Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES


CHƠN NHƠN VÀ CÁC HẠ THỂ

 MAN AND HIS BODIES Tác giả ANNIE BESANT

 (Cẩm Nang Thông Thiên Học  Số 7)

 NHÀ XUẤT BẢN THÔNG THIÊN HỌC, ADYAR, MADRAS

thông thiên học là khoa học của linh hồn

 lời đầu  đầu sách cuối sách  xác  vía  trí   hiện thể khác  hào quang  chơn nhơn  mục lục

Ấn bản năm 1912

 Ấn Bản Đầu Tiên Năm 1896
Bản Dịch Chơn Như  - Mùa Hè 2007

MỤC LỤC

-         Lời nói đầu

-         Dẫn nhập

-         Thể xác

-         Thể Vía hay Thể Dục vọng

-         Thể trí

-         Các hiện thể khác

-         Hào quang của con người

-         Chơn nhơn

LỜI NÓI ĐẦU

 

Khi đưa quyển sách nhỏ này ra giới thiệu với thế giới th́ ta cần phải nói vài lời. Đó là quyển thứ bảy trong một loạt các Cẩm nang được dự tính để đáp ứng yêu cầu của công chúng có một sự tŕnh bày giáo huấn Thông Thiên Học đơn giản. Một số người đă phàn nàn rằng kho tài liệu của chúng ta vừa quá bí hiểm, quá chuyên môn lại vừa quá đắt đối với bạn đọc b́nh thường, và chúng tôi hi vọng rằng loạt sách hiện nay có thể thành công trong việc cung ứng điều vốn là một nhu cầu rất thiết thực. Thông Thiên Học không chỉ dành cho người có học, nó dành cho mọi người. Trong số những người lần đầu tiên thoáng thấy được giáo huấn qua những quyển sách nhỏ này có thể có một một vài người được chúng dẫn dắt thâm nhập sâu thêm vào triết học, khoa học và tôn giáo của nó, đương đầu với những vấn đề bí hiểm hơn bằng sự hăm hở của một học viên và bầu nhiệt huyết của một kẻ sơ cơ. Nhưng những Cẩm nang này không được viết ra dành cho học viên tha thiết vốn không nao núng trước những khó khăn ban đầu; Cẩm nang được viết ra cho những người nam nữ đang bận bịu với công việc mưu sinh hàng ngày trên thế gian, nó t́m cách minh giải một số sự thật vĩ đại khiến cho ta dễ chịu đựng hơn được cuộc sống và dễ giáp mặt hơn với sự chết. Do được viết ra bởi những người phụng sự các Chơn sư, vốn là các Huynh trưởng của loài người, cho nên các quyển sách này không có mục đích nào khác hơn là phục vụ cho đồng loại của chúng tôi.

 

DẪN NHẬP

 

Có biết bao nhiêu sự lẫn lộn giữa tâm thức với các hiện thể, giữa chơn nhơn với các lớp áo mà nó khoác lấy, cho nên dường như là hợp thời khi ta nêu ra trước các học  viên Thông Thiên Học một phát biểu rành rẽ về những sự thật mà chúng ta biết được. Chúng tôi đă đạt tới một mức nghiên cứu sao cho nhiều điều thoạt tiên mù mờ đă trở nên sáng sủa, nhiều điều mơ hồ đă trở nên xác định, nhiều điều trước kia được chấp nhận chỉ là lư thuyết th́ nay đă trở thành sự hiểu biết tự thân trải nghiệm. Do đó chúng tôi có thể sắp xếp những sự kiện mà ḿnh nhận biết được thành ra một chuỗi mạch lạc, những sự kiện này có thể được quan sát đi quan sát lại nếu học viên thành công khi triển khai được năng lực quan sát; y sẽ nói về chúng một cách chắc mẫm giống như cảm tưởng của nhà vật lư học bàn tới những hiện tượng khác mà y đă quan sát và lập thành bảng biểu. Nhưng cũng giống như nhà vật lư có thể phạm sai lầm, cũng vậy nhà siêu h́nh học cũng có thể sai lầm, và khi tầm hiểu biết mở rộng ra th́ các ánh sáng mới sẽ soi chiếu cho những sự thật cũ, mối quan hệ của chúng sẽ được thấy rơ hơn, dáng vẻ của chúng sẽ thay đổi – thường thường là bởi v́ khi có thêm ánh sáng th́ sẽ cho thấy sự thật trước kia dường như là trọn vẹn th́ nay chỉ đúng có một phần. Không ai được khẳng định thẩm quyền của ḿnh về những quan điểm được tŕnh bày ở đây; chúng được tŕnh bày theo kiểu từ người học này đến những người học khác, đó là một nỗ lực mô phỏng lại điều đă được thầy dạy nhưng chắc chắn là học tṛ hiểu không tới nơi tới chốn do kết quả quan sát của ḿnh chịu ảnh hưởng của năng lực hạn chế khiến cho ḿnh chỉ thấy như vậy thôi.    

Ngay lúc bắt đầu nghiên cứu, bạn đọc phương Tây cần thay đổi thái độ mà ḿnh đă quen tự xem xét ḿnh, nghĩa là y nên phân biệt rành mạch giữa chơn nhơn và các hạ thể mà chơn nhơn ở trong đó. Chúng ta có thói quen đồng nhất hóa ḿnh với các lớp áo bên ngoài mà ḿnh khoác lấy, ưa nghĩ về ḿnh như thể ḿnh là các hạ thể đó đến đỗi mà muốn lĩnh hội được một quan niệm chân thực về đề tài mà ḿnh đang xét th́ chúng ta cần phải từ bỏ quan điểm đó, không được đồng nhất hóa ḿnh với những vỏ bọc mà ḿnh nhất thời khoác lấy rồi lại cởi ra để lại mặc vào những lớp vỏ mới khi chúng ta lại cần tới những bộ y phục đó. Đồng nhất hóa ḿnh với những hạ thể vốn chỉ tồn tại nhất thời thật sự cũng điên rồ và phi lư như đồng nhất hóa ḿnh với quần áo ḿnh mặc; chúng ta không được tùy thuộc vào chúng – giá trị của chúng chỉ tỉ lệ với công dụng của chúng thôi. Cái lỗi lầm thường xuyên đồng nhất hóa tâm thức (tức là Chơn ngă) với các hiện thể mà tâm thức ấy nhất thời hoạt động thông qua đó, chỉ có thể được tha thứ do có sự thật là ư thức tỉnh táo (và trong một chừng mực nào đó ư thức trong khi nằm mơ cũng vậy) chỉ linh hoạt và hoạt động trong thể xác, và người thường th́ chẳng biết ǵ nếu không thông qua ư thức tỉnh táo đó; thế nhưng ta có thể dùng cái trí để hiểu được t́nh huống thật sự và chúng ta có thể rèn luyện ḿnh coi Chơn ngă là chủ nhân ông của hiện thể th́ nhiên hậu kinh nghiệm này sẽ trở thành  một sự thật nhất định khi chúng ta học cách tách rời Chơn ngă ra khỏi các hiện thể, thoát ra khỏi hiện thể để biết rằng ḿnh tồn tại trong một tâm thức viên măn hơn nhiều khi ở bên ngoài hiện thể so với khi ở bên trong hiện thể; do đó chúng ta không tuyệt nhiên tùy thuộc vào nó. Một khi đă thành tựu được điều này th́ cố nhiên chúng ta không c̣n có thể đồng nhất hóa Chơn ngă của ḿnh với các hiện thể được nữa và chúng ta không bao giờ có thể phạm sai lầm khi giả định rằng ḿnh là cái mà ḿnh đang khoác lấy. Ít ra th́ việc hiểu rơ ràng bằng cái trí cũng ở trong tầm với của mọi người thuộc chúng ta, và chúng ta có thể rèn luyện ḿnh tập thói quen phân biệt giữa Chơn ngă tức Chơn nhơn với các hạ thể. Chỉ cần làm như thế thôi th́ cũng thoát được cái ảo tưởng mà đa số mọi người đang vướng mắc trong đó, chúng ta sẽ thay đổi được trọn cả thái độ của ḿnh đối với cuộc đời cũng như đối với thế gian, nó sẽ chấp cánh giúp chúng ta bay bổng lên một cơi thanh thản hơn vượt trên “những biến dịch và may rủi bấp bênh của cái cuộc sống hữu hoại này”, nó đặt chúng ta trên tầm những rối rắm nhỏ nhặt hằng ngày vốn lù lù ngay trước mắt tâm thức đang mang xác phàm; nó cho chúng ta thấy mức độ tỉ lệ đúng thực giữa điều hằng biến dịch và điều tương đối trường tồn, nó khiến cho chúng ta cảm thấy sự khác nhau giữa con người bị chết đuối do các đợt sóng nhồi lên nhồi xuống làm y ngạt thở và con người đặt chân vững vàng trên một tảng đá mà sóng vỗ chỉ gây vô hại ở dưới đáy.aaa

Khi dùng từ chơn nhơn tôi ngụ ư là chơn ngă sống động, có cá tính, hữu thức và biết suy tư; c̣n khi dùng từ các hạ thể, tôi ngụ ư là đủ thứ vỏ bọc mà chơn ngă này bị lọt vào trong đó, mỗi vỏ bọc khiến cho chơn ngă có thể hoạt động ở một vùng xác định nào đó trong vũ trụ. Cũng như con người có thể sử dụng một cái xe trên đất liền, một cái tàu trên mặt nước và một máy bay trong không khí để di chuyển từ nơi này tới nơi khác, thế nhưng vẫn c̣n là chính ḿnh ở khắp mọi nơi, cũng vậy Chơn ngă, tức chơn nhơn vẫn c̣n là chính ḿnh cho dù nó đang hoạt động trong hạ thể nào; và cũng như cái xe, con tàu và máy bay thay đổi về vật liệu và kết cấu tùy theo yếu tố được thiết kế để cho mỗi phương tiện này vận chuyển trong đó, cũng vậy mỗi hạ thể tùy theo môi trường mà nó hoạt động trong đó. Ha thể này thô trược hơn hạ thể kia, hạ thể này chết yểu hơn hạ thể kia, hạ thể này ít năng lực hơn hạ thể kia, nhưng tất cả đều có chung nhau một điểm, đó là chúng tương đối phù du so với chơn nhơn, chúng là công cụ của chơn nhơn, phục vụ cho chơn nhơn, bị ṃn mơi và đổi mới theo bản chất của ḿnh và thích ứng với nhu cầu biến thiên cũng như quyền năng đang tăng trưởng của chơn nhơn. Chúng ta sẽ nghiên cứu từng hạ thễ một, bắt đầu với thể thấp nhất rồi mới xét tới chính chơn nhơn, là đấng chủ động trong mọi hạ thể.


 lời đầu  đầu sách cuối sách  xác  vía  trí   hiện thể khác  hào quang  chơn nhơn  mục lục

 

THỂ VẬT LƯ

 

Thuật ngữ thể vật lư (physical body) phải bao gồm cả hai nguyên khí thấp của con người mà thuật ngữ cổ xưa của chúng ta gọi là Sthūla Sharīra và Linga Sharīra, bởi v́ cả hai đều hoạt động trên cơi vật lư, đều gồm có chất vật lư, được tạo thành trong thời kỳ một kiếp sống trên cơi vật lư và bị con người vứt bỏ vào lúc chết để rồi cùng nhau tan ră trên cơi vật lư khi con người chuyển sang cơi trung giới.

Một lư do khác để xếp hai nguyên khí này hợp lại thành thể vật lư là v́ chừng nào chúng ta chưa thoát ra khỏi thế giới vật lư – tức cơi mà chúng ta quen gọi là cơi trần – th́ chúng ta c̣n phải dùng tới một trong hai lớp áo vật lư này hoặc cả hai. Chúng đều thuộc về cơi vật lư do cấu tạo vật liệu của cơi này và không thể thoát ra khỏi bên ngoài nó; tâm thức hoạt động bên trong chúng bị hạn chế trong nội bộ sự g̣ bó của cơi vật lư và phải tuân theo những định luật thông thường về không gian và thời gian. Mặc dù có thể tách rời nhau một phần nào, song chúng hiếm khi rời xa nhau trong khi c̣n sống trên cơi trần, sự rời xa đó không đáng khuyến khích và luôn là dấu hiệu bệnh tật hoặc cấu tạo mất thăng bằng.

Xét theo vật liệu cấu tạo nên chúng th́ ta có thể phân biệt chúng ra thành xác phàm (the gross body) và thể phách (the etheric double), thể phách là bản sao chính xác từng hạt một của thể hữu h́nh và là môi trường thông qua đó có tác dụng mọi ḍng điện và ḍng sinh khí mà hoạt động của xác phàm tùy thuộc vào đó. Từ trước đến nay, ta vẫn gọi thể phách là Linga Sharīra, nhưng v́ nhiều lư do dường như ta nên chấm dứt việc dùng tới tên gọi đó để chỉ thể này. Từ lâu rồi cổ thư của Ấn Độ đă dùng từ “Linga Sharīra” theo một nghĩa khác, và cho dù là người Đông phương hay người Tây phương th́ các học viên kho tài liệu Á đông ắt gặp phải nhiều lẫn lộn do hậu quả vơ đoán, xuyên tạc ư nghĩa mà nó đă được công nhận; v́ lư do đó (nếu không phải c̣n lư do khác nữa) tốt hơn ta nên từ bỏ cách dùng không chính đáng ấy. Hơn nữa, nếu có được một tên gọi bằng tiếng Anh để chỉ những phần chia nhỏ trong cấu tạo của con người th́ ắt là tốt hơn, do đó khiến cho kho tài liệu sơ cấp của chúng ta không c̣n chướng ngại vật cho những kẻ sơ cơ đứng trước thuật ngữ tiếng Bắc phạn. Vả lại tên gọi thể phách cũng biểu diễn chính xác được bản chất và cấu tạo của phần tinh vi thuộc thể vật lư; do đó nó có ư nghĩa và dễ nhớ hơn (mọi tên gọi đều nên như thế); nó là “thể phách” v́ nó được cấu tạo bằng “chất dĩ thái” (ether), nó là “nhị trùng thể” (double) v́ nó là bản sao chính xác của xác phàm, có thể nói là cái bóng của xác phàm.

Thế mà vật chất của cơi trần được chia ra bảy lớp, phân biệt với nhau được, và mỗi lớp có đủ thứ tổ hợp trong nội bộ giới hạn của ḿnh. Bảy lớp này là: chất đặc, chất lỏng, chất khí, chất dĩ thái; chất dĩ thái có bốn t́nh huống phân biệt với nhau cũng giống như chất lỏng phân biệt với chất đặc và chất khí. Đây là bảy trạng thái của vật chất thuộc cơi trần, và bất cứ bộ phận nào thuộc vật chất đó cũng đều có thể chuyển thành bất kỳ một trong các trạng thái này. Mặc dù ở nhiệt độ và áp suất b́nh thường theo cách mà ta gọi th́ vật chất đó sẽ có một trong các trạng thái tương đối là trường tồn, chẳng hạn như vàng thường là chất rắn, nước thường là chất lỏng, clor thường là chất khí. Thể vật lư của con người bao gồm vật chất ở bảy trạng thái này: xác phàm gồm vật chất ở thể đặc, thể lỏng và thể khí; c̣n thể phách bao gồm bốn lớp chất dĩ thái mà ta lần lượt biết tên là Dĩ thái I, Dĩ thái II, Dĩ thái III và Dĩ thái IV.

Khi chúng tôi tŕnh bày cho mọi người thấy những sự thật cao siêu của Thông Thiên Học, th́ chúng tôi thấy họ thường phàn nàn là các sự thật đó quá lờ mờ và họ thắc mắc: “Chúng tôi nên bắt đầu từ đâu? Nếu chúng tôi muốn tự ḿnh học hỏi và chứng tỏ sự thật những lời khẳng định đó th́ chúng tôi phải khởi sự như thế nào? Đâu là những bước đầu tiên mà chúng tôi phải bước đi? Thật vậy, đâu là bộ chữ cái của ngôn ngữ mà các nhà Thông Thiên Học cứ liếng thoắng thuyết pháp? Chúng tôi là những người nam nữ sống trên thế gian th́ nên làm ǵ để hiểu được và kiểm chứng được những vấn đề này, thay v́ chỉ chấp nhận chúng dựa vào đức tin nơi những người khác vốn tự cho là ḿnh có biết? Trong những trang sau đây tôi sẽ cố gắng trả lời thắc mắc đó để cho những người thật sự tha thiết có thể hiểu được những bước thực tiễn sơ khởi mà họ phải bước đi; ta luôn luôn phải hiểu rằng những bước này ắt thuộc về một sinh hoạt mà bộ phận đạo đức, trí thức và tâm linh của nó c̣n đang được rèn luyện. Dù cho người ta có làm ǵ cho thể vật lư không thôi th́ điều đó cũng không biến y thành một nhà thấu thị hoặc một ông thánh; nhưng cũng đúng là xét v́ thể vật lư là một công cụ mà chúng ta phải sử dụng cho nên ta cần đối xử với nó theo cách nào đó để cho chúng ta có thể chuyển bước theo hướng Thánh đạo. Trong khi việc chỉ xét tới thể vật lư không thôi chẳng bao giờ đưa chúng ta lên đến những đỉnh cao mà chúng ta đang hoài băo, thế nhưng nếu bỏ mặc thể vật lư đó không xét tới nó th́ tuyệt nhiên cũng không thể khiến cho ta leo lên được những đỉnh cao đó. Những hạ thể mà ta phải sinh hoạt và làm việc trong đó là những công cụ của chơn nhơn và chúng ta phải hiểu ra điều sơ khởi này. Hạ thể tồn tại v́ chúng ta chứ chúng ta không tồn tại v́ hạ thể; hạ thể để cho chúng ta sử dụng chứ chúng ta không phải là tay sai của hạ thể để cho bị nó sử dụng. Hạ thể là một công cụ cần phải được tinh luyện, cải thiện, rèn luyện, uốn nắn thành ra một h́nh dạng và cấu tạo bằng những thành phần khiến cho nó có thể thích hợp nhất để làm công cụ trên cơi trần, phục vụ những mục đích cao nhất của chơn nhơn. Mọi điều hướng theo chiều đó đều cần phải được khích lệ và bồi dưỡng; mọi điều đi ngược lại hướng đó đều nên tránh. Việc hạ thể có thể có những mong ước ǵ, có thể đă tập nhiễm những thói quen ǵ trong quá khứ th́ chẳng có chi quan trọng; hạ thể thuộc về chúng ta, là tôi tớ của chúng ta để chúng ta tùy ư sử dụng và đến lúc mà nó chiếm quyền kiểm soát đ̣i dẫn dắt con người thay v́ chịu sự chỉ dạy của chơn nhơn th́ lúc đó trọn cả mục đích của cuộc đời đă bị phá hoại và hoàn toàn không thể có được bất kỳ loại tiến bộ nào. Đây là điều mà bất cứ người nào tha thiết đều phải khởi sự từ đó. Chính bản chất của thể vật lư khiến cho nó là một điều có thể dễ dàng trở thành một tôi tớ hoặc một công cụ. Nó có một vài đặc tính giúp ta rèn luyện được nó và tương đối dễ dàng chỉ đạo, uốn nắn nó; một trong những đặc tính này là khi nó đă quen hoạt động theo một đường lối đặc thù nào th́ nó dễ dàng tự nguyện đi theo đường lối đó và rất vui ḷng làm như thế cũng giống như trước kia nó đă từng đi theo những đường lối khác. Nếu ta đă tập nhiễm theo một thói quen xấu th́ hạ thể sẽ chống cự khá quyết liệt đối với bất kỳ sự thay đổi thói quen này; nhưng nếu nó bắt buộc phải thay đổi, nếu ta vượt qua được trở ngại mà nó cản đường, và nếu nó buộc ḷng phải hành động theo ư muốn của chơn nhơn th́ chỉ ít lâu sau, hạ thể sẽ lại tự nguyện lập lại cái thói quen mới mẻ mà con người đă áp đặt lên nó, và sẽ vui ḷng theo đuổi phương pháp mới cũng giống như nó đă từng theo đuổi phương pháp cũ mà chơn nhơn thấy có lư do để phản đối.

Giờ đây chúng ta hăy chuyển sang xét tới xác phàm mà ta có thể đại khái gọi là phần hữu h́nh của thể vật lư mặc dù mắt phàm không được rèn luyện không thấy các thành phần cấu tạo bằng thể khí. Đây là lớp áo ngoài cùng của chơn nhơn, là biểu lộ thấp nhất của nó, là biểu hiện hạn chế nhất và bất toàn nhất của chơn nhơn.

 

Xác phàm

 

Chúng ta phải lần lữa nói lâu dài đúng mức về cấu tạo của xác phàm th́ chúng ta mới có thể hiểu được bằng cách nào chúng ta có thể xét tới hạ thể này, tẩy trược nó và rèn luyện nó. Chúng ta phải liếc nh́n một loạt các hoạt động mà phần lớn nằm ngoài tầm kiểm soát của ư chí rồi đến những hoạt động chịu sự kiểm soát của ư chí. Cả hai loại hoạt động này đều vận hành nhờ vào các hệ thần kinh, nhưng đó là các loại thần kinh hệ khác nhau. Một hệ thống xúc tiến mọi hoạt động của cơ thể để duy tŕ sinh hoạt b́nh thường của nó, nhờ vậy phổi mới co bóp, tim mới thoi thóp và hệ tiêu hóa mới được điều động. Hệ thần kinh này bao gồm các dây thần kinh không cố ư mà ta thường gọi là “hệ giao cảm”. Có một lúc trong quá khứ lâu dài khi cơ thể của ta được kiến tạo qua sự tiến hóa vật lư th́ hệ thần kinh này chịu sự kiểm soát của con thú có hệ thần kinh đó, nhưng dần dần nó bắt đầu hoạt động một cách tự động: nó thoát ra khỏi sự kiểm soát của ư chí, có được sự gần như độc lập của riêng ḿnh để tiến hành mọi hoạt động b́nh thường có tầm quan trọng sống c̣n cho cơ thể. Trong khi một người đang khỏe mạnh th́ y không nhận ra được những hoạt động này; y chỉ biết rằng ḿnh đang thở khi sự hít thở đó bị chèn ép hoặc kiểm soát, y chỉ biết rằng tim ḿnh đập khi tim đập đó là thùm thụp hoặc không đều, nhưng khi mọi chuyện đều suôn sẻ th́ những quá tŕnh này tiếp diễn mà y không để ư thấy. Tuy nhiên người ta có thể đưa hoạt động của hệ thần kinh giao cảm này chịu sự kiểm soát của ư chí qua việc thực tập một cách lâu dài và gian khổ; một lớp đạo sĩ Yoga ở Ấn Độ (được gọi là đạo sĩ Hatha Yoga) phát triển quyền năng này đến mức phi thường với mục đích kích thích các thần thông hạ đẳng. Ta có thể triển khai những thần thông này (vốn chẳng liên quan ǵ tới sự tăng trưởng về trí thức, đạo đức hoặc tâm linh) bằng cách tác động trực tiếp lên thể vật lư. Đạo sĩ Hatha Yoga học cách kiểm soát hơi thở của ḿnh thậm chí tới mức tạm ngưng thở trong một thời gian đáng kể để kiểm soát nhịp đập của tim khiến cho sự tuần hoàn được đẩy nhanh lên hoặc chậm đi tùy ư, và bằng cách đó y khiến cho xác phàm lâm vào t́nh trạng xuất thần và thể vía xuất ra. Ta không được đua đ̣i theo phương pháp này, thế nhưng nó cũng dạy cho các quốc gia Tây phương (vốn thường tôn sùng thể xác đến mức độc đoán) biết cách mà một người hoàn toàn kiểm soát được quá tŕnh thể chất thông thường là tự động này; và họ cũng hiểu ra được rằng hàng ngàn người đă áp đặt lên ḿnh một giới luật lâu dài và vô cùng gian khổ để cho ḿnh được thoát ra khỏi cái nhà tù tức là thể xác, và biết được rằng ḿnh c̣n sống khi thể xác đă tạm thời không c̣n hoạt động nữa. Ít ra th́ họ cũng tha thiết chứ không c̣n chỉ là nô lệ cho các giác quan.

Ngoài hệ thần kinh này ra chúng ta c̣n có hệ thần kinh cố ư vốn quan trọng hơn nhiều cho các mục đích tâm trí của ta. Đây là hệ thần kinh lớn vốn là công cụ để cho ta tư duy, nhờ đó chúng ta có cảm giác và vận động được trên cơi trần. Nó bao gồm trục năo tủy – bộ óc và tủy sống – từ đó chạy ra khắp cơ thể các sợi dây bằng chất thần kinh tức là các dây thần kinh cảm giác và vận động: dây thần kinh giúp chúng ta có cảm giác chạy từ ngoại vi vô trục, c̣n dây thần kinh giúp chúng ta vận động chạy từ trục ra ngoại vi. Các sợi dây thần kinh đó xuyên suốt mọi bộ phận của cơ thể, liên kết với nhau lại thành từng bó, các bó thần kinh lại nối vào tủy sống để tạo thành chất sợi ở bên ngoài rồi lại chuyển lên trên lan tỏa ra và chia nhánh nhóc trong bộ óc, vốn là trung tâm của mọi cảm xúc và mọi sự vận động cố ư do ư chí kiểm soát. Đây là hệ thần kinh giúp con người biểu hiện ư chí và ư thức của ḿnh, ta có thể nói rằng ư chí và ư thức đóng đô nơi bộ óc. Nếu không thông qua bộ óc và thần kinh hệ th́ con người không làm ǵ được trên cơi trần; nếu bộ óc và thần kinh hệ bị xáo trộn th́ con người không c̣n có thể biểu hiện một cách trật tự được nữa. Đây chính là sự kiện đặt nền tảng cho thuyết duy vật với lập luận rằng tư tưởng và tác động của bộ óc biến thiên cùng với nhau; khi chỉ xét tới cơi trần thôi (nhà duy vật đúng là chỉ xét tới nó) th́ tư tưởng và tác động của bộ óc đúng là biến thiên cùng với nhau, và ta cần dẫn nhập các lực từ một cơi khác tức cơi trung giới th́ mới chứng tỏ được rằng tư tưởng không phải là kết quả của những tác động thần kinh. Nếu bộ óc bị ảnh hưởng của thuốc men, của bệnh tật hoặc bị tổn thương th́ tư tưởng của con người có bộ óc đó không c̣n có thể biểu hiện thỏa đáng trên cơi trần được nữa. Nhà duy vật ắt cũng nêu rơ rằng nếu ta bị một bệnh nào đó th́ tư tưởng cũng bị đặc biệt ảnh hưởng tới. Có một bệnh hiếm có là bệnh mất ngôn ngữ (aphasia) vốn hủy hoại một bộ phận đặc thù của mô năo ở gần tai, có kèm theo việc hoàn toàn mất trí nhớ xét về ngôn từ; nếu bạn hỏi một người mắc bệnh này một câu hỏi th́ y không thể trả lời được, nếu bạn hỏi tên y th́ y sẽ chẳng trả lời, nhưng nếu bạn nói tên y ra th́ y sẽ tỏ ra nhận biết được tên đó, nếu bạn đọc cho y một phát biểu nào đó th́ y sẽ tỏ vẻ đồng ư hoặc không tán thành; y có thể suy nghĩ nhưng không nói được. Dường như thể bộ phận thuộc bộ óc bị tiêu tán đi có liên quan tới trí nhớ về ngôn ngữ trên cơi trần sao cho khi mất đi bộ phận đó con người cũng mất đi trí nhớ ngôn từ trên cơi trần và trở nên câm lặng trong khi y vẫn c̣n giữ được khả năng suy tư và có thể đồng ư hoặc không tán thành bất cứ đề nghị nào được đưa ra. Cố nhiên là lập luận của nhà duy vật sẽ bị sụp đổ ngay tức khắc khi ngưới đó được giải thoát ra khỏi công cụ bất toàn của ḿnh; bấy giờ y có thể biểu hiện quyền năng của ḿnh mặc dù y lại bị què quặt trở lại khi một lần nữa phải chịu biểu hiện trên cơi trần. Tầm quan trọng của điều này xét về sự t́m hiểu hiện nay của ta không ở nơi lập trường của nhà duy vật có căn cứ hay không có căn cứ mà ở nơi sự thật là con người bị hạn chế biểu hiện trên cơi trần là do năng lực của công cụ trên cơi trần và công cụ đó chịu ảnh hưởng của các tác nhân trên cơi trần; nếu những tác nhân này có thể gây tổn thương cho nó th́ những tác nhân đó cũng có thể cải thiện được nó – một nhận xét mà chúng ta ắt thấy có tầm quan trọng sống c̣n đối với chúng ta.

Cũng như mọi bộ phận của cơ thể, các thần kinh hệ được cấu tạo từ tế bào vốn là các vật thể nhất định nho nhỏ có bức vách bao xung quanh, bên trong có chứa một số chất mà ta thấy được dưới kính hiển vi, các tế bào đó thay đổi theo các chức năng khác nhau. Đến lượt các tế bào này được cấu tạo từ những phân tử nho nhỏ và những phân tử này lại được cấu tạo từ những nguyên tử - nguyên tử của nhà hóa học là một hạt tối hậu không thể phân chia được của một nguyên tố hóa học. Những nguyên tử hóa học này tổ hợp với nhau theo vô số cách để tạo ra các chất khí, chất lỏng và chất đặc của xác phàm. Đối với nhà Thông Thiên Học th́ mỗi nguyên tử hóa học cũng là một sự vật sống động có thể sống cuộc đời độc lập và mỗi tổ hợp của các nguyên tử đó thành ra một thực thể phức tạp hơn cũng lại là một sự vật sống động; mỗi tế bào cũng có sự sống của riêng ḿnh và tất cả các nguyên tử hóa học, phân tử và tế bào này tổ hợp lại với nhau thành ra một tổng thể có tổ chức tức là một cơ thể được dùng làm hiện thể có một dạng tâm thức cao siêu hơn so với bất kỳ tâm thức nào mà các tế bào, phân tử và nguyên tử biết tới trong sinh hoạt riêng rẽ của ḿnh. Thế mà các hạt hợp thành những cơ thể này đều thường xuyên xuất nhập, các hạt đó là những khối tập hợp các nguyên tử hóa học nhỏ xíu đến nỗi mắt phàm không thấy được mặc dù nhiều khối tập hợp đó lại nh́n thấy được qua kính hiển vi. Nếu ta nhỏ một chút máu rồi quan sát nó dưới kính hiển vi th́ chúng ta thấy trong đó có vận động một số vật thể sống động tức là bạch huyết cầu và hồng huyết cầu; bạch huyết cầu có cấu trúc và hoạt động gần giống như những con a-míp thông thường; ta thấy có những con vi trùng liên quan tới nhiều bệnh tật và đủ thứ trực khuẩn; các nhà khoa học cho chúng ta biết rằng trong cơ thể chúng ta có những vi trùng thân thiện và không thân thiện. Một số vi trùng gây tổn thương c̣n những vi trùng khác vồ lấy và ngấu nghiến những kẻ xâm nhập gây hại và vật chất đă bị mục rữa. Một số vi trùng xâm nhập từ bên ngoài vào cơ thể chúng ta nhưng không gây bệnh tật cho cơ thể, có những vi trùng lại làm cho sức khỏe tăng tiến, vậy là những lớp áo của chúng ta thường xuyên thay đổi vật liệu, chúng đến và tạm trú trong một lúc rồi lại đi ra để tạo thành bộ phận của các cơ thể khác – một sự thay đổi và tương tác liên tục.

Thế mà đại đa số loài người biết rất ít và lại càng chẳng quan tâm tới những sự kiện này; thế nhưng khả năng tẩy trược xác phàm khiến cho nó là hiện thể thích hợp hơn đối với chơn nhơn lại xoay quanh những sự kiện ấy. Người b́nh thường bỏ mặc cho cơ thể được kiến tạo theo một cách nào đó từ những vật liệu cung ứng cho nó mà không màng tới bản chất của những vật liệu đó, y chỉ quan tâm xem món ăn có khoái khẩu và dễ chịu đối với ham muốn của ḿnh hay chăng chứ không quan tâm xem chúng thích hợp hay không thích hợp với việc tạo ra một chỗ trú thanh khiết và cao cả cho Chơn ngă vốn là chơn nhơn sống đời đời. Y chẳng thèm giám sát những hạt này khi chúng đến rồi lại đi, chẳng tuyển lựa mà cũng chẳng vứt bỏ, cứ phó mặc cho mọi chuyện tha hồ được xây dựng vào chẳng khác chi một người thợ hồ vô ư vô tứ cứ chụp đại bất kỳ thứ rác rưởi nào để làm vật liệu xây nhà: len và tóc trôi nổi, bùn đất, mảnh vụn, cát, móng chân tay, đồ ô uế và đồ thiu thối thuộc bất cứ thứ nào. Phàm nhơn chính là kẻ xây nhà đích thực đối với cơ thể ḿnh. Vậy th́ việc tẩy trược cho xác phàm cốt ở quá tŕnh cố ư tuyển lựa các hạt được phép cấu tạo nên nó; con người sẽ chỉ tiếp nhận dưới dạng thực phẩm những thành phần thanh khiết nhất mà y có thể nhận được và vứt bỏ thành phần không thanh khiết, thô trược; y biết rằng do thay đổi tự nhiên, các hạt kiến tạo nên xác phàm trong thời gian y c̣n sinh hoạt bừa băi sẽ dần dần mất đi ít ra là chỉ nội trong bảy năm – mặc dù quá tŕnh này có thể được đẩy nhanh lên đáng kể - thế là y quyết tâm không xây dựng vào xác phàm điều ǵ không tinh khiết nữa; khi y gia tăng những thành phần thanh khiết th́ y tạo ra trong cơ thể ḿnh một đội quân pḥng vệ hủy diệt được bất kỳ hạt ô uế nào lọt vào trong cơ thể từ bên ngoài hoặc len lỏi vào trong cơ thể mà không được y tán thành; và y c̣n canh giữ nó hơn nữa bằng một ư chí chủ động sao cho nó sẽ được thanh khiết, và khi tác động bằng từ khí liên tục đẩy lùi mọi tạo vật không tinh khiết ở gần ḿnh, chúng c̣n lâu mới xâm nhập được vào cơ thể y; vậy là y khiến cho chúng không thể xâm nhập được vào thể xác trong khi y đang sống trong một bầu không khí thấm đẩm đủ thứ điều không tinh khiết.

Khi một người đă quyết tâm tẩy trược thể xác ḿnh và khiến cho nó trở thành một dụng cụ thích hợp cho Chơn ngă hoạt động, th́ y đă tiến bước đầu tiên hướng về việc thực hành Yoga – bước này phải được thực hiện trong kiếp hiện nay hoặc trong một kiếp khác trước khi y có thể nghiêm túc thắc mắc: “Làm thế nào tôi có thể học được cách tự ḿnh kiểm chứng những sự thật Thông Thiên Học?” Mọi sự kiểm chứng cá nhân về những sự thật siêu vật lư đều tùy thuộc vào việc chơn nhơn tức chủ nhơn ông có hoàn toàn chế ngự được thể xác hay chăng; con người phải kiểm chứng và y không thể kiểm chứng được điều này trong khi y c̣n bị cột chặt vào bên trong nhà tù là cái xác hoặc lúc cái xác đó không được thanh khiết. Ngay cả khi do nhiều kiếp đă thực hiện giới luật tốt, y kế thừa được một phần những thần thông đă phát triển và biểu lộ được chúng mặc dù hoàn cảnh hiện tại không thuận lợi th́ việc sử dụng những thần thông này cũng bị cản trở khi y ở trong xác phàm nếu xác đó không thanh khiết; nó sẽ làm tŕ độn hoặc xuyên tạc việc vận dụng những thần thông đó khi chúng tác động qua nó và tường tŕnh của những người đó không đáng tin cậy.

Ta hăy giả sử rằng một người cố t́nh quyết tâm có được một thể xác thanh khiết và y lợi dụng sự kiện thể xác sẽ thay đổi hoàn toàn trong bảy năm hoặc y có thể chọn con đường ngắn hơn và khó khăn hơn là thay đổi nó nhanh chóng hơn; trong bất cứ trường hợp nào th́ y cũng phải tức khắc bắt đầu tuyển lựa vật liệu để xây dựng thể xác mới cho trong sạch, lúc đó vấn đề ăn uống sẽ xuất hiện. Y sẽ tức khắc bắt đầu loại ra khỏi thực phẩm của ḿnh mọi thứ kiến tạo vào trong cơ thể y những hạt không thanh khiết và gây ô nhiễm. Y sẽ kiêng mọi thứ rượu, rượu mạnh và rượu nhẹ cũng có chất rượu v́ nó sẽ đưa vào trong thể xác y những vi sinh vật thuộc loại ô trược nhất vốn là sản phẩm của sự phân ră. Bản thân của những vi sinh vật này không có tác hại nhưng chúng thu hút về ḿnh – và do đó thu hút về bất cứ thể xác nào mà chúng tạo thành một bộ phận – một số những cư dân vô h́nh trên cơi trần nhưng thuộc loại bất hảo nhất của cơi kế tiếp. Những kẻ nghiện rượu đă mất xác phàm do đó không thể thỏa măn được sự khao khát chất độc ấy nữa cứ lởn vởn quanh những quán rượu và xung quanh những bợm nhậu, cố gắng nhập vào xác của những người đang uống rượu để chia sớt cái thú vui thấp hèn của ḿnh đă cam chịu. Những phụ nữ thanh lịch ắt phải tránh xa rượu     nếu họ thấy được những tạo vật ghê gớm t́m cách tham gia vào việc hưởng thụ thú vui đó và mối liên hệ mật thiết mà họ tạo ra với những sinh linh thuộc loại ghê tởm nhất. Các tinh linh ngũ hành tà vạy cũng bu quanh tư tưởng của kẻ nghiện rượu khoác lấy chất tinh hoa ngũ hành, c̣n thể xác thu hút về ḿnh từ bầu không khí xung quanh những hạt thô trược khác xuất phát từ các cơ thể say mèm và phóng túng, những hạt này lại được kiến tạo vào trong thể xác làm cho nó thô trược và tồi bại đi. Nếu chúng ta quan sát những người thường xuyên uống rượu, chế biến hoặc phân phối rượu mạnh, rượu vang, rượu bia và các loại đồ uống không tinh khiết khác th́ chúng ta có thể thấy thể xác của họ đă trở nên thô trược biết chừng nào. Một người làm ở nhà máy bia, một chủ quán nhậu – chứ đừng nói tới những người thuộc đủ mọi tầng lớp trong xă hội mà nhậu nhẹt quá nhiều – những người này đă chứng tỏ trọn vẹn điều mà mỗi người kiến tạo vào cơ thể ḿnh bất kỳ hạt nào đang gây ra chuyện ǵ một phần và từ từ; y càng kiến tạo các hạt này vào th́ cơ thể của y sẽ càng trở nên thô trược. Và cũng như thế với các món khác của chế độ ăn uống, thịt của động vật có vú, chim, ḅ sát và cá, thịt của các động vật thuộc loại giáp xác và loài nhuyễn thể sống dựa vào xác thối rữa – làm thế nào mà những cơ thể được tạo ra từ những vật liệu như thế lại tinh anh, nhạy cảm, thăng bằng, tế nhị mà vẫn hoàn toàn mạnh khỏe với sức mạnh và tinh tế của thép đă được trui rèn giống như thứ mà con người cần tới cho mọi công việc thuộc loại cao siêu hơn? Liệu lại cần thiết phải nói thêm bài học thực tiễn mà ta có thể học được qua việc nh́n vào cơ thể của những người sống trong môi trường xung quanh như thế? Ta hăy xem những người đồ tễ và người bán thịt, và phán đoán xem liệu cơ thể họ có giống như những dụng cụ thích hợp nhất được dùng cho những tư tưởng cao siêu và những đề tài tâm linh cao siêu. Thế nhưng chúng chỉ là những sản phẩm đă được hoàn tất của các lực tác động tỉ lệ (trong mọi cơ thể) với điều được cấp dưỡng theo những món ăn không tinh khiết mà chính họ cung ứng. Thật vậy con người muốn hiến ḿnh cho đời sống tâm linh không chú ư ǵ tới thể xác, nhưng tại sao y lại cản trở ḿnh bằng một cơ thể không tinh khiết? Tại sao y lại để cho những quyền năng của ḿnh (cho dù lớn hay nhỏ) đều bị hạn chế, ức chế, bị thu hẹp lại trong toan tính biểu lộ ra do công cụ của ḿnh là bất toàn một cách không cần thiết?

Tuy nhiên có một khó khăn cản đường chúng ta mà chúng ta không thể lờ đi; chúng ta có thể chịu nhiều đau khổ về cơ thể và có thể quyết tâm từ chối không làm cho nó ô uế, nhưng chúng ta đang sống giữa nhân quần với những người vô ư vô tứ và những người phần lớn chẳng biết ǵ về những sự kiện này trong thiên nhiên. Trong một đô thị như Luân đôn, hoặc thật ra trong bất kỳ thị trấn nào khác ở phương Tây, chúng ta không thể đi bộ ngang qua đường phố mà không bị tấn công ở mỗi ngă rẽ khúc ngoặc, và chúng ta càng làm cho thể xác tinh vi th́ các giác quan thể xác càng sắc xảo tế nhị hơn và chúng ta càng phải chịu đau khổ trong một nền văn minh thô trược và nhiều thú tính biết bao như hiện nay. Khi đi bộ qua những đường phố nghèo nàn hơn nơi mà mỗi góc phố đều có những quán bia th́ chúng ta khó ḷng mà thoát khỏi cái mùi rượu nồng nặc, uế khí xuất phát từ nơi nhậu nhẹt này lấn sang nơi kế cận – ngay cả những đường phố có tiếng là khả kính cũng bị nhiễm độc như thế; cũng vậy khi chúng ta phải đi băng ngang qua những ḷ sát sinh và những cửa hàng bán thịt. Dĩ nhiên người ta biết rằng khi nền văn minh tiên tiến hơn một chút th́ người ta sẽ dàn xếp được tốt hơn và người ta sẽ đạt được một điều ǵ đó khi mọi thứ không trong sạch này được thu gom vào những khu phố đặc biệt nơi mà những người có nhu cầu có thể t́m được chúng. Nhưng trong khi đó các hạt xuất phát từ các nơi này vẫn lọt vào trong cơ thể chúng ta và chúng ta hít thở chúng trong không khí. Nhưng cũng như cơ thể b́nh thường khỏe mạnh không phải là mảnh đất để các vi trùng gây bệnh có thể sinh sôi nảy nở được, cũng vậy cơ thể trong sạch không phải là mảnh đất để cho những hạt không tinh khiết này có thể tăng trưởng. Ngoài ra như chúng ta thấy có những đạo quân sinh linh luôn luôn làm việc để giữ cho máu của chúng ta luôn luôn trong sạch, và những đoàn quân vệ sĩ chân chính này sẽ tấn công bất cứ hạt độc hại nào xâm nhập vào đô thị của cơ thể trong sạch, hủy diệt nó và xé vụn nó ra. Chúng ta phải chọn lựa xem liệu trong máu ḿnh nên có những kẻ bảo vệ sự sống này hay chúng ta sẽ làm cho máu chứa đầy những tên ăn cướp, đi cướp bóc và giết hại những sinh linh tốt. Chúng ta càng quyết tâm không để cho điều ǵ thiếu trong sạch xâm nhập vào cơ thể th́ chúng ta càng được củng cố để chống lại những sự tấn công từ bên ngoài.

Người ta đă nói tới tính tự động của cơ thể và sự thật th́ nó là một tạo vật của thói quen và tôi xin nói rằng có thể lợi dụng được đặc tính này. Nếu nhà Thông Thiên Học nói với một người tầm đạo nào đó vốn c̣n lâu mới thực hành Yoga để nhập vào các cơi cao như sau: “Thế th́ bạn phải bắt đầu ngay tức khắc tẩy trược cơ thể, và điều này phải có trước toan tính thực hành Yoga xứng đáng với tên gọi đó. V́ Yoga thực sự cũng nguy hiểm cho một cơ thể  không trong sạch và vô kỷ luật giống như một que diêm đối với   một thùng thuốc súng”. Nếu nhà Thông Thiên Học bảo như thế th́ rất có thể y sẽ bị đốp chát lại rằng sức khỏe sẽ bị ảnh hưởng nếu người ta chọn theo một lộ tŕnh như thế. Sự thật là về lâu về dài th́ cơ thể sẽ làm rất kỹ lưỡng tới điều mà bạn cung cấp cho nó, miễn là bạn cung cấp cho nó một điều ǵ đó khiến cho nó khỏe mạnh; và chỉ trong một thời gian ngắn th́ nó sẽ thích ứng với một dạng thực phẩm trong sạch và bổ dưỡng mà bạn đă chọn dùng. Chỉ v́ nó là một tạo vật tự động cho nên chẳng bao lâu sau nó sẽ không c̣n yêu sách những thứ mà ta cứ đều đều không cho nó, và nếu bạn lờ đi những yêu sách của nó về các loại thực phẩm thô trược và nặng mùi th́ chẳng bao lâu sau nó có thói quen không thích những thứ đó. Cũng giống như ngay cả một khẩu vị tự nhiên là mực thước cũng dội đi với một cảm giác ghê tởm gây bệnh hoạn đứng trước loại thịt thú săn và thịt nai đang thối rữa nếu nó được gọi là thuộc “cấp cao”; cũng vậy một khẩu vị thanh khiết sẽ không chịu được mọi thực phẩm thô trược. Giả sử rằng một người đă nuôi dưỡng cơ thể bằng đủ thứ món không trong sạch th́ cơ thể y sẽ lồng lộn lên yêu sách chúng và y sẽ có khuynh hướng chiều theo nó; và nếu y không chú ư tới nó cứ đi theo đường lối của ḿnh chứ không theo đường lối của cơ thể th́ có lẽ y sẽ ngạc nhiên mà phát hiện ra rằng chẳng bao lâu sau cơ thể sẽ công nhận người chủ của ḿnh và phục tùng mệnh lệnh của y, giờ đây nó bắt đầu thích những thứ mà y cung cấp cho nó và sẽ có thói quen thích những thực phẩm trong sạch, không ưa những thực phẩm không trong sạch. Thói quen có thể được dùng để trợ giúp cũng như để ngăn cản, và cơ thể phục tùng khi nó hiểu rằng bạn mới là chủ nhân ông và bạn không có ư định để cho mục đích cuộc đời ḿnh bị can thiệp bởi cái chỉ là công cụ mà bạn sử dụng. Thật ra th́ chính yếu không phải thể xác có lỗi mà đúng ra là Kama, tức bản chất dục vọng mới có lỗi. Cơ thể của người lớn đă tập nhiễm thói quen yêu sách những thứ đặc biệt, nhưng nếu bạn để ư tới một đứa con nít th́ bạn ắt thấy rằng cơ thể của đứa con nít không tự phát yêu sách những thứ mà cơ thể người lớn khoái trá với những khoái lạc thô trược. Trừ phi chịu ảnh hưởng của một di truyền thể chất rất xấu, c̣n th́ cơ thể của con nít dội lại trước rượu và thịt, nhưng người lớn bắt nó ăn thịt, cha mẹ cho nó nhấm nháp rượu vang trong ly của ḿnh lúc tráng miệng và bảo nó hăy là “người trưởng thành tuy vẫn c̣n nhỏ”, cho tới khi đứa bé do khả năng bắt chước của chính ḿnh và do sự cưỡng bách của những người khác chuyển sang con đường tà vạy. Dĩ nhiên, nếu những thị hiếu không được trong sạch đă được tập nhiễm và có lẽ những khao khát xưa cũ của dục vọng đă được khơi dậy mà lẽ ra ta có thể bỏ lơ nó đi, th́ dần dần cơ thể sẽ có thói quen yêu sách những thứ mà nó được cấp dưỡng. Bất chấp mọi điều này trong quá khứ bạn hăy thay đổi, và khi bạn dẹp bỏ những hạt khao khát những điều không trong sạch th́ bạn sẽ thấy cơ thể ḿnh thay đổi thói quen và dội lại trước chính cái mùi vị của những sự vật mà nó đă quen vui hưởng. Khó khăn thật sự cản đường ta chính là việc cải tạo Kama chứ không phải cải tạo thể xác. Bạn không muốn làm điều đó, c̣n nếu bạn muốn th́ bạn ắt đă làm rồi. Bạn tự nhủ: “Xét cho cùng th́ có lẽ điều đó không quan trọng lắm, tôi không có năng khiếu về thần thông, tôi không đủ tiến bộ về phương diện này th́ như thế nào cũng được? Bạn sẽ chẳng bao giờ trở nên tiên tiến nếu bạn không cố gắng sống theo mức cao nhất ở trong tầm với của ḿnh – nếu bạn để cho bản chất dục vọng can thiệp vào sự tiến bộ của ḿnh. Bạn bảo rằng “tôi muốn có được thần nhăn thể vía xiết bao, tôi muốn xuất vía đi chu du xiết bao !”, nhưng đến khi thử thách th́ bạn lại thích có một bữa ăn tối “ngon miệng”. Nếu phần thưởng để từ bỏ món ăn không trong sạch là một triệu bảng Anh vào cuối một năm, th́ những khó khăn đó sẽ biến mất nhanh xiết bao và bạn sẽ t́m ra được cách giữ cho cơ thể vẫn sống mà không cần tới rượu thịt! Nhưng khi người ta chỉ đề nghị kho tàng vô giá của một sinh hoạt cao thượng hơn th́ khó khăn lại không thể vượt qua được. Nếu người ta thật sự muốn điều mà người ta giả vờ tự cho là ḿnh muốn th́ chúng ta đă có những thay đổi nhanh chóng hơn nhiều diễn ra xung quanh chúng ta so với mức chúng ta thấy hiện nay. Nhưng thiên hạ chỉ giả vờ và giả vờ khéo đến nỗi họ tự lừa gạt ḿnh với ư tưởng là họ đang tha thiết. Thế rồi hết kiếp này sang kiếp khác, họ cứ tái đi tái lại cái cách sống thiếu tiến bộ như thế trong cả ngàn năm để rồi một kiếp đặc biệt nào đó họ lại thắc mắc không biết tại sao ḿnh không tiến bộ, c̣n một người nào đó lại tiến bộ nhanh như thế ở kiếp này trong khi ḿnh chẳng tiến bộ ǵ hết. Kẻ thật sự tha thiết – không phải năm th́ mười họa, mà là kiên tŕ đều đặn – đều có thể thực hiện sự tiến bộ mà ḿnh muốn; trong khi kẻ giả vờ th́ vẫn ngựa quen đường cũ trong nhiều kiếp sắp tới.

Ở đây dù sao đi nữa việc tẩy trược cơ thể cũng là để chuẩn bị cho mọi phép thực hành Yoga – chắc chắn là không phải chuẩn bị hết mà chỉ là chuẩn bị phần cốt yếu. Như vậy cũng đủ cho thể xác rồi   , đó là hiện thể thấp nhất         của tâm thức.

 

Thể phách

 

Khoa học vật kư hiện đại chủ trương rằng mọi sự thay đổi của cơ thể - cho dù nơi cơ bắp, tế bào hoặc dây thần kinh – đều có kèm theo tác động điện và có lẽ điều đó cũng đúng ngay cả đối với những sự biến đổi hóa học đang liên tục tiếp diễn. Bằng chứng hùng hồn về điều này đă được tích lũy do việc cẩn thận quan sát bởi những điện kế nhạy nhất. Bất cứ khi nào có tác động điện xảy ra th́ chất dĩ thái phải có mặt sao cho sự có mặt của ḍng điện chính là bằng chứng về sự có mặt của chất dĩ thái, nó lồng vào và bao xung quanh mọi thứ; không một hạt vật chất nào trên cơi trần mà lại tiếp xúc với bất kỳ hạt khác song mỗi hạt đều dao động trong một trường dĩ thái. Nhà khoa học Tây phương khẳng định điều đó là một giả thuyết cần thiết, c̣n người đệ tử lăo luyện của khoa học Đông phương lại khẳng định điều đó là một sự quan sát có thể kiểm chứng được v́ chất dĩ thái quả thật cũng nh́n thấy được giống như một cái ghế hoặc một cái bàn, chỉ có điều cần phải có một thị giác hơi khác với thị giác b́nh thường trên cơi trần. Như ta có nói, chất dĩ thái tồn tại theo bốn biến thể, biến thể tinh vi nhất bao gồm các cực vi tử hồng trần (the ultimate physical atoms) – không phải cái gọi là nguyên tử hóa học, nguyên tử này thực ra là một thể phức hợp – gọi là cực vi tử hồng trần là v́ khi phân ră chúng sẽ cho ta vật chất của cơi trung giới. [Xem Hóa Học Huyền Bí của Annie Besant và C.W.Leadbeater.]

Thể phách bao gồm bốn chất dĩ thái này, chúng lồng vào các thành phần thể đặc, thể lỏng và thể khí của xác phàm, xung quanh mỗi hạt của xác phàm đều có một lớp vỏ bọc bằng chất dĩ thái; do đó thể phách là một bản sao hoàn chỉnh của thể thô trược hơn. Người nào có thị giác lăo luyện đều hoàn toàn thấy được thể phách, nó có màu tím xám, kết cấu của nó thô trược hay tinh vi là tùy theo xác phàm thô trược hay tinh vi. Bốn chất dĩ thái là thành phần cấu tạo nó, cũng giống như chất đặc, chất lỏng và chất khí là thành phần cấu tạo xác phàm, nhưng bốn chất dĩ thái có thể tổ hợp một cách thô trược hoặc tinh vi cũng giống như các thành phần cấu tạo nên xác phàm. Thật quan trọng mà lưu ư rằng xác phàm và thể phách có chất lượng biến thiên cùng với nhau sao cho khi người tầm đạo cố ư hữu thức tẩy trược xác phàm của ḿnh th́ thể phách cũng nương theo đó mà y không hề biết tới và cũng chẳng cần nỗ lực thêm. [Khi dùng thần nhăn của thể vía để quan sát các hạ thể của con người, th́ ta thấy thể phách (Linga Sharīra) và thể vía (Kama rupa) lồng vào nhau cũng giống như cả hai thể  này lại lồng vào xác phàm, v́ thế cho nên trong quá khứ đă có một sự lẫn lộn nào đó; người ta đă dùng các tên gọi Linga Sharīra hoán chuyển được với thể vía, trong khi tên gọi thể vía lại cũng được dùng để chỉ Kama rupa tức thể dục vọng. Thuật ngữ mơ hồ này đă gây ra nhiều rắc rối v́ các chức năng của thể vía tức Kama rupa lại thường được hiểu là chức năng của thể phách cũng được gọi lẫn lộn là thể vía, và người học v́ không tự ḿnh nh́n thấy bằng mắt được nên bị rối rắm một cách tuyệt vọng trong những điều mâu thuẫn biểu kiến như thế. Việc quan sát kỹ lưỡng sự tạo lập của hai thể này giờ đây khiến chúng tôi có thể nói dứt khoát rằng thể phách chỉ bao gồm các chất dĩ thái thuộc cơi hồng trần thôi và nếu nó có xuất ra khỏi xác phàm th́ nó cũng không thể rời được cơi trần và không thể rời xa đối thể thô trược của nó; hơn nữa nó được kiến tạo theo cái khuôn mà các Đấng Nghiệp Quả Tinh Quân đă áp đặt chứ không phải do Chơn ngă mang theo, mà phải chờ cho Chơn ngă cùng với xác phàm được kiến tạo trong cái khuôn đó. Thể vía tức thể dục vọng mặt khác chỉ bao gồm vật chất của cơi trung giới thôi, khi thoát ra khỏi thể vật lư, nó có thể vân du trên cơi trung giới, và là hiện thể thích hợp của Chơn ngă trên cơi đó, nó được Chơn ngă mang theo khi Chơn ngă tái sinh luân hồi. Trong t́nh huống đó tốt hơn là ta nên gọi thể đầu tiên là thể phách c̣n thể thứ nh́ là thể vía để tránh lẫn lộn].

Chính nhờ có thể phách th́ sinh lực, tức Prāna mới chạy dọc theo các dây thần kinh của cơ thể, khiến cho các dây thần kinh đóng vai tṛ truyền dẫn lực vận động và sự nhạy cảm với các tác động bên ngoài. Năng lực tư duy, vận động và cảm giác ở nơi chất liệu thần kinh hoặc chất dĩ thái thuộc cơi trần; đó là hoạt động của Chơn ngă được vận hành trong các thể nội giới và biểu hiện của chúng trên cơi trần là khả hữu do có sinh khí chạy dọc theo các sợi thần kinh và xung quanh các tế bào thần kinh; đó là v́ Prāna, tức sinh khí, là năng lượng hoạt động của Chơn ngă đúng như Shrī Shankaracharya đă dạy. Chức năng của thể phách là được dùng làm phương tiện trên cơi trần cho loại năng lượng này, v́ thế trong kho tài liệu của chúng ta nó thường được gọi là “hiện thể của Prāna”.

Ta nên lưu ư rằng thể phách đặc biệt mẫn cảm với các thành phần cấu tạo dễ bay hơi của rượu.

 

Các hiện tượng liên quan tới Thể vật lư

 

Khi một người “đi ngủ” th́ Chơn ngă thoát ra khỏi thể vật lư, bỏ mặc nó thiu thiu ngủ để phục hồi sức lực cho ngày làm việc sắp tới. Vậy là xác phàm cùng với thể phách bị bỏ mặc cho chúng muốn làm ǵ th́ làm và do ảnh hưởng của những thứ mà chúng ta đă thu hút về ḿnh theo thành phần cấu tạo và những thói quen. Các luồng h́nh tư tưởng xuất phát từ cơi trung giới có bản chất tương thích với những h́nh tư tưởng mà Bản ngă đă tạo ra hoặc ấp ủ trong sinh hoạt hằng ngày, bèn nhập vào rồi lại xuất ra khỏi bộ óc phàm và bộ óc dĩ thái, chúng trộn lẫn với những rung động được lập đi lập lại một cách tự động do Bản ngă đă dựng nên trong ư thức lúc tỉnh táo; kết quả là gây ra những giấc mơ gián đoạn và hỗn loạn mà hầu hết mọi người đều quen thuộc. [Xem các bài viết về “Giấc mơ” trong tạp chí Lucifer số tháng 11 và tháng 12 năm 1895, được xuất bản lại dưới dạng sách nhỏ năm 1898]. Những h́nh ảnh đứt đoạn này mang tính giáo huấn v́ nó cho thấy sự vận hành của thể vật lư khi nó bị bỏ mặc muốn làm ǵ th́ làm; nó chỉ có thể mô phỏng lại những mảnh vụn của các rung động quá khứ mà không có sự cố kết hoặc trật tự hợp lư, nó lắp ráp chúng lại sau khi đă xáo xạo hết lên mặc dù chúng có vẻ đầu voi đuôi chuột một cách nực cười đến đâu đi chăng nữa; nó chẳng có ư thức ǵ về sự phi lư hoặc bất hợp lư mà bằng ḷng với một sự huyễn hoặc những h́nh dáng và màu sắc thiên biến vạn hóa thậm chí cũng chẳng có sự đều đặn như trong kính vạn hoa. Khi nhận định theo chiều hướng này th́ ta mới dễ dàng công nhận bộ óc của thể xác và thể phách chỉ là các công cụ của tư tưởng chứ không sáng tạo ra tư tưởng, v́ khi bị bỏ mặc cho muốn làm ǵ th́ làm, tạo vật của chúng có vẻ lập dị đối với ta biết dường nào.

Khi ta ngủ, Chơn ngă biết suy tư thoát ra khỏi hai thể này hoặc nói cho đúng hơn là một thể duy nhất với các bộ phận hữu h́nh và vô h́nh, Chơn ngă bỏ mặc chúng lại với nhau; c̣n khi ta chết, Chơn ngă cũng thoát ra lần chót nhưng lần này có khác là nó kéo theo thể phách và tách rời thể phách ra khỏi đối thể thô trược; như vậy khiến cho sinh khí không c̣n có thể tác động lên xác phàm trên cương vị là một tổng thể có tổ chức. Chơn ngă cũng nhanh chóng rũ bỏ thể phách; như chúng ta thấy thể phách không thể chuyển lên được cơi trung giới và bị bỏ mặc cho tan ră cùng với đối tác mà nó đă từng ăn đời ở kiếp. Đôi khi nó cũng xuất hiện ngay sau khi chết cho những người bạn ở không xa lắm nơi xác chết đang nằm; nhưng dĩ nhiên là nó rất ít ư thức, chẳng nói năng hoặc làm được tṛ trống ǵ ngoại trừ việc “hiện h́nh” ra. V́ thuộc về cơi trần nên nó cũng tương đối dễ thấy và hệ thần kinh chỉ căng thẳng một chút th́ cũng đủ để cho thị giác bén nhạy nhận ra được nó. Nó cũng chịu trách nhiệm về nhiều thứ “ma trơi” ngoài nghĩa địa khi nó lởn vởn bên trên ngôi mộ mà đối thể thô trược của nó đang nằm trong đó, v́ những lư do vừa nêu ta thấy nó dễ dàng hơn thể vía. Như vậy ngay cả “khi chết chúng cũng không rời xa nhau” nhiều hơn một vài bộ (feet= 0,3048cm) trong không gian.

Đối với người b́nh thường th́ sự chia tay này chỉ xảy ra vào lúc chết, nhưng có một số người bất b́nh thường thuộc loại được gọi là đồng cốt th́ ngay trong buổi sinh thời thể vật lư cũng phần nào tách đôi ra, đây là một điều bất b́nh thường nguy hiểm và may mắn là tương đối hiếm có, nó sinh ra rất nhiều sự xáo trộn và căng thẳng thần kinh. Khi thể phách xuất ra th́ chính thể phách bị xé toạc làm đôi; trọn cả thể phách không thể tách rời khỏi xác phàm mà không khiến cho xác phàm phải chết, v́ các ḍng sinh khí cần có thể phách th́ mới tuần hoàn được. Ngay cả khi nó chỉ xuất ra có một phần th́ xác phàm cũng lâm vào t́nh trạng hôn thụy, các hoạt động có tầm quan trọng sống c̣n hầu như bị tạm đ́nh chỉ, khi các bộ phận bị tách rời hợp nhất trở lại th́ hậu quả là cực kỳ kiệt quệ và t́nh trạng của người đồng cốt cho tới khi đă tái lập được sự hợp nhất b́nh thường là t́nh trạng vô cùng nguy hiểm cho thể xác. Phần lớn những hiện tượng xảy ra khi có mặt người đồng cốt không liên quan tới việc thể phách bị xuất ra, nhưng một số người có đặc điểm với tính cách nổi bật là hiện h́nh được do họ đă tham dự trợ giúp tạo ra hiện tượng đó th́ đưa ra đặc tính này để ta quan sát. Tôi được biết rằng ông Eglinton đă phô diễn được sự tách rời vật lư kỳ diệu này đến một mức hiếm hoi, ta có thể thấy thể phách của ông rịn ra khỏi sườn bên trái trong khi xác phàm của ông co rút lại đáng kể; ta cũng quan sát thấy hiện tượng giống như thế nơi ông Husk, xác phàm của ông bị teo tóp lại đến nỗi quần áo của ông mặc trở nên rộng thùng th́nh. Có một lần thể xác của ông Eglinton bị giảm kích thước nhiều đến nỗi một h́nh dáng hiện ra để cho những người lên đồng thấy được: đây là một trong những trường hợp hiếm có mà cả người đồng cốt lẫn h́nh dáng hiện ra đều thấy được dưới ánh sáng đủ để cho người ta khảo sát. Sự co rút lại của người đồng cốt dường như hàm ư nó đă lấy bớt đi ra khỏi thể xác một lượng vật chất thô trược nào đó “có thể cân đong đo đếm được” – rất có thể là bộ phận cấu tạo nên chất lỏng – nhưng theo chỗ tôi biết th́ chưa có một sự quan sát nào được thực hiện về vấn đề này, do đó ta không thể nói chắc chắn được. Điều chắc chắn là thể phách xuất ra một phần gây nên nhiều xáo trộn về thần kinh, cho nên bất cứ người nào có lư trí cũng không nên thực hành điều đó nếu y phát hiện ra rằng ḿnh thật không may mà có thể làm được chuyện này.

Giờ đây chúng ta đă nghiên cứu thể vật lư cả về bộ phận thô trược lẫn bộ phận dĩ thái, đó là lớp áo mà Chơn ngă phải khoác lấy để làm việc trên cơi trần, là chỗ trú sẽ có thể là nơi làm việc tiện lợi để hoạt động trên cơi trần; hoặc là cái nhà tù mà chỉ có sự chết mới nắm ch́a khóa mở ra được. Chúng ta có thể thấy ḿnh nên làm ǵ và dần dần có thể làm được ǵ: một cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh và lực lưỡng đồng thời lại có tổ chức tinh vi, tế nhị và nhạy cảm. Nó phải khỏe mạnh - ở phương Đông người ta nhấn mạnh tới sức khỏe là điều kiện để làm đệ tử - v́ mọi thứ khiến cho cơ thể không khỏe mạnh đều làm phương hại cho nó với vai tṛ là công cụ của Chơn ngă, và có khuynh hướng xuyên tạc cả những ấn tượng được truyền vào trong lẫn những sức thôi thúc được phóng ra bên ngoài. Hoạt động của Chơn ngă bị cản trở nếu công cụ bị căng thẳng hoặc bị sức khỏe kém làm cho nó méo mó. Vậy th́ nó phải là một cơ thể khỏe mạnh, được tổ chức tinh vi, tế nhị, nhạy cảm, tự động đẩy ra mọi ảnh hưởng tà vạy, tự động tiếp thu mọi ảnh hưởng tốt đẹp; chúng ta nên cố t́nh xây dựng nó bằng cách chọn lựa trong số mọi thứ xung quanh ta những thứ nào có xu hướng đưa tới cứu cánh đó, v́ biết rằng ta chỉ hoàn tất nhiệm vụ đó dần dần nhưng ta vẫn làm việc một cách kiên nhẫn và kiên định với mục tiêu ấy. Chúng ta sẽ biết khi nào th́ ḿnh bắt đầu thành công ngay cả ở mức độ rất giới hạn v́ chúng ta sẽ thấy mở ra cho ḿnh đủ loại khả năng nhận thức mà trước đó ta không hề có. Ta sẽ thấy ḿnh trở nên nhạy cảm hơn với những âm thanh và cảnh vật, bén nhạy hơn với những hài âm phong phú du dương và trọn vẹn hơn, bén nhạy hơn với những sắc thái phơn phớt đẹp đẽ và dễ thương hơn. Cũng giống như người họa sĩ rèn luyện mắt ḿnh để thấy được những điểm tế nhị về màu sắc mà mắt thường không thấy được; cũng giống như người nhạc sĩ rèn luyện tai ḿnh để nghe được những giọng cao của các nốt nhạc mà tai thường không nghe được; cũng vậy chúng ta có thể rèn luyện các hạ thể của ḿnh để tiếp nhận những rung động tinh vi hơn trong cuộc sống mà người thường bỏ qua. Quả thật là sẽ có nhiều cảm giác khó chịu v́ thế giới mà chúng ta đang sống trong đó bị loài người sống nơi đây làm cho thô trược và thô thiển; nhưng mặt khác các vẻ đẹp sẽ bộc  lộ ra đền đáp lại cho chúng ta gấp cả trăm lần những khó khăn mà chúng ta phải đương đầu và khắc phục. Hơn nữa, chúng ta đâu phải sở hữu những hạ thể đó v́ mục đích ích kỷ hoặc v́ hiếu danh hay muốn hưởng thụ mà v́ chúng ta sử dụng chúng để hữu dụng nhiều hơn hầu có thêm sức mạnh phụng sự. Chúng sẽ là những công cụ hữu hiệu hơn để trợ giúp cho sự tiến bộ của loài người, và như thế thích hợp hơn để góp phần vào nhiệm vụ thúc đẩy sự tiến hóa của loài người vốn là công tác của các Chơn sư cao cả mà chúng ta có thể có đặc quyền cộng tác vào.

Mặc dù suốt phần này trong đề tài của chúng ta, chúng ta chỉ mới ở trên cơi trần nhưng chúng ta cũng có thể thấy rằng việc nghiên cứu nó đâu phải là không quan trọng và hiện thể tâm thức thấp nhất của chúng ta cần được chúng ta chú ư và sẽ đền đáp cho sự chăm sóc của chúng ta. Những đô thị này của chúng ta, vùng đất này của chúng ta sẽ sạch sẽ hơn, đẹp hơn, tốt hơn khi tri thức này trở thành sự hiểu biết thông thường và khi người ta chấp nhận nó chẳng những là có lẽ đúng với cái trí mà c̣n là một định luật của sinh hoạt hằng ngày.
 


 lời đầu  đầu sách cuối sách  xác  vía  trí   hiện thể khác  hào quang  chơn nhơn  mục lục


THỂ VÍA TỨC THỂ DỤC VỌNG

 

Chúng ta đă nghiên cứu thể vật lư của con người cả ở bộ phận hữu h́nh lẫn bộ phận vô h́nh, và chúng ta hiểu được rằng con người – thực thể hữu thức sống động – trong ư thức “tỉnh táo” sinh hoạt trên cơi trần, chỉ có thể biểu lộ tri thức và phô trương quyền năng theo mức mà ḿnh có thể biểu hiện được thông qua thể xác. Tùy theo sự hoàn hảo hoặc bất toàn trong việc phát triển nó mà biểu hiện của y trên cơi trần sẽ hoàn hảo hoặc bất toàn. Nó hạn chế y trong khi y hoạt động nơi hạ giới, tạo thành “một ṿng giới hạn” thật sự xung quanh y. Điều ǵ không thể đi qua nó th́ cũng không thể biểu lộ trên trần thế v́ vậy nó rất quan trọng đối với con người đang phát triển. Cũng giống như thế, khi con người đang hoạt động mà không có thể xác trong một cơi khác của vũ trụ, tức cơi trung giới th́ y có thể biểu hiện trên cơi đó tri thức và quyền năng của ḿnh (tóm lại là biểu hiện bản thân ḿnh) theo mức độ mà thể vía khiến cho y có thể phô bày ra được. Nó vừa là hiện thể của y lại vừa là hạn chế y. Chơn nhơn vốn nhiều hơn mức các hạ thể của ḿnh, nó có nhiều điều mà nó không thể biểu lộ hoặc là trên cơi trần hoặc là trên cơi trung giới; nhưng nó chỉ có thể biểu hiện nhiều đến mức được gọi là chơn nhơn ở cơi đặc thù đó của vũ trụ. Điều mà nó có thể bị hạn chế phơi bày dưới đây bởi thể xác, điều mà nó có thể cũng bị hạn chế phô trương ra trong cơi trung giới bởi thể vía; do đó khi ta vươn lên cao nghiên cứu về các cơi cao hơn th́ ta ắt thấy rằng con người càng ngày càng có thể biểu hiện bản thân ra khi chính y đă phát triển trong cơ tiến hóa và cũng dần dần đưa các hiện thể tâm thức đến mức hoàn hảo càng ngày càng cao hơn.

Khi chúng ta nhập vào những địa hạt tương đối chưa ai bước tới và đa số đều không biết đến th́ tốt hơn ta nên nhắc cho độc giả nhớ rằng ở đây không ai dám khẳng định có được sự hiểu biết không thể sai lầm hoặc khả năng quan sát hoàn hảo. Những sai lầm về quan sát và suy diễn có thể xảy ra trên các cơi cao hơn cơi trần cũng như xảy ra ngay trên cơi trần và ta nên hoàn toàn nhớ kỹ khả năng này. Khi sự hiểu biết tăng lên do đă được rèn luyện lâu dài th́ ta sẽ đạt được sự chính xác nhiều hơn và những sai lầm như thế sẽ dần dần bị loại bỏ. Nhưng v́ tác giả cũng chỉ là một học viên cho nên cũng rất có thể sẽ phạm phải những lỗi lầm và cần phải được hiệu đính trong tương lai. Chúng có thể len lỏi vào những vấn đề chi tiết nhưng sẽ không đụng chạm tới vấn đề nguyên tắc chung và cũng không làm phương hại tới những kết luận chính yếu.

Trước hết ta nên hiểu rơ cụm từ cơi trung giới tức cơi tinh tú. Cơi trung giới là một cơi xác định trong vũ trụ, bao xung quanh và lồng vào cơi trần, nhưng sự quan sát b́nh thường của chúng ta không nhận thức được nó v́ nó bao gồm một cấp vật chất khác. Nếu ta lấy cực vi tử hồng trần rồi phân ră nó ra th́ nó sẽ bị biến mất xét theo quan điểm của cơi trần; nhưng ta lại thấy nó bao gồm nhiều hạt thuộc loại thô trược nhất của vật chất trung giới tức là chất đặc của cơi tinh tú (the astral world). [Thuật ngữ “tinh tú” ở đây không hay lắm nhưng người ta đă dùng nó trong biết bao nhiêu thế kỷ để biểu thị loại vật chất siêu vật lư cho nên bây giờ rất khó mà trục xuất nó đi đâu được. Có lẽ thoạt tiên các quan sát viên đă chọn dùng cụm từ này do vật chất cơi trung giới có vẻ chiếu sáng so với vật chất cơi trần. Về trọn cả đề tài này, tôi khuyên học viên nên đọc quyển Cẩm nang số 5, “Cơi Trung Giới” của tác giả C. W. Leadbeater]. Chúng ta đă thấy có bảy phân trạng thái của vật chất cơi trần – chất đặc, chất lỏng, chất khí và bốn chất dĩ thái – vô số tổ hợp tạo thành cơi hồng trần đều được phân loại thành bảy phân trạng thái này. Cũng giống như thế chúng ta có bảy phân trạng thái của vật chất trung giới tương ứng với cơi trần và ta cũng có thể phân loại vô số tổ hợp cũng tạo thành cơi trung giới theo bảy phân trạng thái này. Mọi nguyên tử của cơi trần đều có những vỏ bọc bằng chất trung giới, vậy là chất trung giới tạo thành cái mà ta có thể gọi là cái khuôn của chất hồng trần, chất hồng trần bị nhúng ch́m bồng bềnh trong chất trung giới. Chất trung giới được dùng làm một hiện thể cho Jīva (Sự Sống Nhất Như làm linh hoạt vạn vật) và nhờ có chất trung giới th́ các ḍng Jīva bao xung quanh, trưởng dưỡng và nuôi dưỡng mọi hạt chất hồng trần; các ḍng của Jīva chẳng những làm sinh ra cái được gọi một cách b́nh dân là sinh lực mà c̣n làm sinh ra mọi năng lượng điện, năng lượng từ, năng lượng hóa học và các năng lượng khác, sự hấp dẫn, sự cố kết, sự đẩy và mọi thứ giống như thế đều là sự biến dị của Sự Sống Nhất Như mà vũ trụ bơi lượn trong đó giống như cá bơi dưới biển. Xuất phát từ cơi trung giới vốn lồng vào chặt chẽ đối với cơi hồng trần, Jīva chuyển sang chất dĩ thái của cơi hồng trần, thế rồi nó trở thành hiện thể của mọi thứ lực nêu trên đối với các phân trạng thái thấp của vật chất hồng trần và chúng ta quan sát thấy tác động của chúng chỉ trong chất hồng trần thôi. Nếu chúng ta tưởng tượng cơi hồng trần không c̣n tồn tại nữa, ngoài ra không có chuyện ǵ khác thay đổi th́ chúng ta vẫn c̣n có một bản sao hoàn chỉnh của nó trong chất trung giới; và nếu chúng ta tưởng tượng thêm nữa là mọi người đều đươc phú cho năng lực hoạt động trong chất trung giới th́ thoạt tiên những người nam nữ đó sẽ không có ư thức ǵ về sự khác nhau của môi trường xung quanh ḿnh; những người “chết” mà thức tỉnh ở các cảnh giới thấp của cơi trung giới thường thấy ḿnh ở trạng thái giống như thế cho nên cứ tưởng rằng ḿnh vẫn c̣n sống trên cơi hồng trần. V́ hầu hết chúng ta đều chưa phát triển được thần nhăn trung giới cho nên cần phải áp đặt thực tại tương đối của cơi trung giới, coi đó là một phần của vũ trụ hiện tượng và ta quan sát nó bằng mắt của cái trí nếu không quan sát được bằng thần nhăn trung giới. Nó cũng có thật như cơi hồng trần – thật ra nó c̣n có thật hơn nữa v́ không cách xa Thực Tại Nhất Như bằng cơi hồng trần – các hiện tượng của nó vẫn bỏ ngơ để cho người am tường quan sát chẳng khác nào các hiện tượng thuộc cơi trần. Cũng giống như ở dưới đây, một người mù không thể thấy được các vật trên cơi trần và biết bao nhiêu vật chỉ có thể quan sát được nhờ vào các dụng cụ chẳng hạn như kính hiển vi, phổ kế v.v. . ., cơi trung giới cũng giống như thế. Những người mù đối với cơi trung giới tuyệt nhiên không thể thấy được các vật thuộc cơi trung giới, và thần nhăn b́nh thường của cơi trung giới cũng không thấy được nhiều sự vật. Nhưng ở giai đoạn tiến hóa hiện nay, nhiều người đă có thể phát triển được các giác quan của thể vía và phát triển được đến một mức nào đó khiến cho họ có thể tiếp nhận được các rung động tinh vi của cơi trung giới. Quả thật là những người ấy đều có thể phạm phải nhiều lầm lỗi giống như một đứa trẻ con phạm sai lầm khi nó bắt đầu sử dụng các giác quan cùa thể xác; nhưng khi có kinh nghiệm nhiều hơn th́ họ sẽ hiệu chỉnh được các sai lầm đó và chỉ sau một thời gian th́ họ có thể trông thấy và nghe thấy trên cơi trung giới cũng chính xác như trông thấy và nghe thấy trên cơi hồng trần. Ta không nên cưỡng ép sự phát triển này bằng những phương tiện nhân tạo v́ chừng nào ta chưa phát triển được một mức nghị lực thể chất nào đó th́ ta cũng chưa có thể điều khiển được cơi hồng trần một cách thuận lợi; do đó sự xâm nhập các cảnh vật và âm thanh cũng như các hiện tượng nói chung thuộc cơi trung giới chỉ gây ra xáo trộn thậm chí c̣n đáng báo động nữa. Nhưng đă đến lúc đạt tới tŕnh độ này để cho ư thức tỉnh táo phải tin vào thực tại tương đối của bộ phận trung giới thuộc cơi vô h́nh.

Muốn làm như thế th́ chẳng những chúng ta cần có một thể vía (chúng ta ai lại không có một thể vía) mà chúng ta c̣n phải khiến cho nó được tổ chức trọn vẹn theo thứ tự hoạt động, tâm thức phải quen thuộc với việc hoạt động trong đó chứ không chỉ hoạt động trong đó thông qua thể xác. Mọi người đều thường xuyên hoạt động qua thể vía nhưng tương đối có ít người hoạt động trong thể vía khi nó tách rời khỏi thể xác. Nếu không có tác động nói chung thông qua thể vía th́ giữa ngoại giới với cái trí của con người không thể có mối liên hệ nào giữa những ấn tượng tác động lên giác quan của thể xác và nhận thức của cái trí cũng không có mối liên hệ nào. Tác động lên giác quan thể xác trở thành một cảm giác nơi thể vía thế rồi nó mới được cái trí nhận thức. Thể vía (trong đó có các trung tâm cảm giác) thường được gọi là con người dục vọng, cũng như chúng ta có thể gọi thể xác là con người hồng trần; nhưng cố nhiên nó chỉ là một hiện thể - một lớp vỏ theo cách gọi của môn đồ phái Vedanta – trong đó chính chơn nhơn hoạt động, ta chỉ đạt tới được chơn nhơn thông qua hiện thể ấy và chơn nhơn cũng đạt tới thể xác tức hiện thể thô trược thông qua thể vía.

C̣n về phần cấu tạo của thể vía th́ nó bao gồm bảy phân trạng thái của chất trung giới, và có thể rút ra những vật liệu thô trược hoặc tinh vi từ mỗi một phân trạng thái đó. Ta cũng dễ phác họa một con người ở trong một thể vía hoàn chỉnh; bạn có thể h́nh dung là y đă bỏ mất thể xác để đứng trong một bản sao tinh vi hơn và sáng rỡ của nó trông giống như thể xác đối với thần nhăn trung giới mặc dù vô h́nh đối với thị giác b́nh thường. Tôi có nói là “thể vía hoàn chỉnh” bởi v́ một người chậm phát triển th́ thể vía của y phô bày ra một dáng vẻ rất sơ khai. Các đường nét của nó không xác định, vật liệu của nó tŕ độn và được sắp xếp lung tung, nếu bị xuất ra khỏi thể xác th́ nó chỉ là một đám mây không có h́nh dáng tản mác tứ tung, rơ ràng là không thích hợp để đóng vai tṛ là một hiện thể độc lập; nói thật ra th́ nó trông giống như một mảnh vật chất trung giới hơn là một thể vía có tổ chức – giống như một khối nguyên sinh chất trung giới thuộc loại giống như con a míp. Một thể vía hoàn chỉnh có nghĩa là người ta đă đạt được một tŕnh độ văn hóa trí thức khá cao hoặc tăng trưởng tâm linh cao khiến cho dáng vẻ của thể vía mang ư nghĩa sự tiến bộ của chủ nhơn ông; v́ đường nét của nó trông xác định, vật liệu của nó sáng lạn, tổ chức của nó hoàn hảo cho nên người ta có thể thẩm định được tŕnh độ tiến hóa mà Chơn ngă đang sử dụng nó đă đạt được.

Xét về vấn đề cải thiện nó – một vấn đề quan trọng đối với tất cả mọi chúng ta – phải nhớ rằng sự cải thiện thể vía một mặt xoay quanh việc tẩy trược thể vật lư, mặt khác xoay quanh việc tẩy trược và phát triển thể trí. Thể vía đặc biệt nhạy cảm với những ấn tượng của tư tưởng v́ chất trung giới đáp ứng nhanh nhẹn hơn chất hồng trần đối với mọi xung lực xuất phát từ cơi trí tuệ. Chẳng hạn như nếu chúng ta quan sát cơi trung giới th́ chúng ta thấy nó có đầy những h́nh dáng liên tục biến đổi; chúng ta thấy ở đó có các “h́nh tư tưởng” – những h́nh tướng bao gồm chất tinh hoa ngũ hành (elemental essence) và được tư tưởng làm cho linh hoạt – và chúng ta cũng lưu ư thấy có những kết khối rất lớn chất tinh hoa ngũ hành này từ đó các h́nh tướng liên tục xuất lộ rồi chúng lại biến mất vào trong khối tinh hoa ngũ hành đó; khi quan sát kỹ lưỡng chúng ta có thể thấy rằng các ḍng tư tưởng làm kích động chất trung giới này, những tư tưởng mạnh mẽ khoác lấy một lớp vỏ bằng chất trung giới và cứ kiên tŕ trong đó với vai tṛ một thực thể trong một thời gian dài; c̣n những tư tưởng yếu ớt chỉ khoác lấy một lớp vỏ mảnh mai rồi lại ngă nghiêng thoát ra khỏi lớp vỏ đó khiến cho mọi thứ trên cơi trung giới cứ thay đổi luôn theo sự tiếp diễn của các xung lực tư tưởng. Thể vía của con người vốn được cấu tạo bằng chất trung giới cho nên cũng chia xẻ tính chất sẵn sàng đáp ứng với tác động của tư tưởng và bị kích động để hưởng ứng với mọi tư tưởng tác dụng lên nó, cho dù tư tưởng đó xuất phát từ bên ngoài do cái trí của những người khác hoặc xuất phát từ bên trong do cái trí của chủ nhơn ông.

Chúng ta hăy nghiên cứu thể vía chịu tác động từ bên trong cũng như bên ngoài. Chúng ta thấy thể vía thấm nhuần thể xác và ló ra bao xung quanh nó ở mọi hướng giống như một đám mây có màu sắc. Màu sắc thay đổi tùy theo bản chất của con người, nhất là bản chất thấp hèn đam mê đầy thú tính của y, và bộ phận ló ra bên ngoài thể xác được gọi là hào quang thể vía (the kāmic aura) v́ nó thuộc về thể dục vọng mà ta thường quen gọi là thể vía (the astral body) của con người. [Việc tách rời “hào quang” khỏi con người dường như thể đó là một điều ǵ khác với bản thân y dễ gây hiểu lầm, mặc dù xét theo quan điểm của việc quan sát th́ điều này rất tự nhiên. Theo ngôn ngữ thông thường th́ “hào quang” là đám mây bao xung quanh thể xác; thật vậy con người sống trên nhiều cơi khác nhau trong những lớp áo thích hợp với mỗi cơi, và tất cả các lớp áo hoặc hạ thể này đều lồng vào nhau; lớp áo thấp nhất và nhỏ nhất được gọi là “thể xác”, c̣n khối vật chất hỗn hợp của các lớp áo khác được gọi là hào quang khi chúng ló ra bên ngoài thể xác. Vậy th́ hào quang thể vía chẳng qua chỉ là một bộ phận của thể vía ló ra bên ngoài thể xác]. Đó là v́ thể vía vốn là hiện thể tâm thức của con người, là chỗ trú của mọi dục vọng và đam mê đầy thú tính, như ta đă nói đó cũng là trung tâm của các giác quan làm xuất hiện mọi cảm giác. Nó không ngừng thay đổi màu sắc khi nó rung động do tác động của tư tưởng; nếu một người mất b́nh tĩnh, cáu kỉnh th́ các tia chớp lóe màu đỏ thẫm sẽ hiện ra; nếu y cảm thấy yêu thương th́ màu đỏ hường sẽ kích động xuyên qua thể vía. Nếu tư tưởng của con người cao siêu và cao cả th́ nó đ̣i hỏi sự hưởng ứng của vật chất trung giới tinh vi hơn và chúng ta truy nguyên thấy tác động này đối với thể vía qua việc nó bị mất bớt những hạt thô trược hơn của mỗi cảnh giới và thu thêm được các hạt thuộc loại tinh vi hơn. Thể vía của một người có tư tưởng thấp hèn đầy thú tính th́ thô kệch, thô thiển và thô trược, có màu sẫm – thường thường th́ nó thô kệch đến nỗi chính đường nét của thể xác hầu như cũng bị ch́m khuất trong nó – trong khi đó thể vía của một người tiên tiến lại đẹp đẽ, trong trẻo, sáng rỡ và có màu sắc dịu nhạt – là một vật thật sự đẹp đẽ. Trong trường hợp đó người ta đă chế ngự được các đam mê thấp hèn và tác động tuyển lựa của cái trí đă tẩy trược cho vật chất trung giới. Vậy là bằng cách suy nghĩ cao thượng, chúng ta tẩy trược được thể vía thậm chí chúng ta không hề hoạt động một cách cố ư hướng về cứu cánh đó. Và nên nhớ rằng hoạt động nội tâm này có một ảnh hưởng mănh liệt đối với những tư tưởng bị thu hút vào thể vía từ bên ngoài; một thể vía mà chủ nhơn ông quen đáp ứng với những tư tưởng tà vạy đóng vai tṛ một nam châm thu hút những h́nh tư tưởng giống như thế ở xung quanh, c̣n một thể vía thanh khiết tác dụng một năng lượng đẩy lui những tư tưởng tà vạy và thu hút về ḿnh những h́nh tư tưởng bao gồm vật chất đồng khi tương cầu với nó.

Như ta có nói trên kia, thể vía một mặt c̣n xoay quanh thể xác và chịu ảnh hưởng do sự thanh khiết hoặc ô trược của thể xác. Chúng ta đă thấy rằng các chất đặc, chất lỏng, chất khí và chất dĩ thái cấu tạo nên thể xác có thể là thô trược hoặc tinh vi, thô thiển hoặc thanh bai. Đến lượt bản chất của chúng lại ảnh hưởng tới bản chất của các lớp vỏ tương ứng bằng chất trung giới. Nếu v́ thiếu khôn ngoan và buông tuồng đối với thể xác mà chúng ta xây dựng vào trong các hạ thể của ḿnh những hạt chất rắn thuộc loại ô trược th́ chúng ta cũng thu hút về ḿnh cái loại vật chất trung giới ô uế tương ứng mà chúng ta gọi là chất đặc của trung giới. C̣n mặt khác, khi chúng ta kiến tạo vào trong hạ thể những hạt chất đặc thuộc loại thanh khiết hơn th́ chúng ta cũng thu hút loại vật chất tương ứng thanh khiết hơn của chất đặc trung giới. Khi ta tiến hành việc tẩy trược thể xác bằng cách cấp dưỡng cho nó đồ ăn thức uống trong sạch, loại ra khỏi chế độ ăn uống của ḿnh các loại thực phẩm gây ô nhiễm – máu động vật, rượu và những thứ khác vốn dơ dáy và gây thoái hóa – chúng ta chẳng những cải thiện được hiện thể tâm thức hồng trần của ḿnh mà chúng ta cũng c̣n bắt đầu tẩy trược được thể vía và rút ra được từ cơi trung giới những vật liệu thanh bai và tinh vi hơn để kiến tạo thể vía. Hậu quả của việc này chẳng những quan trọng xét về kiếp sống hiện nay trên trần thế mà sau này chúng ta sẽ thấy nó cũng c̣n có ảnh hưởng rơ rệt tới t́nh trạng ngay sau khi chết, tới việc tạm trú nơi cơi trung giới cũng như tới các loại hiện thể mà chúng ta sẽ có trong kiếp tới trên trần thế.

Chẳng phải chỉ có thế mà thôi đâu: cái loại thực phẩm tồi tệ c̣n thu hút về thể vía các thực thể thuộc một loại đầy ác ư của cơi trung giới, v́ chúng ta đâu chỉ dính dáng tới chất trung giới mà c̣n phải giao tiếp với cái gọi là tinh linh ngũ hành của cơi trung giới. Đây là những thực thể thuộc loại cao siêu và thấp hèn vốn tồn tại trên cơi này do tư tưởng của con người sinh ra; trên cơi trung giới cũng c̣n có những người mất nết bị giam hăm trong thể vía của ḿnh mà ta gọi là các âm ma (elementaries). Các tinh linh ngũ hành bị thu hút về phía những người có thể vía đồng khi tương cầu với chúng, c̣n các âm ma tự nhiên là đi kiếm những người sa đà vào các thói xấu giống như họ đă từng hăm hở theo kiểu con thiêu thân lao vào ánh đèn trong khi c̣n đang mang xác phàm. Khi tản bộ dọc theo những đường phố ở Luân đôn, bất cứ người nào có thần nhăn trung giới đều trông thấy các tập đoàn tinh linh ngũ hành ghê tởm bu xung quanh các cửa hàng bán thịt; c̣n các âm ma lại đặc biệt tu tập ở các quán bán bia và những bar bán rượu mạnh, chúng phè phỡn trong những trược khi bốc ra từ hơi men rượu và chỉ chờ cơ hội là nhập vào xác của chính những bợm nhậu đó. Các âm ma bị thu hút bởi những người kiến tạo cơ thể ḿnh từ các vật liệu như thế, và một phần sinh hoạt trên cơi trung giới của âm ma có môi trường xung quanh bao gồm những người ấy. Khi chúng ta càng tẩy trược thể xác bao nhiêu th́ mỗi giai đoạn đó lại càng tương ứng bấy nhiêu với các giai đoạn tẩy trược vật chất của thể vía trên cơi trung giới.

Thế mà dĩ nhiên là các khả năng của thể vía tùy thuộc phần lớn vào bản chất của các vật liệu mà chúng ta kiến tạo vào trong thể vía; nhờ vào quá tŕnh tẩy trược, chúng ta khiến cho các thể này càng ngày càng tinh vi hơn, chúng không c̣n rung động hưởng ứng với những sự thôi thúc thấp hèn và bắt đầu đáp ứng với những ảnh hưởng cao siêu của cơi trung giới. Vậy là chúng ta đang tạo ra một công cụ mặc dù do chính bản chất của nó vốn nhạy cảm với những ảnh hưởng xuất phát từ bên ngoài nhưng lại dần dần mất đi khả năng đáp ứng với những rung động thấp và tiếp thu được khả năng hưởng ứng với những rung động cao; nhạc cụ này đă được tinh chỉnh để chỉ rung động với các nốt nhạc cao thôi. Cũng giống như chúng ta có thể lấy một dây đàn tạo ra một rung động đồng cảm bằng cách chọn đường kính, chiều dài và sức căng của dây đàn nhắm vào mục đích đó; cũng vậy chúng ta cũng có thể tinh chỉnh thể vía để phát ra những rung động đồng cảm khi có những hài âm cao quí trổi lên ở thế giới xung quanh chúng ta. Đây không chỉ là vấn đề suy đoán hoặc lư thuyết mà là vấn đề sự thực khoa học. Cũng như trên cơi trần chúng ta tinh chỉnh được sợi dây đàn, cũng vậy trên cơi trung giới, chúng ta có thể tinh chỉnh dây đàn của thể vía; luật nhân quả ở cơi đó cũng có giá trị như ở cơi này, chúng ta cầu viện tới định luật, chúng ta tị nạn nơi định luật và chúng ta trông cậy vào định luật. Chúng ta chỉ cần có hiểu biết rồi ứng dụng sự hiểu biết đó để thực hành. Trước hết ta có thể coi sự hiểu biết này chỉ là một giả thuyết phù hợp với những sự kiện mà ta đă biết nơi hạ giới và nếu muốn ta có thể thực nghiệm; sau này khi ta đă tẩy trược được thể vía th́ giả thuyết sẽ biến thành sự hiểu biết; đó là vấn đề mà ta tự thân quan sát được sao cho ta có thể  kiểm chứng lại những lư thuyết mà thoạt đầu ta chỉ chấp nhận là giả thuyết để kiểm chứng.

Vậy th́ khả năng của chúng ta nhằm làm chủ được cơi trung giới và thật sự phục vụ được trên đó trước hết tùy thuộc vào quá tŕnh tẩy trược này. Có những phương pháp nhất định của khoa Yoga giúp ta phát triển được các giác quan của thể vía một cách lành mạnh và hợp lư, nhưng ta tuyệt nhiên không được cố gắng dạy dỗ những phương pháp này cho bất cứ ai chưa dùng tới những phương tiện tẩy trược đơn giản vỡ ḷng. Có một kinh nghiệm phổ biến là thiên hạ rất háo hức muốn thử một phương pháp mới mẻ và bất thường nào đó để tiến bộ, nhưng thật uổng công khi dạy Yoga cho những người nào thậm chí chưa thực hành những giai đoạn chuẩn bị này trong sinh hoạt đời thường. Giả sử người ta bắt đầu dạy một dạng Yoga rất đơn giản nào đó cho một người thường chưa được chuẩn bị. Y sẽ tha thiết và nhiệt t́nh tiếp nhận nó v́ nó mới mẻ và khác thường, và v́ y hi vọng có được những kết quả rất nhanh. Thế nhưng trước khi y thực hành khoa này thậm chí chỉ được một năm thôi th́ y đă cảm thấy mệt mỏi với cái sự căng thẳng đều đặn của nó trong sinh hoạt hằng ngày và nản chí v́ không thấy có hiệu quả ngay tức khắc; v́ không quen với nỗ lực kiên tŕ được kiên định từ ngày này sang ngày khác cho nên y sẽ thất bại và bỏ dở việc thực hành, cái điều mới mẻ nay đă trở nên cũ rích, thế là chẳng bao lâu sau sự mệt mỏi lại nổi bật lên. Nếu người ta không thể hoặc ắt không thể hoàn thành được cái nhiệm vụ đơn giản và tương đối dễ dàng tức là tẩy trược thể xác và thể vía bằng cách dùng tới một sự quên ḿnh tạm thời để phá vỡ sự câu thúc của những thói quen xấu trong việc ăn uống, th́ y thật là hoài công khi khao khát những quá tŕnh khó khăn hơn vốn hấp dẫn y do chúng có vẻ mới lạ, và chẳng bao lâu sau y sẽ bỏ dở coi đó là một gánh nặng không thể chịu nổi. Nói tới vịêc áp dụng những phương pháp đặc biệt th́ cũng chỉ hoài công thôi chừng nào ta chưa thực hành những phương tiện thông thường thấp kém này trong một thời gian nào đó; nhưng khi ta đă tẩy trược th́ những khả năng mới ắt bắt đầu bộc lộ ra. Học viên sẽ thấy tri thức dần dần tuôn vào, tầm nh́n sâu sắc hơn sẽ dần dần khơi dậy, các rung động từ mọi phía sẽ tràn vào y, khơi dậy nơi y sự đáp ứng mà y không thể có được trong lúc c̣n mù quáng và tŕ độn. Tùy theo Nghiệp quả trong quá  khứ, sớm muộn ǵ y cũng có được kinh nghiệm này và cũng như một đứa trẻ thấu triệt được những khó khăn của bộ chữ cái ắt lấy làm thích thú với quyển sách mà ḿnh có thể đọc được; cũng vậy học viên sẽ thấy ḿnh có được sự hiểu biết và kiểm soát được những khả năng mà vào thời c̣n sống buông tuồng th́ y nằm mơ cũng không thấy được; những viễn cảnh mới về tri thức mở ra trước mắt y, một vũ trụ rộng lớn hơn bày ra ở mọi phía.

Nếu bây giờ chúng ta chỉ nghiên cứu trong một lúc về thể vía coi nó hoạt động như thế nào ở hai trạng thái thức và ngủ th́ chúng ta có thể dễ dàng nhanh chóng thẩm định được chức năng của nó khi nó trở thành một hiện thể tâm thức tách rời khỏi thể xác. Nếu chúng ta nghiên cứu một người khi y thức và khi y ngủ th́ chúng ta ắt biết một sự thay đổi rất đáng kể của thể vía; khi y đang thức th́ các hoạt động của thể vía – những màu sắc biến đổi v.v. . . – đều biểu lộ ở trong và ngay xung quanh thể xác; nhưng khi y đang ngủ th́ hai thể đă tách rời nhau, chúng ta thấy thể vật lư – xác phàm và thể phách – cùng nhau nằm lại trên giường c̣n thể vía trôi nổi bồng bềnh  trong không khí bên trên hai thể này. [Xem các bài viết về “Giấc Mơ” đă nêu trên để có được sự mô tả đầy đủ hơn]. Nếu người mà chúng ta đang nghhiên cứu chỉ có hành động phát triển tầm thường th́ thể vía khi tách rời khỏi thể xác chỉ là một khối ít nhiều không có h́nh dáng như ta đă mô tả trước kia; nó không thể rời xa khỏi thể xác, nó là một hiện thể vô ích cho tâm thức và con người bên trong đó ở t́nh trạng mơ mộng rất lơ mơ v́ không quen hoạt động tách rời khỏi thể xác. Thật vậy, có thể nói y hầu như cũng đang ngủ v́ thiếu phương tiện mà y đă quen làm việc thông qua đó cho nên y cũng không thể tiếp nhận được những ấn tượng xác định từ cơi trung giới hoặc không thể biểu hiện rơ ràng thông qua thể vía có tổ chức tồi tàn. Các trung tâm cảm giác trong thể vía có thể chịu ảnh hưởng của những h́nh tư tưởng thoáng qua và ở bên trong thể vía y có thể đáp ứng với những kích thích khơi dậy bản chất thấp hèn, nhưng người quan sát chỉ thấy được hiệu quả là y đang thiu thiu ngủ lơ mơ, thể vía không có hoạt động nhất định, trôi nổi dật dờ bên trên thể xác đang nằm ngủ. Nếu có điều ǵ có khuynh hướng kéo nó về hoặc đẩy nó đi ra xa khỏi thể xác th́ thể xác sẽ tỉnh dậy ngay và thể vía lại nhanh chóng nhập vào thể xác. Nhưng nếu người mà ta quan sát tiến bộ hơn nhiều (chẳng hạn như một người đă quen hoạt động trong cơi trung giới và quen dùng thể vía cho mục đích đó) th́ ta ắt thấy rằng khi thể xác đă ngủ đi và thể vía thoát ra khỏi thể xác th́ chúng ta thấy con người xuất hiện với trọn vẹn ư thức, thể vía có những đường nét rơ rệt và có tổ chức xác định, nó có vẻ giống như người ấy và người này có thể sử dụng nó làm một hiện thể tiện lợi hơn nhiều so với thể xác. Y tỉnh táo hơn và hoạt động tích cực hơn, chính xác hơn với khả năng hiểu biết nhiều hơn so với khi y bị hạn chế trong xác phàm, và y có thể tự do di chuyển vô cùng nhanh chóng tới nơi nào ở xa mà tuyệt nhiên không làm náo động thể xác đang nằm ngủ trên giường.

Nếu người đó chưa học cách nối liền thể vía với thể xác, nếu có một sự gián đoạn ư thức khi thể vía thoát ra khỏi thể xác lúc y ngủ thiếp đi, trong khi y đang thức tỉnh nhiều hơn và có ư thức trọn vẹn trên cơi trung giới, th́ y cũng không thể gây ấn tượng lên óc phàm lúc y trở về xác phàm mang theo tri thức mà ḿnh đă thực hiện trong lúc vắng mặt nơi thể xác. Trong t́nh huống đó, ư thức lúc “tỉnh táo” của y – theo thói quen th́ người ta gọi cái dạng ư thức hạn hẹp nhất của ta là như vậy đó – không chia xẻ được kinh nghiệm của con người trên cơi trung giới, chẳng phải v́ chơn nhơn không biết điều đó mà v́ thể xác quá trọng trược nên không tiếp thu được những ấn tượng này. Đôi khi lúc thể xác thức dậy th́ nó có cảm giác là ḿnh vừa mới trải nghiệm một điều ǵ đó mà không nhớ lại được, thế nhưng chính cái cảm giác này đă chứng tỏ rằng có một hoạt động nào đó của ư thức trên cơi trung giới tách rời khỏi thể xác mặc dù bộ óc không đủ khả năng tiếp thu cho nên không thể nhớ lại được, ngay cả điều phù du đă xảy ra. Có những lúc khác, khi thể vía trở về nhập xác th́ con người lại thành công trong việc gây một ấn tượng tạm thời lên thể phách và xác phàm, cho nên khi xác phàm thức dậy th́ nó có được một kư ức sống động về một kinh nghiệm mới từng trải trong cơi trung giới; nhưng kư ức này nhanh chóng tiêu tan đi và không thể nhớ lại được, ta càng cố gắng nhớ lại th́ lại càng thất bại, v́ mỗi nỗ lực đều tạo ra những rung động mạnh trong óc phàm và nó lại càng đè bẹp những rung động tinh vi của thể vía. Hoặc lại nữa, con người có thể thành công khi ghi khắc kiến thức mới vào óc phàm mà không thể truyền đạt được kư ức là chẳng biết cái kiến thức đó ở đâu ra hoặc làm thế nào có được kiến thức đó; trong những trường hợp ấy, các ư tưởng sẽ xuất hiện trong ư thức tỉnh táo dường như thể là nó tự phát nảy sinh ra, những giải pháp sẽ xuất hiện đối với những vấn đề trước kia tối tăm. Khi điều này xảy ra th́ đó là dấu hiệu đáng khích lệ của sự tiến bộ v́ nó chứng tỏ rằng thể vía có tổ chức tốt và đang hoạt động tích cực nơi cơi trung giới mặc dù thể xác chỉ c̣n tiếp nhận được một phần nào. Tuy nhiên đôi khi con người thành công khiến cho óc phàm cũng đáp ứng được, bấy giờ chúng ta có cái được coi là một giấc mơ rất sống động, hợp lư và mạch lạc; cái loại giấc mơ mà hầu hết những người biết suy tư đều thỉnh thoảng có nếm trải, trong đó họ cảm thấy linh hoạt hơn chứ không kém so với lúc ḿnh “tỉnh táo”; trong giấc mơ đó họ thậm chí có thể tiếp thu kiến thức hữu ích cho họ trong sinh hoạt cơi trần. Mọi thứ này đều là các giai đoạn tiến bộ đánh dấu sự tiến hóa và cải thiện tổ chức của thể vía.

Nhưng mặt khác ta nên hiểu rơ rằng người ta có thể tiến bộ thật sự (thậm chí tiến bộ nhanh chóng) về mặt tính linh, có thể hoạt động tích cực nhất và hữu ích nhất trên cơi trung giới nhưng khi nhập xác phàm lại không ghi được ấn tượng nào lên bộ óc về công việc ḿnh đă dấn thân vào, mặc dù trong ư thức nơi hạ giới họ càng ngày càng có thể biết được một sự giác ngộ tăng dần và càng hiểu biết nhiều hơn về sự thật tâm linh. Có một sự thật mà mọi học viên nên coi là một chuyện khích lệ và họ có thể đặt đức tin vào đó cho dù kư ức trong óc phàm của họ vẫn trống rỗng về những kinh nghiệm siêu hồng trần: khi chúng ta học cách càng ngày càng làm việc nhiều v́ những người khác, khi chúng ta cố gắng càng ngày càng trở nên hữu ích cho thế gian, khi chúng ta càng ngày càng tận hiến mạnh mẽ và đều đặn cho các bậc Huynh trưởng của nhân loại và càng tha thiết ra sức thực thi hoàn hảo phần chia xẻ nhỏ bé của ta so với công tŕnh vĩ đại của các Ngài th́ tất yếu là chúng ta đang phát triển thể vía, và khả năng hoạt động trong đó khiến chúng ta trở thành người phụng sự hữu hiệu hơn. Cho dù óc phàm có nhớ hay chăng th́ trong lúc ngủ say chúng ta vẫn rời bỏ cái nhà tù là xác phàm để làm việc theo những đường lối hữu ích trên cơi trung giới, giúp đỡ những người mà chúng ta không thể đạt tới họ bằng cách nào khác được, trợ giúp và an ủi theo những phương thức mà chúng ta không thể làm sao khác hơn được. Sự tiến hóa này đang diễn ra đối với những người có tâm trí thanh khiết, tư tưởng cao thượng, tâm hồn được thôi thúc phụng sự. Họ có thể làm việc nhiều năm trên cơi trung giới mà kư ức trong ư thức nơi hạ giới không ghi nhận được, và họ có thể vận dụng những khả năng làm điều tốt cho thế gian vượt xa mức bất cứ thứ ǵ mà họ giả định rằng ḿnh có thể làm được. Đối với họ khi Nghiệp quả cho phép th́ sẽ có lúc tâm thức hoàn toàn không bị gián đoạn khiến cho nó tùy ư chuyển từ cơi trần sang cơi trung giới và ngược lại; một nhịp cầu đă được bắc ra khiến cho kư ức băng từ cơi này sang cơi kia mà không phải cố gắng, khiến cho con người từ cơi trung giới trở về sau những hoạt động nào đó sẽ lại mang về với xác phàm trí nhớ mà không mất một chút ư thức nào. Điều này là tương lai chắc chắn đối với tất cả những người nào tự nguyện sống đời phụng sự. Một ngày kia họ sẽ đạt được sự liên tục tâm thức đó; lúc bấy giờ đối với họ cuộc đời không c̣n là bao gồm những ngày làm việc có ghi nhớ và những đêm làm việc bị quên lăng, mà cuộc đời sẽ là một tổng thể liên tục; khi con người rời xác th́ cứ bỏ mặc cho nó được an dưỡng như cần thiết, c̣n chơn nhơn sử dụng thể vía để làm việc trên cơi trung giới; lúc bấy giờ người ta sẽ giữ cho những mối liên hệ tư tưởng đó không bị cắt đứt, vẫn có ư thức khi rời bỏ xác và thoát ra khỏi xác, biết được sinh hoạt trong khi đang ở bên ngoài xác, có ư thức khi lại trở về nhập xác; như vậy người ta sẽ tiến hành hết tuần này sang tuần khác, hết năm này sang năm khác, mang theo cái ư thức không mệt mỏi, không bị gián đoạn khiến cho ta hoàn toàn tin chắc vào sự tồn tại của Chơn ngă với sự thật thể xác chỉ là một lớp áo mà ḿnh tùy ư có thể mặc vào hoặc cởi ra chứ không chỉ là một công cụ để sinh hoạt và suy tư. Người ta sẽ biết rằng cho dù không có thể xác th́ đời sống vẫn tích cực hơn nhiều do tư tưởng ít bị ràng buộc hơn nhiều nếu không có thể xác.

Khi đă đạt tới giai đoạn này th́ con người bắt đầu hiểu được thế gian, và cuộc đời của y sống trên thế gian ắt tốt hơn hẳn so với trước kia v́ y bắt đầu nhận thức được nhiều điều đang ở tương lai và nhiều khả năng chờ đón nhân loại tiến bộ hơn. Y dần dần hiểu ra rằng cũng như con người thoạt tiên có ư thức trên cơi trần rồi mới có ư thức trên cơi trung giới, cũng vậy bên trên y c̣n trải rộng ra những phạm vi ư thức cao siêu hơn nhiều mà y có thể đạt được hết mức này tới mức khác. Khi trở nên hoạt động trên các cơi cao, y lướt qua những thế giới rộng lớn hơn, vận dụng những quyền năng vô biên hơn và tất cả chỉ là để phục vụ các Đấng Thiêng Liêng nhằm trợ giúp và mang lại lợi ích cho loài người. Lúc bấy giờ cuộc sống trên cơi trần bắt đầu có được mức tỉ lệ chân chính, không một điều ǵ xảy ra nơi cơi trần có thể ảnh hưởng tới y giống như trước kia nữa v́ y đă biết được một cuộc sống phong phú và viên măn hơn; sự chết cũng chẳng có thể nào đụng chạm tới y hoặc là xét về bản thân hoặc là xét về những người mà y muốn giúp đỡ. Cuộc sống trên trần thế có được vị trí đúng mức là bộ phận nhỏ bé nhất trong sinh hoạt của con người, nó không c̣n u ám như đă từng đen tối trước kia v́ ánh sáng của các cơi cao đă chiếu xuống những ngóc ngách âm u nhất.

Trở lại việc nghiên cứu chức năng và khả năng của thể vía, bây giờ chúng ta hăy xét đến một vài hiện tượng liên quan tới nó. Thể vía có thể xuất hiện cho những người khác khi nó tách rời khỏi thể xác hoặc là trong buổi sinh thời hoặc là sau khi đă từ trần. Cố nhiên là một người đă làm chủ hoàn toàn được thể vía th́ có thể rời xác bất cứ lúc nào và đi tới thăm một người bạn ở cách xa. Nếu người được viếng thăm có thần nhăn, nghĩa là đă phát triển được tầm nh́n trên cơi trung giới th́ y sẽ trông thấy thể vía của bạn ḿnh; bằng không th́ khách viếng thăm có thể làm cho hiện thể của ḿnh hơi thô đi một chút bằng cách thu hút vào đó các hạt vật chất cơi trần ở bầu không khí xung quanh, vậy là “hiện h́nh” (materialize) đủ để khiến cho mắt phàm trông thấy được. Đây là lời giải thích về nhiều sự hiện h́nh cho bạn bè thấy khi ở cách xa, những hiện tượng này thông thường hơn mức hầu hết mọi người lầm tưởng v́ những người nhút nhát rất kín miệng e rằng ḿnh sẽ bị cười nhạo là mê tín dị đoan. May mắn thay sự e sợ này đă giảm đi rồi và miễn là người ta có can đảm và óc phân biệt phải trái để nói ra điều mà ḿnh biết là đúng sự thật th́ chẳng bao lâu sau chúng ta sẽ có được rất nhiều bằng chứng về sự hiện h́nh của những người có thể xác ở cách xa nơi mà thể vía của họ hiện ra. Trong một số trường hợp, thể vía này có thể được nh́n thấy bởi những người b́nh thường không có thần nhăn mà không cần phải hiện h́nh. Nếu hệ thần kinh của người nào đó bị căng thẳng quá độ và thể xác của y đang bị ốm yếu sao cho những mạch động của sinh khí thoi thóp nhẹ hơn mức b́nh thường th́ hoạt động thần kinh (vốn tùy thuộc phần lớn vào thể phách) có thể bị kích động quá mức và trong t́nh huống đó người ta có thể nhất thời có thần nhăn. Chẳng hạn như một người mẹ biết con trai ḿnh đang bị đau ốm nguy hiểm nơi đất khách quê người và đang bị dày ṿ v́ lo cho con th́ bà mẹ đó có thể trở nên nhạy cảm với những rung động của cơi trung giới nhất là trong những giờ vào ban đêm khi sinh khí đạt mức thấp nhất. Trong t́nh huống đó, nếu con trai bà cũng nghĩ tới bà và khi xác phàm của y mê man không biết ǵ th́ nó khiến cho y có thể xuất vía tới viếng thăm bà, và bà rất có thể nh́n thấy nó. Thông thường ra th́ một sự viếng thăm như thế chỉ được thực hiện khi người ta vừa mời rũ bỏ xác phàm vào lúc chết. Những sự hiện hinh như thế tuyệt nhiên không hiếm hoi ǵ, nhất là khi người hấp hối tha thiết muốn đến với một người nào đó mà ḿnh bị ràng bụôc mật thiết do t́nh cảm hoặc khi y muốn truyền đạt mẩu thông tin đặc biệt nào đó và phải từ trần mà chưa măn nguyện.

Nếu chúng ta theo dơi thể vía sau khi chết, khi con người đă rũ bỏ thể phách cũng như xác phàm th́ chúng ta sẽ quan sát thấy dáng vẻ của nó thay đổi. Trong khi nó c̣n dính dáng tới thể xác th́ các phân trạng thái của chất trung giới bị trộn lẫn với nhau, các loại thô trược và tinh vi lồng vào nhau và quyện lấy nhau. Nhưng sau khi chết th́ có diễn ra sự sắp xếp lại, các hạt thuộc các phân trạng thái khác nhau tách rời khỏi nhau, có thể nói là được sàng lọc theo thứ tự tỉ trọng riêng của chúng; vậy là thể vía có t́nh trạng bị kết tầng, trở thành một loạt các lớp vỏ đồng tâm trong đó lớp vỏ thô nhất ở ngoài cùng nhất. Thế là ở đây ta đụng tới tầm quan trọng của việc tẩy trược thể vía trong khi c̣n sống trên cơi trần, v́ sau khi chết chúng ta thấy thể vía không thể tùy ư lướt qua cơi trung giới được nữa. Cơi này có bảy cảnh và con người bị hạn chế vào cảnh mà vật chất thuộc lớp vỏ bên ngoài của y ở trong đó; chỉ khi lớp vỏ ngoài cùng này tan ră th́ y mới thăng lên được cảnh kế tiếp và cứ thế từ cảnh thấp lên cảnh cao. Một người có khuynh hướng rất thấp hèn đầy thú tính ắt có thể vía chứa nhiều loại chất trung giới thô trược nhất, và điều này tŕ kéo y xuống cảnh thấp nhất của Kāmaloka; chừng nào lớp vỏ này c̣n chưa tan ră đến mức gần hết th́ con người vẫn cứ bị giam cầm trong cái bộ phận đó của cơi trung giới, và phải cam chịu những phiền toái của cái nơi chốn bất hảo nhất. Khi lớp vỏ ngoài cùng đă tan ră đúng mức để cho người ta thoát ra th́ con người mới chuyển sang được cảnh kế tiếp của cơi trung giới; có lẽ nói cho đúng hơn th́ y có thể bắt đầu tiếp xúc với những rung động của cảnh kế tiếp gồm chất trung giới kế tiếp, vậy là y dường như lọt vào một cơi khác; y ở đó cho tới khi lớp vỏ của cảnh thứ sáu bị hư ṃn đi khiến cho y lại chuyển lên được cảnh thứ năm; việc y tạm trú ờ mỗi cảnh đó tương ứng với tỉ lệ trong các bộ phận thuộc bản chất y biểu diễn qua thể vía bởi số lượng vật chất thuộc về cảnh đó. Vậy th́ lượng vật chất của các cảnh thô càng nhiều bao nhiêu th́ y càng tạm trú lâu dài bấy nhiêu trên các cảnh thấp của Kāmaloka; trong buổi sinh thời ta càng dẹp bỏ được những yếu tố đó nhiều bao nhiêu th́ đến lúc bước qua cửa tử, ta càng tạm trú ngắn ngủi bấy nhiêu trên các cảnh của Kāmaloka. Ngay cả khi chúng ta chưa hoàn toàn loại bỏ được các vật liệu thô – muốn nhổ hoàn toàn tận gốc rễ chúng cần phải có một quá tŕnh lâu dài và gian khổ - th́ trong buổi sinh thời, tâm thức có thể bị kiên tŕ triệt thoái khỏi các đam mê thấp hèn đến nỗi mà vật chất khiến cho các đam mê đó biểu hiện được không c̣n tích cực hoạt động giống như một hiện thể tâm thức nữa – nếu ta mượn một sự tương tự nơi cơi trần th́ chức năng đó trở nên teo tóp đi. Trong trường hợp đó, mặc dù người ta có thể bị níu kéo lại trong một thời gian ngắn trên các cảnh thấp của Kāmaloka th́ y vẫn yên ngủ thanh thản qua suốt thời gian đó mà không cảm thấy có cái ǵ khó chịu đi kèm theo trạng thái đó; v́ đă không c̣n t́m cách biểu hiện thông qua loại vật chất ấy cho nên tâm thức của y không nương theo loại vật chất đó để túa ra ngoài tiếp xúc với những vật cấu tạo bằng loại vật chất đó nơi trung giới.

Người nào đă tẩy trược thể vía đến mức y chỉ giữ lại trong đó những thành phần tinh vi nhất của mỗi cảnh – sao cho nó sẽ tức khắc chuyển sang vật chất của cảnh kế tiếp ngay bên trên nếu được nâng lên một chút xíu nữa thôi – th́ y sẽ lướt qua Kāmaloka thật sự nhanh chóng. Có một mức mà ta gọi là mức tới hạn giữa một cặp phân trạng thái của vật chất; nước đá có thể được nâng lên tới mức mà chỉ cần thêm một chút xíu nhiệt nữa là nó biến thành nước lỏng; nước lỏng có thể được nâng lên tới mức chỉ cần thêm một chút xíu nhiệt là nó sẽ biến thành hơi nước. Cũng vậy, mỗi phân trạng thái của chất trung giới có thể được nâng lên tới mức tinh vi đến nỗi chỉ cần thêm một chút mức tinh vi th́ nó sẽ biến thành phân trạng thài kế tiếp. Nếu ta thực hiện điều này cho mọi phân trạng thái vật chất của thể vía th́ nó đă được tẩy trược đến mức tinh vi tột độ cho nên nó lướt qua Kāmaloka nhanh không thể tưởng tượng nổi và con người bay vút qua đó lên tới các cơi cao dễ như trở bàn tay.

C̣n một vấn đề khác liên quan tới việc tẩy trược thể vía cả về tiến tŕnh thể xác lẫn tiến tŕnh thể trí, đó là hiệu quả của việc tẩy trược đối với thể vía mới mà đến đúng lúc th́ nó sẽ được tạo ra để dùng cho kiếp sắp tới. Khi con người chuyển ra khỏi Kāmaloka để nhập vào Devachan, th́ y không thể mang theo các h́nh tư tưởng thuộc loại tà vạy lên Devachan; chất trung giới không thể tồn tại nơi cảnh Devachan và vật chất của Devachan không thể đáp ứng với những rung động thô của các cơn đam mê  và ham muốn tà vạy. Do đó khi con người cuối cùng rũ bỏ hết những tàn dư của thể vía, y chỉ có thể mang theo những khuynh hướng hoặc mầm mống tiềm tàng; những thứ này sẽ biểu lộ thành các đam mê và ham muốn tà vạy nơi cơi trung giới khi chúng kiếm được đủ thực phẩm để nuôi dưỡng chúng và t́m được lối thoát ra bên ngoài. Nhưng y vẫn mang theo các chủng tử này và chúng cứ tiềm tàng suốt sinh hoạt trên Devachan của y. Khi y trở lại tái sinh th́ y vẫn đem theo những chủng tử đó trở lại và thúc đẩy cho chúng biểu lộ ra ngoài; chúng thu hút từ cơi trung giới (qua một loại ái lực từ khí) những vật liệu thích hợp cho chúng biểu lộ, khoác lấy chất trung giới đồng khí tương cầu với ḿnh để tạo thành thể vía của con người trong kiếp sắp tới. Vậy là chúng ta không thể sống với thể vía ngay bây giờ mà c̣n h́nh thành cái loại thể vía thuộc về chúng ta trong kiếp tới – đây là một lư do thêm nữa cho ta phải tẩy trược thể vía thuộc kiếp này đến mức tối đa bằng cách vận dụng sự hiểu biết trong kiếp này để bảo đảm sự tiến bộ trong kiếp vị lai.

Đó là v́ mọi kiếp của chúng ta đều được liên kết với nhau và không một kiếp nào có thể được tách rời khỏi những kiếp ở phía sau nó hoặc những kiếp trải ra trước mắt nó. Thật ra th́ chúng ta chỉ có một sự sống duy nhất, trong đó cái mà chúng ta gọi là các kiếp thật sự chỉ là các ngày. Chúng ta chưa bao giờ bắt đầu một kiếp sống mới bằng một tờ giấy sạch sẽ trên đó ta viết được một câu chuyện hoàn toàn mới; chúng ta chỉ bắt đầu một chương mới vốn phải triển khai bố cục cũ. Chúng ta không thể dứt bỏ được những món nợ nghiệp báo của một kiếp trước chỉ bằng cách trải qua sự chết thôi, cũng như chúng ta không dứt bỏ những món nợ tiền bạc mà ta đă vay một ngày nào đó bằng cách chỉ ngủ qua một đêm; nếu hôm nay chúng ta vay nợ th́ ngày mai chúng ta không thoát được nợ và chúng ta cứ bị đ̣i nợ hoài cho đến khi chúng ta đă trả nợ xong. Cuộc sống của một người vốn liên tục, không bị ngắt quăng; các kiếp trên trần thế đều được liên kết với nhau chứ không rời rạc biệt lập. Các quá tŕnh tẩy trược và phát triển cũng liên tục và phải được tiến hành qua nhiều kiếp liên tiếp trên trần thế. Có một lúc nào đó, mỗi một trong chúng ta phải bắt đầu làm việc; có một lúc nào đó mỗi người đều đâm ra mệt mỏi với những cảm giác của bản chất thấp hèn, chán ngán khi phải cam chịu thân phận đầy thú tính, ngao ngán với sự tàn bạo của các giác quan. Lúc bấy giờ người ta không c̣n cam chịu khuất phục nữa, y sẽ quyết định phải phá vỡ những ràng buộc câu thúc ḿnh. Thật vậy, tại sao chúng ta phải kéo dài sự ràng buộc đó khi ta có quyền phá vỡ nó bất cứ lúc nào? Không bàn tay nào trói buộc chúng ta ngoại trừ bàn tay của chính ta và cũng không có bàn tay nào giải thoát được ta ngoại trừ bàn tay của chính ta. Chúng ta có quyền chọn lựa, có quyền tự do ư chí và xét v́ một ngày nào đó tất cả chúng ta đều cùng nhau sát cánh trên các cơi cao th́ tại sao chúng ta lại không ngay tức khắc bắt đầu phá vỡ sự ràng buộc của ḿnh và đ̣i hỏi quyền thừa kế thiêng liêng của ḿnh. Việc bắt đầu dẹp tan mọi xiềng xích để có được tự do xảy ra khi con người quyết định rằng ḿnh sẽ khiến cho bản chất thấp hèn phải phục tùng bản chất cao thượng; lúc đó ở đây trên cơi ư thức hồng trần, y bắt đầu kiến tạo các thể cao và ra sức thực hiện những khả năng cao siêu vốn thuộc quyền thiêng liêng của y và chỉ bị mờ tối đi do thú tính mà y đang sinh hoạt trong đó.


 lời đầu  đầu sách cuối sách  xác  vía  trí   hiện thể khác  hào quang  chơn nhơn  mục lục

 

CÁC THỂ TRÍ

 

Chúng ta đă nghiên cứu khá dài ḍng về thể vật lư và thể vía của con người. Chúng ta đă nghiên cứu thể vật lư cả về bộ phận hữu h́nh lẫn bộ phận vô h́nh hoạt động trên cơi trần; chúng ta đă theo dơi đủ thứ đường lối hoạt động của nó, đă nghiên cứu bản chất sự tăng trưởng của nó và đă bàn dông dài về sự tẩy trược nó dần dần. Thế rồi chúng ta lại xét tới thể vía cũng theo cách giống như vậy, truy nguyên sự tăng trưởng và các chức năng của nó, bàn tới những hiện tượng liên quan tới sự biểu lộ của nó trên cơi trung giới cũng giống như sự tẩy trược nó. Thế là chúng ta đă có được một ư tưởng nào đó về hoạt động của con người ở hai trong số bảy cơi lớn trong vũ trụ. Sau khi đă làm như thế, giờ đây chúng ta có thể chuyển sang cơi lớn thứ ba tức cơi trí tuệ; khi chúng ta học biết được một điều nào đó về cơi này th́ chúng ta đă xét đến các cơi hồng trần, cơi trung giới và cơi trí tuệ - bầu hành tinh của chúng ta cùng với hai h́nh cầu bao xung quanh nó – là một cơi tam bội, trong đó con người hoạt động trong khi đang lâm phàm trên cơi trần và y cũng ở trong đó suốt những thời kỳ giữa lúc chết, tức là khi kết liễu một kiếp trên trần thế và lúc sinh ra vốn khai trương một kiếp khác. Ba h́nh cầu đồng tâm này là cơi giới và cũng là trường học của con người: y tiến hành sự phát triển của ḿnh trong đó, y thực hiện cuộc hành hương tiến hóa của ḿnh trong đó, y không thể vượt ra khỏi nó một cách hữu thức chừng nào mà cánh cổng Điểm đạo chưa mở ra trước mặt y, v́ không có cách nào khác để thoát ra khỏi ba cơi này.

Cơi thứ ba (mà tôi gọi là cơi trí tuệ) bao gồm mặc dù không đồng nhất với cơi quen thuộc với các nhà Thông Thiên Học được gọi tên là Devachan, tức Devaloka (cơi của Chư thiên), cơi cực lạc hạnh phúc (theo một số người dịch ra như thế). Devachan mang tên đó do bản chất và t́nh trạng của nó, không một điều ǵ dính líu vào cơi này có thể gây ra sự đau khổ hoặc phiền năo; đó là một trạng thái được bảo vệ đặc biệt khiến cho không một điều ác tích cực nào được phép xâm nhập vào, đây là nơi an dưỡng cực lạc của con người để cho y yên tâm đồng hóa những thành quả của kiếp sống trên cơi trần.

Ta cần đưa ra một lời giải thích sơ bộ về cơi trí tuệ nói chung để tránh sự lẫn lộn. Trong khi nó cũng được chia nhỏ ra thành bảy cảnh giống như các cơi khác th́ nó lại có đặc điểm là bảy cảnh này được nhóm lại thành ra hai tập hợp – một tập hợp gồm ba cảnh và một tập hợp gồm bốn cảnh. Ba cảnh trên được gọi theo thuật ngữ chuyên môn là arūpa, tức vô sắc giới v́ chúng cực kỳ tinh vi; c̣n bốn cảnh dưới được gọi là rūpa, tức sắc giới. Do đó con người có hai hiện thể tâm thức để cho y hoạt động trên cơi này mà ta đều có thể áp dụng thuật ngữ thể trí để gọi chúng. Tuy nhiên thể thấp hơn (thế mà ta sẽ bàn tới trước tiên) được phép độc quyền sử dụng tên gọi này cho tới khi ta t́m ra được một thuật ngữ hay hơn, v́ thể cao đă được biết là thể nguyên nhân (the causal body) bởi những lư do mà sau này ta sẽ hiểu rơ. Các học viên ắt đă quen thuộc với sự phân biệt giữa Thượng trí và Hạ trí; thể nguyên nhân là hiện thể của Thượng trí, là thể thường tồn của Chơn ngă, tức Chơn nhơn kéo dài từ kiếp này sang kiếp khác; thể trí là hiện thể của Hạ trí, sau khi chết vẫn sống c̣n rồi chuyển vào Devachan nhưng vẫn bị tan ră khi sinh hoạt trên các cảnh sắc giới thuộc Devachan đă qua rồi.

 

(a) Thể Trí

 

 Hiện thể tâm thức này thuộc về (và được cấu tạo bởi) vật chất của bốn cảnh thấp thuộc Devachan. Trong khi nó đặc biệt là hiện thể của tâm thức đối với bộ phận này của cơi trí tuệ th́ nó vẫn tác động lên và thông qua thể vía cũng như thể xác với mọi biểu lộ mà chúng ta gọi là biểu lộ của cái trí trong ư thức tỉnh táo thông thường của chúng ta. Thật vậy, nơi người kém phát triển, nó không thể hoạt động riêng rẽ trên cơi của ḿnh thành một hiện thể độc lập của tâm thức trong khi y c̣n sống trên cơi trần, và khi một người như thế vận dụng các năng lực trí tuệ của ḿnh th́ chúng phải khoác lấy vật chất thuộc cơi trung giới và cơi trần trước khi y có thể có ư thức về hoạt động của chúng. Thể trí là hiện thể của Chơn ngă, tức là Chủ thể tư tưởng đối với mọi công tŕnh lư luận, nhưng trong khi c̣n sinh hoạt sơ khai  th́ thể trí được tổ chức tồi tệ, hơi sơ khai và thiếu phương tiện giống như thể vía của người kém phát triển.

Vật chất cấu tạo nên thể trí thuộc một loại cực kỳ loăng và tinh vi. Chúng ta đă thấy rằng chất trung giới kém thô trược hơn hẳn so với ngay cả chất dĩ thái của cơi trần và bây giờ chúng ta phải mở rộng quan niệm về vật chất của ḿnh ra thêm nữa để bao trùm ư tưởng về một chất mà thần nhăn thuộc cơi trung giới cũng như thị giác thuộc cơi trần không thấy được; nó quá tinh vi cho nên các giác quan “nội giới” của con người thậm chí cũng không nhận thức được. Vật chất này thuộc về cơi thứ năm tính từ trên xuống hoặc cơi thứ ba tính từ dưới lên trong vũ trụ của ta; Chơn ngă biểu hiện thành cái trí trong vật chất này c̣n trong vật chất kế tiếp bên dưới nó (chất trung giới) th́ Chơn ngă biểu lộ thành cảm giác. Có một đặc điểm nổi bật về thể trí v́ bộ phận bên ngoài của nó biểu hiện thành hào quang của con người; thể trí tăng trưởng, có kích thước và hoạt động tăng lên hết kiếp này tới kiếp khác tùy theo sự tăng trưởng và phát triển của chính con người. Đặc điểm này là điều mà cho đến nay chúng ta đă quen thuộc. Một thể vật lư được kiến tạo ra hết kiếp này đến kiếp khác, thay đổi tùy theo quốc tịch và giới tính, nhưng chúng ta nghĩ về nó xét theo kích thước cũng giống hệt như từ thời châu Atlantis. C̣n xét về thể vía th́ khi con người tiến bộ chúng ta thấy tổ chức của nó cũng được tăng trưởng. Nhưng theo sát nghĩa th́ thể trí tăng trưởng về kích thước khi con người tiến hóa vượt lên. Nếu chúng ta nh́n vào một người rất chậm phát triển th́ chúng ta ắt thấy rằng thể trí thậm chí c̣n khó phân biệt hơn, nghĩa là nó tiến hóa ít đến nỗi ta cần phải hết sức kỹ lưỡng mới thấy được nó. Thế rồi khi ta nh́n vào một người tiến bộ hơn, người này không có tính linh nhưng đă phát triển được các năng lực của cái trí, y đă rèn luyện và phát triển được trí năng; chúng ta ắt thấy rằng thể trí của y có một sự phát triển rất xác định; nó có một tổ chức khiến ta nhận ra nó là một hiện thể để hoạt động; nó là một vật có đường nét rơ ràng và xác định, có vật liệu tinh vi, màu sắc đẹp đẽ, không ngừng rung động và hoạt động dữ dội, đầy sức sống, sung sức, biểu hiện được cái trí trong cơi trí tuệ.

Xét về bản chất th́ nó được tạo ra bằng vật chất tinh vi; xét về chức năng th́ nó là hiện thể trực tiếp để cho Chơn ngă biểu lộ thành trí năng; xét về sự tăng trưởng th́ nó tăng trưởng hết kiếp này sang kiếp khác tỉ lệ với sự phát triển của trí năng, nó càng ngày càng có tổ chức xác định hơn khi các thuộc tính và tính chất của cái trí trở nên càng ngày càng rơ rệt hơn. Cũng giống như thể vía, khi hoạt động liên kết với các thể vía và thể xác th́ nó không phải là một biểu diễn riêng biệt của con người về h́nh dạng và đặc điểm v́ nó có đường nét h́nh bầu dục (giống như quả trứng), dĩ nhiên là lồng vào thể xác và thể vía rồi lại bao quanh các thể này bằng một bầu hào quang chói sáng khi nó đă phát triển – tôi có nói là nó càng ngày càng lớn hơn khi trí năng càng tăng trưởng. Không cần phải nói là cái h́nh dạng giống như trứng này trở thành một vật rất đẹp đẽ và chói lọi khi con người phát triển được các năng lực cao siêu của cái trí: thần nhăn trên trung giới không thể thấy được nó, nhưng thần nhăn cao siêu thuộc về cơi trí tuệ ắt thấy được nó. Cũng như một người thường không thấy được điều ǵ thuộc về cơi trung giới mặc dù cơi trung giới bao quanh y – cho tới khi y đă khai mở được các giác quan của thể vía; cũng vậy một người chỉ có các giác quan thể xác và thể vía hoạt động th́ chẳng thấy được ǵ thuộc cơi trí tuệ, chẳng thấy những h́nh tướng được cấu tạo bằng vật chất của cơi này nếu y chưa khai mở được các giác quan của thể trí mặc dù cơi trí tuệ vẫn bao xung quanh chúng ta ở mọi phía.

Những giác quan sắc xảo hơn này (giác quan thuộc về cơi trí tuệ) khác hẳn những giác quan mà chúng ta quen thuộc ở dưới đây. Thật ra th́ chính từ ngữ “các giác quan” cũng là gọi tên sai lầm, v́ nói cho đúng th́ chúng ta nên bảo là giác quan của thể trí. Cái trí bước vào tiếp xúc với các sự vật thuộc cơi của ḿnh dường như thể trực tiếp trên suốt bề mặt của thể trí. Không có một cơ quan nào dành cho thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác; mọi rung động mà ở cơi này chúng ta nhận được qua các cơ quan cảm giác riêng biệt th́ ở cơi đó chúng lại làm nảy sinh ra mọi đặc trưng ngay khi chúng tiếp xúc với cái trí. Thể trí tiếp nhận được các rung động cùng một lúc dường như thể nó có ư thức về đủ mọi thứ vốn có thể gây ấn tượng lên nó.

Không dễ ǵ mà diễn tả nên lời một ư tưởng trong sáng về cách thức giác quan này nhận được một khối tập hợp các ấn tượng mà không bị lẫn lộn, nhưng có lẽ là mô tả hay nhất bằng cách nói rằng nếu một học viên lăo luyện chuyển sang cơi đó rồi giao tiếp với một học viên khác trên cơi này th́ cái trí khi nói chuyện nói cùng một lúc bằng màu sắc, âm thanh và h́nh tướng, sao cho toàn thể tư tưởng được truyền đạt thành ra một h́nh ảnh có màu sắc và có âm nhạc thay v́ chỉ là một mẩu tư tưởng được bộc lộ ra mà ở cơi này biểu hiện qua những biểu tượng được chúng ta gọi là từ ngữ. Một số bạn đọc có thể đă nghe nói tới những quyển cổ thư do các đại Điểm đạo đồ viết bằng ngôn ngữ màu sắc, tức là ngôn ngữ của Chư thiên; nhiều đệ tử có biết tới ngôn ngữ đó, xét về h́nh tướng và màu sắc th́ nó được rút ra từ “ngôn ngữ” của cơi trí tuệ, trên cơi này các rung động của chỉ một tư tưởng thôi cũng làm nảy sinh ra cả h́nh tướng lẫn màu sắc và âm thanh. Không phải là cái trí nghĩ ra một màu sắc, hoặc nghĩ ra một âm thanh, hoặc nghĩ ra một h́nh tướng; nó chỉ nghĩ ra một tư tưởng tức là một rung động phức hợp trong vật chất tinh vi và cái tư tưởng đó biểu hiện theo đủ mọi cách qua những rung động được lập nên như thế. Vật chất của cơi trí tuệ thường bị kích động thành ra những chấn động làm nảy sinh các màu sắc, âm thanh và h́nh tướng này; nếu một người hoạt động trong thể trí tách rời khỏi thể vía và thể xác th́ y ắt thấy ḿnh hoàn toàn được giải thoát khỏi các hạn chế của các cơ quan cảm giác, tiếp nhận ở mọi điểm những rung động mà nơi hạ giới sẽ biểu hiện thành ra các rung động riêng biệt khác nhau xuất phát từ đồng loại.

Tuy nhiên, khi một người đang suy nghĩ trong ư thức tỉnh táo và đang hoạt động thông qua thể vía cũng như thể xác th́ tư tưởng được tạo ra trong thể trí trước hết phải được truyền qua thể vía rồi mới xuống tới thể xác; khi chúng ta suy nghĩ th́ chúng ta đang suy nghĩ bằng thể trí, nghĩa là thể trí là tác nhân của tư tưởng, là cái ư thức biểu hiện thành ra “Bản ngă”. “Bản ngă” vốn hăo huyền nhưng đó là “cái Tôi” duy nhất mà đa số chúng ta đều biết rơ. Khi chúng ta xét tới ư thức trong thể xác th́ chúng ta ắt thấy rằng con người đâu có ư thức về mọi thứ diễn ra trong thể xác của ḿnh, các hoạt động của thể xác độc lập một phần với con người; y không thể suy nghĩ giống như các tế bào riêng biệt nhỏ xíu suy nghĩ; y không thể thực sự chia xẻ được ư thức của cơ thể xét chung. Nhưng khi chúng ta xét tới thể trí th́ chúng ta đang xét một cơi được đồng nhất hóa mật thiết với Chơn nhơn đến nỗi mà thể trí dường như chính Chơn nhơn. “Tôi suy nghĩ”, “Tôi biết” – liệu ta có thể nào xét lại được quan niệm đó chăng? Cái Trí là Chơn ngă ở trong thể trí và nó là cái đích mà hầu hết chúng ta dường như mưu t́m Chơn ngă. Nhưng điều này chỉ đúng nếu chúng ta hạn chế vào ư thức tỉnh táo thôi. Bất cứ người nào đă học biết được rằng cũng như các cảm giác của thể vía, ư thức tỉnh táo chỉ là một giai đoạn trong cuộc hành hương của chúng ta mưu t́m Chơn ngă, và kẻ nào đă học biết thêm nữa nhằm vượt ra khỏi nó th́ ắt biết được rằng bản thân ư thức tỉnh táo đến lượt nó chẳng qua chỉ là một công cụ của Chơn nhơn. Tuy nhiên như tôi có nói, hầu hết chúng ta đều không phân biệt khi suy nghĩ cho nên lẫn lộn Chơn nhơn với thể trí, đối với họ th́ thể trí dường như là biểu hiện cao nhất của Chơn nhơn, là hiện thể cao nhất của Chơn nhơn, là cái bản ngă cao siêu nhất mà họ có thể tiếp xúc hoặc nhận ra được bằng một cách nào đó. Điều này cũng tự nhiên thôi và không thể tránh được v́ ở giai đoạn tiến hóa này th́ Chơn ngă tức Chơn nhơn chỉ mới bắt đầu làm linh hoạt thể trí và khiến cho nó hoạt động vượt trội. Chơn nhơn đă làm linh hoạt thể xác để dùng nó làm một hiện thể tâm thức trong quá khứ và hiện nay đang dùng nó coi như chuyện đương nhiên. Chơn nhơn đang làm linh hoạt thể vía nơi những thành viên chậm tiến của loài người, nhưng đối với đại đa số loài người th́ công tŕnh này ít ra cũng đă hoàn tất được phần nào; trong Giống dân Thứ năm hiện nay, Chơn nhơn đang tác động vào thể trí và công tŕnh đặc biệt mà giờ đây loài người đang dấn thân vào là kiến tạo thể trí cho nó tiến hóa.

Thế th́ chúng ta phải bận tâm nhiều để t́m hiểu cách xây dựng và tăng trưởng của thể trí. Nó tăng trưởng bằng tư tưởng. Tư tưởng của chúng ta là vật liệu mà chúng ta kiến tạo vào thể trí này; bằng cách vận dụng các năng khiếu của trí tuệ, bằng cách phát triển các năng khiếu nghệ thuật, các xúc động cao siêu theo sát nghĩa chúng ta đang từng ngày kiến tạo thể trí cũng như từng tháng từng năm trong cuộc đới ḿnh. Nếu chúng ta không vận dụng các năng khiếu trí tuệ; nếu xét về mặt tư tưởng ta chỉ tiếp nhận chứ không sáng tạo, nếu ta thường xuyên chấp nhận những ǵ ở bên ngoài ḿnh thay v́ tự ḿnh tạo ra từ bên trong; nếu khi trải qua cuộc đời mà trong trí ta chỉ đặc nghẹt những tư tưởng của các người khác; nếu xét về tư tưởng và suy tư mà ta chỉ biết có thế thôi th́ hết kiếp này sang kiếp khác, thể trí của ta cũng không thể tăng trưởng được, hết kiếp này sang kiếp khác ta ra đi với vốn liếng bao nhiêu th́ trở về cũng với vốn liếng bấy nhiêu; hết kiếp này sang kiếp khác ta vẫn cứ là một cá nhân chậm phát triển. Đó là v́ chỉ nhờ vào việc vận dụng chính cái trí, sử dụng các năng khiếu của nó một cách sáng tạo, tập luyện nó, đem nó ra xài, thường xuyên bắt nó cố gắng, th́ chỉ có bằng những cách đó ta mới có thể phát triển được thể trí và mới thật sự xúc tiến được sự tiến hóa chân chính của con người.

Ngay lúc bạn bắt đầu nhận ra được điều này th́ có lẽ bạn ắt cố gắng thay đổi cái thái độ chung chung của ḿnh đối với ư thức trong sinh hoạt hằng ngày; bạn bắt đầu quan sát sự vận hành của nó; và ngay khi bạn làm như thế - như vừa nói trên kia – bạn sẽ nhận thấy rằng phần lớn sự suy nghĩ của ḿnh thực ra không phải là suy nghĩ ǵ hết mà chỉ là tiếp nhận tư tưởng của người khác; bạn cũng chẳng biết tư tưởng đến với ḿnh bằng cách nào; bạn cũng chẳng biết tư tưởng từ đâu ra mà đến với ḿnh; bạn cũng lại chẳng biết tư tưởng rời bỏ ḿnh rồi biến đi đâu; thế là bạn sẽ bắt đầu cảm thấy rằng – có lẽ hơi phiền năo một chút và hơi thất vọng một chút – thay v́ cái trí của ḿnh được coi là tiến hóa cao th́ té ra nó chẳng khá ǵ hơn một trạm tiếp vận để cho tư tưởng được chuyển tiếp qua đó. Bạn cứ thử đi rồi xem nội dung trong ư thức của ḿnh có bao nhiêu phần trăm là thuộc về chính ḿnh và bao nhiêu phần trăm chỉ là những đóng góp từ bên ngoài. Thỉnh thoảng bạn hăy đột nhiên dừng lại trong ngày để xem ḿnh đang nghĩ ǵ, và khi kiểm tra đột xuất như thế, có lẽ bạn sẽ phát hiện được rằng ḿnh chẳng nghĩ ǵ cả - một kinh nghiệm rất thường xuyên – hoặc ḿnh đang suy nghĩ mơ hồ đến nỗi nó chỉ gây ra một ấn tượng rất hời hợt đối với một điều nào đó mà bạn dám gọi là cái trí của ḿnh. Khi bạn đă thử làm như vậy nhiều lần rồi và khi cố gắng đó đă trở nên giúp bạn có ư thức về bản thân nhiều hơn th́ bạn hăy bắt đầu để ư xem những tư tưởng mà ḿnh t́m thấy trong cái trí ḿnh liệu có ǵ khác nhau chăng giữa t́nh trạng của chúng khi chúng lóe lên vào trong cái trí và t́nh trạng của chúng khi chúng biến mất ra khỏi cái trí – tức là xem thử bạn đă thêm ǵ vào cho tư tưởng đó trong thời gian chúng tạm trú trong cái trí của ḿnh. Bằng cách này, cái trí của bạn sẽ trở nên thực sự chủ động và sẽ vận dụng được các năng lực sáng tạo của nó, nếu khôn ngoan một chút th́ bạn nên tuân theo qui tŕnh như sau: trước hết bạn hăy chọn những tư tưởng mà bạn cho phép nó ở lại trong cái trí ḿnh; bất cứ khi nào bạn thấy trong trí ḿnh có một tư tưởng tốt th́ bạn hăy lưu luyến nó, nuôi dưỡng nó, củng cố nó, ra sức đầu tư cho nó nhiều hơn mức ban đầu rồi phóng nó ra làm một tác nhân ban phúc chuyển sang cơi trung giới; khi bạn thấy trong trí ḿnh có một tư tưởng ác th́ bạn hăy tống nó ra nhanh đến mức có thể tưởng tượng được. Hiện nay th́ bạn thấy rằng khi ḿnh hoan nghênh trong trí ḿnh có những tư tưởng tốt và hữu ích, cũng như từ chối cho tạm trú những tư tưởng ác th́ sẽ xuất hiện kết quả sau đây: càng ngày các tư tưởng tốt từ bên ngoài càng tuôn vào trong trí bạn và càng ngày các tư tưởng ác càng ít tuôn vào nó. Tác dụng của việc khiến cho trí ḿnh có đầy tư tưởng tốt đẹp và hữu ích ắt là: cái trí sẽ đóng vai tṛ một nam châm thu hút mọi tư tưởng tương tự xung quanh bạn; c̣n khi bạn từ chối không cho tư tưởng ác neo đậu vào trí bạn th́ những tư tưởng nào đến gần bạn sẽ bị chính cái trí tự động đẩy lùi. Thể trí phải có đặc tính thu hút mọi tư tưởng tốt từ môi trường xung quanh và đẩy lùi mọi tư tưởng ác, nó sẽ tác động lên tư tưởng tốt khiến cho tư tưởng tốt chủ động hơn và nhờ thế thường xuyên thu thập được một khối vật liệu trí tuệ để h́nh thành nên nội dung của ḿnh, và cứ mỗi năm trôi qua th́ nó lại càng phong phú hơn. Khi cuối cùng đă đến lúc con người rũ bỏ thể vía và thể xác để chuyển vào cơi trí tuệ th́ y sẽ mang theo ḿnh trọn cả khối vật liệu được thu gom đó; y sẽ mang theo ḿnh nội dung tâm thức nhập vào cái cơi thuộc riêng nó và y sẽ sử dụng sinh hoạt trên cơi Devachan để tôi luyện nó thành ra năng khiếu bằng trọn cả khối vật liệu mà nó đă thu gom được.

Đến khi hết thời kỳ Devachan th́ thể trí sẽ bàn giao cho thể nguyên nhân trường tồn những đặc trưng đă được tôi luyện như thế để cho chúng có thể được mang sang kiếp tới. Khi con người tái sinh luân hồi th́ các năng khiếu này sẽ khoác lấy vật chất thuộc cơi sắc giới của cơi trí tuệ, tạo thành thể trí có tổ chức cao hơn và phát triển cao hơn cho kiếp sắp tới trên trần thế; chúng sẽ bộc lộ qua thể vía và thể xác thành các “năng khiếu bẩm sinh”, những năng khiếu mà đứa bé mang theo khi đến với thế giới này. Trong kiếp hiện tại, chúng ta đang thu gom vật liệu theo cách thức mà tôi đă phác họa; trong sinh hoạt trên cơi Devachan, chúng ta tôi luyện những vật liệu này, biến chúng từ những nỗ lực riêng rẽ thành ra năng lực tư duy, thành ra các hoạt động và năng khiếu trí tuệ. Đó là sự thay đổi vô cùng to lớn được thực hiện trong sinh hoạt nơi cơi Devachan và xét v́ nó chỉ bị hạn chế do việc chúng ta sử dụng kiếp sống trên cơi trần, cho nên bây giờ chúng ta không nên dè sẻn nỗ lực. Thể trí trong kiếp tới tùy thuộc vào công tŕnh mà chúng ta đang thực hiện trong thể trí của kiếp này; vậy là ở đây lại có tầm quan trọng bao la cho cơ tiến hóa của con người khi y đang sử dụng thể trí hiện nay; việc sử dụng đó sẽ hạn chế hoạt động của y nơi Devachan, và do hạn chế những hoạt động đó nó cũng hạn chế luôn những phẩm chất trí tuệ mà y sẽ mang theo khi tái sinh luân hồi trong kiếp tới. Chúng ta không thể tách rời kiếp này ra khỏi kiếp kia, cũng không thể tạo ra một điều ǵ đó từ hư vô một cách mầu nhiệm. Nghiệp báo mang lại vụ gặt tùy theo cái mà chúng ta gieo cấy: được vụ mùa hay mất mùa tùy theo công cày sâu cuốc bẫm và gieo giống của người canh tác.

Tác động tự động của thể trí mà ta nói trên đây, có lẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta xét tới bản chất của các vật liệu mà nó rút ra để kiến tạo thể trí. Trí tuệ Vũ trụ (thể trí liên kết với trí tuệ vũ trụ xét về bản chất thâm sâu nhất) là kho chứa mà nó rút ra các vật liệu khi xét về khía cạnh vật chất. Những vật liệu này làm nảy sinh đủ thứ rung động có phẩm chất và năng lực biến thiên tùy theo các tổ hợp được tạo ra. Thể trí tự động rút về ḿnh (từ cái kho chứa chung đó) vật chất có thể duy tŕ được những tổ hợp đă tồn tại bên trong thể trí, v́ trong thể trí cũng như trong thể xác các hạt thường xuyên thay đổi, và hạt nào vừa rời chỗ th́ bị những hạt tương tự chiếm chỗ ngay. Nếu con người thấy rằng ḿnh có những khuynh hướng xấu và khởi sự công tŕnh cải tạo chúng th́ y bèn lập nên một tập hợp rung động mới, và thể trí (vốn được khuôn đúc để đáp ứng với những rung động cũ) sẽ chống lại khuynh hướng mới, thế là có sự xung đột và đau khổ. Nhưng dần dần khi các hạt cũ bị tống ra ngoài và bị thế chỗ bằng những hạt khác đáp ứng với những rung động mới – những hạt này bị hút từ bên ngoài vào v́ chúng có khả năng hưởng ứng với những rung động mới – th́ thể trí bèn thay đổi tính cách; thật ra th́ nó thay đổi vật liệu và các rung động của nó trở nên đối nghịch với những điều ác và thu hút điều thiện. V́ thế cho nên vạn sự khởi đầu nan do bị cái khía cạnh h́nh tướng cổ hủ của cái trí chận đánh phủ đầu; v́ thể cho nên khi cái h́nh tướng cũ đă thay đổi rồi th́ việc suy nghĩ đúng đắn càng ngày càng dễ và cuối cùng là sự hồn nhiên và vui sướng đi kèm theo cách vận hành mới.

Một cách khác để giúp cho việc tăng trưởng thể trí là thực hành việc định trí; nghĩa là gom cái trí lại cố định nơi một điểm và giữ vững nó ở đó, không cho nó trôi dật dờ hoặc lang thang. Chúng ta nên rèn luyện ḿnh suy nghĩ kiên định và có thứ tự, không để cho cái trí đột ngột nhảy từ chuyện này sang chuyện khác, không hao tán năng lượng vào một số lớn những tư tưởng không quan trọng. Việc thực hành đúng đắn là phải theo đuổi một đường lối lập luận có thứ tự trong đó tư tưởng này tự nhiên là nảy sinh ra từ tư tưởng khác có trước nó dần dần phát triển nơi chúng ta những phẩm chất trí thức khiến cho tư tưởng của chúng ta có thứ tự và do đó cốt yếu là hợp lư. Đó là v́ khi cái trí hoạt động như vậy th́ tư tưởng này nối tiếp tư tưởng kia theo một tŕnh tự xác định ngăn nắp, nó tăng cường bản thân là một công cụ để Chơn ngă hoạt động trong thế giới trí tuệ. Sự phát triển năng lực suy tư này bằng cách định trí theo thứ tự ắt biểu lộ thành một thể trí có đường nét rơ ràng và xác định hơn, nó tăng trưởng càng ngày càng nhanh về mặt kiên định và thăng bằng, những nỗ lực đó sẽ được đền đáp xứng đáng do sự tiến bộ là kết quả của chúng.

 

(b) Thể Nguyên Nhân

 

Bây giờ chúng ta hăy chuyển sang thể trí thứ nh́ mà chúng ta biết với tên gọi riêng biệt là thể nguyên nhân. Tên gọi này là do sự kiện mọi nguyên nhân đều ở nơi thể này rồi biểu lộ thành những hậu quả ở các cơi thấp. Thể này là “thể Thựong trí”, khía cạnh h́nh tướng của Chơn ngă, tức Chơn nhơn. Đó là nơi tiếp nhận, kho chứa mọi kho tàng của con người trong thời gian vĩnh hằng; nó tăng trưởng khi bản chất thấp hèn càng ngày càng giao nộp nhiều thứ xứng đáng để kiến tạo vào cấu trúc của nó. Thể nguyên nhân là thể mà mọi thứ khi được dệt vào trong đó đều có thể trường tồn, nó có chứa đựng mầm mống của mọi phẩm chất được truyền thừa sang kiếp tới. Như vậy những biểu lộ bên dưới hoàn toàn tùy thuộc vào sự tăng trưởng và phát triển của Chơn nhơn v́ “chưa đến lúc đấy thôi”.

Như ta có nói trên kia, thể nguyên nhân là khía cạnh h́nh tướng của Chơn ngă. Ở dưới đây v́ chúng ta chỉ xét tới chu kỳ hiện nay của loài người, cho nên chúng ta có thể nói rằng khi chưa có thể nguyên nhân th́ chưa có chơn nhơn; có thể có những đền thờ tạm trên cơi trần trọng trược và cơi dĩ thái được chuẩn bị cho chơn nhơn cư trú; những đam mê, xúc động và khao khát có thể dần dần được thu gom lại để tạo thành bản chất dục vọng nơi thể vía; nhưng không có chơn nhơn khi chưa hoàn tất được sự tăng trưởng qua các cơi trần và cơi trung giới, và khi vật chất của cơi trí tuệ chưa bắt đầu bộc lộ ra bên trong các hạ thể đang tiến hóa. Khi do quyền năng của Chơn ngă chuẩn bị chỗ ở của chính ḿnh, vật chất của cơi trí tuệ bắt đầu chậm chạp tiến hóa th́ từ đại dương lớn Ātmā–Buddhi (vốn bao giờ cũng giám sát sự tiến hóa của con người) có một sự tuôn xuống và có thể nói là luồng tuôn xuống này gặp luồng phát triển dâng lên làm cho vật liệu trí tuệ được mở mang ra, bước vào hiệp nhất với nó, làm cho nó được đơm hoa kết trái, và vào lúc hiệp nhất đó th́ thể nguyên nhân, tức chơn ngă được tạo thành. Những người có thể nh́n thấy ở các cơi cao tột này bảo rằng khía cạnh h́nh tướng của chơn nhơn giống như một lớp phim thanh bai bằng vật chất tinh vi nhất mà ta chỉ thoáng thấy được, nó đánh dấu mức độ chơn ngă bắt đầu sinh hoạt riêng biệt, lớp phim không màu sắc, thanh bai đó bằng vật chất tinh vi chính là cái hiện thể trường tồn qua trọn cả cơ tiến hóa của con người, là sợi chỉ xuyên suốt mọi kiếp sống, là Sūtrātmā luân hồi, tức hồn dây (thread self). Đó là nơi tiếp nhận mọi thứ phù hợp với Thiên luật, tiếp nhận mọi thuộc tính cao cả và hài ḥa, do vậy trường tồn. Nó là điều đánh dấu sự tăng trưởng của con người, tŕnh độ tiến hóa mà y đă đạt được. Mọi tư tưởng thanh cao và vĩ đại, mọi xúc động cao thượng và thanh khiết đều được đưa lên trên và tôi luyện thành ra chất liệu của nó.

Chúng ta hăy xem cuộc đời của một người b́nh thường để coi cuộc đời đó chuyển lên trên được bao nhiêu thứ nhằm xây dựng thể nguyên nhân, và chúng ta hăy tưởng tượng phác họa nó là một lớp phim mỏng manh, nó được củng cố và làm cho đẹp đẽ lên bằng màu sắc, làm cho linh hoạt lên bằng sinh hoạt, làm cho chói sáng và rực rỡ, gia tăng kích thước khi con người tăng trưởng và phát triển. Ở giai đoạn tiến hóa thấp, y không bộc lộ nhiều phẩm chất trí tuệ mà đúng hơn là y biểu lộ nhiều đam mê, nhiều khao khát. Y cảm nhận được các cảm giác và mưu t́m chúng; y hướng về những sự vật đó. Dường như thể sự sống nội tâm của chơn nhơn cũng đầu tư một chút vật chất thanh bai cấu tạo nên ḿnh để cho thể trí tập hợp xung quanh đó; thể trí lại đầu tư vào cơi trung giới để tiếp xúc ở đó với thể vía và liên kết với nó sao cho tạo ra một nhịp cầu khiến cho bất cứ thứ nào có thể băng qua đều vượt qua được. Nhờ cây cầu này chơn nhơn phóng tư tưởng xuống thế giới cảm giác, đam mê, sinh hoạt thú tính và những tư tưởng cũng trộn lẫn với mọi xúc động và đam mê đầy thú tính này. Thế là thể trí đâm ra vướng mắc với thể vía, chúng câu kết với nhau đến mức khó ḷng tách ra được khi tới lúc chết. Nhưng nếu trong cuộc đời trải qua ở các cơi thấp, con người có một tư tưởng vị tha, một tư tưởng phụng sự một người nào đó mà ḿnh yêu thương, hi sinh một điều nào đó để phục vụ cho bạn ḿnh th́ bấy giờ y đă lập nên một điều nào đó có thể trường tồn, một điều nào đó có thể sống c̣n nơi cơi cao v́ đồng khí tương cầu với nó; điều đó có thể được chuyển lên trên tới thể nguyên nhân (thượng trí) và được tôi luyện thành ra chất liệu của nó, khiến cho nó đẹp đẽ hơn và có lẽ lần đầu tiên có được chút ít màu sắc chấm phá; có lẽ suốt cả đời của một người chỉ có một vài sự việc có thể trường tồn được dùng để làm thực phẩm cho chơn nhơn tăng trưởng. Như vậy sự tăng trưởng rất chậm chạp v́ trọn cả phần c̣n lại của cuộc đời y chẳng giúp ǵ được vào điều đó; mọi khuynh hướng ác của y nảy sinh do vô minh và được cấp dưỡng do vận dụng, đều có mầm mống bị thu rút vào trong biến thành tiềm tàng khi thể vía (vốn là nơi trú ẩn của chúng và mang lại h́nh dạng của chúng) phải bị tiêu tan nơi cơi trung giới; chúng lại bị thu rút vào trong thể trí nằm tiềm tàng ở đó v́ thiếu vật liệu để biểu hiện được trên cơi Devachan; khi đến lượt thể hạ trí cũng bị tiêu diệt th́ chúng lại bị thu rút vào trong thể nguyên nhân và vẫn nằm tiềm tàng trong đó ở trạng thái bị đ́nh chỉ sinh hoạt. Khi Chơn ngă tái sinh luân hồi trên trần thế và đă đạt tới cơi trung giới th́ chúng lại được bung ra tái xuất ở đó thành ra các khuynh hướng ác được kế thừa từ quá khứ. Như vậy ta có thể nói, thể nguyên nhân là kho chứa cả điều thiện lẫn điều ác vốn là tất cả những ǵ c̣n lại của phàm nhơn sau khi các hạ thể đă tan ră, nhưng điều thiện th́ được tôi luyện vào kết cấu của nó để giúp cho nó tăng trưởng, c̣n điều ác (ngoài trừ trường hợp được nêu ra dưới đây) vẫn tiềm tàng dưới dạng chủng tử.

Nhưng điều ác mà người ta thực hiện trên đời, khi thực hiện tư tưởng của ḿnh, không phải chỉ gây hại cho thể nguyên nhân qua việc nằm tiềm tàng trong đó dưới dạng chủng tử của tội lỗi và phiền năo trong tương lai. Điều ác chẳng những không giúp cho sự tăng trưởng của chơn nhơn mà bởi v́ vật liệu của chơn nhơn vốn tinh vi và trường tồn cho nên nếu được phép biểu hiện ra th́ điều ác c̣n trấn lột hết một thứ ǵ đó của chính chơn ngă. Nếu thói xấu cứ tiếp diễn măi, nếu ta cứ không ngừng theo đuổi điều ác, th́ thể hạ trí đâm ra câu kết với thể vía đến nỗi sau khi con người chết đi thể hạ trí không thể hoàn toàn giải thoát được mà một số vật liệu của chính nó cũng bị trấn lột, và khi thể vía bị tan ră th́ lượng vật liệu bị trấn lột này được trả về cho kho vật liệu trí tuệ của cơi trí tuệ và chơn ngă bị mất trắng lượng vật liệu đó. Bằng cách này nếu chúng ta lại nghĩ tới h́nh ảnh về một lớp phim hoặc một màng bọt, th́ trong một chừng mực nào đó do lối sống tội lỗi ta chẳng những làm tŕ trệ sự phát triển của chơn ngă mà c̣n làm cho lớp phim hoặc màng bọt đó mỏng đi dường như thể vật liệu kiến tạo nên nó đâm ra khó được xây dựng hơn. Theo một cách nào đó, dường như thể lớp phim này đă bị ảnh hưởng về năng lực tăng trưởng, nó đă bị tuyệt chủng hoặc teo tóp đi đến một mức nào đó. Ngoài chuyện này ra th́ trong những t́nh huống b́nh thường, điều tai hại gây ra cho thể nguyên nhân không có ǵ hơn nữa.

Nhưng khi Chơn ngă đă trở nên dũng mănh cả về trí năng lẫn ư chí mà đồng thời lại không gia tăng ḷng vị tha và t́nh thương th́ nó co rút lại quanh cái trung tâm biệt lập của ḿnh thay v́ bành trướng ra khi tăng trưởng, nó xây dựng một bức vách ích kỷ xung quanh ḿnh, sử dụng những quyền năng phát triển được để phục vụ “Bản ngă” thay v́ phục vụ chúng sinh; trong trường hợp đó có khả năng xảy ra điều mà biết bao nhiêu thánh kinh trên thế giới có ám chỉ; đó là điều ác thâm căn cố đế và nguy hiểm khi Bản ngă cố t́nh chống lại Thiên luật, cố ư chống lại cơ tiến hóa. Lúc bấy giờ, thể nguyên nhân được đào luyện do những rung động của trí năng và ư chí trên cơi trí tuệ nhưng cả hai đều xoay chuyển phục vụ cho các mục đích ích kỷ th́ thể nguyên nhân phô bày ra những màu sẫm do kết quả của sự co rút lại, mất đi sự chói lọi làm lóa mắt vốn là đặc trưng của nó. Sự tai hại như thế không thể được thực hiện do một Chơn ngă kém phát triển cũng như do những lỗi lầm b́nh thường về đam mê hoặc trí tuệ; để gây ra tai hại có tầm mức rộng lớn như thế, Chơn ngă phải tiến hóa cao và có năng lực mạnh mẽ trên cơi trí tuệ. V́ vậy, chính tham vọng, ḷng kiêu ngạo và quyền năng trí thức được dùng v́ những mục đích ích kỷ mới nguy hiểm hơn hẳn, mới có hậu quả chết người hơn hẳn so với những lỗi lầm rành rành hơn của những bản chất thấp hèn. Và những môn đồ ngụy quân tử “Pharisi” thường thường lại xa rời “cơi giới Thiên đường” hơn là “kẻ thu thuế và kẻ tội lỗi”. Nhà “tà thuật” phát triển theo đường lối này, người này đă chế ngự được đam mê và dục vọng, đă phát triển được ư chí và quyền năng cao siêu của hạ trí nhưng không vui ḷng hiến dâng chúng để trợ giúp cho cơ tiến hóa của tổng thể, mà chỉ để chụp giựt tất cả những ǵ có thể phục vụ cho bản thân ḿnh, chỉ chiếm giữ chứ không chia xẻ. Những người ấy tự ḿnh duy tŕ thái độ chia rẽ chống lại sự hiệp nhất, họ phấn đấu để làm tŕ trệ thay v́ xúc tiến cơ tiến hóa: do đó họ rung động bất ḥa với tổng thể thay v́ hài ḥa với tổng thể, và nảy ra nguy cơ xé toạc Chơn ngă, nghĩa là bị mất trắng mọi thành quả tiến hóa.

Tất cả chúng ta khi bắt đầu hiểu được một điều ǵ đó về thể nguyên nhân đều có thể đặt mục đích nhất định của đời ḿnh là phải làm cho nó tiến hóa; chúng ta phải phấn đấu suy nghĩ không ích kỷ để đóng góp cho sự tăng trưởng và hoạt động của nó. Hết kiếp này sang kiếp khác, hết thế kỷ này sang thế kỷ khác, hết thiên niên kỷ này sang thiên niên kỷ khác, cơ tiến hóa vẫn được xúc tiến và khi giúp cho nó tăng trưởng bằng nỗ lực hữu thức th́ chúng ta đang làm việc hài ḥa với ư chí của Thượng Đế và thực thi chủ đích khiến chúng ta có mặt nơi đây. Không một điều ǵ tốt đẹp đă từng được dệt vào kết cấu của thể nguyên nhân này mà lại mất đi, không điều ǵ bị tiêu tan v́ chơn ngă sống đời đời trong đó.

Như vậy, chúng ta thấy rằng theo luật tiến hóa, mọi điều ác cho dù nhất thời có thể mạnh đến đâu đi chăng nữa cũng dường như chất chứa nơi bản thân mầm mống để tự hủy diệt ḿnh, c̣n mọi điều tốt đẹp đều hàm chứa nơi bản thân hạt giống bất tử. Bí quyết của điều này vốn ở nơi sự thật là mọi điều ác đều có tính cách không hài ḥa, tự nó đă chống lại định luật vũ trụ; v́ vậy sớm muộn ǵ nó cũng bị định luật đè bẹp, xé tan ra thành từng mảnh, nghiền nát thành tro bụi. Mặt khác, mọi điều thiện đều hài ḥa với thiên luật nên được nương theo nó, được nó kéo đi để trở thành một bộ phận của ḍng tiến hóa, nghĩa là “đâu phải tự chúng ta làm ra điều công chính”, v́ vậy nó không thể bị tiêu diệt, không thể bị hủy hoại. Đây không thể chỉ là niềm hi vọng của con người mà c̣n là sự chắc chắn của chiến thắng tối hậu của y; cho dù sự tăng trưởng chậm chạp đến đâu đi nữa th́ nó vẫn có; cho dù đường đi có dài đến đâu đi nữa th́ nó cũng phải chấm dứt. Chơn ngă vốn đang tiến hóa và bây giờ không điều ǵ có thể bị hoàn toàn tiêu diệt, ngay cả khi do điên rồ chúng ta khiến cho sự tăng trưởng chậm chạp hơn mức lẽ ra nó đă đạt được, song le mọi thứ mà chúng ta đóng góp vào đó cho dù nhỏ bé đến đâu đi nữa cũng trường tồn măi măi, và chúng ta vẫn sở hữu được nó trong suốt mọi giai đoạn vị lai.


 lời đầu  đầu sách cuối sách  xác  vía  trí   hiện thể khác  hào quang  chơn nhơn  mục lục

 

CÁC HIỆN THỂ KHÁC

 

Chúng ta có thể thăng lên một mức nữa, nhưng khi làm như thế, chúng ta nhập vào một vùng cao siêu đến nỗi hầu như vượt khỏi mức mà chúng ta đạt tới, ngay cả khi chỉ tưởng tượng thôi. Đó là v́ thể nguyên nhân không phải là thể cao nhất, và “Chơn ngă” không phải là Thượng trí mà là Thượng trí kết hợp và hiệp nhất với Buddhi. Đây là đỉnh cao trong cơ tiến hóa của con người, kết thúc ṿng sinh tử luân hồi. Vượt trên cơi mà chúng ta vừa bàn tới c̣n có một cơi cao hơn đôi khi được gọi là Turīya, tức cơi Bồ đề. [Cơi này cũng được gọi là cơi Sushupti. Xem Cẩm nang số 4 và số 5]. Ở đây hiện thể của tâm thức là thể tâm linh Ānandamayakosha, tức thể cực lạc; các đạo sĩ Yoga có thể nhập vào cơi này và ở trong thể Bồ đề nếm trải cực lạc đời đời của cơi huy hoàng ấy, thực chứng nơi tâm thức của chính ḿnh sự đơn nhất căn bản, lúc bấy giờ trở thành một sự thật mà họ trải nghiệm chứ không c̣n là niềm tin của cái trí. Chúng ta có thể đọc thấy tới lúc con người đă tăng trưởng về t́nh thương, minh triết và quyền năng để trải qua một cánh cổng rộng lớn, đánh dấu một giai đoạn nhất định trong cơ tiến hóa của ḿnh. Đó là cánh cổng Điểm đạo và con người lần đầu tiên được Chơn sư nâng lên vượt qua cửa Điểm đạo để nhập vào thể tâm linh, trải nghiệm trong đó sự đơn nhất vốn là nền tảng của mọi sự đa dạng trong cơi hồng trần, sự riêng rẽ của cơi trần là cơ sở cho sự biệt lập thuộc cơi trung giới và ngay cả của cơi trí tuệ nữa. Khi con người đă bỏ lại đằng sau ḿnh tất cả những thứ này, khoác lấy thể tâm linh để vượt lên trên chúng th́ lần đầu tiên y trải nghiệm được sự thật tính riêng rẽ chỉ thuộc về ba cơi thấp thôi; y hiệp nhất với mọi người khác nhưng lại không mất đi ngă thức của ḿnh, tâm thức của y có thể mở rộng ra bao trùm tâm thức của những người khác, và quả thật là nhập một với những tâm thức khác. Đó là sự đơn nhất mà chơn nhơn luôn luôn khao khát, sự đơn nhất mà chơn nhơn cảm thấy là sự thật nhưng đă hoài công cố gắng thực chứng nơi các cơi thấp; trên cơi này sự đơn nhất đó được thực chứng vượt ngoài những giấc mơ cao siêu nhất của y và toàn thể nhân loại đều tỏ ra hiệp nhất với Tự ngă thâm sâu nhất của y.

 

Các thể tạm bợ

 

Trong khi điểm lại các hạ thể của con người, chúng ta không thể bỏ qua một vài hiện thể khác vốn chỉ tạm bợ thôi và xét theo tính chất th́ có thể được gọi là nhân tạo. Khi người ta bắt đầu thoát ra khỏi được thể xác th́ y có thể sử dụng thể vía, nhưng chừng nào y c̣n hoạt động trong thể vía th́ y c̣n bị hạn chế vào cơi trung giới. Tuy nhiên y có thể sử dụng thể Hạ trí để nhập vào cơi trí tuệ, khi ở trong thể này y có thể lướt qua các cơi trung giới và hồng trần mà không bị chướng ngại. Cái thể được sử dụng như vậy thường được gọi là Māyāvi Rūpa, tức ảo thân, có thể nói đó là thể hạ trí được sắp xếp lại để hoạt động riêng rẽ. Con người uốn nắn thể trí thành ra giống như ḿnh, theo h́nh ảnh của ḿnh để rồi khi ở trong cái thể nhân tạo tạm bợ này, y tha hồ vân du trong ba cơi, vượt cao hơn những giới hạn thông thường của con người. Trong sách vở Thông Thiên Học thường nói tới thể nhân tạo này, khi ở trong đó người ta có thể du hành từ xứ này sang xứ kia, cũng như nhập vào cơi trí tuệ để học ở đó những sự thật mới, thu lượm kinh nghiệm mới và mang những kho tàng thu gom ở đó về cho ư thức tỉnh táo. Việc dùng cái thể cao siêu này có lợi điểm ở chỗ nó không phải chịu sự hăo huyền, bị lừa gạt ở cơi trung giới giống như đối với thể vía. Các giác quan của thể vía không điêu luyện thường gây hiểu lầm và cần có nhiều kinh nghiệm th́ mới có thể tin cậy được những tường tŕnh của giác quan thể vía, nhưng cái thể trí được tạo ra tạm bợ này th́ không phải chịu những điều lầm lạc như thế; nó thấy là thấy đúng, nó nghe là nghe đúng; không một hăo huyền nào của cơi trung giới có thể chế ngự được nó, không một ảo giác nào của cơi trung giới có thể lừa gạt được nó. V́ thế những người nào đă lăo luyện trong việc vân du như thế đều thích dùng thể này, khi cần th́ tạo ra nó rồi đến khi đă phục vụ xong mục đích th́ lại rũ bỏ nó. Bằng cách đó học viên thường học được những bài học mà bằng không y chẳng hề đạt được và nhận được các giáo huấn mà bằng không y hoàn toàn bị bít lối.

Các thể tạm bợ khác cũng được gọi là Māyāvi Rūpa, nhưng tốt hơn dường như ta nên hạn chế thuật ngữ này dùng để chỉ thể tạm bợ vừa nêu. Một người có thể xuất hiện ở cách xa thể xác, đó thật ra chỉ là một h́nh tư tưởng hơn là một hiện thể của tâm thức, đó là tư tưởng khoác lấy chất tinh hoa ngũ hành của cơi trung giới. Theo thông lệ th́ các thể này chỉ là những hiện thể của một tư tưởng đặc thù nào đó, một ư chí đặc biệt nào đó, ngoài ra nó không biểu lộ ư thức ǵ cả. Ta chỉ cần nhắc sơ qua chúng là đủ.


 lời đầu  đầu sách cuối sách  xác  vía  trí   hiện thể khác  hào quang  chơn nhơn  mục lục
 

Hào quang của con người

 

Bây giờ ta mới ở vào vị trí hiểu được hào quang của con người thực sự là ǵ theo nghĩa trọn vẹn nhất. Chính Chơn nhơn biểu lộ cùng một lúc trên cả bốn cơi của tâm thức và khả năng hoạt động trong mỗi cơi đó đều tùy theo sự phát triển của Chơn nhơn; đó là khối tập hợp các hạ thể của Chơn nhơn, là các hiện thể tâm thức của Chơn nhơn; nói tóm lại là khía cạnh h́nh tướng của Chơn nhơn. Chúng ta nên coi hào quang là như thế chứ không chỉ là cái vành hoặc đám mây bao xung quanh y. Rực rỡ nhất trong tất cả là thể tâm linh mà chỉ có các Điểm đạo đồ mới thấy được, lửa sống động của ātma hoạt động thông qua đó; đây là biểu lộ của Chơn nhơn trên cơi Bồ đề. Rồi tới thể nguyên nhân, biểu lộ của Chơn nhơn trên cơi Thượng trí, tức các cơi vô sắc giới thuộc cơi trí tuệ, Chơn ngă đóng đô ở đây. Kế đến là thể trí thuộc về cơi hạ trí, rồi lần lượt tới thể vía, thể phách và xác phàm, mỗi thể được tạo thành bằng vật chất thuộc cơi của riêng ḿnh và biểu hiện chơn nhơn khi chơn nhơn ở trong mỗi hạ thể đó. Khi học viên quan sát một người th́ y trông thấy tất cả các thể này hợp lại thành chơn nhơn, bộc lộ riêng rẽ qua các cấp vật chất khác nhau và đánh dấu tŕnh độ phát triển mà con người đă đạt tới. Khi phát triển được tầm nh́n cao siêu th́ học viên thấy mỗi một thể này đều hoạt động náo nhiệt. Y nh́n thấy thể xác là một loại kết tinh trọng trược ở trung tâm của các thể kia, những thể kia thấm nhuần thể xác và ló ra ngoài chu vi thể xác, thể xác chiếm phần không gian nḥ nhất. Kế tới là thể vía biểu thị t́nh trạng bản chất dục vọng vốn tạo thành một bộ phận lớn lao của người b́nh thường đến nỗi nó chứa đầy đam mê, xúc động và khao khát thấp hèn của con người; nó có màu sắc và sự tinh vi khác nhau tùy theo con người thuộc loại thanh bai hoặc thô kệch: rất trọng trược nơi những người lỗ măng, tinh vi hơn nơi những kẻ thanh lịch hơn và tinh vi nhất nếu người đó tiến hóa cao. Rồi tới thể hạ trí vốn phát triển kém nơi đại đa số mọi người nhưng cũng đẹp mắt nơi nhiều người, có màu sắc biến thiên rất nhiều tùy theo loại h́nh tâm trí và đạo đức. Rồi tới thể nguyên nhân (Thượng trí) mà người ta khó nh́n thấy nhất nơi hầu hết mọi người, chỉ nh́n thấy được nếu khảo sát tỉ mỉ con người v́ nó c̣n phát triển rất kém, c̣n tương đối mảnh mai, màu sắc thô thiển, hoạt động bạc nhược. Nhưng khi ta quan sát một người tiến hóa cao th́ chính thể này đập ngay vào mắt ta, là sự tŕnh hiện nổi bật nhất của con người; nó có ánh sáng rực rỡ, màu sắc huy hoàng và thanh bai với những sắc thái khôn tả v́ trong quang phổ trên trần thế không có; cái sắc thái này chẳng những tinh anh và đẹp đẽ nhất mà c̣n khác hẳn màu sắc ta biết trên cơi thấp, là những màu bổ sung cho thấy con người ở các cơi cao đă phát triển được những phẩm chất và quyền năng cao siêu hơn tồn tại trên đó. Nếu ta có diễm phúc được tận mắt nh́n vào hào quang của một trong các Đấng Cao Cả th́ Ngài xuất hiện dưới một dạng sống động dũng mănh, với sức sống và màu sắc chói lọi, rực rỡ biểu lộ bản chất của Ngài qua dáng vẻ bên ngoài: đẹp khôn tả và huy hoàng không thể tưởng tượng nổi. Thế nhưng Ngài hiện nay ra sao th́ tất cả mọi người  sẽ trở thành như vậy trong một ngày nào đó ở tương lai, những ǵ mà hiện nay Ngài thành tựu được th́ mọi con người đều có khả năng thành tựu được trong tương lai.

Có một điều về hào quang mà tôi xin nhắc tới, coi đó là một điều thực tiễn có lợi. Chúng ta trong một chừng mực khá lớn có thể bảo vệ ḿnh chống lại sự xâm nhập của các tư tưởng từ bên ngoài bằng cách tạo ra một bức vách h́nh cầu bằng chất liệu hào quang bao xung quanh ḿnh. Hào quang rất dễ dàng đáp ứng với xung lực của tư tưởng và nếu khi cố gắng tưởng tượng chúng ta h́nh dung bờ mép ngoài của nó bị đóng cứng thành ra một lớp vỏ th́ chúng ta đă thực sự tạo ra một bức vách bảo vệ xung quanh ḿnh. Lớp vỏ này sẽ ngăn cản không cho các tư tưởng dật dờ xâm nhập vào; những tư tưởng đó vốn đầy dẫy trong bầu không khí của cơi trung giới, nhờ vậy ta ngăn ngừa được tác dụng gây nhiễu của những tư tưởng đó đối với cái trí chưa điêu luyện. Đôi khi chúng ta cảm thấy ḿnh bị rút sinh lực, nhất là khi chúng ta tiếp xúc với những người vô h́nh trung giống như ma cà rồng hút sinh lực của người lân cận, th́ ta cũng có thể tự vệ bằng cách tạo ra một lớp vỏ; bất cứ người nào nhạy cảm và thấy ḿnh bị kiệt sức như thế do bị hút sinh lực th́ nên khôn ngoan tự vệ như vậy. Chính quyền năng của tư tưởng con người đối với vật chất tinh vi khiến cho việc nghĩ tới ḿnh ở trong một lớp vỏ như thế th́ cũng khiến nó tạo ra xung quanh bạn.

Khi nh́n vào những người xung quanh ta ở mọi phía, chúng ta thấy họ ở đủ mọi tŕnh độ phát triển, bộc lộ qua các hạ thể tùy theo tŕnh độ tiến hóa mà họ đạt được, sống trên hết cơi này tới cơi khác của vũ trụ, hoạt động nơi cơi này rồi tới cơi khác trong khi đang phát triển những hiện thể tương ứng của tâm thức. Hào quang của chúng ta sẽ tŕnh hiện thực chất của chúng ta, chúng ta góp thêm vào nó khi chúng ta tăng trưởng với sinh hoạt chân chính, chúng ta tẩy trược nó khi chúng ta sống một cuộc đời cao thượng và trong sạch; chúng ta dệt vào đó những phẩm chất càng ngày càng cao siêu hơn.

Liệu có thể có bất cứ triết lư sống nào đầy hi vọng, đầy sức mạnh và đầy hoan lạc hơn triết lư sống này chăng? Khi chỉ quan sát thế giới loài người bằng mắt phàm không thôi th́ chúng ta thấy nó bị suy thoái, khốn khổ, xét theo biểu kiến là vô vọng; nh́n bằng mắt phàm th́ đúng là như thế. Nhưng cũng cái thế giới loài người ấy xuất hiện trước mắt chúng ta với một khía cạnh khác hẳn khi chúng ta quan sát bằng tầm nh́n cao siêu hơn. Thật ra th́ chúng ta vẫn thấy sự phiền năo và khốn khổ, chúng ta vẫn thấy sự suy thoái của sắc tướng nhưng chúng ta biết rằng chúng chỉ phù du tạm bợ thôi, chúng thuộc về giai đoạn ấu trĩ của loài người và thế nào th́ loài người cũng vượt qua được chúng. Khi quan sát những người thấp hèn nhất, những kẻ thoái hóa và tàn bạo nhất, chúng ta vẫn c̣n có thể thấy được những khả năng thiêng liêng của họ, chúng ta vẫn c̣n nhận ra được mức mà họ sẽ đạt được trong những năm tháng sắp tới. Đó là thông điệp đầy hi vọng mà Thông Thiên Học mang lại cho thê giới phương Tây. Thông điệp cứu chuộc toàn cầu thoát khỏi sự vô minh, do đó giải thoát toàn cầu khỏi sự khốn khổ; không phải trong giấc mơ mà trong hiện thực, không phải trong niềm hi vọng mà là trong xác tín. Mọi người mà cụôc đời ḿnh đều bộc lộ sự tăng trưởng, th́ có thể nói, đó là một sự thực chứng mới mẻ và sự thực thi thông điệp ấy; bất cứ nơi đâu mà những trái ngọt đầu tiên đang xuất hiện th́ nơi đó trọn cả thế giới sẽ một ngày kia chín muồi với vụ gặt bội thu, và sẽ thành tựu được mục đích mà Thượng Đế đă khai sinh ra nó.


 lời đầu  đầu sách cuối sách  xác  vía  trí   hiện thể khác  hào quang  chơn nhơn  mục lục

 

CHƠN NHƠN

 

Bây giờ chúng ta chuyển sang xét tới chính Chơn nhơn chứ không c̣n nghiên cứu các hiện thể tâm thức mà nghiên cứu tác động của tâm thức lên những hiện thể đó, không c̣n quan sát các hạ thể mà quan sát chính thực thể hoạt động trong đó. Khi dùng từ “Chơn nhơn” tôi ngụ ư cái cá thể liên tục chuyển từ kiếp này sang kiếp khác, nhập vào các hạ thể rồi lại bỏ rơi chúng, cứ lập đi lập lại như thế măi, dần dần phát triển qua các thời đại, tăng trưởng bằng cách thu lượm và đồng hóa kinh nghiệm, tồn tại trên cơi thượng trí mà ta có đề cập tới trong chương vừa qua. Chơn nhơn là đối tượng chúng ta nghiên cứu và nó phải hoạt động trên ba cơi mà giờ đây chúng ta đă quen thuộc, tức là cơi trần, cơi trung giới và cơi trí tuệ.

Con người bắt đầu kinh nghiệm bằng cách phát triển ngă thức trên cơi hồng trần; chính ở đây có xuất hiện cái mà chúng ta gọi là “ư thức tỉnh táo”, ư thức mà chúng ta đều quen thuộc, nó hoạt động thông qua bộ óc và thần kinh hệ; nhờ có nó chúng ta mới lư luận theo kiểu thông thường, mới tiến hành mọi quá tŕnh lư luận, nhờ có nó chúng ta mới nhớ được những diễn biến trong kiếp hiện hành và vận dụng được óc phán đoán trong các sự việc của kiếp sống. Mọi thứ mà chúng ta công nhận là năng lực trí tuệ của ḿnh vốn là thành quả lao động của con người trải qua các giai đoạn trước kia trong cuộc hành hương, và ngă thức của y ở đây trở nên càng ngày càng sống động, càng chủ động, càng linh hoạt, và chúng ta có thể nói rằng điều đó tùy theo sự phát triển và tiến bộ của cá thể hết kiếp này sang kiếp khác.

Nếu chúng ta nghiên cứu một người rất chậm phát triển th́ chúng ta thấy hoạt động tâm trí có ngă thức của y rất tồi tàn về chất lượng và hạn chế về số lượng. Y hoạt động thông qua thể xác nhất là qua các bộ óc của xác phàm và bộ óc của thể phách; tác động này liên tục tiếp diễn xét về trọn cả hệ thần kinh hữu h́nh cũng như vô h́nh, nhưng tác động thuộc một loại rất vụng về. Trong đó có rất ít sự phân biện, rất ít sự tế nhị do có thêm hơi hám của cái trí. Có một hoạt động tâm trí nào đó nhưng nó thuộc loại rất trẻ con hoặc ấu trĩ. Nó chỉ quan tâm tới những chuyện rất lặt vặt; nó thích thú với những diễn biến rất tầm phào; những sự việc thu hút sự chú tâm của nó toàn là những chuyện tủn mủn; nó chỉ để ư tới những sự vật thoáng qua; nó thích ngồi dựa cửa sổ nh́n ra ngoài đường phố náo nhiệt, ngắm người và xe cộ lượn qua, nhận xét về những điều đó, rất lấy làm thích thú nếu có một người ăn mặc đẹp đẽ mà lại sẩy chân ngă vào vũng nước hoặc bị một xe hơi đi ngang qua vũng nước tạt nước vào tung tóe. Nó chẳng chất chứa được bao nhiêu trong bản thân để phải bận tâm chú ư, do đó nó luôn luôn túa ra bên ngoài để cảm thấy rằng ḿnh đang sống động; đó là một trong những đặc trưng chủ yếu của tŕnh độ tiến hóa thấp về tâm trí này khi chơn nhơn hoạt động qua các thể xác và thể phách; sắp xếp chúng cho có thứ tự để trở thành các hiện thể tâm thức, luôn luôn mưu t́m cảm giác mạnh. Y cần chắc mẫm rằng ḿnh đang cảm xúc và học cách phân biệt các sự vật qua việc tiếp nhận từ chúng những cảm giác mạnh và sống động; đó là một giai đoạn tiến bộ rất cần thiết mặc dù chỉ sơ cấp thôi. Và nếu không có điều đó th́ y ắt liên tục bị rối trí, lẫn lộn giữa những quá tŕnh diễn ra bên trong cơ thể ḿnh và bên ngoài cơ thể; y phải học bộ chữ cái về bản ngă và phi ngă bằng cách phân biệt giữa những sự vật gây ra tác động và những cảm giác mà tác động gây ra, phân biệt giữa kích thước và cảm xúc. Ta có thể thấy loại người thấp nhất thuộc giai đoạn này tụ tập ở các góc đường phố, vô công rỗi nghề, ngă ngớn vào một vách tường đôi khi sa đà vào vài câu nhận xét phọt ra rồi ḅ lăn cười, lảm nhảm với những câu rỗng tuếch. Bất cứ người nào có thể nh́n vào bộ óc họ đều thấy rằng họ đang tiếp nhận những ấn tượng khá mơ hồ xuất phát từ các sự vật thoáng qua và mối liên hệ giữa những ấn tượng này với những ấn tượng khác giống như chúng thật là rất mỏng manh. Những ấn tượng đó giống như một đống sỏi hơn là một bức khảm được sắp xếp tỉ mỉ.

Khi nghiên cứu cách thức mà bộ óc phàm và óc thể phách trở thành các hiện thể của tâm thức, chúng ta phải trở lại với sự phát triển sơ khai của Ahamkāra, tức ngă thức, ta có thể thấy giai đoạn đó nơi những con thú hạ đẳng xung quanh ta. Những rung động do tác động của ngoại vật được xác lập trong bộ óc rồi nó được truyền sang cho thể vía, được tâm thức cảm thấy trong thể vía thành ra các cảm giác trước khi có bất kỳ mối liên hệ nào giữa những cảm giác này với các sự vật gây ra cảm giác, mối liên kết này vốn là một tác động nhất định của cái trí, đó là nhận thức. Khi nhận thức bắt đầu th́ tâm thức đang sử dụng bộ óc phàm và óc thể phách làm hiện thể cho ḿnh; nhờ đó nó thu thập được kiến thức từ thế giới bên ngoài. Dĩ nhiên giai đoạn này là quá khứ xa xăm đối với nhân loại, nhưng ta có thể thấy nó được lập lại một cách thoáng qua khi tâm thức tiếp quản một bộ óc mới lúc tái sinh luân hồi; đứa trẻ bắt đầu “để ư” (các cô điều dưỡng nói như thế) nghĩa là nó liên kết một cảm giác xuất hiện nơi bản thân nó với một ấn tượng được tạo ra lên trên cái vỏ tức hiện thể mới mẻ của nó do sự vật từ bên ngoài; nhờ đó nó mới “để ư” tới sự vật ấy và nhận thức được sự vật.

Chỉ sau một thời gian th́ không cần nhận thức được sự vật mà h́nh ảnh của sự vật đó vẫn có thể hiện diện trong tâm thức; tâm thức thấy ḿnh có thể nhớ lại h́nh dáng của sự vật khi nó không tiếp xúc với sự vật qua bất kỳ giác quan nào; một nhận thức được nhớ lại như thế chính là một ư tưởng, một khái niệm, một h́nh tư tưởng và những thứ này tạo thành kho chứa mà tâm thức thu lượm được từ ngoại giới. Nó bắt đầu tác động lên những thứ này và giai đoạn đầu tiên của hoạt động đó chính là việc sắp xếp các ư tưởng để chuẩn bị cho việc “lư luận” dựa vào ư tưởng. Lư luận bắt đầu bằng cách so sánh các ư tưởng với nhau, thế rồi suy diễn ra các mối quan hệ giữa chúng do việc hai hay nhiều ư tưởng cứ xảy ra cùng một lúc hoặc nối tiếp lẫn nhau hết dịp này rồi lại tới dịp khác. Trong quá tŕnh này tâm thức rút lui vào trong bản thân, mang theo ḿnh những ư tưởng đă được tạo ra từ nhận thức. Nó tiếp tục và phóng chiếu lên các ư tưởng ấy một điều nào đó của riêng ḿnh, khi nó suy diễn ra một chuỗi tŕnh tự, liên hệ sự vật này với sự vật khác trong mối quan hệ nhân quả. Nó bắt đầu rút ra những kết luận thậm chí c̣n tiên liệu những diễn biến tương lai, khi nó đă xác lập được một chuỗi tŕnh tự sao cho lúc một nhận thức được coi là “nguyên nhân” xuất hiện th́ người ta trông mong rằng nhận thức được coi là “hậu quả” cũng sẽ nối tiếp. Lại nữa, khi so sánh các ư tưởng, nó nhận thấy rằng nhiều ư tưởng có ít nhất là một yếu tố chung trong khi những yếu tố c̣n lại khác nhau; và nó tiến hành rút ra những đặc trưng chung đó từ phần c̣n lại, sắp xếp chúng lại thành ra đặc trưng của một lớp, thế rồi xếp nhóm các sự vật có chung những đặc trưng này, khi nó thấy một sự vật mới cũng có đặc trưng đó th́ nó bèn nhét sự vật mới ấy vào lớp đó; bằng cách này nó dần dần sắp xếp mớ hỗn độn nhận thức đó lại thành ra một khối hài ḥa, nó bắt đầu đời sinh hoạt trí tuệ của ḿnh từ đó, suy ra định luật từ sự nối tiếp có thứ tự của các hiện tượng cùng với các loại h́nh mà nó t́m thấy trong thiên nhiên. Mọi điều này đều là công tŕnh của tâm thức ở bên trong và xuyên qua óc phàm, nhưng ngay cả trong công tŕnh đó chúng ta cũng truy nguyên được sự hiện diện của cái mà bộ óc không cung cấp. Bộ óc chỉ tiếp nhận các rung động; tâm thức hoạt động trong thể vía biến những rung động này thành cảm giác, và tâm thức hoạt động trong thể trí lại biến các cảm giác thành ra nhận thức; thế rồi nó tiến hành mọi quá tŕnh mà ta vừa bảo rằng biến được khối hỗn mang thành khối hài ḥa. Tâm thức khi hoạt động như thế lại c̣n được sự soi sáng thêm nữa từ bên trên nhờ vào những ư tưởng không được chế biến ra từ các vật liệu mà cơi trần cung cấp, song được phản ánh vào tâm trí trực tiếp từ Trí tuệ Vũ trụ. “Định luật lớn về tư tưởng” này điều hành mọi sự suy tư v́ chính hành vi suy tư đă tiết lộ sự tồn tại trước đó của các ư tưởng, suy tư được là do có ư thức, chịu ảnh hưởng của ư tưởng và không thể suy tư nếu không có ư tưởng.

Hầu như là ta không cần phải nhận xét rằng mọi nỗ lực sơ khai của tâm thức nhằm hoạt động trong thể xác đều phải chịu nhiều sai lầm, cả do nhận thức bất toàn lẫn do suy diễn lầm lạc. Những sự suy diễn hấp tấp, những sự vơ đũa cả nắm do kinh nghiệm hạn chế đều làm phương hại cho nhiều kết luận mà ta đạt tới, và người ta phải chế định ra các qui tắc lư luận để khép năng lực suy tư vào ṿng kỷ cương và khiến cho nó có thể tránh được những sai lầm mà nó thường xuyên vấp phải khi chưa điêu luyện. Song le nỗ lực lư luận cho dù có bất toàn đến đâu đi chăng nữa, khi suy diễn từ việc này sang việc khác cũng là một điểm nổi bật của sự tăng trưởng nơi chơn nhơn v́ nó chứng tỏ rằng chơn nhơn đang thêm một điều ǵ đó của riêng ḿnh vào mớ thông tin mà ngoại giới đóng góp. Tác động lên các vật liệu thu gom được này lại có hiệu quả đối với chính thể xác. Khi cái trí nối liền hai nhận thức lại với nhau th́ nó cũng lập nên (do nó gây ra những rung động tương ứng trong bộ óc) một mối liên hệ giữa các tập hợp rung động gây ra nhận thức ấy. Đó là v́ khi thể trí bước vào hoạt động th́ nó tác động lên thể vía; đến lượt thể vía lại tác động lên thể phách và xác phàm để rồi vật chất thần kinh hệ của xác phàm rung động theo những xung lực được phóng qua nó; tác động này biểu hiện thành sự phóng điện và các ḍng từ điện tác dụng giữa các phân tử và nhóm phân tử gây ra những mối tương quan rối rắm. Những mối tương quan này để lại cái mà chúng ta có thể gọi là một lối ṃn thần kinh, đây là một lối ṃn mà dọc theo nó một ḍng từ điện khác sẽ chạy dễ dàng hơn so với khi nó phải chạy chẳng hạn bắc chéo ngang qua lối ṃn đó; và nếu một nhóm phân tử hữu quan trong rung động đó lại được làm cho hoạt động khi tâm thức lập lại ư tưởng đă từng gây ấn tượng lên chúng th́ sự xáo trộn được lập nên đó sẽ dễ dàng chạy dọc theo lối ṃn đă được tạo lập nên trước kia với một nhóm khác nhờ vào một mối liên hệ có trước đó, và lại khiến cho nhóm kia cũng bước vào hoạt động; nó gửi lên cho cái trí một rung động mà sau khi đă được chế biến theo phương pháp chính qui th́ được tŕnh hiện thành ra một ư liên tưởng. V́ thế cho nên sự liên tưởng rất quan trọng, tác động này của bộ óc đôi khi rất khó chịu lúc mà một ư tưởng điên rồ hoặc lố bịch nào đó lại được liên kết với một ư tưởng nghiêm túc hoặc thiêng liêng. Tâm thức được ư tưởng thiêng liêng khơi dậy nên đang lưu luyến trong đó, đột nhiên không được sự đồng ư của nó, bộ mặt nhăn nhở cười của ư tưởng đột nhập vào do tác động máy móc của bộ óc gửi lên, lại nhào vào qua cánh cửa thánh điện làm cho nó ô uế. Những người khôn ngoan đều quan tâm tới sự liên tưởng và rất cẩn thận khi nói tới những điều thiêng liêng nhất kẻo một kẻ điên rồ và vô minh nào đó lại tạo ra một mối liên kết giữa điều linh thiêng này với điều ngớ ngẩn hoặc thô bỉ, một mối liên kết mà sau đó rất có thể tâm thức cũng thấy bị dội. Huấn điều của bậc đại Đạo sư Do thái thật là hữu ích: “Con đừng mang điều linh thiêng cho lủ chó, đừng quẳng chuỗi ngọc trai cho lủ heo”.

C̣n một dấu ấn khác về sự tiến bộ sẽ xuất hiện khi người ta bắt đầu điều chỉnh lại cách cư xử của ḿnh do những kết luận đạt được từ bên trong thay v́ do những sự thôi thúc nhận được từ bên ngoài. Lúc bấy giờ y tác động theo kho chứa kinh nghiệm tích lũy của riêng ḿnh v́ đă nhớ tới các diễn biến quá khứ, đă so sánh được các kết quả thu lượm theo nhiều đường lối hành động khác nhau trong quá khứ và dùng những thứ đó để quyết định đường lối hành động mà ḿnh sẽ chọn dùng trong hiện tại. Y bắt đầu tiên liệu, tiên đoán, nhận định về tương lai dựa vào quá khứ, lư luận trước bằng cách nhớ lại những điều đă xảy ra rồi, và khi người ta làm như thế th́ chơn nhơn đang tăng trưởng rơ rệt. Y có thể vẫn c̣n bị hạn chế phải hoạt động trong óc phàm, y có thể vẫn c̣n không hoạt động được bên ngoài óc phàm nhưng y đang trở thành một tâm thức phát triển bắt đầu ứng xử như một cá thể, chọn lựa đường lối của riêng ḿnh thay v́ bèo dạt mây trôi tùy duyên hoặc bị cưỡng chế đi theo một đường lối hành động đặc thù nào đó do một áp lực nào đó từ bên ngoài. Sự tăng trưởng của chơn nhơn biểu lộ một cách dứt khoát như thế khi y càng ngày càng phát triển cái được gọi là tiến tŕnh và càng ngày càng có thêm quyền năng ư chí.

Những người ư chí mạnh và ư chí yếu phân biệt với nhau do khác nhau về phương diện này. Người kém chí hướng có động cơ thúc đẩy từ bên ngoài do sự hút và đẩy từ bên ngoài, c̣n người có ư chí và chí hướng th́ có động cơ thúc đẩy từ bên trong, y không ngừng làm chủ được hoàn cảnh bằng cách tác động lên đó những lực thích hợp được dẫn dắt do kho kinh nghiệm riêng đă tích lũy được. Kho chứa này mà chơn nhơn đă thu gom và tích lũy được trong nhiều kiếp, trở nên càng ngày càng sẵn có để dùng khi óc phàm được trui rèn và tẩy trược nhiều hơn, do đó dễ tiếp thu hơn: kho chứa vốn ở nơi chơn nhơn, nhưng y chỉ dùng được một phần nào của nó tùy theo mức y có thể gây ấn tượng được lên ư thức thuộc óc phàm. Bản thân chơn nhơn có kư ức và biết lư luận; chính chơn nhơn phán đoán, chọn lựa và quyết định: nhưng y phải làm mọi thứ đó thông qua óc phàm và óc thể phách; y phải làm việc và tác động thông qua thể xác với cơ cấu thần kinh và cơ thể dĩ thái liên kết với nó. Khi bộ óc trở nên dễ tiếp nhận ấn tượng hơn, khi y cải tiến được vật liệu của nó và kiểm soát được nó nhiều hơn th́ y có thể sử dụng nó để tự biểu hiện tốt hơn.

Thế th́ làm cách nào chúng ta, những người c̣n đang sống, cố gắng rèn luyện được các hiện thể tâm thức của ḿnh để chúng phục vụ như những công cụ tốt hơn? Bây giờ chúng ta không nghiên cứu sự phát triển thể chất mà nghiên cứu việc rèn luyện nó để tâm thức có thể sử dụng nó làm một công cụ của tư tưởng. Con người quyết định như thế để khiến cho hiện thể của ḿnh hữu dụng hơn, y đă quan tâm tới việc cải tiến nó về mặt thể chất, y phải rèn luyện nó để đáp ứng nhanh chóng và liên tiếp đối với những xung lực mà y truyền cho nó. Để cho bộ óc có thể đáp ứng liên tiếp th́ bản thân y phải suy nghĩ có mạch lạc, khi y gởi tới cho bộ óc những xung lực có thứ tự, y mới tập cho nó quen với việc hoạt động có thứ tự qua các nhóm phân tử liên kết với nhau thay v́ chỉ là những rung động ngẫu nhiên chẳng dính dáng ǵ với nhau. Chơn nhơn phát khởi c̣n bộ óc chỉ bắt chước và việc suy nghĩ thiếu mạch lạc, bừa băi ắt tạo nên thói quen cho bộ óc lập nên những nhóm phân tử rung động theo kiểu mạnh thứ nào rung theo kiểu thứ nấy. Việc rèn luyện có hai giai đoạn: sau khi đă quyết định là ḿnh phải suy nghĩ có mạch lạc th́ chơn nhơn rèn luyện cho thể trí liên kết tư tưởng này với tư tưởng kia chứ không bạ đâu tấp đó theo kiểu buông tuồng; thế rồi sau khi suy nghĩ như thế y lại rèn luyện bộ óc để cho nó rung động hưởng ứng với tư tưởng của minh. Bằng cách này các cơ thể vật lư – hệ thần kinh xác phàm và hệ thống của thể phách – có được thói quen làm việc theo hệ thống, và khi chủ nhơn ông cần th́ chúng đáp ứng nhanh chóng và có thứ tự; khi chủ nhơn ông cần th́ chúng đă sẵn sàng theo lệnh. Giữa một hiện thể tâm thức điêu luyện như thế và một hiện thể tâm thức không lăo luyện có một loại khác nhau giống như giữa những công cụ của một người thợ chễnh măng, bỏ cho dụng cụ dơ dáy và cùn nhụt, không thích hợp để đem sử dụng, với dụng cụ của người đă biết làm cho nó sẵn sàng, mài sắc nó và lau sạch nó, cho nên khi người ta cần th́ dụng cụ đă sẵn có để sử dụng và người ta có thể tức khắc làm được việc mà ḿnh đang quan tâm. Như vậy là thể xác phải luôn luôn sẵn sàng đáp ứng với lời hiệu triệu của cái trí.

Kết quả của việc liên tục tác động lên thể xác như thế tuyệt nhiên không làm kiệt quệ năng lực cải thiện của bộ óc. Đó là v́ mọi năng lực được gởi xuống cho thể xác đều phải băng ngang qua thể vía và cũng phải tạo ra một tác dụng lên thể vía. Đó là v́ như ta có thấy so với vật chất của cơi trần thế, vật chất cơi trung giới đáp ứng nhiều hơn với các rung động của tư tưởng; và tác dụng lên trên thể vía của quá tŕnh hành động đó xét theo tỉ lệ th́ lớn hơn như ta đă từng thấy. Do tác động đó thể vía có được một đường nét nhất định, một t́nh trạng có tổ chức tốt như ta đă từng mô tả. Khi người ta đă học được cách chế ngự bộ óc, khi y đă học được cách định trí, khi y có thể suy nghĩ tùy ư và tùy lúc tùy nơi th́ một sự phát triển tương ứng cũng xảy ra nơi cái mà y coi là sinh hoạt trong giấc mơ (nếu y có ư thức về nó trong bộ óc của xác phàm). Những giấc mơ này sẽ trở nên sống động, tự tiếp diễn được, hợp lư, thậm chí c̣n mang tính chất giáo huấn nữa. Chơn nhơn bắt đầu hoạt động trong hiện thể tâm thức thứ nh́ của ḿnh tức là thể vía, nó đang nhập vào cơi tâm thức lớn thứ nh́ và đang tác động ở đó bên trong thể vía tách rời khỏi thể xác. Chúng ta hăy tạm thời xét tới sự khác nhau giữa hai người “đều tỉnh như sáo sậu”, nghĩa là đang hoạt động trong thể xác, một người chỉ dùng thể vía của ḿnh một cách vô ư thức làm cầu nối giữa cái trí và bộ óc, c̣n người kia dùng cái vía một cách hữu thức để làm một hiện thể. Người thứ nhất nh́n thấy theo cách thông thường và rất hạn chế, thể vía của y chưa phải là một hiện thể hữu hiệu của tâm thức; người thứ nh́ dùng thần nhăn của thể vía cho nên không c̣n bị hạn chế bởi vật chất của cơi trần, y nh́n thấy xuyên qua mọi vật thể trên cơi trần, y nh́n thấy đằng sau cũng rơ như đằng trước, nh́n thấy những bức tường và những vật chất “mờ đục” khác cũng trong suốt như nh́n qua kính thủy tinh; y cũng nh́n thấy các h́nh thù và màu sắc trên cơi trung giới, nh́n thấy hào quang các tinh linh ngũ hành v.v. . . Nếu y đi tới một buổi ḥa nhạc th́ khi âm nhạc trổi lên, y thấy các bản ḥa tấu đó rực rỡ nhiều màu sắc, khi y đi nghe diễn thuyết, y nh́n thấy màu sắc và h́nh dáng trong tư tưởng của diễn giả, do đó lĩnh hội được sự biểu diễn tư tưởng của diễn giả trọn vẹn hơn mức người khác chỉ có thể nghe những lời được thốt ra. Đó là v́ tư tưởng phóng ra dưới dạng biểu tượng là ngôn từ cũng c̣n có những h́nh tướng đầy màu sắc và đầy âm nhạc, và khi nó khoác lấy vật chất cơi trung giới th́ nó gây ấn tượng lên thể vía. Khi tâm thức đă tỉnh táo trọn vẹn trong thể vía th́ nó tiếp nhận và ghi nhận được hết thảy những ấn tượng bổ sung này và nếu người ta khảo sát ḿnh kỹ lưỡng th́ nhiều người ắt thấy rằng ḿnh tiếp thu được từ diễn giả nhiều hơn mức mà ngôn từ truyền đạt được cho dẫu họ không có ư thức về nó vào lúc mà họ đang lắng nghe. Nhiều người ắt thấy rằng trong trí nhớ ḿnh có nhiều hơn mức diễn giả thốt ra; đôi khi một sự ám thị tử tế tiếp nối một tư tưởng dường như thể có một điều ǵ đó bao quanh những ngôn từ ấy khiến cho chúng mang những ngụ ư nhiều hơn mức tai thường nghe thấy được. Kinh nghiệm này cho thấy rằng thể vía đang phát triển và khi người ta quan tâm tới việc suy nghĩ của ḿnh và sử dụng thể vía một cách vô ư thức th́ nó tăng trưởng và trở nên càng ngày càng có tổ chức.

“Sự vô ư thức” của người ta trong khi ngủ là do thể vía c̣n chưa phát triển hoặc là do thiếu mối liên hệ hữu thức giữa thể vía và óc phàm. Người ta sử dụng thể vía trong lúc ư thức tỉnh táo bằng cách phóng những ḍng tư tưởng băng ngang qua thể vía để tới óc phàm; nhưng khi ta không tích cực sử dụng óc phàm (bộ óc mà thông qua đó con người có thói quen tiếp nhận ấn tượng từ bên ngoài) thi y cũng giống như David khoác lấy một áo giáp mà ḿnh chưa thử nghgiệm bao giờ: y chưa bao giờ tiếp nhận những ấn tượng chỉ đến với ḿnh thông qua thể vía mà thôi, y chưa quen sử dụng nó thành công cụ độc lập. Hơn nữa, y có thể học cách sử dụng nó một cách độc lập trên cơi trung giới, thế nhưng y cũng chẳng biết rằng ḿnh đă từng sử dụng được nó khi y trở về với xác phàm – đây lại là một giai đoạn khác trong quá tŕnh tiến bô chậm chạp của con người – thế là y bắt đầu sử dụng nó trong cơi riêng của nó trước khi y có thể tạo nên được mối liên kết giữa cơi đó với cơi bên dưới nó. Cuối cùng mới tạo ra được những mối liên kết này để rồi y chuyển sang việc sử dụng hết hiện thể này tới hiện thể khác với trọn vẹn ư thức và được tự do trên cơi trung giới. Y đă dứt khoát mở rộng được phạm vi ư thức tỉnh táo của ḿnh để bao trùm được cơi trung giới, và trong khi c̣n ở nơi xác phàm th́ y vẫn hoàn toàn sử dụng được các giác quan của thể vía, có thể nói là y đang sống cùng một lúc nơi hai cơi không có sự gián đoạn nào, không có vực sâu ngăn cách nào giữa chúng, và y sống trên cơi trần giống như một người mù bẩm sinh bây giờ lại được sáng mắt ra.

Trong giai đoạn tiến hóa kế tiếp, chơn nhơn bắt đầu hoạt động hữu thức trên cơi thứ ba tức cơi trí tuệ; đă từ lâu rồi y vẫn hoạt động trên cơi này, từ đó phóng xuống mọi tư tưởng khoác lấy h́nh tướng hoạt động nơi cơi trung giới và biểu hiện trên cơi trần thông qua bộ óc. Khi y trở nên hữu thức trong thể trí th́ y ắt phát hiện ra rằng ḿnh suy nghĩ tức là ḿnh đang tạo ra các h́nh tướng, y trở nên có ư thức về hành vi sáng tạo mặc dù y đă vận dụng quyền năng này một cách vô ư thức từ lâu lắm rồi. Bạn đọc có thể nhớ lại rằng nơi một trong những bức thư được trích dẫn trong quyển Thế Giới Huyền Bí, một Chơn sư có dạy rằng mọi người đều đang tạo ra những h́nh tư tưởng, nhưng Ngài phân biệt giữa kẻ phàm phu và bậc Cao đồ, v́ kẻ phàm phu tạo ra h́nh tư tưởng một cách vô ư thức, c̣n bậc Cao đồ tạo ra h́nh tư tưởng một cách hữu thức. (Thuật ngữ Cao đồ được dùng ở đây với một ư nghĩa rất phóng khoáng để bao gồm các Điểm đạo đồ thuộc nhiều cấp khác nhau ở mức thấp hơn hẳn so với một “Chơn sư”). Ở giai đoạn phát triển này của con người, quyền năng hữu dụng của Chơn nhơn gia tăng rất nhiều bởi v́ khi y có thể sáng tạo một cách hữu thức và điều khiển được một h́nh tư tưởng – người ta thường gọi nó là tinh linh nhân tạo – th́ y có thể sử dụng nó để làm việc ở những nơi mà nhất thời y không tiện vân du tới đó trong thể trí của ḿnh. Vậy là y có thể làm việc từ xa cũng như làm việc ngay tại chỗ và gia tăng được tầm hữu dụng của ḿnh; y kiểm soát được những h́nh tư tưởng đó từ xa, theo dơi và hướng dẫn chúng khi chúng làm việc; biến chúng thành tác nhân của ư chí ḿnh. Khi thể trí phát triển th́ Chơn nhơn sống và hoạt động trong đó một cách hữu thức, khi y sinh hoạt trên cơi trí tuệ th́ y biết được mọi sinh hoạt rộng lớn hơn so với khi y c̣n ở trong thể xác, y vẫn hữu thức được thông qua thể xác đó mà biết được môi trường xung quanh; thế nhưng y vẫn tỉnh như sáo sậu và hoạt động được nơi cơi cao chứ không cần phải để cho thể xác đi ngủ th́ mới vui hưởng được những năng lực cao cấp. Y đă quen sử dụng được giác quan của thể trí, dùng nó để tiếp nhận đủ thứ ấn tượng từ cơi trí tuệ sao cho y có thể cảm nhận được mọi hoạt động trí tuệ của người khác cũng giống như y cảm nhận được các chuyển động của cơ thể người khác.

Khi con người đă đạt tới giai đoạn phát triển này – một tŕnh độ tương đối cao so với người thường, mặc dù c̣n thấp khi so với tŕnh độ vốn là hoài băo của y – th́ bấy giờ y hoạt động hữu thức trong hiện thể thứ ba tức thể trí, truy nguyên được tất cả những ǵ mà y làm trong đó, trải nghiệm những quyền năng và hạn chế của nó. Tất nhiên phải học cách phân biệt giữa hiện thể này mà ḿnh dùng và chính bản thân ḿnh; lúc bấy giờ y mới cảm thấy tính cách hăo huyền của phàm ngă tức là “cái Tôi” của thể trí chứ không phải chơn nhơn, và y đồng nhất hóa ḿnh một cách hữu thức với Chơn ngă vốn ngự nơi thể cao siêu tức thể nguyên nhân ở trên cơi Thượng trí, tức vô sắc giới. Y thấy chơn nhơn có thể rút ra khỏi thể trí, có thể bỏ nó lại đằng sau và khi thăng lên cao hơn vẫn c̣n là chính ḿnh, lúc bấy giờ y biết rằng nhiều kiếp thật ra chẳng qua chỉ là một kiếp duy nhất và chơn nhơn sống động vẫn là chính ḿnh trải qua mọi kiếp đó.

Bây giờ ta xét tới những mối liên kết giữa các thể khác nhau này. Thoạt tiên chúng tồn tại mà con người không có ư thức về chúng. Chúng vẫn có đó bằng không th́ y chẳng thể chuyển từ cơi trí sang cơi của thể xác, nhưng y không có ư thức về sự tồn tại của chúng, và chúng không được làm cho linh hoạt chủ động, chúng hầu như giống cái mà ta gọi là các cơ quan sơ khai trong thể xác. Mọi người nghiên cứu sinh học đều biết rằng có hai loại cơ quan sơ khai: một loại cung ứng những dấu vết của các giai đoạn mà cơ thể đă trải qua trong quá tŕnh tiến hóa, c̣n một loại chỉ dấu bóng gió về những đường lối phát triển tương lai. Các cơ quan này tồn tại nhưng không hoạt động, chúng đă hoạt động ở thể xác trong quá khứ hoặc sẽ hoạt động trong tương lai, khi y đă chết rồi hoặc khi y chưa sinh ra. Những mối liên kết mà tôi dám dùng phép tương tự để gọi là các cơ quan sơ khai loại hai, liên kết thể phách và xác phàm với thể vía, thể vía với thể trí, thể trí với thể nguyên nhân. Chúng tồn tại nhưng chúng phải được khơi hoạt nghĩa là chúng phải được phát triển, và cũng giống như các loại h́nh thuộc thể xác, chúng chỉ có thể được phát triển bằng cách sử dụng. Ḍng sinh khí tuôn chảy qua chúng, ḍng tâm trí tuôn chảy qua chúng, thế là chúng được giữ cho linh hoạt và được cấp dưỡng; nhưng chúng chỉ dần dần được khơi hoạt khi con người chú tâm vào chúng và dùng ư chí để tác động lên sự phát triển của chúng. Tác động của ư chí bắt đầu làm linh hoạt những mối liên kết sơ khai này và chúng bắt đầu hoạt động từng bước một, có lẽ là rất chậm chạp; con người bắt đầu sử dụng chúng để chuyển di tâm thức từ hiện thể này sang hiện thể khác.

Trong thể xác có các trung khu thần kinh tức là các nhóm nhỏ tế bào thần kinh, các tác động từ bên ngoài cũng như các lực thôi thúc từ bộ óc đều phải được chuyển di qua các trung khu này. Nếu một trong các trung khu bị trục trặc th́ sự xáo trộn sẽ xuất hiện tức khắc và ư thức trên cơi trần sẽ bị rối loạn. Trong thể vía cũng có những trung tâm tương tự, nhưng nơi người kém phát triển th́ chúng chỉ là sơ khai và không hoạt động. Đây là những mối liên kết giữa thể xác với thể vía, giữa thể vía với thể trí, và khi quá tŕnh tiến hóa tiếp diễn th́ chúng được ư chí làm cho linh hoạt, giải thoát và hướng dẫn “hỏa xà” mà sách vở Ấn Độ gọi là Kundalini. Giai đoạn chuẩn bị để tác động trực tiếp giải phóng được Kundalini chính là việc rèn luyện và tẩy trược các hiện thể v́ nếu ta không hoàn thành rốt ráo được việc này th́ lửa sẽ là năng lượng hủy diệt thay v́ là năng lượng khơi hoạt. Chính v́ thế mà chúng tôi nhấn mạnh rất nhiều tới sự tẩy trược và khăng khăng đ̣i hỏi đó phải là việc cần thiết sơ bộ cho mọi khoa Yoga chân chính.

Khi người ta đă hiến ḿnh thích hợp để an toàn tiếp nhận sự trợ giúp làm linh hoạt những mối liên kết này th́ sự trợ giúp đó sẽ đương nhiên đến với y do có những người luôn luôn t́m cơ hội để trợ giúp kẻ tầm đạo tha thiết và không ích kỷ. Lúc bấy giờ sẽ có một ngày mà con người thấy ḿnh thoát ra khỏi thể xác trong khi y vẫn đang tỉnh táo và y thấy ḿnh được giải phóng mà không hề gián đoạn tâm thức. Khi điều này xảy ra được vài lần th́ việc chuyển di tâm thức từ hiện thể này sang hiện thể kia trở nên quen thuộc và dễ dàng. Khi thể vía xuất ra khỏi thể xác trong lúc ngủ th́ có một thời kỳ ngắn ngủi mất ư thức và ngay cả khi con người hoạt động tích cực trên cơi trung giới th́ y vẫn không thể bắc cầu vượt qua sự mất ư thức này lúc y trở về nhập xác. Nếu khi y xuất ra khỏi xác mà bị mất ư thức th́ có lẽ khi y lại trở về nhập xác y cũng bị mất ư thức. Có thể tâm thức linh hoạt trọn vẹn trên cơi trung giới, thế nhưng mọi thứ biểu hiện trong bộ óc phàm vẫn có thể là một sự trống rỗng hoàn toàn. Nhưng khi con người xuất ra khỏi xác trong t́nh trạng ư thức tỉnh táo v́ đă khơi hoạt được những mối liên kết giữa các hiện thể th́ y đă bắc được cầu vượt qua vực sâu đó; đối với y nó không c̣n là một vực sâu nữa và tâm thức của y chuyển nhanh chóng từ cơi này sang cơi khác mà y vẫn biết ḿnh là con người ấy nơi cả hai cơi.

Óc phàm càng được rèn luyện để hưởng ứng các rung động của thể trí bao nhiêu th́ việc bắc cầu qua vực thẳm giữa ngày và đêm càng dễ bấy nhiêu. Bộ óc càng ngày càng trở nên là công cụ ngoan ngoăn của chơn nhơn, thi hành những hoạt động theo sự thôi thúc của ư chí và giống như một con ngựa đă thuần thục đáp ứng với sự va chạm nhẹ nhất của bàn tay hoặc đầu gối. Cơi trung giới mở rộng ra đối với người nào đă hiệp nhất được hai hạ thể tâm thức như thế và nó thuộc về y cùng với mọi khả năng, mọi quyền năng rộng lớn hơn, mọi cơ hội to lớn hơn để phụng sự và giúp đỡ. Rồi tới niềm vui mang lại sự giúp đỡ cho những kẻ đau khổ không biết tới tác nhân giúp đỡ mặc dù vẫn cảm nhận được sự nhẹ bớt gánh nặng do được tuôn đổ nước cam lồ vào những vết thương lúc bấy giờ dường như chữa trị được; những gánh nặng trên vai được nhấc lên nhẹ một cách mầu nhiệm trong khi trước đó chúng đè nặng trĩu trên đôi vai đau điếng.

Ta cần phải bắc cầu nhiều hơn nữa giữa vực thẳm từ kiếp này sang kiếp khác; chuyển trí nhớ từ ngày sang đêm và ngược lại mà không bị gián đoạn chỉ có nghĩa là thể vía đang hoạt động hoàn hảo và những mối liên kết giữa nó với thể xác đang vận hành hết công suất. Nếu muốn bắc cầu ngang qua vực thẳm giữa kiếp này với kiếp khác th́ con người phải làm nhiều hơn mức chỉ hoạt động với ư thức trọn vẹn trong thể vía, thậm chí hơn cả mức hoạt động hữu thức trong thể trí; đó là v́ thể trí bao gồm vật liệu của các cơi hạ trí và sự tái sinh luân hồi không diễn ra xuất phát từ đó. Đến đúng lúc th́ thể trí cũng bị tan ră giống như thể vía và thể xác, nó không thể truyền thừa được cái ǵ. Trọn cả vấn đề túc mạn thông (nhớ được các kiếp trước) xoay quanh câu hỏi này: liệu con người có thể hoạt động hay chăng trên các cơi thượng trí khi ở trong thể nguyên nhân? Chính thể nguyên nhân mới chuyển từ kiếp này sang kiếp khác, mọi thứ đều được tích chứa trong thể nguyên nhân; mọi kinh nghiệm đều được tồn tại trong thể nguyên nhân v́ tâm thức được triệt thoái vào đó để rồi tâm thức lại từ đó giáng xuống mỗi khi tái sinh. Ta hăy theo dơi các giai đoạn sinh hoạt không diễn ra trên cơi trần để xem Diêm vương tức Thần chết có quyền uy bao trùm đến đâu. Con người thoát ra khỏi bộ phận thô trược của thể vật lư; nó bị tan ră từng mảnh khi y thoát ra để rồi được trả lại cho cơi hồng trần. Không điều ǵ c̣n lại trong đó mà mối liên kết từ điển về kư ức có thể sẵn có được. Thế rồi con người trong bộ phận dĩ thái của thể vật lư chỉ được có vài tiếng đồng hồ rồi lại rũ bỏ nó khiến cho thể phách cũng lại tan ră ra thành các yếu tố. Vậy th́ không một kư ức nào liên quan tới bộ óc thể phách giúp cho y bắc cầu qua vực thẳm được. Y lại chuyển sang cơi trung giới, ở đó cho tới khi tương tự y cũng rũ bỏ thể vía, bỏ nó lại đằng sau cũng giống như y đă từng bỏ xác phàm; đến lượt “cái xác chết của thể vía” bị tan ră, trả lại vật liệu cho cơi trung giới và làm tiêu tan luôn mọi thứ có thể được dùng làm cơ sở cho những mối liên kết từ tính cần thiết cho trí nhớ. Y lại tiếp tục chuyển sang thể trí ở nơi sắc giới thuộc Devachan, sống ở đó hàng trăm năm, tôi luyện các năng khiếu, vui hưởng thành quả. Nhưng khi thời gian đă chín muồi th́ y cũng rút ra khỏi thể trí, chỉ mang theo từ đó cái ǵ trường tồn sẽ được kế thừa qua thể xác kế tiếp tức là tinh hoa của tất cả những ǵ mà y đă thu gom và đồng hóa được. Y bỏ lại thể trí đằng sau để cho nó tan ră cũng theo một kiểu giống như các hiện thể thô hơn v́ vật chất của nó (tinh vi xét theo quan điểm của chúng ta) cũng không đủ tinh vi để được chuyển lên cơi cao thuộc cơi thượng trí. Vật chất đó phải bị rũ bỏ để trả lại làm thành vật liệu của cơi hạ trí, một lần nữa tổ hợp lại bị giải tán để ră ra thành các yếu tố. Trên con đường thăng lên, chơn nhơn rũ bỏ hết hạ thể này tới hạ thể khác, chỉ khi đạt tới vô sắc giới của cơi trí tuệ th́ y mới có thể được công nhận rằng ḿnh đă vượt ra khỏi phạm vi ảnh hưởng của cây quyền trượng mà Diêm vương nắm giữ làm tan ră các hạ thể. Cuối cùng y chuyển ra khỏi phạm vi chi phối của Diêm vương, ngự nơi thể nguyên nhân mà Thần chết không c̣n uy quyền nữa, và y tích trữ mọi thứ mà ḿnh thu gom được trong thể nguyên nhân đó. V́ vậy nó mới được gọi là thể nguyên nhân do bởi mọi nguyên nhân ảnh hưởng tới các kiếp tương lai đều ở trong đó. Lúc bấy giờ y phải bắt đầu hoạt động với ư thức trọn vẹn trên vô sắc giới của cơi trí tuệ ở trong thể nguyên nhân trước khi y có thể bắc cầu nối liền trí nhớ vượt qua vực thẳm ăn cháo lú của sự chết. Một linh hồn chưa phát triển khi nhập vào cơi cao tột này không thể duy tŕ được ư thức ở đó; y nhập vào đó mang theo mọi mầm mống phẩm chất của ḿnh nhưng chỉ có sự tiếp xúc phớt qua, một tia chớp lóe tâm thức bao trùm cả quá khứ lẫn tương lai làm cho Chơn ngă lóa cả mắt, thế là bị ch́m ngay xuống chu kỳ tái sinh luân hồi. Y mang theo các mầm mống trong thể nguyên nhân này, bung nó ra ngoài trên mỗi cơi thuộc về các mầm mống đó để thu hút những vật chất thật thích hợp với chúng. Vậy là nơi sắc giới thuộc cơi hạ trí, các chủng tử hạ trí thu hút vật chất thuộc cơi này để tạo thành thể trí mới, vật chất được thu gom như thế biểu lộ những đặc trưng tâm trí mà chủng tử ở bên trong ban cho nó, cũng giống như trái sồi phát triển thành ra một cây sồi bằng cách thu gom vào ḿnh vật liệu thích hợp từ dưới đất và bầu không khí. Trái sồi không thể phát triển thành một cây phong hoặc một cây bách hương mà chỉ phát triển thành cây sồi thôi, cũng như chủng tử hạ trí phải phát triển theo bản chất của riêng ḿnh chứ làm sao khác đi được. Nghiệp báo tác động như thế trong việc kiến tạo các hạ thể, con người gặt cái mà ḿnh đă gieo hạt giống. Chủng tử từ thể nguyên nhân bung ra chỉ có thể tăng trưởng theo loại h́nh của ḿnh, thu hút về ḿnh cấp vật chất tương ứng, sắp xếp vật chất đó thành h́nh dạng đặc trưng sao cho nó tạo ra bản sao của phẩm chất mà con người đă h́nh thành trong những kiếp trước. Khi y nhập vào cơi trung giới th́ các chủng tử cũng được bung ra vốn thuộc về cơi này, chúng cũng thu hút xung quanh ḿnh tinh hoa ngũ hành và vật liệu thích hợp thuộc cơi trung giới. V́ thế mới xuất hiện trở lại những khao khát, xúc động và đam mê thuộc về thể dục vọng tức thể vía của con người, được tái chế biến lại theo kiểu này khi y đến cơi trung giới. Vậy th́ nếu muốn cho vẫn c̣n có ư thức về các kiếp đă qua được truyền thừa qua mọi quá tŕnh này và mọi cơi này th́ ư thức đó bắt buộc phải tồn tại và hoạt động trọn vẹn trên cơi cao của thể nguyên nhân tức là cơi thượng trí. Thiên hạ không nhớ được các kiếp đă qua của ḿnh v́ họ chưa có ư thức trong thể nguyên nhân đóng vai tṛ một hiện thể; nó chưa phát triển được chức năng hoạt động riêng rẽ của ḿnh. Nó vẫn có đó là bản thể của mọi kiếp đă qua, là “cái Ngă” chân thực mà tất cả đều bắt nguồn từ đó nhưng nó chưa hoạt động tích cực: nó chưa hữu ngă thức mặc dù vẫn hoạt động một cách vô ư thức; chừng nào nó c̣n chưa hữu ngă thức trọn vẹn th́ kư ức không thể chuyển di từ cơi này sang cơi khác và do đó từ kiếp này sang kiếp khác. Khi chơn nhơn tiến bộ th́ các tia chớp lóe tâm thức bật lên soi sáng cho những mảnh vụn của quá khứ, nhưng những tia chớp lóe này cần phải biến thành ánh sáng thường trực trước khi có được bất kỳ kư ức liên tục nào.

Người ta có thể thắc mắc rằng: Liệu có thể khuyến khích những tia chớp lóe như thế lập đi lập lại hay chăng? Liệu người ta có thể đẩy nhanh hoạt động tăng trưởng từ từ này của tâm thức trên các cơi cao được hay chăng? Phàm nhơn có thể lao động vất vả cho cứu cánh này v́ nếu y có can đảm và kiên nhẫn; y có thể cố gắng càng ngày càng sống nơi cái ngă thường trụ, càng ngày càng triệt thoái tư tưởng và năng lượng (xét về sự chú ư) ra khỏi những chuyện tầm phào và vô thường của đời sống hằng ngày. Tôi không ngụ ư là người ta phải trở nên mơ mộng, đăng trí và lơ đễnh, trở thành một thành viên thiếu hiệu lực nhất trong gia đ́nh và xă hội; ngược lại y phải chu toàn mọi yêu cầu mà thế gian đ̣i hỏi y và chu toàn được nó hoàn thiện hơn v́ chơn nhơn đang làm điều đó vốn cao cả. Y có thể làm việc một cách vụng về và bất toàn như những người chậm phát triển v́ đối với y bổn phận là bổn phận và chừng nào mà c̣n có người nào đó đ̣i nó một thứ ǵ đó đối với y th́ y phải trả nợ tới hết mức; y phải làm tṛn mọi bổn phận hoàn hảo hết mức với năng lực tốt nhất và sự chú ư nghiêm chỉnh nhất. Nhưng y không màng tới những sự việc này, tư tưởng của y không bị ràng buộc vào kết quả làm việc; ngay khi đă hoàn thành nhiệm vụ th́ tư tưởng của y sẽ được giải thoát để bay lên trở lại cuộc sống thường trụ, vươn lên tới cơi cao với năng lực phấn đấu tiến công và y lại bắt đầu sống nơi đó để thấy rơ những chuyện lẩm cẩm của cuộc sống thế gian quả thật là vô giá trị. Khi y kiên định làm như thế và ra sức rèn luyện ḿnh suy tư cao siêu và trừu tượng th́ y sẽ bắt đầu làm linh hoạt được những mối liên kết cao trong tâm thức và đưa xuống được cuộc sống hạ giới này cái ư thức vốn của riêng y.

Một con người th́ vẫn là cứ người đó ở trên bất cứ cơi nào mà y đang hoạt động và y sẽ chiến thắng khi y hoạt động được trên cả năm cơi mà không bị gián đoạn tâm thức. Các đấng mà chúng ta gọi là Chơn sư, “những Con người toàn bích”, đều hoạt động với ư thức tỉnh táo chẳng những nơi ba cơi thấp mà c̣n cả trên cơi thứ tư (cơi đơn nhất mà  Māndūkyopanishad gọi là cơi Turīya) và trên một cơi c̣n cao hơn nữa, tức cơi Niết Bàn. Các Ngài đă hoàn tất cơ tiến hóa, đă vượt qua chu kỳ này đến mức kết liễu và tŕnh độ của các Ngài hiện nay th́ sớm muộn ǵ mọi người cũng sẽ đạt như vậy khi từ từ leo lên trên. Đây là sự qui nhất của tâm thức; các hiện thể chỉ c̣n là công cụ để sử dụng chứ không c̣n là nhà tù để giam hăm, và chơn nhơn sử dụng bất kỳ hạ thể nào tùy theo công việc mà ḿnh phải làm.

Bằng cách này th́ người ta đă chinh phục được vật chất, thời gian và không gian, hàng rào ngăn cách của chúng không c̣n tồn tại đối với chơn nhơn đă qui nhất. Trong khi leo lên cao, y phát hiện ra rằng các hàng rào trong mỗi giai đoạn càng ngày càng bớt đi: ngay cả trên cơi trung giới th́ vật chất cũng ít ngăn cách hơn so với ở dưới đây, vật chất cơi trung giới ít khiến cho y ngăn cách với huynh đệ của ḿnh. Việc vân du trong thể vía nhanh đến nỗi mà ta có thể nói hầu như đă chinh phục được không gian và thời gian v́ mặc dù con người vẫn biết rằng ḿnh đang đi xuyên qua không gian, nhưng nó đi xuyên qua không gian nhanh đến nỗi không gian mất đi khả năng ngăn cách người bạn này với người bạn kia. Ngay cả sự chinh phục đầu tiên đó cũng vô hiệu hóa sự ngăn cách trên cơi trần. Khi y thăng lên cơi trí tuệ th́ y thấy ḿnh c̣n có một quyền năng khác: hễ cứ nghĩ tới một nơi nào th́ ḿnh đă ở đó rồi, cứ nghĩ tới một người bạn nào th́ người bạn đó đă lù lù trước mắt ḿnh rồi. Ngay cả trên cơi thứ ba th́ tâm thức đă siêu việt được các hàng rào ngăn cách của vật chất, không gian và thời gian; nó tha hồ có mặt ở bất cứ nơi đâu. Thấy cái ǵ là thấy ngay tức khắc đúng vào lúc ḿnh chuyển chú tâm tới sự vật đó; nghe thấy cái ǵ là nghe thấy ngay bằng một ấn tượng thôi; không gian, vật chất và thời gian mà ta quen biết nơi các hạ giới đă biến mất, chuỗi tŕnh tự sự việc không c̣n tồn tại nữa trong “hiện tại vĩnh hằng”. Khi y vươn lên cao nữa th́ các hàng rào ngăn cách ngay bên trong tâm thức ḿnh cũng rơi rụng đi, y biết ḿnh hiệp nhất với mọi tâm thức khác của các chúng sinh khác; y có thể suy nghĩ giống như họ suy nghĩ, cảm nhận như họ cảm nhận, hiểu biết như họ hiểu biết. Y có thể nhất thời khiến cho những hạn chế của họ cũng trở thành những hạn chế của ḿnh để cho y có thể thông cảm chính xác được họ suy nghĩ ra sao, thế nhưng vẫn giữ được ư thức của riêng ḿnh. Y có thể vận dụng tri thức lớn lao của riêng ḿnh để trợ giúp cho tư tưởng hẹp ḥi hơn và bị hạn chế nhiều hơn bằng cách tự đồng hóa ḿnh với tư tưởng đó để từ từ mở rộng biên giới của nó ra. Y hoàn toàn tiếp quản được những chức năng mới trong thiên nhiên khi y không c̣n chia rẽ với những người khác nữa mà thực chứng được Chơn ngă vốn là một trong vạn hữu và phóng năng lượng từ cơi hiệp nhất xuống. Ngay cả đối với những con thú hạ đẳng th́ y cũng có thể cảm nhận được thế giới tồn tại đối với loài thú ra sao khiến cho y có thể cung cấp sự trợ giúp chính xác mà chúng cần và giúp đỡ được cái mà chúng đang ṃ mẫm một cách mù ḷa. V́ thế sự chinh phục của Ngài không phải chỉ cho bản thân mà là cho tất cả, Ngài có được những quyền năng rộng lớn hơn chỉ là để dùng chúng phục vụ cho mọi chúng sinh tiến hóa thấp hơn Ngài trên thang tiến hóa; bằng cách này Ngài trở nên hữu ngă thức trên khắp thế gian, v́ Ngài đă học được cách đáp ứng với mọi lời kêu than đau khổ, với mọi nỗi buồn vui xao xuyến. Ngài đă đạt được tất cả, đă thu lượm được tất cả và Chơn sư là người “chẳng c̣n ǵ để học nữa”. Nói như vậy chúng tôi không ngụ ư là trong tâm thức Ngài và bất kỳ lúc nào cũng có mọi tri thức khả hữu. Nhưng xét về giai đoạn tiến hóa này th́ không có ǵ ẩn giấu đối với Ngài nữa, không có điều ǵ mà Ngài không ư thức trọn vẹn được khi Ngài chú ư tới nó; trong phạm vi tiến hóa của vạn hữu chúng sinh – và vạn vật đúng là đang sống – th́ chẳng có điều ǵ mà Ngài không hiểu được do đó chẳng có thứ ǵ mà Ngài không giúp được.

Đó là sự khải hoàn tối hậu của chơn nhơn. Mọi điều mà tôi vừa nói tới ắt là vô giá trị tầm phào nếu nó chỉ là sự thu lượm cho cái bản ngă hẹp ḥi mà ở dưới đây chúng ta công nhận là bản ngă; bạn đọc thân mến, mọi bước mà tôi vừa cố gắng thuyết phục bạn ắt chẳng có giá trị ǵ để ta phải bước tới nếu rốt cuộc chúng đặt bạn lên một đỉnh cao biệt lập, tách rời khỏi mọi bản ngă tội lỗi đang đau khổ, thay v́ dẫn bạn tới tận thâm tâm của vạn vật nơi mà bạn và các bản ngă đó chỉ là một. Tâm thức của Chơn sư mở rộng ra bất kỳ hướng nào mà Ngài phóng ra đó, đồng hóa với bất cứ hướng nào mà Ngài hướng về nó, biết được bất cứ điều ǵ mà Ngài muốn biết; và mọi thứ đó cũng chỉ để cho Ngài có thể trợ giúp hoàn hảo v́ chẳng điều ǵ mà Ngài không thể cảm nhận được, chẳng thứ ǵ mà Ngài không thể khuyến khích được, chẳng điều ǵ mà Ngài không thể củng cố được, chẳng thứ ǵ mà Ngài không thể trợ giúp được trong cơ tiến hóa của nó. Đối với Ngài trọn cả thế gian chỉ là một tổng thể rộng lớn đang tiến hóa, trong đó Ngài giữ địa vị một người trợ giúp cho cơ tiến hóa; Ngài có thể đồng nhất hóa ḿnh với bất kỳ bước tiến nào và ở ngay bước tiến đó có thể giúp được điều ǵ cần thiết. Ngài giúp được cho các giới tinh hoa ngũ hành tiến xuống thâm nhập vào vật chất và mỗi thứ đều tiến theo đường lối của riêng ḿnh qua cơ tiến hóa của loài khoáng vật, loài thực vật, loài động vật và loài người; Ngài giúp đỡ tất cả các thứ đó cũng như giúp đỡ chính ḿnh vậy, đó là v́ cuộc sống của Ngài vinh diệu ở nơi chỗ tất cả đều là Ngài, thế nhưng Ngài có thể trợ giúp cho tất cả và trong khi trợ giúp đó thực chứng được điều mà Ngài trợ giúp cũng là chính ḿnh. Bí quyết là ở chỗ làm sao có thể từ từ khai triển được điều này khi chơn nhơn phát triển, tâm thức mở rộng ra để bao trùm nhiều hơn nữa trong khi lại trở nên sống động hơn, sung sức hơn mà không mất đi ư thức về chính ḿnh. Khi tâm điểm đă trở thành h́nh cầu th́ h́nh cầu thấy ḿnh cũng trở thành tâm điểm; mọi điểm đều chứa đựng mọi thứ và biết ḿnh là hiệp nhất với mọi điểm khác; cái bên ngoài té ra chỉ là phản ánh của cái bên trong; Thực Tại vốn là Sự Sống Bản Thể Nhất Như và sự khác nhau chỉ là một ảo giác mà ta đă vượt qua được.

 

HẾT

 lời đầu  đầu sách cuối sách  xác  vía  trí   hiện thể khác  hào quang  chơn nhơn  mục lục


 

Thông Thiên Học là Khoa Học của linh hồn.

Thông Thiên Học là Minh Triết Cổ Truyền được tŕnh bày lại theo thời đại hiện nay
 

Phương pháp có khác nhau, tư tưởng có khác nhau, cách thức có khác nhau, th́ việc làm của chúng ta mới linh động chớ không suy giảm, miễn hành vi ấy có t́nh thương dẩn dắt và ḷng nhân ái xét soi. (Annie  Besant)

xem tiếp


Hội Thông Thiên Học là một tổ chức quốc tế, với ư nghĩa rộng răi của từ, mà hội viên thuộc tất cả các giống dân, tín ngưỡng và ư kiến khác nhau nhưng họ hợp tác làm việc với nhau cùng chung một mục đích: sự tiến bộ của nhân loại - Nhưng với danh nghĩa là Hội, Hội hoàn toàn không thuộc về bất cứ quốc gia nào hoặc đảng phái chính trị nào.

Về phương diện Hội, họ chỉ có thể hành động tập thể cho các vấn đề chung có liên quan với Thông Thiên Học; về phương diện cá nhân, họ được hoàn toàn tự do để theo tư tưởng và hành động chính trị riêng biệt, miễn hành động đó đừng đi ngược lại nguyên lư của Thông Thiên Học và không có điều hại nào cho chính Hội Thông Thiên Học.
(Bí Quyết Thông Thiên Học, H. P. B
.)


Nếu mọi viên sỏi đều trở thành một viên hồng ngọc vô giá th́ viên sỏi và hồng ngọc ắt có giá trị giống như nhau.

Mọi người đều nghĩ rằng sự khôn ngoan của ḿnh là hoàn hảo, cũng như mọi bà mẹ đều cho rằng con của ḿnh là đẹp nhất.

“Con tôi là của tôi, tài sản này là của tôi”: một kẻ điên rồ bị giằn vật v́ những tư tưởng như thế. Bản thân y c̣n chưa thuộc về y chứ đừng nói tới con cái và của cải.

Bánh xe hi sinh có trục là T́nh Thương, lốp là Hành Động và căm là T́nh Huynh Đệ.

Thông Thiên Học không phải là việc thu tóm quyền lực dù là về mặt thông linh hay trí tuệ, mặc dù cả hai quyền năng đó đều phục vụ cho Thông Thiên Học.

Thông Thiên Học cũng theo đuổi hạnh phúc như người ta thường hiểu về từ ngữ này. Đó là v́ bước đầu tiên của nó là sự hi sinh, c̣n bước thứ nh́ là sự từ bỏ.

Thông Thiên Học là khoa học về sự sống, là nghệ thuật sống.

Thông Thiên Học là hiện thể của tinh thần mang lại sự sống; do đó không một điều ǵ mang tính giáo điều có thể thuộc về Thông Thiên Học.

Ngay cả trong rừng rậm cô liêu, tội lỗi vẫn chiến thắng kẻ không thánh thiện; kềm chế được giác quan ở ngay chính nhà ḿnh mới là tu khổ hạnh vậy.(Châu Ngọc Đông Phương)


Xin dắt tôi từ cõi gỉa đến cõi CHƠN,
Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi SÁNG SUỐT,
Xin dắt tôi từ cửa tử đến cõi TRƯỜNG SANH BẤT TỬ.
(Dưới Chơn Thầy)


Cái Trí là tay đại phá hoại Sự Thật. (Tiếng Nói Vô Thinh)


Ngươi hãy tiêu diệt lòng tham vọng, nhưng hãy làm việc như những kẻ lòng đầy tham vọng.
Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham sống, nhưng hãy tôn trọng sự sống.
Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham muốn sự tiện nghi, nhưng hãy sung sướng như những kẻ chỉ sống để hưởng lạc thú.


5.- Hãy diệt mọi ý thức chia rẽ. (Kill out all sense of separateness)

Chú giải : Bạn chớ tưởng là bạn có thể sống riêng biệt với những kẻ hung dữ, hạng người điên dại. Họ chính là bạn đó, mặc dầu họ ở trình độ kém hơn người bạn hoặc vị Thầy của bạn. Nhưng nếu bạn để nảy sinh cái ý nghĩ bạn không liên đới với một điều nào hoặc một tội lỗi nào tức là bạn tạo ra một nghiệp quả, nó sẽ buộc bạn vào điều đó hoặc người đó, cho đến ngày nào tâm hồn bạn nhận thấy rằng nó không thể sống riêng rẽ được. Bạn hãy nhớ rằng tội lỗi và nhục nhã của đời là tội lỗi và nhục nhã của bạn, bởi vì bạn là một phần tử của thế gian; nghiệp quả của bạn dệt chung và không thể tách rời Đại Nghiệp Quả được. Trước khi bạn được giác ngộ, bạn phải trải qua mọi chỗ dơ cũng như chỗ sạch. Như thế bạn hăy nhớ rằng cái áo dơ mà bây giờ con nhờm gớm có thể là cái áo của bạn bữa qua hoặc bữa mai. Nếu bạn tỏ vẻ ghê sợ, th́ khi nó đặt lên vai bạn, nó sẽ càng bó chặt lấy bạn hơn. Kẻ nào có ḷng tự kiêu về đức hạnh của ḿnh tức là dọn cho ḿnh một chỗ trong vũng bùn nhơ. Bạn tránh, v́ đó là điều nên tránh chớ chẳng phải để giữ cho bạn được trong sạch.
(Ánh Sáng Trên Đường Đạo) xem tiếp


58. Bạn không thể nào đi trên đường Đạo, nếu chính bạn chưa trở nên con Đường đó (32).

59. Hãy để cho Hồn bạn lắng tai nghe mọi tiếng đau khổ, như bông sen nở lớn để hứng ánh sáng mặt trời buổi ban mai.

60. Bạn chớ để nắng gắt làm khô một giọt nước mắt đau khổ nào, trước khi bạn lau ráo lụy cho cặp mắt của người buồn khổ.

61. Bạn hãy để cho tất cả nước mắt của thế gian rơi vào lòng bạn, đọng lại ở tim bạn, chớ không khi nào chùi đi, trước khi nguyên nhân gây đau khổ tiêu tan.

62. Hỡi con người có tấm lòng từ bi, những giọt nước mắt đó là những suối nước tưới mát cánh đồng từ thiện bất diệt. “Chính nơi miếng đất đó trổ được bông nửa đêm của Phật (33), thứ bông này còn khó tìm, khó gặp hơn bông cây Vogay. Đó là hột giống để thoát ly đường sanh tử. Nó tách riêng vị La Hán ra ngoài vòng tranh đấu và tham vọng, nó dắt người băng ngang qua những cánh đồng của Thực Tại để đến nơi an lạc, chân phúc, chỉ thấy được nơi cõi Tịch Mịch, Hư Vô. (Tiếng Nói Vô Thinh)  xem tiếp


Bạn hãy nhớ rằng: mọi việc khổ não trên thế gian đều là tạm thời, bổn phận của bạn phải luôn luôn vui vẻ và giữ ḷng thanh tịnh.

Bởi vì chính bạn với Đường Đạo phải trở nên một. Đường Đạo tức là bạn. Bạn bước trên Đường Đạo mà không cần nghĩ tới nó, và bạn cũng không thể rời nó được nữa. Bạn là Chơn Thần, bạn đă quyết định như vậy. Nếu bạn lìa bỏ nó tức là bạn lìa bỏ chính bạn vậy.

Có minh triết bạn mới có thể giúp đời, c̣n ư chí để dắt dẫn sự minh triết, và từ ái lại gây ra ư chí. Ấy là những điều kiện mà bạn cần phải có. Ư chí, minh triết, từ ái là ba trạng thái của Đức Thượng Đế. Nếu bạn muốn hiến ḿnh phụng sự Ngài, th́ bạn phải biểu lộ ba trạng thái ấy trong thế gian này. (Dưới Chân Thầy)   xem tiếp


Để làm quen với  quan niệm của Thông Thiên Học  mời các bạn đọc những tác phẩm sau:
Thông Thiên Học Dẫn Giải

Thông Thiên Học Khái Lược
Thông Thiên Học Giảng Lược
Thông Thiên Học Là Ǵ

Chân Nhân Và  Các Hạ Thể 


Những Tài Liệu Nghiên Cứu :

Dưới Chân Thầy
Bí Quyết Thông Thiên Học
Giáo Lư Bí Truyền    (đang soạn)
Nữ Thần Isis Lộ Diện    (đang soạn)
Books
Magazines


THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI
THÔNGTHIÊN HỌC HOA kỲ


Hội Thông Thiên Học Được Thành Lập 7-11-1875
Bởi Bà Helena Petrovna Blavatsky Và Ông Henry Steel Olcott
  
The Theosophical Society Adyar, Chennai 600020, India Phone: 91-44-4912815 


Bản quyền   Copyright  @ www.thongthienhoc.com  2001
Mọi bản sao hay trích dẫn kính xin quí vị đề rơ nơi xuất xứ chân thành cám ơn.
Xin giữ nguyên bản. Mọi sự liên hệ xin  liên lạc e-mail sau:  
nhusee@yahoo.com

 

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES