, bởi vì những người nào muốn theo Chơn Sư th́ đă nhứt định làm lành, dẫu thế nào cũng vậy. Tuy nhiên, con người và xác phàm của nó là hai cái khác nhau; và ư chí của con người luôn luôn không phải là những ǵ xác phàm ham muốn. Khi xác phàm của con muốn cái chi, con hãy ngừng lại và suy nghĩ coi có phải thật là Con muốn cái đó chăng? Bởi vì Con là Thượng-Đế, và con chỉ muốn điều nào Thượng Đế muốn; nhưng con phải xét thấu trong cơi ḷng con (hồi quang phản chiếu) đặng t́m Đức Thượng Đế và nghe lời của Ngài, lời của Ngài tức là lời của con vậy. Đừng nhầm lẫn các thể của con là con. Cái xác phàm của con, cái vía của con, cái trí của con không phải là thật con đâu. Nhưng mỗi thể đó đều giả vờ xưng là con để đạt được những điều nó muốn. Con phải hiểu chúng nó hết và con phải tự biết rằng chính con là chủ của chúng nó.Khi có một việc phải làm, cái xác phàm lại viện lẽ nó cần nghỉ ngơi, đi chơi, ăn uống; người chưa hiểu biết nói trong ḷng rằng "Tôi cần làm mấy việc đó nên tôi phải làm mới được". C̣n người hiểu biết nói: "Cái xác của tôi muốn mấy việc đó chớ không phải tôi đâu, nó phải đợi mới đặng". Thường khi có dịp phải giúp đỡ ai, xác phàm nghĩ như vầy: " Việc đó sẽ phiền ḿnh lắm!; để cho người khác làm đi". Nhưng con người trả lời với xác phàm như vầy: "Ngươi không nên cản ta làm những việc tốt lành ".Thân xác con vốn là con thú của con, con ngựa của con cỡi. Bởi thế, con phải đối đãi với nó cho tử tế và phải săn sóc nó kỹ lưỡng. Đừng bắt nó làm việc quá sức, phải nuôi nó cho đúng phép với những đồ ăn, thức uống tinh khiết và giữ ǵn cho nó luôn thật sạch sẽ, đừng dung dưỡng một mảy bợn nhơ. Bởi vì không có một xác thân tinh khiết và tráng kiện, th́ không thể nào con lo nổi công việc chuẩn bị khó khăn đặng bước vào đường Đạo, con không chịu nổi những sự rán sức không ngừng đâu. Vậy phải chính là con, người luôn luôn điều khiển, kiểm soát Thể xác đó chứ không phải là Thể xác đó điều khiển, sai khiến con. Cái Vía của con có nhiều sự ước ao, - lên đến hàng tá; nó muốn thấy con nổi giận, nghe con ăn nói gắt gỏng, nó muốn thấy con ganh gỗ, tham lam tiền bạc, toan đoạt của cải thiên hạ và ngă lòng rủn chí. Nó muốn mấy điều đó và còn nhiều việc khác nữa, không phải nó có ư hại con, song tại nó ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi liền liền. Trong mấy việc đó con không muốn việc nào cả, bởi vậy con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của cái vía.
Cái Trí của con ưa thói kiêu căng
chia rẽ, nghĩ nhiều về nó, và ít ngó ngàng ǵ đến kẻ khác.
Dù khi con hướng trí con ra khỏi
những việc trần gian được rồi, nó c̣n rán gom hết về cho bản ngă của con, nó
giục con chú ư tới sự tiến hóa riêng của con, chớ không lo nghĩ đến công
việc của Chơn Sư và giúp đỡ kẻ khác. Khi con thiền định nó cố ra sức làm cho
con nghĩ đến những chuyện lung tung khác mà cái trí nó muốn, thay v́ chuyện duy
nhất mà con muốn. Con không phải là cái trí đó đâu, nhưng nó vẫn là một thể
của con để cho con xử dụng, vậy một lần nữa, nơi đây sự phân biện cũng cần
thiết. Con phải giữ chừng liên tục, bằng không con sẽ thất bại. III.- Điều lành và điều dữ. mục lục(Le bien et le mal) Huyền bí học (Occultism) không hề công nhận có sự thỏa hiệp giữa việc lành và việc dữ. Dầu thế nào cũng phải làm việc lành, con không nên làm việc ác, để mặc t́nh người không biết nói cái chi hay tưởng cái chi cũng được. Phải học hỏi cho rộng sâu những luật Trời c̣n ẩn tàng, và chừng biết rồi, con sắp đặt cuộc đời của con phù hợp với những luật đó, bằng cách luôn dùng đến lư trí và lương tri.Phải phân biện việc trọng hệ với việc không trọng hệ. Đối với sự lành và sự dữ th́ ḷng con phải cứng như đá, c̣n những việc ít trọng hệ con luôn nhường cho kẻ khác. Bởi vì con phải ở cho dễ thương, tử tế, biết xét nét và thuận ḥa, và để cho thiên hạ có đầy quyền tự do bằng quyền tự do mà con yêu cầu cho chính con vậy. Hãy t́m kiếm coi việc nào đáng làm; và con phải nhớ rằng không nên coi theo giá trị bề ngoài của sự việc mà xét đoán chúng nó. Thà làm một chuyện nhỏ mọn mà hữu ích liền cho công việc của Chơn sư c̣n hay hơn làm một việc lớn lao mà thế gian gọi là tốt. Chẳng phải phân biệt cái nào hữu ích với cái nào vô ích là đủ, mà con còn phải phân biệt cái nào có ích nhiều với cái nào có ích ít. Nuôi kẻ nghèo là một việc tốt, cao quí và hữu ích; nhưng mà nuôi linh hồn mấy người đó lại c̣n cao quí và hữu ích hơn nữa. Người nào giàu cũng nuôi được thân xác, mà duy chỉ người hiểu biết mới nuôi được linh hồn. Nếu con hiểu biết rồi, bổn phận của con là phải giúp kẻ khác giác ngộ.Nhưng dầu con đă khôn ngoan thế mấy đi nữa, con còn phải học hỏi nhiều trên Đường Đạo; nhiều đến nỗi ở đây con cũng phải dùng đến sự phân biện. Vậy con phải phân biện và chọn lựa cho thật kỹ càng cái nào đáng ra công học hỏi. Sự hiểu biết nào cũng hữu ích, và một ngày kia con sẽ biết đủ hết mọi việc; nhưng khi con biết có một phần, con phải gìn giữ làm sao cho phần đó hữu ích hơn hết. Đức Thượng Đế vốn Minh triết và cũng là Từ ái vô biên; và hễ con được minh triết nhiều chừng nào th́ con càng biểu lộ được Ngài nhiều chừng nấy. Vậy con phải học hỏi, nhưng trước hết con phải học hỏi điều nào sẽ giúp cho con nhiều nhất để con giúp đỡ người khác. Phải bền ḷng chăm chú vào sự học hỏi của con, không phải đặng cho kẻ khác tưởng con là khôn ngoan, mà cũng không phải ư muốn được hưởng hạnh phúc của sự khôn ngoan, nhưng bởi người khôn ngoan mới có thể giúp đời một cách khôn ngoan. Dầu con mong ước giúp đời thế mấy đi nữa, nếu con dốt nát th́ con sẽ làm hại nhiều hơn là làm lợi. IV.- Phải hết sức ngay thật. mục lục(Sois absolument vrai) Con phải biết phân biệt giữa cái chơn và cái giả; con phải tập làm sao cho hết sức chơn chánh trong mọi việc, từ tư tưởng, lời nói đến việc làm. Thứ nhứt là trong tư tưỏng. Cái nầy không phải dễ đâu, vì trong đời có biết bao nhiêu tư tưởng lầm lạc, biết bao nhiêu điều mê tín dị đoan phi lư, hễ ngưòi nào để cho chúng nó chi phối th́ không bao giờ tiến bộ được. Bởi vậy con chẳng nên cho một tư tưởng nào là chơn chánh bởi nhiều người đă cho nó là chơn chánh, hay là tại thiên hạ đă tin nó mấy thời đại rồi, hoặc là thấy nó ghi ở trong một quyển sách thuộc về loại sách Thánh; con phải tự ḿnh suy nghĩ và con phải tự phán đoán xem tư tưởng đó có hữu lư hay không. Con hãy nhớ rằng dầu cho có cả ngàn người đồng công nhận một việc kia đi nữa, nếu họ không biết cái chi trong đó hết th́ ý kiến của họ vẫn vô giá trị. Người nào muốn bước trên Đường Đạo phải tập tự mình tư tưởng, bởi vì thói mê tín dị đoan là một trong những tội lỗi lớn nhất trên thế gian, một trong những chướng ngại con phải tự hoàn toàn giải thoát mới được. Điều nào con suy nghĩ cho thiên hạ cũng phải trung thực. Con không được nghĩ cho kẻ khác điều nào mà con không biết rơ. Con đừng tưởng rằng thiên hạ hằng luôn nghĩ về con. Nếu một người kia làm một việc ǵ mà con ngỡ là có hại cho con hay là nói một chuyện nào dường như có can hệ tới con, chớ vội nghĩ ngay rằng: "Người đó có ư làm tổn thương tôi". Có lẽ hầu như người đó không tưởng đến con chút nào, bởi vì mỗi linh hồn đều có những việc lo riêng của nó và những tư tưởng của linh hồn cũng chỉ tập trung dồn vào bản thân nó mà thôi . Nếu có một người nào nói giọng quạo quọ, con chớ nói rằng: "Người đó ghét tôi và muốn lăng nhục tôi". Có lẽ tại một người nào hay là một việc chi đó làm cho y nổi giận, và v́ người ấy t́nh cờ gặp con nên trút hết cơn giận lên đầu con cho đă giận. Người đó làm chuyện điên cuồng, bởi vì tất cả những sự nổi giận đều là sự điên cuồng, nhưng không phải vì cớ đó mà con nghĩ sai quấy về người ấy.Chừng nào con làm đệ tử của Chơn Sư rồi, con luôn có thể thử xem tư tưởng của con chơn chánh hay không bằng cách để nó kế bên tư tưởng của Ngài. Bởi vì Thầy với tṛ vẫn "hiệp nhứt", miễn tṛ đem tư tưởng ḿnh kề với tư tưởng của Thầy th́ sẽ thấy ngay hai tư tưởng có phù hợp với nhau hay không. Nếu không, th́ tư tưởng của tṛ đă sai lầm, người đệ tử phải thay đổi lập tức, vì tư tưởng của Chơn Sư vốn trọn lành, bởi Ngài thông hiểu hết mọi việc. Những người nào chưa được Ngài thâu nhận làm đệ tử chánh thức [3] thì không thể làm như vậy; nhưng họ có thể tự giúp ḿnh thật nhiều nếu họ thường ngừng lại tự hỏi như vầy: "Thầy sẽ nghĩ việc nầy làm sao? Gặp trường hợp nầy Thầy sẽ nói hay sẽ làm thế nào ?". Bởi vì không nên làm, nói hay nghĩ điều nào theo ư ḿnh, mà Thầy không làm, không nói hay không nghĩ như thế". Lời nói của con cũng phải cho ngay thật nữa, - chính xác và không quá lố (phóng đại). Đừng bao giờ gán nguyên do nào cho người khác, duy có một ḿnh Thầy y biết tư tưởng y mà thôi. Không biết chừng y làm như vậy là tại duyên cớ ǵ đó mà con không bao giờ rơ được. Khi con nghe một câu chuyện có hại cho người nào đó, th́ đừng lập lại nó; có thể câu chuyện đó không có thật, mà dầu có thật đi nữa, đừng nói đến mới là nhơn từ hơn. Trước khi nói, con phải suy nghĩ cho kỹ lưỡng, v́ e rằng con sẽ mắc vào cái lỗi không được chính xác.
Phải thành thật trong việc làm;
đừng bao giờ
kiếm thế khoe khoang điều nào
mà con không có, v́ tất cả sự giả trá đều là một tấm màn ngăn cản ánh tinh quang
của chơn lư chiếu xuyên qua ḷng con như ngăn cản ánh sáng mặt trời rọi
ngang qua tấm kiếng trong trẻo vậy. V.- Tình bác ái và sự sống thiêng liêng. mục lục (L’altruisme et la vie divine) Con phải phân biện điều nào ích kỷ với điều nào không ích kỷ. Bởi v́ sự ích kỷ có nhiều hình trạng lắm, và khi con nghĩ con trừ được tật ích kỷ trong một hình trạng nào rồi th́ nó lại nảy sanh ra trong một hình trạng khác mạnh bạo như trước vậy. Nhưng lần lần sự lo giúp đỡ kẻ khác sẽ choán cả ḷng con cho đến đỗi trong trí con không còn chỗ nào và giờ phút nào nghĩ tới con nữa.
Con c̣n phải phân biện một cách
khác nữa. Phải học
phân biệt Đức Thượng Đế trong mọi người, mọi vật, dầu cho vẻ bề ngoài người
ấy hay vật ấy có tồi tệ, xấu xa đến đâu chăng nữa, th́ Thượng Đế vẫn ẩn tàng
trong đó. Con có thể giúp huynh đệ của con là nhờ con với họ trong ḷng đều
có cái chung, đó là Sự Sống Thiêng Liêng. Con hãy học cách làm thế nào thức
tỉnh Sự Sống đó trong người của họ và con hăy học cách làm thế nào khơi gọi Sự
Sống đó trong người của họ. Như vậy con sẽ cứu huynh đệ con ra khỏi điều sai
lầm. đầu sách cuốí sách thiên một thiên hai thiên ba thiên tư TÁNH DỨT BỎ
(ĐOẠN TUYỆT
Le détachement) Một là : Dứt tuyệt sự ham muốn (La suppression du désir) Hai là : Duy có một điều ham muốn tốt hơn hết (Le seul bon désir) Ba là : Những phép thần thông (Les pouvoirs psychiques) Bốn là : Những sự ham muốn nhỏ nhen (Les petites envies) Năm là : Hăy lo lắng việc nào có can hệ tới con (Occupez vous de ce qui vous regarde) I.- Dứt tuyệt sự ham muốn. mục lục (Le suppression du désir) Đối với nhiều người th́ điều kiện Dứt bỏ là một điều kiện khó tập được, bởi vì mấy người đó nghĩ rằng họ là những điều ham muốn ấy và nếu những điều ham muốn riêng tư, những thiện cảm và những bất thiện cảm của họ bị tước đi hết rồi th́ bản ngă họ không c̣n chi. Nhưng mấy người đó chưa gặp được Chơn sư, nếu một khi đứng trước Thánh Dung, ở trong hào quang của Ngài th́ mọi ham muốn đều tan mất hết, trừ ra muốn sao được như Ngài. Nhưng trước khi có được diễm phúc đối diện với Ngài, nếu con thật chí quyết th́ con có thể đạt được điều kiện dứt bỏ này. Tánh phân biện đă dạy rằng những chuyện mà phần đông con người tham muốn quá lẽ như là của cải, quyền thế th́ không đáng nhọc công thọ lănh chút nào. Song khi thật hiểu tại làm sao vậy – chớ không phải nói suông mà thôi – th́ hết ước ao mấy điều ấy nữa.II.- Duy có một điều ham muốn tốt hơn hết. mục lục(Le seul bon désir) Tới đây cả thảy đều dễ, miễn con hiểu là đủ. Nhưng có một số người không chịu đeo đuổi những mục đích trần tục mà chỉ cốt mong được về nước Thiên đàng, hay đặng riêng mình thoát khỏi đọa Luân hồi. Con đừng phạm lỗi đó. Nếu con thật quên mình rồi, con đâu còn nhớ hỏi lấy chừng nào linh hồn con mới được giải thoát, hay là nữa rồi đây nó sẽ về ở cảnh Trời nào. Con hăy nhớ rằng mỗi việc ham muốn ích kỷ dầu mục đích cao cả thế mấy đi nữa cũng đều trói buộc (là một sợi dây xiềng xích), và ngày nào con không loại hết các điều ham muốn này th́ ngày đó con chưa thật rảnh rang để hiến ḿnh cho công việc của Chơn Sư.
Khi những ham muốn thuộc phàm nhơn
con tiêu mất rồi, cũng có thể còn một sự ham muốn là thấy đặng kết quả của
công việc con làm. Nếu con giúp ai, con muốn biết con giúp người đó tới bực
nào; có lẽ con cũng muốn cho người ấy
hiểu con đă giúp họ tới cở nào và
biết ơn con nữa. Mà cái nầy vẫn là một điều ham muốn, và cũng gọi là chẳng có
ḷng tin cậy. Khi con ra sức giúp, đương nhiên phải có kết quả, dẫu con
thấy hay là không thấy cũng vậy. Nếu con thạo Luật Trời thì con biết rằng
điều này phải như thế. Vậy th́ con phải làm điều lành, bởi chưng ưa mến
việc lành chớ chẳng phải trông mong được ban thưởng. Phải làm lụng v́ chưng
ưa mến sự làm lụng, chớ chẳng phải trông mong thấy cái kết quả. Con phải xả
thân giúp đời vì con thương đời, và bởi con không làm thế nào khác nữa được. III.- Những phép thần thông. mục lục (Les pouvoirs psychiques)
Con đừng ham những phép thần thông.
Con sẽ có chúng khi Chơn Sư thấy lúc nào là tốt nhất cho con. Hễ cưỡng bách
luyện tập đặng mở mấy phép đó quá sớm th́ thường mang vào ḿnh đủ thứ
phiền năo . Người nào có
những phép ấy th́ hằng bị bọn tinh linh ngũ hành gạt gẫm, hay là trổ tánh
khoe khoang và nghĩ rằng ḿnh không lầm lạc. Dẫu thế nào, ngày giờ và sức
lực tổn phí đặng luyện tập mấy phép đó nên để giúp đời còn hay hơn.
Trong khi con mở mang những đức tánh tốt th́ tự nhiên con sẽ có các phép ấy.
Nhất định thế nào cũng có chúng. Nếu Chơn Sư thấy các phép ấy hữu ích cho con
sớm một chút, th́ Ngài chỉ cho con cách khai mở an toàn những phép thần thông
ấy. Từ giờ cho đến lúc ấy tốt hơn con không nên có phép thần thông. IV.- Những sự ham muốn nhỏ nhen. mục lục(Les petites envies) Con cũng phải giữ ḷng đừng ham muốn những việc nhỏ mọn thường xảy ra trong đời sống hằng ngày. Chớ nên có ư khoe ḿnh hay tỏ dấu thông minh. Đừng ham nói, nói ít thì tốt, không nói chi lại càng tốt hơn nữa, trừ ra khi nào chắc chắn rằng những điều con muốn nói, chơn chánh, dễ thương và hữu ích. Trước khi nói con hãy tự hỏi coi điều con muốn nói ra có đủ ba đức tánh đó không; nếu không, th́ con phải làm thinh. Giờ đây, tốt hơn là tập thói quen suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi nói; bởi vì khi con được điểm đạo rồi, con phải giữ gìn từng lời nói v́ e rằng con sẽ nói những ǵ không được nói . Đừng ham nói chuyện tầm phào, vô vị, không cần thiết; nếu kéo ra chuyện nói hành thiên hạ th́ đó là điều ác độc, tội lỗi. Vậy th́ con hãy tập cho quen tánh nghe hơn là nói; đừng nêu ư kiến trừ phi được hỏi trực tiếp. Có một câu gồm hết các đức tánh phải tập là: Tri, Cảm, Nguyện, Mặc. (nghĩa là : phải hiểu biết, phải có gan dạ, phải chí quyết và phải nín thinh - Savoir, oser, vouloir, se taire). Mà cái đức tánh chót là khó hơn hết. V.- Hãy lo lắng việc nào có can hệ với ḿnh. mục lục (Occupez vous de ce qui vous regarde) C̣n một ham muốn thông thường khác mà con phải bài trừ một cách nghiêm khắc là xen vào chuyện thiên hạ. Cái điều nào người khác làm đặng, nói đặng hay tin đặng th́ không ăn nhập chi với con; và con phải học thói quen để cho y tuyệt đối làm một ḿnh. Y có toàn quyền tự do trong tư tưởng, lời nói và việc làm miễn là y đừng xen vào chuyện của người khác. Con đây cũng vậy, con yêu cầu có quyền tự do làm cái chi mà con nghĩ rằng đúng; vậy th́ con cũng phải để cho kẻ khác được tự do như con vậy; và khi y dùng quyền tự do của y th́ con không có quyền kích bác. Nếu con tưởng rằng y làm quấy, và con có thể sắp xếp cơ hội để tŕnh bày riêng với y một cách hết sức lịch sự v́ cớ nào con không nghĩ như thế; th́ có thể con thuyết phục được y; nhưng có nhiều trường hợp khi can thiệp như vậy cũng c̣n không phải cách nữa. Dầu thế nào con cũng đừng đem chuyện đó nói với người thứ ba, v́ đó là một hành động cực kỳ ác độc.Nếu con thấy ai đối xử hung ác với một đứa trẻ hay một con thú , bổn phận con phải là can thiệp. Nếu con thấy ai làm nghịch với luật pháp của quốc gia, con phải báo với nhà chức trách. Nếu con lănh phần giáo hóa người nào, bổn phận con là phải chỉ cho y biết lỗi của y một cách êm ái. Trừ ra mấy lẽ nói trên đây, con phải để tâm vào công việc riêng của con và tập tánh làm thinh. đầu sách cuốí sách thiên một thiên hai thiên ba thiên tư
(La bonne conduite) Chơn Sư kể sáu điểm đặc biệt thuộc về hạnh kiểm tốt buộc phải có như sau đây: Một là : Tự chủ trong khi tư tưởng (La maîtrise de soi quant au mental) Hai là : Tự chủ trong lúc hành động (La maîtrise de soi dans l’action) Ba là : Đức khoan dung (La tolérance) Bốn là : An phận (Le contentement) Năm là : Đi thẳng một đường tới mục đích (Unité de direction vers le but) Sáu là : Lòng tin cậy (La confiance) (Tôi vẫn biết có chỗ dịch tên vài khoản tôi mới kể ra khác hơn tôi và cũng dịch khác các đức tánh buộc phải có nữa. Nhưng tôi luôn luôn lấy những tên mà Chơn Sư dùng trong lúc Ngài cắt nghĩa cho tôi nghe). I.- Tự chủ trong khi tư tưởng. mục lục(La maîtrise de soi quant au mental) Tánh dứt bỏ dạy rằng phải kiểm soát cái Vía, và vái Trí cũng phải được kiểm soát nữa. Điều nầy nghĩa là kiểm soát được tánh nóng nảy sao cho con không c̣n nổi giận hay nôn nóng; kiểm soát cái trí sao cho tư tưởng luôn được yên tịnh và không dao động; và cuối cùng qua cái trí, kiểm soát (trấn áp) những dây thần kinh đặng chúng ít bị kích thích, khó chịu chừng nào tốt chừng nấy. Điểm chót này khó làm được, bởi vì khi con cố gắng tập luyện để bước vào Đường Đạo th́ thân xác con theo đó nhạy cảm hơn, do vậy, những dây thần kinh của con dễ dàng bị kích động bởi âm thanh hay sự va chạm mạnh và dễ bị căng thẳng vô cùng . Nhưng con phải rán hết sức ḿnh thôi. Cái Trí yên tịnh cũng có nghĩa là gan dạ để con có thể chống chỏi với những cách thử ḷng và những sự khó khăn trên Đường Đạo mà không nao núng; cái trí yên tịnh cũng có nghĩa là bền ḷng để con co 1thể sáng suốt giải quyết được những chuyện rắc rối đến trong đời sống và tránh sự lo lắng không ngớt những việc nhỏ mọn làm cho nhiều người mất gần hết ngày giờ. Chơn Sư dạy rằng: "Con người phải coi những việc ở ngoài xảy đến cho mình như sầu não, những chuyện rắc rối, bịnh tật cùng những chuyện mất mát không có quan trọng chi cả; phải coi chúng nó chẳng ra ǵ và đừng để cho chúng nó làm rối trí. Chúng nó là cái kết quả những việc làm hồi trước, chừng chúng nó đến th́ phải vui ḷng lãnh lấy. Con hãy nhớ rằng: mọi việc khổ não trên thế gian đều là tạm thời, bổn phận của con phải luôn luôn vui vẻ và giữ ḷng thanh tịnh. Những việc đó thuộc kiếp trước của con chớ không phải kiếp nầy; con không thể sửa đổi cái ǵ đặng, bận lòng v́ chúng nó rất vô ích. Tốt hơn là hăy nghĩ đến những việc con làm bây giờ đây, chúng nó định phần số con kiếp sau, và con có thể sửa đổi chúng nó được. Đừng buồn bực hay rủn chí. Rủn chí là sai lầm tệ hại, bởi vì nó truyền sang kẻ khác (làm họ nản chí theo) và làm cho đời sống của họ khó khăn hơn, con không được phép làm điều đó. V́ thế con phải xua đuổi nó đi ngay lập tức, mỗi lần con biết nó đến. Con c̣n phải làm chủ tư tưởng con một cách khác nữa. Đừng để cho nó vẩn vơ. Bất kỳ con đang làm việc ǵ, con phải chú ư tập trung vào đó đặng làm cho được hoàn hảo. Chẳng nên để trí con ở không, con phải luôn có sẵn nhiều tư tưởng tốt đẹp ở trong trí đặng khi nào cái trí không bận việc ǵ th́ con nhớ tới những tư tưởng ấy liền. Mỗi ngày con hăy dùng quyền năng tư tưởng của con cho những mục đích tốt lành. Hãy tạo thành một lực lượng hướng về sự tiến hóa. Mỗi ngày con hãy nhớ đến một người nào mà con biết đương sầu muộn hay đau khổ hoặc là cần sự giúp đỡ; con hãy tuôn rải những tư tưởng yêu thương đến cho y. Hăy kềm giữ cái trí con đừng kiêu căng, vì sự kiêu căng luôn luôn do sự dốt nát sanh ra. Người chưa hiểu biết nghĩ rằng mình vĩ đại, và làm được điều này điều kia lớn lao; người khôn ngoan biết rằng duy có một ḿnh Trời là vĩ đại và việc lành nào cũng đều do Trời làm cả. II.- Tự chủ trong lúc hành động. mục lục(La maîtrise de soi dans l’action) Chừng nào tư tưởng của con ổn định rồi (hoặc dùng đứng đắn rồi), thì con hành động rất dễ dàng. Nhưng con hãy nhớ rằng muốn giúp đời, tư tưởng phải biến thành hành động. Không nên biếng nhác, phải cần mẫn làm việc hữu ích. Phải làm việc chi thuộc bổn phận của con chớ không phải thuộc về bổn phận của người khác, trừ ra khi nào có y cho phép và ư con muốn giúp đỡ y. Con hăy để cho mỗi người làm việc riêng của y theo ư y muốn. Nếu cần th́ con hăy sẵn ḷng giúp đỡ, nhưng đừng bao giờ xen vào việc thiên hạ. Đối với nhiều người th́ ở trên đời chuyện khó hơn hết là sự tập lo lắng công việc riêng của mình; nhưng đó chính là điều mà con phải làm. Khi con cố gắng tập làm một việc cao thượng hơn th́ con không nên vì cớ đó mà bỏ phế bổn phận thường ngày của con; nếu con làm mấy chuyện nầy không xong th́ con đâu có rảnh rang để làm việc khác. Đối với đời th́ con không nên nhận lănh những nghĩa vụ nào mới cả; ngoại trừ những việc con đảm đương đây thì con phải làm cho hoàn tất. Thầy muốn nói những nghĩa vụ mà con biết rơ ràng và hữu lư chớ không phải những nghĩa vụ mơ hồ của người đời cố buộc con thi hành. Nếu con muốn một ngày kia là đệ tử của Chơn Sư th́ phải làm những công việc thường ngày giỏi hơn mấy kẻ khác chớ không phải tệ hơn, bởi v́ con làm việc đó cũng là nhơn danh Ngài. III.- Đức khoan dung. mục lục(La tolérance) Con phải hết lòng khoan dung với mọi người và nhiệt thành quan tâm đến tín ngưỡng của những người thuộc về tôn giáo khác cũng nhiều như là con quan tâm đến tín ngưỡng của con vậy. Bởi vì tôn giáo của họ và tôn giáo của con đều là con đường đạo dẫn đến chỗ cao hơn (con đường dẫn đến Thượng Đế). Muốn giúp đỡ tất cả mọi người thì con phải thông hiểu hết họ .Nhưng để đạt được ḷng khoan dung hoàn toàn này th́ trước nhất con phải tự giải thoát khỏi sự tin tưởng mù quáng và mê tín dị đoan. Con phải hiểu rằng chẳng có lễ bái nào cần thiết cả; bằng không th́ con sẽ nghĩ rằng con giỏi hơn mấy người không hành lễ. Nhưng con cũng đừng chê trách những người nào còn ưa mến lễ bái. Hăy để họ muốn làm chi th́ làm; chỉ có điều là họ không được cản trở con là người đă biết chơn lư rồi. Họ không được dùng cường lực ép buộc con làm điều ǵ mà con đă trải qua rồi. Trong mọi việc con phải khoan dung và tử tế. Bây giờ tầm mắt con đă mở rộng, th́ có vài điều tín ngưỡng, vài cách lễ bái của con hồi trước kia dường như phi lý lắm vậy. Có lẽ mấy việc đó phi lý thật. Song dẫu rằng bây giờ đây có thể con không c̣n tham dự vào mấy việc ấy nữa, con cũng phải kính trọng chúng, bởi vì những linh hồn tốt ấy vẫn coi chúng quan trọng lắm. Mấy cuộc lễ bái đó có chỗ dùng và ích lợi của nó. Chúng nó giống như những hàng đôi giúp con hồi c̣n nhỏ viết được đều và ngay thẳng cho tới chừng nào con viết giỏi hơn và dễ dàng rồi th́ con không cần chúng nữa. Hồi trước có một lúc con cần chúng nó mà bây giờ đây thời kỳ đó đă qua rồi. Một vị Đại huấn Sư đă có lần viết như vầy: "Hồi tôi còn con nít, tôi nói theo thói con nít, tôi hiểu theo thói con nít, tôi nghĩ theo thói con nít; mà tới chừng tôi trở nên người lớn tôi bỏ hết các thói con nít". Nhưng mà người nào quên lúc ấu xuân của mình và không có ḷng thương cảm với con nít th́ không thể nào dạy dỗ hoặc giúp đỡ chúng được. V́ vậy con hăy đối với mọi người cho tử tế, hiền hậu, độ lượng. Và coi ai nấy cũng như nhau, dầu họ là người Phật giáo hay là người Ấn Giáo, người Gianh (Hỏa thần giáo) [4] hay là người Do Thái giáo, người Thiên Chúa giáo hay người Hồi giáo cũng vậy. IV.- An phận mục lục (Le contentement) Phải vui ḷng trả quả của con, dầu nó thế nào cũng vui trả. Phải nhận lãnh sự đau đớn, khổ sở như là một vinh diệu, vì nó chứng tỏ rằng các Đức Nam Tào Bắc Đẩu thấy con đáng giúp đỡ. Dầu quả báo của con có nặng thế mấy đi nữa, con cũng phải cám ơn các Đấng Chí Tôn không cho con trả nhiều hơn cái đó. Hãy nhớ rằng : ngày nào mà quả xấu của con chưa tiêu hết, và con chưa thoát khỏi được nó thì ngày đó con chưa giúp ích cho Thầy bao nhiêu. Khi con hiến thân cho Thầy th́ con xin nhồi quả cho con đặng làm sao trong một hai kiếp con trả sạch nhân quả của con, không vậy th́ cả trăm kiếp nữa con trả mới hết. Tuy nhiên để thực hiện công việc trả quả tốt nhất, con phải vui vẻ và sẳn ḷng đón nhận nghiệp quả. Còn một điểm khác nữa: Hăy diệt đi tất cả ý muốn sở hữu của con (thuộc về ḿnh măi măi). Có lẽ nghiệp quả làm cho con mất đi những vật mà con quí chuộng hơn hết – thậm chí là những người mà con yêu thương nhất. Vậy th́ con phải vui vẻ sẵn ḷng chia lìa bất kỳ mọi người mọi vật. Thường thường Chơn Sư cần dùng học tṛ làm trung gian đặng sang thần lực cho kẻ khác. Nếu tṛ ngă ḷng rủn chí th́ Thầy không làm chi đặng. Bởi vậy an phận là quy tắc nhất định. V.- Đi thẳng một đường tới mục đích mục lục (Unité de direction vers le but) Có một điều con phải nhớ trước tiên là con làm công việc của Chơn Sư. Dầu có chuyện nào khác tới cho con đi nữa con cũng đừng bao giờ quên việc đó. Kỳ thật, không có việc gì khác tới được bởi v́ các việc hữu ích và vô tư lợi đều là công việc của Chơn Sư, và con phải làm công việc ấy v́ Ngài. Con phải đặt tất cả sự chú ư của con vào mỗi phần việc con làm cốt sao cho công việc ấy sẽ là phần tốt nhất của con. Cũng vị Đại huấn sư trên có viết câu nầy: "Dẫu làm việc chi cũng vậy, con phải làm thật hết ḷng, như thể làm cho Đức Thượng Đế chớ không phải làm cho con người". Con hăy tự hỏi con phải làm công việc thế nào nếu con biết liền ngay đó Chơn Sư sẽ đến xem . Con phải nghĩ như vậy khi con làm tất cả công việc của con. Những người có kinh nghiệm nhất sẽ hiểu hết ý nghĩa của đoạn nầy. Nhưng còn một câu xưa hơn câu trước nữa mà cũng cùng một nghĩa : "Dẫu tay con làm việc nào cũng vậy, con cũng phải làm nó hết ḷng, hết sức của con ".Đi thẳng một đường tới mục đích cũng có nghĩa là khi con bước vào đường Đạo rồi th́ không có chi làm con ĺa bỏ Đạo được, dầu là trong giây phút. Đừng để những sự cám dỗ, những cuộc vui vẻ của thế gian, những sự yêu thích dưới hồng trần làm con lạc bước. Bởi vì chính con với Đường Đạo phải trở nên một. Đường Đạo tức là con. Con bước trên Đường Đạo mà không cần nghĩ tới nó, và con cũng không thể rời nó được nữa. Con là Chơn Thần, con đă quyết định như vậy. Nếu con lìa bỏ nó tức là con lìa bỏ chính con vậy. VI.- Ḷng tin cậy mục lục (La confiance) Con phải có ḷng tin cậy vào Chơn Sư mà con cũng phải tự tin nơi con nữa. Nếu con đă thấy Ngài rồi thì dầu đầu thai mấy kiếp đi nữa con cũng hết lòng tin cậy Ngài. Nếu như con chưa thấy Ngài, th́ con phải rán tưởng tượng ra Ngài và hằng tin cậy Ngài, bằng không vậy Ngài không thể giúp được con. Nếu con chẳng hết lòng tin cậy th́ từ ái và thần lực không thể nào truyền qua hoàn hảo được. Con phải tự tin nữa. Con nói rằng con tự biết rơ con lắm ư ? Nếu con nghĩ như thế th́ con không tự biết con đâu. Con chỉ biết cái vỏ mong manh ở ngoài thường lấm bùn. C̣n con, thật con là một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế; và Đức Thượng Đế pháp lực vô biên ở trong con, và v́ vậy nếu con thật có ư chí th́ không có chuyện nào mà con không làm đặng. Con hãy tự nói với chính con như vầy: "Điều nào con người đă làm rồi th́ con người có thể làm được. Tôi là một con người mà cũng là Thượng Đế ở trong con người nữa nên tôi có thể làm được điều này và tôi nhất định làm được." Nếu con muốn bước vào Đường Đạo th́ ư chí của con phải cứng như thép đă trui vậy.
L̉NG TỪ ÁI (L’Amour) Ḷng Từ ái chia làm sáu điểm :Một là : Thoát kiếp luân hồi (La libération) Hai là : Ḷng từ ái trong sự sinh hoạt hằng ngày (L’amour dans la vie quotidiene) Ba là : Sự nói hành (La médisance) Bốn là : Điều hung ác (La cruauté) Năm là :Thói dị đoan (La superstition) Sáu là : Phụng sự (Le service) I.- Thoát kiếp luân hồi. (La libération) mục lụcTrong mấy điều kiện buộc phải có, th́ ḷng Từ ái trọng hệ hơn hết, bởi v́ nếu một người có ḷng từ ái đủ mạnh rồi th́ ḷng từ ái sẽ thúc đẩy người ấy khuất phục được những tánh c̣n lại, và những tánh c̣n lại không có ḷng từ ái th́ sẽ chẳng bao giờ được đầy đủ, trọn vẹn. Người ta thường giải thích rằng ḷng từ ái như là ý muốn nhiệt liệt thoát khỏi vòng sanh tử và được hiệp nhứt với Thượng Đế (Phản bổn huờn nguyên). Song giảng như thế th́ ḷng từ ái dường như c̣n vị kỷ (nghĩ đến ḿnh) và cắt nghĩa chỉ có một phần. Ḷng từ ái c̣n hơn là ư muốn đó nhiều, ấy là ý chí, ḷng quả quyết, sự quyết tâm. Muốn có kết quả th́ sự quyết tâm này phải thấm nhuần ḷng con cho tới chừng nào không c̣n chỗ chứa một t́nh ư nào khác nữa. Thực ra, đó là quyết chí hiệp nhứt với Đức Thượng Đế không phải để tránh sự mệt nhọc và khổ não, nhưng v́ ḷng con yêu thương Ngài tha thiết mà con làm việc cùng với Ngài và làm y như Ngài vậy. Bởi Đức Thượng Đế vốn Từ bi, nên nếu con muốn hiệp nhứt với Ngài thì con phải đầy ḷng nhơn từ và hoàn toàn vị tha, chẳng hề có một mảy may ǵ tư lợi.II.- Ḷng từ ái trong sự sanh hoạt hằng ngày. mục lục (L’amour dans la vie quotidiene) Trong sự sinh hoạt hằng ngày, th́ ḷng từ ái có hai nghĩa ; một là : Con phải tránh cho khéo đừng làm sinh vật nào đau đớn; hai là : Con phải lừa dịp để giúp đỡ.Trước hết, là đừng gây thiệt hại. Trên đời, có ba tội làm hại hơn mọi việc: thứ nhứt là chuyện nói hành, thứ nh́ là điều hung ác, và thứ ba là thói mê tín dị đoan, bởi v́ chúng là những tội chống lại ḷng từ ái. Người nào muốn trong ḷng chan chứa t́nh yêu thương của Thượng Đế phải không ngừng canh chừng để tránh ba tội ấy.
III.- Sự nói hành (nói xấu kẻ khác). mục lục (La médisance) Con hăy xem coi sự nói hành làm hại là thể nào. Nó bắt đầu bằng một tư tưởng xấu, và chính tư tưởng xấu đó là một trọng tội rồi. Bởi vì trong mỗi người và mỗi vật đều có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta có thể tăng thêm sức mạnh cho sự tốt hay sự xấu khi ta nghĩ tới chúng nó, và làm như vậy ta có thể thúc giục hay là tŕ hoăn sự tiến hóa. Chúng ta có thể vâng lời Đức Thượng Đế hay là chống lại Ngài. Nếu con nghĩ tới điều xấu của kẻ khác thì con đang làm ba việc ác độc một lượt.
Một là : Con sanh sản chung quanh chỗ con ở đầy những tư tưởng xấu xa thay v́ những tư tưởng tốt lành, và như vậy th́ con thêm điều khổ năo cho đời. Hai là : Nếu người đó thật có tánh xấu trong ḷng như con nghĩ, th́ con nuôi dưỡng tánh xấu đó và thêm sức mạnh cho nó. Vậy th́ con làm cho bạn con trở nên xấu thêm thay v́ trở nên tốt hơn. Nhưng thông thường người ta không có tánh xấu ấy, tại con chỉ tưởng tượng đó thôi; và rồi tư tưởng xấu của con đến xúi giục y làm quấy, v́ thế, nếu bạn con chưa trọn lành th́ con làm cho y thành giống in (hoặc là bỏ bớt in) như ư tưởng mà con đă nghĩ về y. Ba là : Con sanh sản trong trí của riêng con đầy những tư tưởng xấu thay v́ những tư tưởng tốt, như vậy, con tŕ hoăn sự tiến hóa của con và phô bày cho người có mắt thánh xem thấy một cảnh tượng rất xấu xa ,đau ḷng, thay v́ đẹp đẽ và dễ thương.
Sự nói hành không ngừng ở chỗ gây hại cho người nói hành và nạn nhân của hắn, mà sự nói hành c̣n cố thôi thúc người nói hành lôi kéo nhiều người khác dự phần vào tội ác của y. Người nói hành lật đật mang chuyện ác độc của y nói cho mấy người ấy và hi vọng rằng họ sẽ tin bằng thật. Rồi th́ cả thảy xúm nhau lại rải một dọc tư tưởng xấu vô trí người bị nói hành đau khổ đáng thương kia. Ngày nầy qua ngày kia, cả ngàn người làm như vậy chớ không phải có một người mà thôi đâu. Bây giờ đây con bắt đầu thấy chuyện nói hành là một tội đê hèn và gớm ghiếc thế nào chưa ? Con phải hoàn toàn tránh nó. Con đừng nói xấu ai; con cũng đừng nghe người ta nói việc xấu của kẻ khác; và hãy bảo cho họ biết một cách êm ái như vầy : "Có lẽ việc đó không có thật. Mà dầu có thật, đừng nói đến mới thiệt có ḷng nhơn từ hơn nữa".
IV.- Điều hung ác. mục lục(La cruauté) C̣n sự hung ác th́ có hai loại: một là cố ư ác; hai là vô ý ác. Cố ư ác là có ư làm cho một sinh vật đau đớn; tội này lớn nhất trong các tội; là công việc của ma quỉ làm chớ không phải của con người . Con sẽ nói rằng con người không ai làm điều như vậy. Nhưng mà có nhiều người đă thường làm ác; và c̣n đang làm hàng ngày nữa. Những vị pháp quan của ṭa án tôn giáo thuở xưa [5] đă làm ác. Biết bao nhiêu người nhơn danh đạo ḿnh mà làm ác. Những người giải phẩu sanh thể (mổ xẻ thú vật còn sống đặng học cách thực nghiệm) làm ác; nhiều vị giáo chức có thói quen làm ác lắm. Mấy vị đó kiếm thế bào chữa tánh tàn nhẫn của ḿnh nên nói rằng : "Cái đó là tại tục lệ". Nhưng không phải vì nhiều người đồng phạm một tội trọng mà tội trọng đó hết còn là một tội nữa. Quả báo không bỏ qua v́ nó là tục lệ đâu; và nghiệp quả của của sự ác độc th́ khủng khiếp nhất trong tất cả các tội. Ở Ấn Độ th́ không thế nào chữa lỗi về tục lệ hung ác đó được, vì ai nấy đều biết bổn phận mình không nên làm cho con người hay loài vật đau khổ. Những kẻ nào viện cớ v́ mục đích "thể thao" [6] mà ưa sát hại loài vật của Trời sanh ra th́ sẽ bị nhận lănh một số mạng ác nghiệt (do nghiệp quả của chính ḿnh, phản hồi bởi luật nhân quả). Thầy biết rằng con sẽ không làm như vậy được, và bởi vì lòng con thương Đức Thượng Đế nên khi gặp dịp tức th́ con sẽ biện minh để phản kháng ngay. Nhưng mà trong lời nói cũng có sự hung ác như trong việc làm. Người mà thốt ra một lời cố ý làm tổn thương người khác th́ cũng phạm tội ác vậy. Điều đó con cũng sẽ không làm đâu. Nhưng thỉnh thoảng một lời nói bất cẩn cũng làm hại nhiều y như lời nói ác độc. Vậy con phải luôn xem chừng để tránh tội vô ư ác này.Sự vô ư ác này luôn luôn bắt nguồn từ sự thiếu suy nghĩ. Một người kia quá tham lam bỏn xẻn không hề nghĩ đến sự đau khổ của y gây ra cho người khác v́ tiền công y trả cho họ hẹp hòi hay sự đau khổ v́ đói rách của vợ con y do chính y gây ra. Một người khác chỉ nghĩ đến cuộc vui riêng của ḿnh (thú vui nhục dục) và ít quan tâm tới biết bao linh hồn và thể xác đă v́ sự thỏa mản của ḿnh mà bị hủy hoại. Một người khác nữa muốn tránh một vài phút lôi thôi phiền phức nên đúng ngày mà không trả tiền công cho thợ thầy, và không thèm kể đến sự khó khăn mà những người ấy gánh chịu do sự trễ nải của y. Có biết bao sự đau đớn chính là do bởi tánh bất cẩn, thiếu suy nghĩ gây ra v́ quên phứt rằng một hành động sẽ ảnh hưởng đến những người khác như thế nào. Mà con người dầu chẳng nhớ đi nữa, quả báo cũng không hề quên đâu. Nếu con muốn bước vào Đường Đạo, th́ con phải nghĩ đến hậu quả của những ǵ mà con làm v́ e rằng con sẽ vướng phải tội vô ý ác. VI.- Thói mê tín dị đoan. mục lục (La superstition) Mê tín dị đoan là một mối hại rất lớn khác, nó sanh ra biết bao nhiêu sự hung ác rùng rợn. Người nào làm nô lệ cho nó rồi th́ coi thường những người khôn ngoan hơn ḿnh, và lại cố ép họ làm y như ḿnh vậy. Hãy nghĩ đến sự tàn sát ghê gớm v́ thói mê tín dị đoan đ̣i hỏi sự giết thú vật đặng cúng tế. Và cũng còn một thói dị đoan độc địa hơn nữa, đó là cho rằng con người cần ăn thịt mới sống được. Hãy nghĩ tới những điều đau khổ mà sự mê tín dị đoan đă gây ra cho các hạng dân bị áp chế ở nước Ấn Độ yêu quí của chúng ta, và hăy xem coi sự mê tín dị đoan nầy sanh ra biết bao nhiêu sự nhẫn tâm độc ác trong đám người đă biết tình huynh đệ rồi. Có nhiều tội ác mà con người đă nhân danh Thượng Đế từ bi gây ra bởi sự xúi bẩy của cơn ác mộng về mê tín dị đoan này. Do đó hãy coi chừng kỹ lưỡng đừng để một mảy may mê tín dị đoan nào c̣n sót lại trong lòng con.VI.- Phụng sự. mục lục(Le service) Con phải tránh ba tội trọng nầy, chúng nó là những tội nghịch với lòng từ ái cho nên cản trở hết các sự tiến hóa. Nhưng con không phải chỉ tránh sự ác mà thôi; con c̣n phải cần mẫn làm việc lành mới được. Trong lòng con phải tràn ngập ý muốn nhiệt liệt phụng sự cho đến đỗi con luôn trông chừng để ra tay giúp đỡ hết thảy các loài ở chung quanh con, chẳng những là con người mà cho tới loài cầm thú và thảo mộc nữa. Con phải giúp đỡ qua những việc nhỏ mọn hằng ngày để tạo thói quen đặng sau này khi việc lớn đưa đến th́ không bỏ lỡ những dịp hiếm có để phụng sự. Bởi vì nếu con chí quyết hiệp nhứt với Đức Thượng Đế th́ chẳng phải con muốn được phần con, mà để con thành một vận hà đem đức Từ ái của Ngài ban rải cho mấy anh em con. Người nhập Đạo rồi không sống cho riêng mình mà chỉ sống v́ những kẻ khác thôi; y đă quên mình để có thể phụng sự người khác . Y là cây viết trong bàn tay Đức Thượng Đế, nhờ đó tư tưởng của Ngài mới tuôn xuống trần gian, và nếu không có cây viết nầy th́ tư tưởng của Ngài không thể phô diễn ra được. Đồng thời y cũng là một ngọn đuốc linh động chiếu rọi khắp thế gian đức Từ bi của Thượng Đế chan chứa ở trong lòng y..Có minh triết con mới có thể giúp đời, c̣n ư chí để dắt dẫn sự minh triết, và từ ái lại gây ra ư chí. Ấy là những điều kiện mà con cần phải có. Ư chí, minh triết, từ ái là ba trạng thái của Đức Thượng Đế. Nếu con muốn hiến ḿnh phụng sự Ngài, th́ con phải biểu lộ ba trạng thái ấy trong thế gian này.
HẾT I Attendant la parole du Maître, Guettant la lumière cachée, Ecoutant pour saisir ses ordres, Au milieu même de la bataille. II Attentif à son moindre signe, Au dessus de l’immense foule, Entandant son léger murmure, A travers les chants bruyants de la terre. I Trông Thầy nhỏ phước phán lời lành. Sáng ẩn, ŕnh xem, bỏ lợi danh. Lặng lẽ mong nghe Người hạ lịnh, Quản bao giữa đám cạnh cùng tranh. II Chăm chăm trông dấu chốn linh đài, Thoát tục mặc dầu thế mỉa mai. Văng vẳng lời vàng Thầy khuyến thiện. Ngoài tai rộn rả tiếng Trần ai. (Hai bài nầy vốn của ông Đốc Phủ LÊ THÀNH LONG Bà rịa thích nôm ) Tôi lấy ư nghĩa tám câu chữ Pháp đặt ra một bài tứ tuyệt như vầy:
Đạo không rời bước chẳng ĺa ḿnh ,Chi sá phồn hoa cảnh sắc thinh, Chăm chỉ xem qua từ nét dấu,
Nghe Thầy dạy dỗ chữ đinh ninh. BẠCH LIÊN
Quỳnh Trắng
ĐỀ THI
I
Không tham danh lợi khỏi ưu phiền, Niệm chữ từ bi dứt nghiệp duyên. Vớt kẻ trầm luân nơi khổ hải, Noi theo tôn chỉ Hội Quần Tiên.
II
Phá đường mê tín vạch chông gai Khó nhọc dường bao dạ chẳng nài. Đă nguyện thân phàm đem độ thế, Bắc cầu cho kẻ đến Bồng Lai.
đầu sách cuốí sách thiên một thiên hai thiên ba thiên tư Chú Thích [1] Năm 1911, Krishnamurti mới được 13 tuổi. [2] Alcyone tức là Krishnamurti. [1a] Thuận theo lẽ Trời hàm ư hiểu được Thiên Cơ (God's plan), hiểu được sự 'Tiến Hóa' mà Thiên Cơ đă vạch định cho chúng sinh- không phải chỉ riêng cho loài người mà bao gồm cả vạn vật, thú vật, cây cỏ, và kim thạch. [3] Có ba hạng đệ tử : a/ hạng mới nhập môn (Les probationnaires) b/ hạng đệ tử chánh thức (Les élèves acceptes) c/ hạng con của Thầy (Les fils du Maître) [4] Djainistes. Người giữ đạo Djainistes khi xưa là một nhánh của Ấn giáo. Đạo nầy lấy sự ḥa b́nh làm mục đích, coi bốn biển là anh em. [5] Nguyên văn là : Inquisiteurs. Inquisiteurs có một nghĩa nữa là : kẻ tra khảo. [6] Đi săn bắn đầu sách cuốí sách thiên một thiên hai thiên ba thiên tư mục lục
Bản quyền Copyright @
www.thongthienhoc.com 2001
Mọi bản sao hay trích dẫn kính xin quí vị đề rơ nơi xuất xứ chân thành cám ơn. Xin giữ nguyên bản. Mọi sự liên hệ xin liên lạc e-mail sau: nhusee@yahoo.com
Thông Thiên Học là Khoa Học của linh hồn.
Thông Thiên Học là Minh Triết Cổ Truyền được tŕnh bày lại theo thời
đại hiện nay Phương pháp có khác nhau, tư tưởng có khác nhau, cách thức có khác nhau, th́ việc làm của chúng ta mới linh động chớ không suy giảm, miễn hành vi ấy có t́nh thương dẩn dắt và ḷng nhân ái xét soi. (Annie Besant)
Hội Thông Thiên Học là một tổ chức quốc
tế, với ư nghĩa rộng răi của từ, mà hội viên thuộc tất cả các giống
dân, tín ngưỡng và ư kiến khác nhau nhưng họ hợp tác làm việc với
nhau cùng chung một mục đích:
sự tiến bộ của nhân loại -
Nhưng với danh nghĩa
là Hội, Hội
hoàn toàn không thuộc
về
bất cứ
quốc gia nào hoặc
đảng phái chính trị nào.
Xin dắt tôi từ cõi
gỉa đến cõi CHƠN,
Bạn hãy nhớ rằng: mọi việc khổ não trên thế gian đều là tạm thời, bổn phận của bạn phải luôn luôn vui vẻ và giữ ḷng thanh tịnh. Bởi vì chính bạn với Đường Đạo phải trở nên một. Đường Đạo tức là bạn. Bạn bước trên Đường Đạo mà không cần nghĩ tới nó, và bạn cũng không thể rời nó được nữa. Bạn là Chơn Thần, bạn đă quyết định như vậy. Nếu bạn lìa bỏ nó tức là bạn lìa bỏ chính bạn vậy. Có minh triết bạn mới có thể giúp đời, c̣n ư chí để dắt dẫn sự minh triết, và từ ái lại gây ra ư chí. Ấy là những điều kiện mà bạn cần phải có. Ư chí, minh triết, từ ái là ba trạng thái của Đức Thượng Đế. Nếu bạn muốn hiến ḿnh phụng sự Ngài, th́ bạn phải biểu lộ ba trạng thái ấy trong thế gian này. (Dưới Chân Thầy) xem tiếp
Thông
Thiên Học Khái Lược Chân Nhân Và Các Hạ Thể (đang soạn)
Dưới Chân Thầy |
|
|
||
|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES