|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
VÉN MÀN BÍ MẬT NỮ THẦN ISIS (ISIS UNVEILED)
Chìa khóa cốt lõi của những bí nhiệm xưa và nay
KHOA HỌC VÀ THẦN HỌC
Tác giả H. P. Blavatsky
Thư ký Thông tín Hội Thông Thiên Học Bản Dịch : Chơn Như 2012
|
|
VÉN MÀN BÍ MẬT
NỮ
THẦN ISIS
“Đây là một
tác phẩm
tràn đầy Niềm tin”
MONTAIGNE
QUYỂN
I –
KHOA HỌC
Tác giả xin kính dâng bộ
sách này cho Hội
Thông Thiên Học,
được
sáng lập
ở
New York, năm 1875 sau Công nguyên, ĐỂ
HỘI
NGHIÊN CỨU
NHỮNG
ĐỀ TÀI MÀ BỘ
SÁCH BÀN TỚI
Chú Thích của Nhà Xuất bản
Ấn bản
này là ấn bản
in lại
trung thực
bộ
sách
Vén Màn Bí Mật
Nữ
Thần Isis
thoạt đầu được
xuất bản
ở
New York vào năm 1877. Phần Chỉ
Mục
đã được
mở
rộng
nhất nhiều, lại
có thêm một
Phụ
lục
bao gồm Chỉ
Mục
về
tài liệu
tham khảo
với
những
công trình và tác giả
được
trích dẫn cùng với
hai bài báo do H.P.B bàn về
việc
viết bộ
sách Vén Màn Bí Mật
Nữ
Thần
Isis: “Các thuyết về Luân hồi và các vong linh” (1886) và “Các tác
phẩm
của
tôi” (1891).
ĐƯỢC
VIẾT
NHƯ
THẾ
NÀO
Nếu
một
bộ
sách có thể
được
coi như
đánh dấu
một
giai đoạn
lịch
sử,
th́ đó hẳn
là bộ
sách này. Xét về
một
phương
đầu
tiên của
Darwin trên một
phương
diện
khác. Cả
hai đều
là những
gịng thủy
triều
lên cao trong trào lưu
tư
tưởng
cận
đại:
mỗi
bộ
sách này đều
có tác dụng
tảo
trừ
những
điều
dị
đoan sống
sượng
của
khoa thần
học
và thay thế
đức
tin nơi
phép lạ
bằng
sự
tin tưởng
nơi
định
luật
thiên nhiên. Tuy vậy,
trường
hợp
khởi
đầu
viết
bộ
sách này cũng rất
đơn
giản
và b́nh thường
chứ
không có ǵ đặc
biệt.
Một
ngày nọ
vào mùa hè năm 1875, bà HPB đưa
cho tôi xem vài tờ
bản
thảo
của
bà viết,
và nói:
“ Tôi
viết
cái này đêm hôm qua, do “ LỊNH
DẠY
“, nhưng
để
dùng làm ǵ th́ tôi không biết.
Có thể
dùng làm một
bài báo, có thể
để
làm sách, cũng có thể
để
không làm ǵ cả.
Tuy nhiên, tôi viết
v́ tuân lệnh
dạy
mà thôi.”
Rồi
đó, bà cất
bản
thảo
đó vào một
hộc
tủ,
và không nói ǵ đến
nó nữa
trong một
thời
gian. Nhưng
ít tháng sau đó, bà đi Syracuse (New York) thăm hai người
bạn
mới
là ông bà Corson, giáo sư
trường
Đại
Học
Cornell, và tiếp
tục
công việc
viết
lách. Bà viết
thư
cho tôi biết
đó sẽ
là quyển
sách nói về
lịch
sử
và triết
học
của
các Đạo
Phái phương
Đông, và những
mối
tương
quan giữa
các Đạo
Phái
ấy
với
những
môn phái của
thời
đại
bấy
giờ.
Bà cho biết
rằng
bà viết
về
những
vấn
đề
mà bà chưa
bao giờ
học,
và chú thích những
quyển
sách mà bà chưa
từng
đọc
qua trong đời
bà. Bà cho biết
thêm rằng,
để
kiểm
chứng
những
điều
bà viết,
Giáo Sư
Corson đă so sánh những
đoạn
chú thích của
bà với
những
bộ
sách cổ
điển
trong thư
viện
của
trường
Đại
Học,
th́ thấy
là đúng.
Khi bà
trở
về
New York, bà không chăm chú lắm
vào công việc
này, mà chỉ
viết
một
cách rời
rạc,
không liên tục.
Nhưng
độ
một
hay hai tháng sau việc
thành lập
Hội
Thông Thiên Học,
bà và tôi cùng thuê một
ngôi nhà hai tầng
ở
đường
34th West, bà
ở
tầng
dưới,
tôi
ở
tầng
lầu
trên, từ
đó trở
đi công việc
viết
bộ
Isis mới
được
thực
hiện
liên tục
không gián đoạn
cho đến
khi hoàn thành vào năm 1877.
Trong suốt
cuộc
đời
bà, bà chưa
từng
viết
văn viết
sách bao giờ,
tuy thế
tôi không thấy
một
nhà văn hay nhà báo nào có thể
làm việc
một
cách dẻo
dai bền
bỉ
và hăng say như
bà. Mỗi
ngày, bà ngồi
vào bàn viết
từ
sáng mai cho đến
khuya, tôi với
bà không bao giờ
đi ngủ
trước
hai giờ
sáng. Lúc ban ngày, tôi phải
làm việc
nghề
nghiệp
riêng của
tôi, nhưng
luôn luôn sau bữa
cơm
chiều
là chúng tôi ngồi
chung lại
một
bàn và làm việc
chẳng
khác nào như
người
ta làm giờ
phụ
trội
để
t́m sống,
cho dến
khi thân xác mỏi
mệt
bắt
buộc
chúng tôi phải
nghỉ.
Thật
là một
kinh nghiệm
quư báu cho tôi. Trong khoảng
gần
hai năm đó, tôi đă học
hỏi
được
rất
nhiều
điều
mà đáng lẽ
người
ta phải
dành trọn
cả
một
đời
người
để
đọc
sách và suy gẫm
mới
có thể
đạt
được.
Tôi không phải
chỉ
làm công việc
của
một
người
ghi chép hay sửa
bài, mà bà làm cho tôi trở
thành một
cộng
tác viên. Bà làm cho tôi phải
sử
dụng
tất
cả
những
ǵ tôi đă đọc
và suy tư,
và kích thích bộ
óc của
tôi làm việc
để
t́m giải
đáp cho những
vấn
đề
mới
mà bà đặt
ra cho tôi trên địa
hạt
Huyền
Môn và siêu h́nh. Những
vấn
đề
này hoàn toàn vượt
ngoài sự
học
hỏi
và tầm
kiến
thức
của
tôi, mà tôi chỉ
có thể
hiểu
được
lần
lần
khi trực
giác của
tôi được
khai mở
và phát triển
nhờ
bởi
phương
pháp cưỡng
ép đó.
Bà không viết
theo một
chương
tŕnh hay kế
hoạch
định
sẵn,
mà những
ư kiến
từ
đâu tuôn tràn xuyên qua trí óc bà như
gịng suối
chảy
không ngừng,
trường
lưu
bất
tận.
Có khi bà đang viết
về
đấng
Phạm
Thiên (Brahma), một
lát sau đó bà đă xoay qua vấn
đề
hiện
tượng
diện
khí của
Babinet. Trong một
lúc, bà trịnh
trọng
chú thích lời
của
Đạo
Sư
Porphyry, kế
đó bà liền
trích dẫn
một
đoạn
văn rút trong một
tờ
báo hằng
ngày, hay trong một
tập
văn thư
mới
in mà tôi vừa
đem về
nhà. Có khi bà đang ca tụng
những
đặc
tính toàn thiện
của
Chân Sư,
nhưng
một
lúc sau bà đă chuyển
vận
toàn lực
để
công kích nặng
nề
Giáo Sư
Tyndall hay vài nhà học
giả
nào đó mà bà ghét nhất,
bằng
những
cú búa nẩy
lửa!
Nếu
bà không có một
kế
hoạch
nhất
định,
phải
chăng điều
ấy
chứng
tỏ
rằng
công việc
soạn
sách này không phải
do bà dự
định
từ
trước,
mà bà chỉ
là một
đường
vận
hà để
cho trào lưu
tư
tưởng
mới
mẻ
độc
đáo này tác dộng
ảnh
hưởng
đến
t́nh trạng
ứ
đọng
của
sự
sinh hoạt
tâm linh đương
thời?
Như
một
phần
việc
huấn
luyện
cho tôi, thỉnh
thoảng
bà yêu cầu
tôi viết
một
đoạn
về
một
đề
tài đặc
biệt
nào đó, và gợi
ư cho tôi về
những
điểm
quan trọng
cần
khai triển,
hoặc
bà để
cho tôi tự
viết
lấy
với
sự
cố
gắng
tối
đa để
sử
dụng
năng khiếu
trực
giác của
tôi. Khi tôi đă viết
xong, nếu
đoạn
văn
ấy
không được
bà vừa
ḷng, bà thường
tỏ
dấu
bất
măn bằng
cách nói nặng
lời,
và gọi
tôi bằng
những
danh từ
không đẹp
có tính cách khích động
ḷng tự
ái đến
mức
có thể
giết
người!
Nhưng
khi tôi định
xé bỏ
đoạn
văn vô phước
ấy,
th́ bà liền
giật
ngay lấy
từ
trên tay tôi để
dùng
ở
một
chương
khác sau khi
đă sửa
chữa
lại
vài chỗ,
và tôi lại
bắt
tay vào việc.
Kể
từ
ngày tên tuổi
bà xuất
hiện
lần
đầu
tiên trên mặt
báo Daily Graphic, năm 1874 và suốt
thời
gian lưu
trú tại
Mỹ
Quốc,
bà luôn luôn có khách đến
viếng.
Nếu
trong số
quan khách, ngẫu
nhiên có người
nào hiểu
biết
tinh tường
về
một
vấn
đề
nào đó liên quan đến
ngành hoạt
động
của
bà, bà liền
tiếp
xúc riêng với
người
ấy
và nếu
có thể
được,
bà nhờ
y viết
lại
những
quan điểm
hay kư
ức
của
y trên giấy
trắng
mực
đen để
dùng trong quyển
sách của
bà. Trong số
những
trường
hợp
thuộc
về
loại
này, có bài tường
thuật
của
ông O’Sullivan về
một
cuộc
biểu
diễn
phương
thuật
trong một
buổi
họp
đàn tại
Paris; sự
diễn
tả
lư thú những
cuộc
lễ
nhập
môn huyền
bí của
giống
dân Druses xứ
Liban, cùng những
bài vở
hấp
dẫn
của
Bác Sĩ A. Wilder, và nhiều
người
khác nữa
đă đóng góp vào, làm cho bộ
sách này càng tăng thêm phần
giá trị
với
những
tài liệu
vô cùng dồi
dào phong phú.
Tôi biết
một
vị
mục
sư
Do Thái đă từng
trải
qua nhiều
giờ
và nhiều
đêm để
thảo
luận
về
Huyền
Môn Kabala với
bà, và nghe chính y thú nhận
rằng
tuy y đă từng
khảo
cứu
phần
bí truyền
của
tôn giáo y trong ba mươi
năm, nhưng
bà đă dạy
y những
điều
mà y chưa
từng
nghĩ đến,
và đă làm sáng tỏ
những
đoạn
kinh mà chính những
bậc
thầy
của
y cũng không hiểu
nổi!
Vậy
chứ
những
kiến
thức
thâm sâu huyền
diệu
đó, bà đă học
được
ở
đâu, hồi
nào, và do đâu mà có?
Tất
nhiên không phải
do các bà quản
gia đă dạy
bà học
hồi
c̣n thơ
ấu
ở
nước
Nga; cũng không phải
do một
vị
giáo sĩ hay thầy
học
nào quen thuộc
trong gia đ́nh; cũng không phải
bà đă học
trên những
chuyến
tàu hay xe lửa
trong khi bà đi châu du thiên hạ
kể
từ
năm mười
lăm tuổi;
cũng không phải
ở
một
trường
trung học
hay đại
học
nào, v́ bà không hề
thi tốt
nghiệp
ở
một
trường
học
nào cả;
cũng không phải
ở
những
thư
viện
lớn
trên thế
giới.
Nhận
xét qua những
cuộc
đàm thoại
và nhugn74 thói quen của
bà trước
khi bà bắt
tay vào công việc
trước
tác khổng
lồ
này, th́ bà không hề
học
hỏi
qua những
vấn
đề
ấy
bao giờ
dù rằng
xuất
xứ
từ
đâu. Nhưng
khi bà cần
đến
những
tài liệu
đó, th́ bà có sẵn,
và trong những
lúc cảm
hứng
dồi
dào nhất,
th́ bà làm cho những
nhà thông thái phải
khâm phục
về
kiến
thức
sâu rộng,
cũng như
bà làm cho cử
tọa
quan khách phải
ngạc
nhiên về
tài hùng biện
lưu
loát cùng sự
châm biếm
hài hước
và trí óc thông minh tế
nhị
của
bà.
Trong khi chúng tôi cùng làm việc
chung, tôi sửa
chữa
mỗi
chương
bản
thảo
viết
tay của
bà nhiều
lần,
và mỗi
chương
sắp
chữ
in; tôi viết
nhiều
đoạn
giùm cho bà, thường
là viết
lại
thành câu những
ư nghĩ của
bà cho đúng văn phạm
Anh Ngữ;
tôi giúp bà t́m những
lời
trích dẫn
trong các sách, và làm những
việc
phụ
thuộc
khác. C̣n th́ quyển
sách vốn
là công tŕnh của
bà, nói về
việc
làm trên phương
diện
hữu
vi, thuộc
cơi giới
vật
chất
hữu
h́nh, và bà phải
nhận
lănh tất
cả
về
sự
khen chê về
những
khuyết
điểm
hay
ưu
điểm
của
nó.
Bộ
“ Vén Màn Isis “ đă ghi dấu
một
thế
hệ
lịch
sử,
và khi viết
bộ
sách
ấy,
bà cũng giúp cho tôi học
hỏi
được
rất
nhiều
giáo lư Huyền
Môn, và chuẩn
bị
cho tôi có đủ
khả
năng để
hoạt
động
truyền
bá giáo lư Thông Thiên Học
trong trên hai mươi
năm. Vậy
bà HPB đă lấy
tài liệu
ở
đâu để
viết
bộ
sách đó, mà phần
nhiều
người
ta không thể
t́m thấy
trong những
sách vở
ở
các thư
viện?
Xin nói ngay rằng
đó là do sự
hỗ
trợ
của
phần
vô vi, một
phần
do sự
giao cảm
huyền
diệu
với
các đấng
Chân Sư,
và một
phần
là do bà tra cứu
tài liệu
trong cơi vô h́nh, dược
phản
ảnh
trên chất
Tinh Quang (Akasha) hay Tiên Thiên Khí
Ảnh,
tức
là kho Kư
Ức
của
Thiên Nhiên trong Càn Khôn Vũ Trụ.
Làm
sao tôi biết
được
điều
này? Đó là nhờ
tôi đă cộng
tác với
bà trong hai năm để
viết
bộ
“Vén Màn ISIS”, và nhiều
năm sau nữa
để
soạn
những
bộ
sách khác như
“Giáo Lư Bí Truyền”
(Doctrine Secrète),v…v…
Theo
dơi mọi
động
tác của
bà trong khi làm việc
là một
kinh nghiệm
hiếm
có và khó quên. Chúng tôi thường
ngồi
đối
diện
nhau bên một
cái bàn lớn,
và tôi có thể
thấy
rơ mọi
cử
chỉ
của
bà. Bà viết
thao thao trên một
trang giấy,
bỗng
nhiên bà ngừng
lại,
ngước
mặt
lên nh́n vào không gian với
đôi mắt
trống
không của
nhà linh thị
sử
dụng
cặp
mắt
thần,
đoạn,
bà thâu ngắn
tầm
nhăn quang như
để
nh́n vào một
vật
vô h́nh trong khoảng
không
ở
trước
mặt,
và bắt
đầu
chép những
ǵ bà đă thấy.
Khi đă chép xong đoạn
văn chú thích, đôi mắt
bà trở
lại
khí sắc
b́nh thường,
và bà tiếp
tục
viết
cho đến
khi bà ngừng
lại
một
lần
nữa
giống
y như
trước.
Tôi
c̣n nhớ
rơ hai lần
tôi được
nh́n thấy
và cầm
trên tay những
quyển
sách lạ
mà bà làm cho hiện
h́nh trước
mắt
tôi để
tôi kiểm
chứng
lại
bản
thảo,
khi tôi từ
chối
không chịu
phê nhận
để
đưa
lên máy in v́ có
chỗ
tôi c̣n nghi ngờ
là không đúng. Tôi nói:
“ Tôi
không thể
phê nhận
câu chú thích này, v́ tôi chắc
là bà đă chép sai”. Bà nói:
“Không sao,
vậy
là đúng; hăy cứ
để
nguyên như
thế”.
Tôi từ
chối,
sau cùng bà nói:
“Vậy
ông hăy ngồi
yên trong một
phút, để
tôi tra lại”.
Khi đó cái nh́n trống
không lại
xuất
hiện
trên cặp
mắt
bà; độ
một
lát, bà chỉ
về
phía cái kệ
đặt
nơi
góc pḥng, và nói bằng
một
giọng
trống
rỗng:
“Ḱa, nh́n
xem”.
Kế
đó bà trở
lại
khí sắc
b́nh thường:
“Đấy,
ở
chỗ
ấy
đấy.
Ông hăy tra lại
xem!”
Tôi bước
lại
chỗ
cái kệ
và thấy
hai quyển
sách lạ
mà tôi biết
chắc
là trước
đó không hề
có trong nhà. Tôi phối
kiểm
câu chú thích của
bà HPB với
đoạn
văn trong sách, chỉ
cho bà thấy
chỗ
chép sai, sửa
lại
bản
thảo,
và theo lời
bà yêu cầu,
đem hai quyển
sách để
lại
chỗ
cũ. Tôi trở
lại
bàn ngồi
làm việc,
và sau đó một
lúc, tôi quay lại
nh́n ngay chỗ
cái kệ,
th́ thấy
hai quyển
sách đă biến
mất!
Sau khi tôi kể
lại
chuyện
này, những
kẻ
hoài nghi ngu dốt
có thể
nghi ngờ
sự
sáng suốt
lành mạnh
của
tôi; tôi hy vọng
nó sẽ
hữu
ích cho họ.
Sự
việc
này lại
tái diễn
một
lần
thừ
hai trong trường
hợp
tương
tự,
nhưng
lần
này quyển
sách không biến
mất
mà vẫn
c̣n
ở
lại
với
chúng tôi cho đến
ngày nay.
----------
Bản
nháp viết
tay của
bà HPB có nhiều
khi rất
khác biệt
nhau một
cách rơ rệt.
Tuồng
chữ
của
bà có một
tính cách lạ
lung đặc
biệt,
mà người
nào đă từng
quen đọc
tuồng
chữ
ấy
luôn luôn có thể
nhận
ra ngay là chữ
viết
của
bà. Tuy nhiên, nếu
quan sát kỹ
lưỡng,
người
ta sẽ
phát hiện
ra ít nhất
ba hay bốn
lối
viết
khác nhau tuy rằng
của
một
tuồng
chữ
và mỗi
lối
viết
như
thế
kéo dài trên nhiều
trang giấy,
trước
khi đổi
qua lối
viết
khác.
Một
lối
viết
đó của
bà HPB nét chữ
rất
nhỏ
nhưng
đều
đặn;
một
lối
khác nét đậm
và tự
do phóng túng; một
lối
khác nữa
nét vừa
phải
và dễ
đọc;
và một
lối
nữa
chữ
viết
rất
tháu và khó đọc.
Về
cách hành văn cũng vậy,
những
lối
chữ
khác biệt
như
trên cũng kèm theo với
sự
sai biệt
về
văn phạm
Anh Ngữ.
Có khi tôi phải
sửa
chữa
nhiều
chỗ
trong một
gịng chữ,
nhưng
lại
có khi tôi có thể
thông qua suốt
nhiều
trang mà không cần
sửa
chữa
một
chữ
nào. Hoàn toàn nhất
là những
trang bản
thảo
được
viết
thay cho bà trong khi bà ngủ.
Một
thí dụ
điển
h́nh là đoạn
đầu
của
Chương
nói về
nền
văn minh cổ
Ai Cập
( Q.I, Ch. 14 ). Đêm đó, như
thường
lệ
chúng tôi làm việc
đến
hai giờ
sáng, cả
hai đều
mệt
nhoài, bèn ngưng
công việc
để
vừa
hút thuốc
vừa
mạn
đàm trước
khi chia tay. Bà th́ hầu
như
ngủ
gật
ngay trên ghế
bành, c̣n tôi chúc bà yên giấc
và lui về
pḥng tôi trên lầu.
Sáng hôm sau, khi tôi đă ăn điểm
tâm xong và bước
xuống
pḥng khách, bà đưa
cho tôi xem một
chồng
bản
thảo
độ
ba mươi
đến
bốn
mươi
trang giấy
viết
tay bằng
tuồng
chữ
của
bà, mà bà nói rằng
của
vị
Chân Sư
X…. viết
cho bà đêm qua. Tập
bản
thảo
đó hoàn toàn về
tất
cả
mọi
phương
diện,
và được
đưa
lên khuôn mà không cần
phải
duyệt
xét lại.
Có điều
lạ,
là mỗi
lần
có sự
khác biệt
những
tuồng
chữ
viết
như
thế
đều
xảy
ra sau khi bà HPB rời
khơi
pḥng độ
một
lúc, hay bước
vào trạng
thái xuất
thần
khi đó đôi mắt
trống
rỗng
của
bà nh́n vào cơi xa xăm nào và lại
trở
về
trạng
thái b́nh thường
ngay sau đó. Ngoài ra, c̣n có một
sự
thay đổi
rơ rệt
về
cá tính, tác phong, giọng
nói, cử
chỉ
và trên hết
mọi
sự,
về
tính khí thất
thường:
khi bà rời
khỏi
pḥng, bà là một
nhân vật
như
thế
nào đó; một
lát sau khi trở
lại
chỗ
ngồi,
bà lại
là một
nhân vật
khác. Khác đây không phải
nói là bà thay đổi
cái thể
xác hữu
h́nh, mà khác về
cử
chỉ,
tác phong, ngôn ngữ,
cách điệu;
cũng khác về
sự
linh mẫn
của
trí óc, về
quan điểm
đối
với
sự
đời,
khác về
cách sử
dụng
Anh ngữ,
và có điều
này rất
đặc
biệt,
là khác hẳn
về
khí chất:
khi sáng sủa
lành mạnh
bà có vẻ
từ
bi, khả
ái như
thiên thần;
và trong những
cơn
khủng
hoảng
thịnh
nộ,
th́ lại…trái
ngược
hẳn.
Có khi tôi viết
lại
thành câu không đúng như
ư bà muốn
tŕnh bày, bà kiên nhẫn
bỏ
qua một
cách
ưu
ái, vô tư;
những
lúc khác, v́ một
lỗi
lầm
nhỏ
nhặt
không đáng kể,
bà dường
như
nổi
cơn
thịnh
nộ
và muốn
thủ
tiêu tôi ngay tại
chỗ!
Những
cơn
bạo
khí đó đôi khi có thể
giải
thích bởi
t́nh trạng
sức
khỏe
của
bà, và đó chỉ
là sự
thường
t́nh, nhưng
lư do đó cũng không đủ
vững
để
giải
thích vài cơn
giận
dữ
khác. B́nh phẩm
về
tính cách bất
thường
này của
bà HPB, ông Sinnet (Phó Hội
Trưởng
Hội
Thông Thiên Học)
viết:
“BÀ HẲN
LÀ KHÔNG CÓ NHỮNG
ĐỨC
TÍNH MÀ NGƯỜI
TA TRÔNG ĐỢI
NƠI
MỘT
VỊ
ĐẠO
SƯ.
LÀM SAO MÀ BÀ LẠI
VỪA
CÓ TINH THẦN
CỦA
MỘT
TRIẾT
GIA, TỪ
BỎ
CUỘC
ĐỜI
THẾ
GIAN ĐỂ
DỐC
L̉NG TẦM
ĐẠO,
NHƯNG
DỒNG
THỜI
LẠI
CÓ THỂ
RƠI
VÀO NHỮNG
CƠN
NÓNG GIẬN
V̀ NHỮNG
SỰ
BỰC
M̀NH NHỎ
NHẶT
KHÔNG ĐÂU, ĐÓ LÀ MỘT
ĐIỀU
BÍ HIỂM
RẤT
KHÓ HIỂU
ĐỐI
VỚI
CHÚNG TA,V…V….”
Tuy nhiên, hăy giả
thiết
rằng
khi mà xác thân của
bà được
một
bậc
hiền
giả
thánh đức
sử
dụng,
th́ nó bắt
buộc
phải
hành động
với
sự
b́nh tĩnh, điềm
nhiên của
nhà hiền
giả,
c̣n nếu
không, th́ không, chừng
đó điều
bí hiểm
kai đă được
giải
đáp. Chính bà đă diễn
tả
kinh nghiệm
huyền
linh này khi viết
bộ
“Vén Màn Isis”, trong một
bức
thư
gởi
về
cho gia đ́nh như
sau:
“KHI
TÔI VIẾT
BỘ
ISIS, TÔI VIẾT
RẤT
DỄ
DÀNG ĐẾN
NỖI
ĐÓ KHÔNG PHẢI
LÀ MỘT
SỰ
KHÓ NHỌC
NỮA,
MÀ LÀ MỘT
ĐIỀU
VUI THÍCH THẬT
SỰ.
CÓ G̀ ĐÂU MÀ NGƯỜI
TA KHEN TẶNG
TÔI? KHI ĐƯỢC
LỆNH
DẠY
TÔI VIẾT,TÔI
NGỒI
XUỐNG
VÀ VÂNG THEO LỜI,
VÀ KHI ĐÓ TÔI CÓ THỂ
VIẾT
DỄ
DÀNG VỀ
BẤT
CỨ
VẤN
ĐỀ
G̀: SIÊU H̀NH HỌC,
TÂM LƯ HỌC,
TRIẾT
HỌC,
TÔN GIÁO, VẠN
VẬT
HỌC,
TỰ
NHIÊN HỌC,
VÀ V…V….TÔI KHÔNG HỀ
TỰ
ĐẶT
NGHI VẤN:
“TÔI CÓ THỂ
VIẾT
VỀ
VẤN
ĐỀ
NÀY CHĂNG?”, HAY LÀ: “TÔI CÓ ĐỦ
SỨC
VIẾT
CHĂNG?”, MÀ TÔI CHỈ
NGỒI
XUỐNG
VÀ VIẾT,
VẬY
THÔI. BỞI
V̀ CÓ MỘT
ĐẤNG
TOÀN THÔNG, BIẾT
HẾT
CẢ
MỌI
SỰ,
ĐỌC
CHO TÔI VIẾT.
ĐÓ LÀ SƯ
PHỤ
TÔI, VÀ ĐÔI KHI CŨNG CÓ NHỮNG
VỊ
CHÂN SƯ
KHÁC NỮA
MÀ TÔI ĐƯỢC
BIẾT
TRONG NHỮNG
CHUYẾN
ĐI NGAO DU THIÊN HẠ
TỪ
NHIỀU
NĂM VỀ
TRƯỚC…..MỖI
KHI TÔI VIẾT
VỀ
MỘT
ĐỀ
TÀI MÀ TÔI CHỈ
BIẾT
ÍT, HOẶC
KHÔNG BIẾT
G̀ CẢ,
TÔI BÈN KÊU GỌI
ĐẾN
CÁC NGÀI, VÀ MỘT
VỊ
CHÂN SƯ
GIÚP
NGUỒN
CẢM
HỨNG
CHO TÔI, NGHĨA LÀ NGÀI ĐỂ
CHO TÔI CHÉP NHỮNG
G̀ TÔI NH̀N THẤY
TRONG CÁC BỘ
SÁCH CỔ
TỰ
HAY CHỮ
IN HIỆN
RA TRƯỚC
MẮT
TÔI TRONG KHÔNG GIAN, TRONG KHI ĐÓ TÔI HOÀN TOÀN THỨC
TỈNH,
VÀ KHÔNG HỀ
MÊ MUỘI
DẦU
CHỈ
TRONG CHỐC
LÁT”.
Có lần
bà viết
thư
cho chị
ruột
bà
ở
Nga là bà Veracũng về
vấn
đề
ấy
như
sau:
“CHỊ
CÓ THỂ
KHÔNG TIN TÔI, NHƯNG
TÔI CHO CHỊ
BIẾT
RẰNG
KHI TÔI NÓI ĐIỀU
NÀY, TÔI CHỈ
NÓI SỰ
THẬT.
TÔI CHỈ
BẬN
RỘN,
KHÔNG PHẢI
VỚI
BỘ
“ VÉN MÀN ISIS “, MÀ CHÍNH LÀ VỚI
NỮ
THẦN
ISIS VẬY.
TÔI SỐNG
TRONG MỘT
CẢNH
GIỚI
MÊ LY TRƯỜNG
CỬU,
MỘT
CUỘC
SỐNG
TRONG CẢNH
GIỚI
LINH
ẢNH
THƯỜNG
XUYÊN LUÔN LUÔN THỨC
TỈNH
VỚI
ĐÔI MẮT
MỞ
LỚN
VÀ TUYỆT
NHIÊN KHÔNG CÓ G̀ LÀM PHỈNH
LỪA
NHỮNG
GIÁC QUAN CỦA
TÔI! TÔI NGỒI
VÀ THEO DƠI THƯỜNG
XUYÊN VỊ
NỮ
THẦN
AI CẬP.
VÀ TRONG KHI NỮ
THẦN
PHƠI
BÀY TRƯỚC
MẮT
TÔI CÁI Ư NGHĨA
ẨN
DẤU
CỦA
NHỮNG
ĐIỀU
BÍ NHIỆM
ĐĂ BỊ
MẤT
ĐI TỪ
LÂU ĐỜI,
VÀ BỨC
MÀN CHE DẤU
CÀNG TRỞ
NÊN MỎNG
DẦN
VÀ THƯA
DẦN
VỚI
GIỜ
PHÚT TRÔI QUA, RỒI
TỪ
TỪ
RƠI
XUỐNG
TRƯỚC
MẮT
TÔI, TÔI NÍN THỞ
TRONG CƠN
KINH NGẠC
VÀ KHÔNG C̉N TIN NƠI
NHỮNG
GIÁC QUAN CỦA
TÔI!...
….TRONG NHIỀU
NĂM LIÊN TIẾP,
ĐỂ
CHO TÔI KHÔNG QUÊN NHỮNG
G̀ TÔI ĐĂ HỌC(*),[2]
TÔI ĐƯỢC
LÀM CHO THẤY
THƯỜNG
XUYÊN NGAY TRƯỚC
MẮT
TÔI TẤT
CẢ
NHỮNG
G̀ TÔI CẦN
THẤY.
BẰNG
CÁCH ĐÓ, BẤT
CỨ
NGÀY ĐÊM, NHỮNG
H̀NH
ẢNH
CỦA
QUÁ KHỨ
LUÔN LUÔN ĐƯỢC
TR̀NH DIỄN
LINH ĐỘNG
TRƯỚC
NHĂN QUANG TÂM LINH CỦA
TÔI. TỪ
TỪ
CHẬM
RĂI, VÀ NỐI
TIẾP
NHAU TRONG IM LẶNG
GIỐNG
NHƯ
NHỮNG
H̀NH
ẢNH
CỦA
MỘT
CUỐN
PHIM CHỚP
BÓNG DIỆU
HUYỀN,
NHỮNG
BIẾN
CỐ
LỊCH
SỬ
TỪ
THẾ
KỶ
NÀY ĐẾN
THẾ
KỶ
KHÁC XUẤT
HIỆN
NGAY TRƯỚC
MẮT
TÔI….TÔI ĐƯỢC
KHUYẾN
KHÍCH NỐI
LIỀN
NHỮNG
THẾ
HỆ
ĐÓ VỚI
VÀI BIẾN
CỐ
QUAN TRỌNG
KHÁC, VÀ TÔI BIẾT
RẰNG
KHÔNG THỂ
CÓ SỰ
SAI LẦM.
CÁC CHỦNG
TỘC
VÀ QUỐC
GIA, NHỮNG
XỨ
SỞ
VÀ THÀNH PHỐ
CỦA
MỘT
THẾ
KỶ
QUÁ KHỨ
NÀO ĐÓ XUẤT
HIỆN,
RỒI
LU MỜ
DẦN
VÀ BIỆT
TÍCH TRONG MỘT
THẾ
KỶ
KHÁC MÀ THỜI
ĐIỂM
CHÍNH XÁC ĐƯỢC
CHÂN SƯ
CHO TÔI BIẾT…..
DĨ VĂNG MẬP
MỜ
CỦA
THỜI
CỔ
XƯA
BIẾN
THÀNH NHỮNG
THỜI
KỲ LỊCH
SỬ,
NHỮNG
HUYỀN
THOẠI
ĐƯỢC
GIẢI
THÍCH BẰNG
NHỮNG
BIẾN
CỐ
VÀ NHÂN VẬT
THẬT
SỰ
ĐĂ TỪNG
SỐNG
TRONG CÁC THỜI
KỲ ĐÓ; MỖI
BIẾN
CỐ
QUAN TRỌNG
VÀ THƯỜNG
LÀ KHÔNG QUAN TRỌNG,
MỖI
CUỘC
CÁCH MẠNG,
MỘT
TRANG MỚI
LẬT
QUA TRONG QUYỂN
SÁCH CỦA
ĐỜI
NGƯỜI
VÀ CỦA
CÁC QUỐC
GIA TRÊN THẾ
GIỚI
ĐỀU
LƯU
LẠI
DẤU
VẾT
NHƯ
CHỤP
ẢNH
VÀ DƯỜNG
NHƯ
ĐƯỢC
KHẮC
IN TRONG TRÍ TÔI VỚI
NHỮNG
MÀU SẮC
RƠ RỆT
KHÔNG THỂ
PHAI MỜ…
…..TÔI
NÓI MỘT
CÁCH NGHIÊM CHỈNH
CHO CHỊ
BIẾT
RẰNG
TÔI ĐƯỢC
TRỢ
GIÚP. VÀ NGƯỜI
TRỢ
GIÚP TÔI ĐÓ LÀ SƯ
PHỤ
CỦA
TÔI”.
Trong
một
bức
thư
gởi
về
nhà cho bà cô ruột,
bà cho biết
rằng:
“KHI SƯ
PHỤ
TÔI VẮNG
MẶT
V̀ BẬN
RỘN
VỚI
NHỮNG
CÔNG VIỆC
KHÁC, NGÀI LÀM THỨC
ĐỘNG
CHÂN NGĂ CỦA
TÔI ĐỂ
VIẾT
THAY CHO NGÀI…. NHỮNG
LÚC ĐÓ, KHÔNG PHẢI
LÀ TÔI VIẾT
NỮA
MÀ CHÂN NGĂ CỦA
TÔI SUY TƯ
VÀ VIẾT
THAY CHO TÔI. CÔ THỬ
NGHĨ XEM, TÔI ĐÂU CÓ HỌC
LỰC
UYÊN THÂM BAO GIỜ
MÀ VIẾT
ĐƯỢC
NHỮNG
VẤN
ĐỀ
ẤY.
VẬY
TH̀ NHỮNG
KIẾN
THỨC
ĐÓ CỦA
TÔI DO ĐÂU MÀ RA?......” Trong những
thư
khác gởi
về
cho gia đ́nh, bà cũng nh́n nhận
rằng
có những
lúc bà được
các Chân Sư
mượn
xác để
viết
giúp bà. Các ngài cũng dùng phương
pháp đó để
dạy
Đạo
cho tôi qua cửa
miệng
của
bà, và đưa
ra những
giáo lư thâm sâu mà bà không hề
biết
được
mảy
may trong trạng
thái b́nh thường.
Chúng tôi đă cùng nhau làm việc
trong nhiều
tháng và đă sản
xuất
được
trên 870 trang bản
thảo,
th́ một
ngày nọ
bà HPB hỏi
tôi rằng,
để
thi hành ư muốn
của
Chân Sư,
tôi có sẵn
ḷng chăng để
bắt
đầu
làm lại
tất
cả!
Tôi c̣n nhớ
rơ cơn
xúc động
mạnh
mà việc
ấy
đă gây cho tôi, khi nghĩ rằng
tất
cả
những
tuần
lễ
nhọc
nhằn
lao khổ
thức
đêm làm việc,
với
bao nhiêu cơn
song gió
ồ
ạt
trên phương
diện
tinh thần,
rốt
cuộc
chỉ
là con số
không! Tuy nhiên, v́ ḷng kính yêu và biết
ơn
của
tôi đối
với
các đấng
Chân Sư
vốn
tuyệt
đối
và vô biên, v́ các ngài đă cho tôi cái đặc
ân cùng chia xẻ
công việc
của
các ngài, nên tôi vui ḷng chấp
nhận
và chúng tôi lại
bắt
đầu
làm lại
hết
tất
cả.
Quyết
định
ấy
rất
thuận
lợi
cho tôi, v́ nó chứng
tỏ
ḷng trung kiên và nhất
trí của
tôi với
bà HPB, nên tôi được
thọ
lănh một
phần
thưởng
tâm linh dồi
dào. Những
nguyên tắc
Huyền
Môn được
các ngài giải
thích cho tôi biết,
vô số
những
thí dụ
điển
h́nh được
tŕnh bày cho tôi thấy
bằng
những
hiện
tượng
thần
thông, tôi được
trợ
giúp để
tự
ḿnh thí nghiệm
lấy
những
điều
đă học
hỏi,
được
giao tiếp
với
nhiều
vị
Chân Sư,
và nói chung, tôi được
chuẩn
bị
đầy
đủ
cho một
công việc
đại
sự
lớn
lao trong tương
lai mà hồi
ấy
tôi không thể
ngờ
trước
được,
nhưng
về
sau đă trở
thành một
vấn
đề
lịch
sử.
Người
ta thường
nói thật
là một
điều
rất
lạ
lung, và rất
khó hiểu,
khi thấy
rằng
trong số
tất
cả
những
người
đă trợ
giúp vào phong trào Thông Thiên Học,
thường
là với
những
hy sinh lớn
lao nhất,
tôi lại
là người
duy nhất
được
cái ân sủng
có những
mối
liên hệ
và tiếp
xúc cá nhân với
các đấng
Chân Sư,
đến
nỗi
sự
hiện
diện
của
các ngài vốn
là một
vấn
đề
mà tôi biết
rơ một
cách thật
sự
chảng
khác nào như
sự
hiện
hữu
của
những
người
trong gia đ́nh hay bạn
bè thân quyến
của
tôi. Chính tôi cũng không giải
thích được
điều
đó. Tôi biết
những
ǵ tôi biết,
chứ
không biết
rằng
tại
sao nhiều
bạn
đồng
môn của
tôi không được
như
vậy.
Nhiều
người
đă nói cho tôi biết
rằng
họ
đặt
đức
tin nơi
các đấng
Chân Sư
nhờ
bởi
sự
chứng
minh chắc
chắn
và không thể
nghi ngờ
qua kinh nghiệm
bản
thân của
tôi, nó cũng bổ
túc thêm vào những
lời
tuyên bố
của
bà HPB. Có lẽ
tôi được
cái đặc
ân đó bởi
v́ tôi phải
phóng con thuyền
Thông Thiên Học
cùng với
bà HPB cho các đấng
Chân Sư
của
bà, và lái con thuyền
đó xuyên qua bao nhiêu những
cơn
giông tố
băo bùng, khi mà chỉ
có một
sự
hiểu
biết
chắc
chắn
về
cái căn bản
lành mạnh
của
phong trào này mới
có thể
làm cho tôi bám sát lấy
nhiệm
sở
và giữ
vững
vai tṛ của
tôi cho đến
cùng.
MỘT
VÀI GIẢ
THUYẾT
Chúng ta hăy thử
phân tích trạng
thái tinh thần
của
bà HPB khi bà viết
bộ
sách “ VÉN MÀN ISIS “, để
t́m cách giải
thích những
sự
khác biệt
rơ rệt
về
cá tính, tuồng
chữ,
và tâm trạng
của
bà như
đă tường
thuật
ở
trên.
Tôi
không thể
chứng
minh đến
mức
độ
nào, bà HPB đă viết
bộ
sách trên qua cá tính phức
tạp
của
bà, nhưng
tôi nghĩ rằng
có điều
hiển
nhiên và không thể
chối
căi là bà đă nghiền
ngẫm
và tiêu hóa tất
cả
những
tài liệu
trong đó cũng như
nó là của
chính bà viết
ra, chứ
không phải
chỉ
là những
kiến
thức
mượn
tạm
từ
bên ngoài.
Thật
không ǵ dễ
bằng
tránh né toàn bộ
sự
việc
phân tích để
t́m hiểu,
và kết
bè với
những
người
cho rằng
bà HPB được
nguồn
cảm
hứng
thiêng liêng, không hề
có sự
lỡ
lầm,
mâu thuẫn,
sai sót hay sơ
hở
nào; nhưng
tôi không thể
làm như
vậy,
v́ tôi biết
bà quá rơ, và chỉ
muốn
tŕnh bày sự
thật.
Sau khi khảo
sát về
trường
hợp
này, người
ta không khỏi
nhận
thấy
rằng
ít nhất
có những
giả
thuyết
sau đây được
nêu ra:
1. Bộ
sách VÉN MÀN ISIS phải
chăng được
một
vị
Chân Sư
đọc
cho bà viết
như
một
người
thư
kư biên chép lại
một
cách tỉ
mỉ,
cẩn
thận
và công phu?
2. Do
Chân Ngă của
bà viết
ra trong khi cơ
thể
bà bị
hoàn toàn chế
ngự?
3. Bà viết
trong trạng
thái một
người
đồng
tử
được
các đấng
Chân Sư
mượn
xác?
4. Dưới
ảnh
hưởng
một
phần
của
những
trạng
thái kể
trên?
5. Như
một
đồng
tử
thông thường,
chịu
ảnh
hưởng
kiểm
chế
của
những
vong linh khuất
mặt?
6. Do nhiều
cá tính tiềm
ẩn
và tác động
luân phiên nhau của
bà viết
ra?
7. Bà
chỉ
là một
phụ
nữ
b́nh thường
như
mọi
người,
không chịu
một
ảnh
hưởng
kiểm
chế
ám
ảnh
hay một
nguồn
cảm
hứng
tâm linh nào đến
từ
bên ngoài, trong trạng
thái tỉnh
táo thông thường,
và không có ǵ khác biệt
với
bất
cứ
một
nhà văn nào làm một
công việc
soạn
sách thuộc
loại
này.
I
GIẢ
THUYẾT
THỨ
BẢY
Chúng ta hăy bắt
đầu
với
giả
thuyết
sau cùng. Mọi
người
sẽ
thấy
ngay rằng
xét về
tŕnh độ
học
thức
và văn hóa của
bà HPB , th́ bà không bao giờ
có thể
là một
học
giả
uyên bác, hay một
“ con mọt
sách “. Những
tập
hồi
kư về
cuộc
đời
bà, do gia đ́nh bà truyền
lại
cho nhà viết
tiểu
sử
bà là ông A.P.Sinnett, và cho tôi, cho thấy
rằng
hồi
thuở
thiếu
thời,
bà là một
người
học
tṛ khó dạy,
không hề
thích đọc
những
loại
sách vở
đứng
đắn,
khô khan, không thích giao du với
những
người
học
rộng,
cũng không hề
bước
chân đến
các thư
viện:
bà vốn
là mối
hoang mang kinh khủng
cho các bà quản
gia, mối
thất
vọng
cho họ
hàng thân quyến,
thích nổi
loạn
chống
lại
tất
cả
những
sự
g̣ bó chật
hẹp
của
phong tục
hay quy
ước
xă hội
thông thường.
Trong thời
kỳ thơ
ấu,
bà thích làm bạn
với
những
TINH LINH NGŨ HÀNH và những
vong linh khuất
mặt
ở
cơi âm, bà trải
qua nhiều
ngày và nhiều
tuần
như
vậy
để
giao tiếp
với
họ.
Bà cũng thường
hay chơi
những
tṛ ngỗ
nghịch,
rắn
mắt
đối
với
người
lớn,
và nhờ
có những
năng khiếu
thần
thông ngay từ
thuở
nhỏ,
nên có khi bà cũng nói phăng ra những
điều
bí mật
riêng tư
của
họ
làm cho họ
phải
giật
ḿnh.
Bà không hề
gia nhập
một
hội
nghiên cứu
khoa học
hay khảo
cứu
bất
cứ
một
ngành học
thuật
nào, và chưa
từng
viết
sách. Bà chỉ
đi t́m các vị
pháp sư,
phù thủy
ở
những
xứ
mọi
rợ
và bán khai, không phải
để
đọc
sách vở
( không hề
có ) của
họ,
mà để
học
hỏi
về
ngành tâm lư thực
dụng.
Nói tóm lại,
bà không phải
là một
người
ưa
thích văn chương
trước
khi viết
bộ
VÉN MÀN ISIS.
Những
sự
khác biệt
và tương
phản
rơ rệt
giữa
những
đoạn
văn có khi vụng
về
lủng
củng
và có khi hầu
như
tuyệt
tác của
bà, chứng
minh rằng
không phải
chỉ
có một
trí lực
duy nhất
tác động
để
viết
bộ
sách này. Những
tuồng
cữ
khác nhau, sự
sai biệt
về
cách suy luận,
cách hành văn và những
sắc
thái khác biệt
nhau của
mỗi
đoạn
văn đều
xác nhận
điều
đó.
II
GIẢ
THUYẾT
THỨ
SÁU
Bây giờ
chúng ta hăy xét đến
giả
thuyết
thứ
sáu, cho rằng
quyển
sách
ấy
được
viết
ra bởi
nhiều
cá tính khác nhau của
bà HPB, hay nhiều
tầng
lớp
tâm thức
cá nhân của
bà, có thể
luân phiên nhau xuất
hiện
từ
trạng
thái tiềm
ẩn
để
bước
vào trạng
thái hoạt
động.
Về
vấn
đề
này, những
sự
khảo
sát t́m ṭi của
các giới
liên hệ
đương
thời
vẫn
chưa
tiến
bộ
đến
mức
giúp cho chúng ta có thể
nói một
cách dứt
khoát. Trong quyển
“ NHỮNG
GIAI THOẠI
TRONG CUỘC
ĐỜI
BÀ BLAVATSKY “, ông Sinnett có trích dẫn
một
đoạn
văn của
bà diễn
tả
một
“ đời
sống
song đôi “ mà bà đă trải
qua trong một
cơn
bệnh
sốt
khi bà c̣n là một
thiếu
nữ
ở
Mingrelia:
MỖI
KHI CÓ NGƯỜI
GỌI
TÊN TÔI, TÔI MỞ
MẮT
RA VÀ TRỞ
LẠI
BẢN
THỂ
HAY CÁ TÍNH CỦA
CHÍNH TÔI, TRONG TỪNG
CHI TIẾT.
TUY NHIÊN, SAU ĐÓ KHI TÔI ĐƯỢC
ĐỂ
YÊN MỘT
M̀NH, TÔI LẠI
RƠI
VÀO TRẠNG
THÁI MỘNG
MƠ
THƯỜNG
NHẬT
CỦA
TÔI, VÀ TÔI TRỞ
THÀNH MỘT
NGƯỜI
KHÁC (BÀ HPB KHÔNG NÓI NGƯỜI
ẤY
LÀ AI )…..
NHỮNG
KHI TÔI ĐANG NÓI CHUYỆN
TRONG CUỘC
SỐNG
MỘNG
MƠ
NÓI TRÊN, NẾU
TÔI BỊ
GIÁN ĐOẠN
NỬA
CHỪNG
V̀ CÓ NGƯỜI
GỌI
TÊN TÔI, VÀO LÚC MÀ TÔI HAY NHỮNG
NGƯỜI
KHUẤT
MẶT
TRONG LÚC ĐÓ MỚI
NÓI ĐƯỢC
NỬA
CÂU VÀ TÔI MỞ
MẮT
RA ĐỂ
ĐÁP LỜI
KÊU GỌI,
TH̀ TÔI THƯỜNG
TRẢ
LỜI
MỘT
CÁCH RẤT
SÁNG SUỐT
VÀ HIỂU
BIẾT
TẤT
CẢ
MỌI
SỰ,
V̀ TÔI KHÔNG HỀ
MÊ MUỘI.
NHƯNG
KHI TÔI VỪA
NHẮM
MẮT
LẠI,
TH̀ CÂU NÓI BỊ
GIÁN ĐOẠN
NỬA
CHỪNG
KHI NĂY, ĐƯỢC
TIẾP
TỤC
BỞI
“ CÁI NGĂ THỨ
NH̀ “ CỦA
TÔI, ĐÚNG VÀO CHỮ
HAY CHÍ ĐẾN
NỬA
CHỮ
MÀ CÂU NÓI BỊ
NGẮT
NGANG.
KHI
TÔI THỨC
TỈNH
VÀ TRỞ
VỀ
BẢN
THỂ,
TÔI NHỚ
RƠ RẰNG
TÔI LÀ AI TRONG CÁI BẢN
NGĂ THỨ
NH̀, CÙNG TẤT
CẢ
NHỮNG
SỰ
VIỆC
XẢY
RA VÀ TÔI ĐANG LÀM G̀ LÚC
ẤY.
KHI TÔI LÀ MỘT
NGƯỜI
KHÁC TRONG TRẠNG
THÁI MỘNG
MƠ,
TH̀ TÔI LÀ CÁI NHÂN VẬT
MÀ TÔI TRỞ
THÀNH, VÀ TÔI KHÔNG HỀ
BIẾT
H .B. BLAVATSKY LÀ AI! KHI
ẤY
TÔI
Ở
MỘT
XỨ
HOÀN TOÀN XA LẠ,
CÓ MỘT
CÁ TÍNH HOÀN TOÀN KHÁC HẲN,
VÀ KHÔNG CÓ LIÊN HỆ
G̀ ĐẾN
ĐỜI
SỐNG
CỦA
TÔI TRONG HIỆN
TẠI”.
Xét về
những
sự
việc
kể
trên, người
ta có thể
nói rằng
nhân vật
HPB duy nhất,
chính là cái thực
thể
tâm linh ngự
trong cái xác phàm của
bà, c̣n cái “người
khác” kia vốn
không phải
bà HPB, mà chỉ
là một
thực
thể
khác có một
mối
liên quan bí hiểm
không giải
thích được,
với
bà và xác phàm của
bà. Thật
vậy,
người
ta được
biết
có những
trường
hợp
mà cái NGĂ THỨ
NH̀ biểu
lộ
những
sở
thích và tài năng hoàn toàn xa lạ
đối
với
cái NGĂ b́nh thường
của
đương
sự.
Giáo Sư
Barrett có thuật
chuyện
người
con trai của
một
vị
linh mục
ở
khu vực
bắc
Luân Đôn, sau một
cơn
bệnh
nặng,
bèn trở
nên hai nhân vật
khác nhau. Cái “ngă thứ
nh́” không biết
đến
cha mẹ
của
y, không nhớ
những
việc
quá khứ,
tự
gọi
ḿnh bằng
một
cái tên khác, và điều
đáng kể
hơn
nữa,
là y phát triển
tài năng về
âm nhạc,
mà trước
đó y không hề
có chút nào.
Có nhiều
trường
hợp
mà cái “ngă thứ
nh́” thay chân cái ngă b́nh thường,
tự
gọi
bằng
một
cái tên khác và có một
trí nhớ
đặc
biệt
về
những
kinh nghiệm
riêng của
nó. Trong trường
hợp
cô Lurancy Vennum mà mọi
người
đều
biết,
thể
xác của
cô hoàn toàn bị
chế
ngự
bởi
linh hồn
thoát xác của
một
thiếu
nữ
khác tên Mary Roff, cô này đă chết
từ
mười
hai năm trước.
Dưới
sự
thay hồn
đổi
xác này, cá tính của
cô Vennum hoàn toàn khác biệt
hẳn
khi xưa.
Cô nhớ
rơ tất
cả
những
ǵ đă xảy
ra trong đời
của
cô Mary Roff trước
khi cô này qua đời,
nhưng
c̣n chính những
cha mẹ,
người
thân quyến
và bạn
bè của
cô lại
trở
nên những
người
hoàn toàn xa lạ.
Hiện
tượng
này kéo dài gần
bốn
tháng. Việc
nhập
xác này đối
với
cô Mary Roff lại
rất
tự
nhiên đến
nỗi
cô không thấy
ǵ khác biệt
với
cái thể
xác của
chính cô khi cô sinh ra đời
gần
ba mươi
năm về
trước.
Ngoài
ra, người
ta c̣n thuật
chuyện
cái “ngă thứ
nh́” của
một
cô gái tên Mary Reynold, xuất
hiện
từ
năm cô mười
tám tuổi
và kéo dài đến
bốn
mươi
ba năm cho đến
khi cô thọ
được
đến
sáu mươi
mốt
tuổi,
xen với
những
giai đoạn
trung gian khi cô trở
về
trạng
thái b́nh thường.
Trong khoảng
hai mươi
lăm năm cuối
cùng của
cuộc
đời,
cô hoàn toàn
ở
trong trạng
thái bất
thường
của
cái “ngă thứ
nh́”, trong khi đó cái ngă b́nh thường,
tức
con người
thật
của
cô, đă bị
xóa bỏ.
Có điều
lạ
lung là tất
cả
những
ǵ cô biết
trong cái “ngă thứ
nh́” đều
đă sở
đắc
được
trong trạng
thái đó. Cô bắt
đầu
cái đời
sống
thứ
nh́ này vào năm cô mười
tám tuổi
(tuổi
của
thể
xác), không hề
biết
tới
Mary Reynold là ai và quên hết
tất
cả
quá khứ;
trạng
thái thứ
nh́ của
cô chính là trạng
thái của
một
trẻ
sơ
sinh. Tất
cả
những
ǵ c̣n sót lại
của
dĩ văng, là cô chỉ
biết
thốt
ra một
vài tiếng,
mà cô không hiểu
ư nghĩa ǵ cả
cho đến
khi cô được
dạy
cho biết
ư nghĩa của
những
chữ
đó. Tôi có đọc
sách và biết
được
ít nhiều
về
vấn
đề
đa h́nh đa dạng
trong con người,
nhưng
không thấy
có trường
hợp
nào mà cái ngă hay nhân vật
thứ
nh́ có thể
chú thích những
đoạn
văn trong các sách, hay nói những
tiếng
ngoại
ngữ
mà chính đương
sự
không hề
biết
trong trạng
thái b́nh thường.
Tôi biết
một
nhà bác học
ở
Anh Quốc,
đă quên hẳn
tiếng
mẹ
đẻ
v́ sống
ở
nước
ngoài từ
năm mười
một
tuổi
mà không nói, hay nghe ai nói thứ
tiếng
ấy.
Đến
năm hai mươi
chin tuổi,
y mới
bắt
đầu
học
lại
tiếng
mẹ
đẻ
bằng
cách dạy
sinh ngữ
và tự
điển.
Tuy nhiên, trong khi y cố
gắng
vật
lộn
với
những
nguyên tắc
sơ
đẳng
của
ngôn ngữ
ấy,
th́ y lại
nói trôi chảy
trong giấc
ngủ.
Nhưng
trong trường
hợp
này, sự
thông hiểu
ngôn ngữ
của
y chỉ
đắm
ch́m trong cơi tiềm
thức,
hay kư
ức
ẩn
tàng.
Có trường
hợp
quen thuộc
của
một
người
nữ
tỳ ngâm thơ
ngoại
ngữ
trong trạng
thái thụy
du (đi trong giấc
ngủ)
và cũngthốt
lên những
câu văn Do Thái mà cô đă nghe một
người
chủ
cũ ca vang lên từ
nhiều
năm trước.
Nhưng
không ai có thể
đưa
ra bằng
chứng
nào chỉ
rằng
bà HPB đă từng
khảo
cứu
về
những
vấn
đề
bà viết
trong bộ
sách VÉN MÀN ISIS. Nếu
bà không cố
ư “đạo
văn” một
cách ư thức
và cũng không hề
học
hỏi
những
vấn
đề
ấy
bao giờ
th́ làm sao những
kiến
thức
đó có thể
đến
với
bà trên giả
thuyết
rằng
bộ
sách
ấy
được
viết
bởi
một
HPB thứ
nh́ hay HPB thứ
ba?
Ở
đây, tôi chỉ
muốn
tạm
cứu
xét vấn
đề
đa h́nh đa dạng
của
con người
trên giả
thuyết
rằng
bà HPB có thể
viết
bộ
sách VÉN MÀN ISIS với
không có sự
trợ
giúp nào khác hơn
là những
cá tính riêng của
bà. Bởi
đó, chúng ta không cần
phải
đi sâu hơn
vào một
vấn
đề
mà muốn
hiểu
biết
rơ người
ta phải
tham khảo
những
giáo lư Huyền
Môn của
Ấn
Độ.
Đạo
lư cổ
truyền
của
Ấn
Độ
dạy
rằng
Chân Ngă con người
có khả
năng thấy
và biết
tất
cả
khi y đă trút bỏ
cái gánh nặng
của
bức
màn che ám cuối
cùng thuộc
về
tâm thức
vật
chất
hồng
trần.
Và cái kiến
thức
đó sẽ
đến
với
y một
cách tuần
tự
khi mà những
lớp
màn xác thịt
trọng
trược
càng ngày càng được
vén lên.
Trường
hợp
giáo chủ
Hồi
Giáo Mahomet vốn
là một
người
thất
học,
lại
có thể
viết
bộ
Thánh Kinh Koran bằng
chữ
Ả
Rập
thuần
túy, là một
phép lạ
lớn
nhất
chưa
từng
thấy.
Đó là một
bằng
chứng
chỉ
rằng
Chân Ngă tâm linh của
ông đă biểu
lộ
xuyên qua những
chướng
ngại
của
thể
xác vật
chất
và trực
tiếp
thu nhận
những
kiến
thức
siêu việt
từ
cái nguồn
gốc
huyền
diệu
thuộc
về
cơi trên.
Nếu
bà HPB là một
tu sĩ khổ
hạnh
chủ
trị
được
cái phàm ngă và bộ
óc suy luận
của
bà, nếu
bà có thể
viết
Anh Ngữ
thuần
túy mà không hề
sở
đắc
nó từ
trước,
nếu
bà soạn
bộ
VÉN MÀN ISIS theo một
kế
hoạch
rơ rang nhất
định
thay v́ sắp
đặt
các tài liệu
một
cách lộn
xộn
thiếu
trật
tự
như
bà đă làm, th́ tôi
đă có thể
nghĩ như
trên và coi bộ
sách quư giá
ấy
như
một
công tŕnh sáng tạo
bởi
cái Chân Ngă siêu việt
của
bà. Nhưng
trên thực
tế,
tôi không thể
làm như
vậy,
và tôi phải
thông qua vấn
đề
ấy
để
xét qua những
giả
thuyết
khác.
III
GIẢ
THUYẾT
THỨ
NĂM
Giả
thuyết
kế
đó là phải
chăng bà HPB viết
bộ
VÉN MÀN ISIS với
tư
cách một
người
đồng
tử
thông thường,
nghĩa là dưới
sự
kiểm
chế
của
những
vong linh người
chết?
Tôi quả
quyết
rằng
không. Nếu
quả
như
vậy,
th́ cái vong linh chế
ngự
thể
xác của
bà hẳn
là tác động
một
cách khác hẳn
với
mọi
thứ
quyền
năng đă được
ghi nhận
trong các sách vở,
mà tôi đă từng
chứng
kiến
trong nhiều
năm kinh nghiệm
và khảo
cứu
về
phong trào Thần
Linh Học.
Tôi đă được
biết
nhiều
đồng
tử
thuộc
đủ
mọi
loại:
đồng
tử
giáng ngôn, giáng bút, xuất
thần,
chữa
bệnh,
linh thị,
làm các hiện
tượng
v…v….Tôi đă theo dơi cách làm việc
của
họ,
tham dự
các cuộc
họp
đàn và quan sát những
triệu
chứng
nhập
đồng
của
họ.
Nhưng
trường
hợp
của
bà HPB hoàn toàn khác hẳn.
Hầu
hết
tất
cả
những
ǵ họ
đă làm bà đều
có thể
làm được
tùy ư muốn,
bất
cứ
ngày đêm, không cần
phải
họp
đàn, chọn
thành phần
tham dự,
hay áp đặt
những
điều
kiện
thông thường.
Ngoài
ra, tôi c̣n có bằng
chứng
rằng
ít nhất
vài Nhân Vật
hợp
tác với
chúng tôi là những
Người
c̣n sống
do bởi
tôi đă nh́n thấy
các Ngài trong thể
xác phàm
ở
Ấn
Độ,
sau khi đă nh́n thấy
các Ngài trong Thể
Vía
ở
những
nơi
khác bên Âu Mỹ,
và tôi cũng đă nói chuyện
với
các Ngài. Các Ngài cho tôi biết
rằng
các Ngài không phải
là những
vong linh, mà là những
người
sống
cùng tôi, và mỗi
vị
trong các Ngài đều
có những
đặc
tính và khả
năng riêng, nói tóm lại,
là có cá tính riêng. Những
quyền
năng mà các Ngài đă sở
đắc
được,
có ngày tôi cũng sẽ
có; sớm
hay muộn
là tùy
ở
nơi
tôi. Tôi không nên trông đợi
một
đặc
ân nào, mà cũng như
các Ngài, tôi phải
tiến
từng
bước
bằng
sự
cố
gắng
cá nhân.
Một
trong những
vị
cao cả
nhất
là bậc
Thầy
của
hai vị
Chân Sư
mà quần
chúng đă có dịp
nghe nói đến,
đă dạy
tôi trong một
bức
thư
đề
ngày 22 tháng 6 năm 1875, như
sau:
“THỜI
GIỜ
ĐĂ ĐẾN
ĐỂ
CHO CON BIẾT
TA LÀ AI. TA KHÔNG PHẢI
LÀ MỘT
LINH HỒN
ĐĂ THOÁT XÁC, HỠI
ĐỆ
TỬ,
MÀ LÀ MỘT
NGƯỜI
SỐNG,
CÓ NHỮNG
QUYỀN
NĂNG MÀ CÓ NGÀY CON CŨNG SẼ
ĐẠT
TỚI.
TA KHÔNG THỂ
TIẾP
XÚC VỚI
CON BẰNG
CÁCH NÀO KHÁC HƠN
LÀ BẰNG
TINH THẦN,
V̀ HIỆN
THỜI
CHÚNG TA
Ở
CÁCH XA NHAU ĐẾN
HẰNG
NGÀN DẶM.
HĂY KIÊN NHẪN
VÀ LẠC
QUAN, HỠI
NGƯỜI
PHỤNG
SỰ
TRUNG KIÊN CỦA
QUẦN
TIÊN HỘI
THIÊNG LIÊNG! CON HĂY TIẾP
TỤC
CỐ
GẮNG
LÀM VIỆC,
V̀ ĐỨC
TỰ
TIN LÀ YẾU
TỐ
MẠNH
MẼ
NHẤT
ĐƯA
ĐẾN
SỰ
THÀNH CÔNG. HĂY GIÚP ĐỠ
NHỮNG
KẺ
THIẾU
THỐN
RỒI
CHÍNH CON SẼ
ĐƯỢC
GIÚP ĐỠ,
THEO SỰ
TÁC ĐỘNG
TRƯỜNG
KỲ VÀ BẤT
BIẾN
CỦA
LUẬT
NHÂN QUẢ.”
Như
độc
giả
nhận
thấy,
Luật
Nhân Quả
đă được
dạy
cho tôi hầu
như
ngay từ
lúc bắt
đầu
sự
liên hệ
giữa
tôi với
bà HPB và với
các đấng
Chân Sư.
Tuy
nhiên, mặc
dù các sự
việc
kể
trên chúng tôi đă được
sự
hợp
tác của
ít nhất
một
người
khuất
mặt,
vốn
là linh hốn
của
một
trong những
triết
gia lỗi
lạc
nhất
của
thời
cận
đại,
đă từng
làm vẻ
vang cho xứ
sở
ông và là một
bông hoa
ưu
tú của
nhân loại.
Ông ta là một
tín hữu
của
triết
phái Platon (Bá Lạp
Đồ)
và tôi nghe nói rằng
ông ta say mê học
hỏi
đến
nỗi
ông không thể
tách rời
khỏi
quả
Địa
Cầu,
mà ngồi
trong một
thư
viện
do ông tạo
ra bằng
tư
tưởng
trên cơi Trung Giới,
đắm
ch́m trong những
cơn
suy gẫm
triết
lư, quên hẳn
gịng trôi chảy
của
thời
gian, và chỉ
nghĩ đến
việc
xoay chuyển
trí óc con người
theo chiều
hướng
đạo
đức
tâm linh. Nguyện
vọng
ấy
không thu hút ông ta tái sinh trở
lại
cơi trần,
mà thúc đẩy
ông đi t́m những
người
có chí nguyện
giống
như
các Chân Sư
và đệ
tử,
muốn
làm việc
để
truyền
bá Chân Lư và bài trừ
mê tín dị
đoan. Tôi được
ông cho biết
rằng
ông ta là một
người
tinh khiết
và vô kỷ
đến
nỗi
ông được
sự
kính nể
của
tất
cả
các vị
Chân Sư.
V́ không được
can thiệp
vào nghiệp
quả
của
ông, nên các Ngài chỉ
có thể
để
cho ông tự
lực
công phu để
tự
giải
thoát khỏi
những
ảo
ảnh
của
cơi Trung Giới,
hầu
tiến
bước
lên cơi tinh thần
và tâm linh thuần
túy theo đà tiến
hóa tự
nhiên. Phấn
trí tuệ
của
ông được
vận
dụng
mănh liệt
vào việc
suy luận
triết
lư đến
nỗi
phần
tâm linh đă tạm
thời
bị
tê liệt.
Trong khi đó, th́ ông ta xuất
hiện,
sẵn
sàng cộng
tác với
bà HPB để
viết
bộ
sách lịch
sử
này, và đă đóng góp rất
nhiều
công lao vào những
tiết
mục
có liên quan đến
vấn
đề
triết
học.
Ông ta không có hiện
h́nh để
ngồi
vào bàn viết
với
chúng tôi, cũng không mượn
xác bà HPB như
một
đồng
tử,
mà chỉ
nói chuyện
với
bà trên phương
diện
huyền
linh, suốt
nhiều
giờ
liên tiếp.
Trong những
cuộc
giao tiếp
đó, ông đọc
cho bà viết,
nhắc
nhở
bà về
những
loại
sách nào cần
phải
chú thích, trả
lời
những
câu hỏi
của
tôi về
các vấn
đề
chi tiết,
huấn
dụ
cho tôi về
những
vấn
đề
nguyên tắc,
và đóng vai tṛ của
một
người
thứ
ba trong nhóm chúng tôi.
Có lần
ông ta cho tôi bức
chân dung của
ông, một
họa
thô sơ
vẽ
bằng
bút ch́ màu trên một
tờ
giấy
mỏng,
và đôi khi ông cũng có gởi
cho tôi một
thông điệp
ngắn
(bằng
cách phóng xuất
qua không gian) để
nhắn
nhủ
tôi về
vài việc
riêng tư.
Nói chung th́ mối
liên hệ
giữa
ông với
hai chúng tôi là một
sự
giao tiếp
rất
dịu
dàng, thân mật
với
một
người
anh cả
và một
người
thầy
vô cùng uyên bác. Ông không hề
nói một
lời
nào chỉ
rằng
ông tự
coi như
một
vong linh khuất
mặt,
khác hơn
một
người
sống
và tôi nghe nói rằng
ông ta vẫn
không biết
là ḿnh đă chết.
Mặc
dầu
bác bỏ
giả
thuyết
cho rằng
bà HPB viết
bộ
VÉN MÀN ISIS với
tư
cách một
đồng
tử
“ bị
kiểm
chế
“, nhưng
chúng ta đă thấy
rằng
vài đoạn
trong sách
ấy
thật
sự
đă được
một
vong linh khuất
mặt
đọc
cho bà viết:
đó là một
nhân vật
lạ
kỳ và độc
đáo, nhưng
vẫn
là một
linh hồn
đă thoát xác. Phương
pháp làm
việc
với
ông ta như
đă nói
ở
trên thật
đúng như
bà đă diễn
tả
trong một
bức
thư
gởi
về
cho gia đ́nh, để
giải
thích bằng
cách nào bà viết
bộ
sách
ấy
mà không hề
có sự
học
hỏi,
đào luyện
trí óc từ
trước.
“Khi tôi ĐƯỢC
LỊNH
phải
viết,
tôi ngồi
xuống
và tuân lịnh.
Khi đó, tôi có thể
viết
dễ
dàng về
bất
cứ
vấn
đề
ǵ: Siêu h́nh, Tâm lư, Triết,
Tôn giáo Vạn
vật,
v.. v…. Tại
sao? Bởi
v́ có MỘT
VỊ
BIẾT
TẤT
CẢ
đọc
cho tôi viết.
Đó là Sư
Phụ
tôi, và thỉnh
thoảng
cũng có những
vị
khác nữa
mà tôi được
biết
trong những
chuyến
du hành từ
nhiều
năm về
trước”.
Đó chính là việc
ǵ đă xảy
ra giữa
bà và vị
triết
nhân già của
môn phái Platon (Bá Lạp
Đồ),
nhưng
ông takhong6 phải
là “sư
phụ”
bà, mà cũng không phải
bà đă gặp
ông ta trong những
chuyến
du hành trước
đây v́ ông ta đă chết
trước
khi bà sinh ra đời
(trong kiếp
này). Như
vậy,
vấn
đề
được
nêu ra là phải
chăng vị
tín hữu
phái Bá Lạp
Đồ
nói trên quả
thật
là một
linh hồn
thoát xác, hay là một
vị
Chân Sư
đă sống
trong cái thể
xác đó và dường
như
đă chết
vào ngày 1 tháng 9 nắm
1687 nhưng
thật
ra th́ không?
Đó hẳn
là một
vấn
đề
khó giải
đáp. Xét v́ hoàn toàn không thấy
có những
triệu
chứng
thông thường
của
vấn
đề
mượn
xác đồng
tử
và xét v́ bà HPB chỉ
đóng vai tṛ của
người
biên chép những
ǵ vị
triết
gia đọc
cho bà viết,
chẳng
khác nào như
sự
quan hệ
giữa
một
nữ
bí thư
với
vị
Chủ
Nhân, trừ
ra việc
ông Chủ
Nhân
ấy
tôi không nh́n thấy
mà bà nh́n thấy,
th́ đó có vẻ
dường
như
chúng tôi tiếp
xúc với
một
người
sống
hơn
là với
một
linh hồn
đă thoát xác. Ông ta không hẳn
là một
vị
Chân Sư,
nhưng
gần
như
thế
hơn
là bất
cứ
môt vai tṛ nào khác. C̣n nói về
công việc
viết
sách VÉN MÀN ISIS, th́ phần
việc
của
ông cũng giống
như
những
phần
khác khi mà người
đọc,
hay người
viết
tùy trường
hợp,
là một
vị
Chân Sư
(GIẢ
THUYẾT
SỐ
MỘT).
Tôi nói người
đọc,
hay NGƯỜI
VIẾT,
và điều
này cần
được
giải
thích thêm.
Trên đây có nói rằng
tuồng
chữ
của
bà HPB có nhiều
khi khác biệt
nhau, và cũng lại
có nhiều
lối
viết
khác nhau của
một
tuồng
chữ
duy nhất.
Mỗi
lần
thay đổi
tuồng
chữ
như
thế
đều
đi kèm với
một
sự
khác biệt
rơ rệt
về
cử
chỉ,
tác phong, sắc
diện
và khả
năng văn chương
của
bà HPB. Khi bà tự
lực
cố
gắng
làm việc
với
khả
năng của
chính ḿnh, th́ điều
đó rất
dễ
nhận
thấy
v́ nó biểu
lộ
qua cách hành văn lung túng, vụng
về
của
một
người
mới
tập
sự
viết
lách, chưa
được
huấn
luyện
thuần
thục
về
công tác này. Những
khi đó th́ bản
thảo
của
bà đưa
qua cho tôi duyệt
xét lại,
có dẫy
đầy
những
lỗi
lầm
sai sót, và sau khi nó được
biến
thành những
trang có đầy
những
chỗ
gạch
nát, thêm bớt,
những
gịng xen kẽ,
xóa bỏ,
sửa
chữa
về
chính tả
và văn phạm,
tôi phải
đọc
cho bà viết
lại
từ
đầu
(GIẢ
THUYẾT
SỐ
BẢY).
Không
bao lâu, tôi được
biết
rằng
những
đấng
Cao Cả
khác cũng sử
dụng
thể
xác của
bà HPB để
giáng ngôn, giáng bút. Mỗi
lần
mượn
xác bà như
vậy,
các Ngài không hề
nói rơ rằng:
“Tôi là vị
nọ….hay
vị
kia”, hay “Đây là Chân Sư
A….hay B….”. Điều
đó không cần
thiết
sau khi chúng tôi đă làm việc
chung với
nhau trong một
thời
gian khá lâu dài để
tôi có thể
trở
thành quen thuộc
với
mỗi
cử
chỉ,
động
tác, ngôn ngữ,
khí chất
và xúc cảm
của
bà. Mỗi
lần
các vị
luân phiên nhập
xác của
bà, là có sự
thay đổi
rơ rệt
như
ban ngày về
tính khí, cử
chỉ,
thái độ,
v…v….của
bà như
vừa
kể
trên. Mỗi
lần
bà rời
khỏi
pḥng đi ra ngoài một
lát rồi
trở
vào, tôi chỉ
cần
quan sát sơ
qua những
nét mặt
và tác phong, cử
chỉ
của
bà một
chút để
có thể
tự
nhắc
thầm
rằng:
“Đây là Chân Sư
X…,hay Y…,hay Z…”, và sự
phỏng
đoán của
tôi đă được
xác nhận
bởi
những
sự
việc
xảy
ra sau đó.
Một
trong những
đấng
ấy,
mà tôi đă có lần
gặp
gỡ
trong xác phàm, có bộ
râu cằm
và râu mép dài xoắn
lại
với
bộ
ria
ở
hai bên má theo lối
Rajput. Ngài có thói quen vuốt
râu mép mỗi
khi suy tư:
ngài làm như
vậy
một
cách tự
nhiên vô ư thức.
Có những
khi bà HPB để
cho cá tính của
bà tan biến
dần
và trở
thành một
Nhân Vật
khác. Khi đó, tôi ngồi
trước
mặt
bà và nhận
thấy
bà đưa
tay lên cằm
rồi
từ
từ
làm những
động
tác dường
như
kéo bộ
râu mép (không có thật)
và xoắn
tới
xoắn
lui trong những
ngón tay của
bà, với
đôi mắt
đăm chiêu và cái nh́n xa vắng.
Một
lát sau đó, đôi mắt
ấy
mới
thâu ngắn
tầm
nhăn quang để
lưu
ư đến
sự
vật
chung quanh: Nhân Vật
có râu mép ngước
mặt
lên, nhận
thấy
tôi đang chăm chú theo dơi động
tác của
ngài, bèn lật
đật
bỏ
tay xuống,
và tiếp
tục
viết.
Một
Nhân Vật
khác lại
rất
ghét Anh Ngữ
đến
nỗi
Ngài chỉ
nói chuyện
với
tôi bằng
tiếng
Pháp. Ngài có năng khiếu
về
nghệ
thuật
và rất
thích thú say mê những
phát minh cơ
khí.
Một
Nhân Vật
khác nữa
thỉnh
thoảng
cũng xuất
hiện
(qua thể
xác bà HPB) vẽ
nguệch
ngoạc
những
h́nh
ảnh
bằng
bút ch́, và giáng bút thành những
bài thơ
hàm xúc mùi Đạo
Vị
thanh cao.
Mỗi
Nhân Vật
đó đều
có những
đặc
tính riêng biệt
rơ rệt,
và người
ta có thể
nhận
ra ngay là vị
nào mượn
xác bà HPB vào một
lúc nhất
định,
cũng như
ta có thể
phân biệt
những
bạn
bè quen thuộc
của
ta trong đời
sống
hằng
ngày. Một
vị
hay cười
nói vui vẻ,
ưa
thích nói những
chuyện
vui và hay châm biếm
hài hước.
Một
vị
khác nói năng dè dặt,
nghiêm chỉnh
và rất
lịch
lăm uyên bác. Một
vị
khác có tác phong trầm
tĩnh, kiên nhẫn
và sẵn
sàng giúp đỡ
một
cách đầy
hảo
ư. Một
vị
khác nữa
luôn luôn thử
thách và đôi khi rất
khó tính. Một
Nhân Vật
khuất
mặt
luôn luôn sẵn
ḷng đưa
ra những
sự
giải
thích triết
lư và khoa học
về
những
vấn
đề
mà tôi phải
viết
bằng
cách làm những
hiện
tượng
lạ
lung để
chứng
minh, c̣n đối
với
một
Nhân Vật
khác nữa
th́ thậm
chí tôi cũng không dám nêu những
vấn
đề
ấy
ra hỏi
Ngài.
Một
đêm nọ,
tôi bị
“chỉnh”
một
cách đau đớn.
Trước
đó mấy
hôm, tôi có đem về
hai cây bút ch́ loại
mềm
và tốt
để
dùng, tôi đưa
một
cây cho bà HPB và giữ
lại
một
cây. Bà HPB có cái tật
rất
xấu
là hay mượn
những
đồ
dụng
cụ
văn pḥng, bút mực,
bút ch́, tẩy
(gôm), dao, kéo, v… v…mà quên trả
lại
cho “ khổ
chủ
“! Một
khi bà đă dùng xong, bà bỏ
vào hộc
tủ
của
bà rồi
chúng cứ
nằm
yên trong đó, bất
chấp
những
lời
phản
đối
của
“nạn
nhân”! Đêm đó, Nhân Vật
có tâm hồn
nghệ
sĩ “giáng lâm “. Ngài vừa
ngồi
vẽ
một
đầu
người
trên một
tờ
giấy
vừa
nói chuyện
với
tôi về
một
đầu
đề
nào đó, rồi
ngài bảo
tôi đưa
cho ngài mượn
một
cây bút ch́ khác. Khi
ấy
một
tư
tưởng
liền
thoáng qua trong trí tôi:
“Nếu
ḿnh cho mượn
cây bút ch́, nó sẽ
nằm
gọn
trong hộc
tủ
của
bà, rồi
ḿnh sẽ
không c̣n cây bút ch́ nào khác để
dùng “ Tôi không nói ra, mà chỉ
nghĩ trong trí thôi, nhưng
Nhân Vật
giáng lâm nh́n tôi bằng
một
cái nh́n châm biếm,
đưa
tay vói lấy
cái giỏ
đựng
bút trên bàn, để
cây bút ch́ của
ngài trong đó, dùng ngón tay mân mê nó một
lúc, rồi
th́….ơ
ḱa, lạ
thay, đột
nhiên xuất
hiện
trong giỏ
một
chục
cây viết
ch́ cùng một
hiệu
và cùng một
phẩm
chất
với
cây kia! Ngài không nói một
lời,
cũng không them nh́n vào mặt
tôi, nhưng
việc
ấy
làm cho máu trong người
tôi nhảy
vọt
lên hai màng tang và tôi cảm
thấy
hổ
thẹn
như
tôi chưa
từng
bị
như
thế
bao giờ
trong đời!
Dù sao
chăng nữa,
tôi không nghĩ rằng
tôi đáng bị
“chơi”
một
vố
nặng
như
thế,
xét v́ cái tật
hay chiếm
đoạt
văn pḥng phẩm
bất
trị
của
bà HPB!
Mỗi
khi mà một
trong những
Nhân Vật
ấy
“giáng lâm”, th́ tuồng
chữ
viết
của
bà HPB lại
biểu
lộ
những
nét đặc
thù giống
y như
tuồng
chữ
của
lần
trước
khi mà đến
phiên chính Nhân Vật
ấy
xuống
bút để
góp phần
vào công tŕnh viết
nên bộ
sách vĩ đại
này. Những
lần
đó, ngài viết
những
tiết
mục
đặc
biệt
thuộc
về
những
đề
tài sở
trường
của
ngài, và thay v́ bà HPB đóng vai tṛ một
nữ
bí thư
biên chép, th́ khi đó bà đă trở
nên chính Nhân Vật
ấy
(GIẢ
THUYẾT
SỐ
BA). Hồi
đó, nếu
có ai cầm
đưa
cho tôi bất
cứ
một
trang bản
thảo
viết
tay nào của
bộ
VÉN MÀN ISIS, tôi có thể
nói ngay một
cách quả
quyết
rằng
đó là do vị
nào viết
ra. Như
vậy
th́ linh hồn
bà HPB đi đâu trong những
lúc đó, khi mà các ngài thay phiên nhau mượn
xác của
bà? Đó là một
vấn
đề
bí hiểm,
mà không phải
ai cũng được
nói cho biết.
Độ
gần
hai năm sau khi bộ
sách được
phát hành, bà HPB có giải
thích cho những
người
thân quyến
trong gia đ́nh bà biết
được
điều
bí mật
ấy:
những
khi đó linh hồn
bà không c̣n
ở
trong xác phàm, mà dường
như
chỉ
quanh quẩn
ở
gần
bên, hoàn toàn ư thức
được
mọi
việc
xảy
ra, và theo dơi mọi
động
tác của
các Nhân Vật
khuất
mặt
đang sử
dụng
thể
xác của
bà.
Theo
chỗ
tôi hiểu,
th́ bà cho các vị
mượn
xác cũng ví như
người
ta cho mượn
một
cái máy đánh chữ,
và xuất
hồn
đi làm công tác
ở
cơi trên về
phần
vô vi, trong khi đó một
nhóm các vị
Chân Sư
luân phiên nhau sử
dụng
thể
xác của
bà để
làm việc.
Khi biết
rằng
tôi có thể
phân biệt
các ngài (xuyên qua xác phàm của
bà HPB) và nhận
ra tính chất
riêng của
mỗi
vị,
đến
mức
tôi đă đặt
cho mỗi
vị
một
biệt
danh để
dễ
kêu gọi
trong những
cuộc
nói chuyện
riêng giữa
chúng tôi, các ngài thường
trịnh
trọng
nghiêng đầu
hoặc
thân mật
vẫy
tay từ
giă tôi mỗi
khi sắp
rời
khỏi
pḥng và nhường
chỗ
cho vị
kế
tiếp.
Đôi khi các ngài cũng nói chuyện
với
tôi về
mỗi
vị
Chân Sư
cũng ví như
bạn
bè nói chuyện
với
nhau về
những
người
vắng
mặt,
bởi
đó tôi cũng được
biết
ít nhiều
về
đời
tư
của
các ngài.
Tôi
cũng xin nói rơ là chí đến
những
đấng
Chân Sư
cao cả
nhất
cũng không bao giờ
muốn
được
suy tôn như
những
bậc
toàn trí, toàn năng hay không thể
lầm
lỗi.
Các ngài không hề
biểu
lộ
mảy
may ư muốn
được
tôi tôn sùng, thờ
kính hay coi như
thiêng liêng những
ǵ các ngài viết
qua thể
xác bà HPB, hoặc
đọc
cho bà viết.
Tôi được
khuyến
khích chỉ
nên coi các ngài như
mọi
người
thường,
những
người
tuy minh triết
hơn
và tiến
hóa hơn
tôi bội
phần,
nhưng
đó chỉ
là bởi
v́ các ngài đă đi trước
tôi trên con đường
tiến
hóa tự
nhiên.
Trước
đây, tôi có nói về
những
đoạn
trong bộ
sách “VÉN MÀN ISIS” do chính bà HPB đích thân viết
ra, những
đoạn
ấy
đương
nhiên là không xuất
sắc
bằng
những
trang do các Chân Sư
viết
thay cho bà. Điều
ấy
rất
dễ
hiểu,
v́ trước
đó bà HPB không hề
có sự
hiểu
biết
về
loại
này, làm sao bà có thể
viết
một
cách chính xác về
những
vấn
đề
siêu h́nh, huyền
bí, đ̣i hỏi
một
học
lực
uyên thâm và những
kiến
thức
Huyền
Môn siêu đẳng.
Trong trạng
thái b́nh thường,
có khi bà đọc
một
quyển
sách nào đó, đánh dấu
những
phần
làm cho bà chú ư, viết
về
những
đề
tài tham khảo,
viết
sai , sửa
chữa,
thảo
luận
về
những
vấn
đề
đó với
tôi, nhờ
tôi viết
lại,
trợ
giúp phần
trực
giác của
tôi, nhờ
các bạn
Đạo
cung cấp
tài liệu,
và cứ
tiếp
tục
viết
với
sự
cố
gắng
tối
đa, khi mà không có một
vị
Chân Sư
nào xuất
hiện
để
đáp
ứng
những
sự
kêu gọi
trợ
giúp tâm linh của
bà. Lẽ
tất
nhiên, các Chân Sư
không phải
lúc nào cũng đến
với
chúng tôi.
Bà viết
rất
nhiều
và đưa
ra nhiều
tài liệu
quư giá, v́ bà có một
khả
năng văn chương
thiên phú; những
trang sách bà viết
không bao giờ
nhàm chán hay vô vị,
và bà cũng giỏi
tuyệt
luân về
ba thứ
sinh ngữ
khi nào có sự
trợ
giúp quyền
năng đầy
đủ
về
phần
thiêng liêng. Bà viết
thư
cho một
thân nhân biết
rằng
khi Sư
Phụ
mắc
bận
rộn
công việc
khác, ngài để
lại
cho bà một
vật
để
thay thế,
và khi đó, chính “ Chân Ngă sáng suốt
“ của
bà suy tư
và viết
cho bà (GIẢ
THUYẾT
SỐ
HAI ). Tôi không thể
có ư kiến
ǵ về
vấn
đề
này, v́ tôi chưa
từng
quan sát bà trong trạng
thái đó. Tôi chỉ
biết
rơ bà dưới
ba khía cạnh,
tức
là:
1._
Trong trạng
thái phàm ngă như
một
phụ
nữ
b́nh thường,
2._
Khi thể
xác của
bà được
các Chân Sư
sử
dụng;
và
3._ Như
một
người
biên chép những
ǵ các Chân Sư
đọc
cho bà viết.
Có nhiều
khi bà không hề
bị
mượn
xác, kiểm
chế
hay được
đọc
cho viết
bởi
một
vị
Chân Sư
nào, mà chỉ
là bà HPB trong trạng
thái b́nh thường,
vẫn
cố
gắng
đến
mức
tối
đa để
thực
hiện
công tác giao phó cho bà và thi hành sứ
mạng.
Tuy nhiên, mặc
dù có sự
trợ
giúp của
những
Trí Lực
hỗn
hợp
tác động
từ
bên ngoài, bộ
sách “VÉN MÀN ISIS” và những
công tŕnh khác của
bà HPB đều
có phảng
phất
những
nét đặc
thù độc
đáo biểu
lộ
cá tính đặc
biệt
của
bà.
MỘT
KHÍ CỤ
ĐẶC
BIỆT
I
Xét
qua những
ǵ đă tŕnh bày trước
đây, người
ta phải
hiểu
như
thế
nào về
việc
soạn
bộ
sách VÉN MÀN ISIS, và về
vai tṛ của
bà HPB? Đó hiển
nhiên là một
công tŕnh tập
thể,
do sự
đóng góp của
nhiều
tác giả
khác nhau, chứ
không phải
chỉ
có một
ḿnh bà HPB. Sự
nhận
xét riêng của
tôi về
vấn
đề
này cũng hoàn toàn phù hợp
với
sự
giải
thích trong những
bức
thư
của
bà gởi
về
cho gia đ́nh. Bà cho biết
rằng
tất
cả
những
đoạn
sách nói về
những
vấn
đề
mà trước
đây bà chưa
hề
quen thuộc,
đều
được
một
vị
Chân Sư
đọc
cho bà viết,
hoặc
do Chân Ngă của
bà tác động
xuyên qua bộ
óc và bàn tay bà để
viết
ra. Vấn
đề
này thật
vô cùng phức
tạp,
và người
ta sẽ
không bao giờ
biết
rơ sự
thật
về
mức
độ
đóng góp nhiều
ít thế
nào của
mỗi
thành phần
tham dự.
Cá tính của
bà HPB là cái khuôn mà tất
cả
mọi
chất
liệu
đóng góp đều
được
đổ
vào; cái cá tính
ấy
do bởi
những
khí chất,
đặc
điểm
và thói tật
riêng của
nó, tác dộng
ảnh
hưởng
đến
phần
h́nh thức
và sắc
thái biểu
lộ
của
những
chất
liệu
này cả
trên phương
diện
thể
chất
lẫn
tinh thần.
Những
vị
Chân Sư
luân phiên nhau mượn
xác bà HPB chỉ
làm thay đổi
tuồng
chữ
của
bà, chứ
không viết
bằng
tuồng
chữ
riêng của
các ngài. Cũng y như
thế,
khi sử
dụng
bộ
óc của
bà HPB, các ngài bắt
buộc
phải
để
cho nó tô màu những
tư
tưởng
của
các ngài, và sắp
đặt
những
lời
lẽ
ngôn từ
của
các ngài theo một
cách thức
cố
định
đặc
biệt
của
nó. Cũng như
ánh sáng ban ngày đi xuyên qua những
cửa
kiếng
màu
ở
các Nhà Thờ
trở
nên nhuộm
màu của
những
tấm
kiếng
ấy,
th́ những
tư
tưởng
do các Chân Sư
chuyển
đạt
xuyên qua bộ
óc lạ
lùng của
bà HPB cũng phải
bị
thay đổi
uốn
nắn
theo cách hành văn và cách tŕnh bày tư
tưởng
quen thuộc
riêng của
bà.
Sự
đồng
thanh khí tự
nhiên về
phương
diện
tinh thần
trí năo giữa
vị
khuất
mặt
vô h́nh và người
bị
mượn
xác càng chặt
chẽ
mật
thiết,
th́ sự
kiểm
chế
càng dễ
dàng hơn,
văn chương
lưu
loát hơn,
và bút pháp
cũng điêu luyện
hơn.
Một
thí dụ
diển
h́nh là tôi nhận
thấy
rằng
những
khi bà HPB lâm vào trạng
thái nóng nảy
đến
cực
điểm,
th́ các Chân Sư
ít khi mượn
xác bà để
làm việc
trừ
ra Sư
Phụ
của
bà, v́ ư chí sắt
thép của
ngài c̣n mạnh
mẽ
hơn
bà nhiều,
c̣n những
vị
khác hiền
ḥa hơn
th́ luôn luôn tránh né chứ
không lại
gần.
Lẽ
tự
nhiên, tôi hỏi
rằng
tại
sao các Chân Sư
không dùng biện
pháp thường
xuyên chế
ngự
cái khí chất
táo tợn
của
bà, để
làm cho bà luôn luôn trở
thành một
nhà hiền
giả
điềm
đạm,
trầm
tĩnh như
những
khi bà được
đặt
dưới
sự
kiểm
chế
của
vài đấng
Cao Cả.
Tôi được
trả
lời
rằng
một
biện
pháp như
vậy
chắc
chắn
sẽ
làm cho bà chết
bất
ngờ
v́ đứt
gân máu trong óc. Thể
xác của
bà được
sinh độngbởi
một
tinh thần
dũng mănh táo cấp,
một
tính khí bạo
tợn
không hề
bị
kềm
chế
từ
khi c̣n nhỏ,
và nếu
cái khí lực
thặng
dư
thái quá đó không được
để
cho có lối
thoát ra ngoài, th́ điều
ấy
hẳn
phải
đưa
đến
một
hậu
quả
khốc
hại.
Đó là
cái khí chất
độc
đáo của
bà HPB, và bà đă có nhiều
lần
nói với
tôi rằng
bà không muốn
bị
chế
ngự
bởi
bất
cứ
một
quyền
lực
nào trên thế
gian hay ngoài Trái Đất!
Bà chỉ
tôn kính các đấng
Chân Sư,
tuy nhiên thậm
chí đối
với
các ngài, đôi khi bà cũng tỏ
ra cương
cường
bất
khuất
đến
nỗi,
như
đă nói
ở
trên, những
vị
có tính chất
dịu
dàng ôn ḥa hơn
không thể,
hay không chịu,
đến
gần
bà. Bà cũng cho tôi biết
rằng
việc
đặt
ḿnh vào một
trạng
thái tinh thần
thích nghi để
có thể
giao tiếp
dễ
dàng và thường
xuyên với
các Chân Sư,
đă đ̣i hỏi
ở
nơi
bà một
sự
cố
gắng
tự
chủ
ráo riết
đến
mức
tuyệt
vọng
trong nhiều
năm liên tiếp.
Thật
không có ai đă từng
bước
vào đường
Đạo
với
những
chướng
ngại
khó khăn hơn
và một
tinh thần
khắc
kỷ
gian lao hơn
nữa.
Lẽ
tất
nhiên, một
bộ
óc dễ
bị
khích động
như
vậy
không phải
là một
dụng
cụ
thích nghi để
thi hành cái sứ
mạng
vô cùng tinh tế
được
giao phó cho bà, nhưng
các Chân Sư
cho tôi biết
rằng
đó là cái khí cụ
tốt
nhất
hiện
hữu,
và các ngài phải
tận
dụng
mọi
khả
năng của
nó với
sự
cố
gắng
tối
đa. Đối
với
các ngài, th́ bà là hiện
thân của
sự
trung thành và ḷng sùng tín, sẵn
sàng dám làm và dám chịu
tất
cả
v́ đại
nghĩa. Bẩm
sinh với
những
quyền
năng thần
thông thiên phú vượt
trội
hẳn
tất
cả
mọi
người
cùng thế
hệ
với
bà, và với
một
tấm
ḷng hứng
khởi
nhiệt
thành bốc
lửa
hầu
như
đi đến
chỗ
cuồng
tín, bà có đủ
đức
tính trung kiên, bền
vững,
nhất
tâm bất
loạn.
Điều
này, phối
hợp
với
một
sự
dẻo
dai bền
bỉ
về
thể
chất
đến
một
mức
độ
phi thường,
làm cho bà trở
thành một
khí cụ
vô cùng đắc
lực,
tuy rằng
không phải
dễ
dạy
dễ
bảo,
và có một
khí chất
bất
trắc
dị
thường.
Có một
lư do tối
hậu
khác v́ sao các Chân Sư
không dám kềm
chế
bà HPB để
bắt
buộc
tính nết
bà phải
trở
nên thuần
thục
dịu
dàngtheo lư tưởng
của
một
vị
Hiền
giả
điềm
nhiên và trầm
tĩnh. Đó là bởi
v́ làm như
vậy
tức
là can thiệp
một
cách bất
hợp
pháp vào Nghiệp
Quả
cá nhân của
bà. Cũng như
mọi
người,
bà có một
số
lượng
nghiệp
duyên ràng buộc
do hậu
quả
của
lịch
tŕnh tiến
hóa của
linh hồn.
Chính cái Nghiệp
Quả
đó làm cho bà tái sinh trở
lại
kiếp
này với
một
xác thân người
nữ
luôn luôn khích động
ồ
ạt,
và như
vậy
bà có cơ
hội
đạt
tới
sự
tiến
bộ
tâm linh bằng
cách phải
chiến
đấu
trường
kỳ để
làm chủ
lấy
nó. Nếu
các Chân Sư
trực
tiếp
can thiệp
vào t́nh trạng
đó bằng
cách kềm
hăm cái khí chất
hung bạo
và xóa bỏ
những
sự
thiếu
sót khác trong tâm linh của
bà, th́ việc
ấy
sẽ
rất
tai hại
cho bà mà không làm cho bà được
tiến
hóa thêm chút nào: đó chẳng
khác nào như
đặt
một
người
thụ
cảm
dưới
sự
chế
ngự
thường
xuyên bằng
ư chí của
một
nhà thôi miên, hay đặt
một
người
bệnh
dưới
ảnh
hưởng
tê liệt
trường
kỳ của
chất
ma túy. Có những
lúc mà thể
xác của
bà không được
các Chân Sư
mượn
tạm
để
làm việc,
hoặc
trí óc bà không bận
rộn
để
viết
những
ǵ các Chân Sư
đọc
cho bà viết.
Ít nhất
là tôi nghĩ như
vậy,
nhưng
đôi khi tôi cũng nghi ngờ
rằng
không một
ai trong chúng tôi, là những
người
cộng
sự
với
bà, đă từng
biết
rơ bà HPB trong trạng
thái b́nh thường!
Biết
đâu chúng ta chỉ
có tiếp
xúc với
một
cái xác phàm được
sinh động
giả
tạo,
mà linh hồn
đă thoát ly đi mất
trong trận
chiến
Mentana khi bà bị
tử
thương
trầm
trọng
do năm vết
đâm hiểm
nghèo bằng
vũ khí sắc
bén, sau đó bà được
vớt
xác ra khỏi
một
cái hố
sâu và coi như
đă chết?
Giả
thuyết
ấy
không phải
là hoàn toàn vô lư, bởi
v́ có một
sự
kiện
lịch
sử
tương
tự
đă từng
xảy
ra. Đó là trường
hợp
của
cô Mary Reynold, mà linh hồn
đă thoát xác trong khoảng
thời
gian bốn
mươi
hai năm, trong khi đó thể
xác của
cô bị
chiếm
đóng bởi
một
nhân vật
khác không hề
hay biết
ǵ về
những
kinh nghiệm
và kư
ức
của
cô trong mười
tám năm qua trước
khi có sự
thay hồn
đổi
xác này.
C̣n
nói về
trường
hợp
bà HPB, tôi không cả
quyết
mà chỉ
lư luận
thôi, v́ tôi không dám nói một
cách chắc
nịch
rằng
một
kỳ nữ
như
bà là ai. Bà thật
là một
nhân vật
kỳ bí đầy
những
yếu
tố
mâu thuẫn
trái ngược,
tuyệt
đối
không thể
sắp
hạng
hay phân loại
như
bất
cứ
một
người
nào trong chúng ta là những
nhân vật
thường
t́nh, đến
nỗi
v́ bản
tính thận
trọng,
tôi phải
dè dặt
không thể
đưa
ra một
lư luận
nào có tính cách đề
quyết,
khẳng
định.
Bất
cứ
điều
ǵ bà đă nói với
tôi hay với
một
người
nào khác, đối
với
tôi thật
không đáng kể
bao nhiêu, bởi
v́ đă từng
sống
chung và cùng đi công tác lưu
động
với
bà những
bao lâu nay, và vẫn
có mặt
trong bao nhiêu những
cuộc
hội
kiến
của
bà với
những
người
khác, tôi đă từng
nghe bà kể
những
chuyện
vô cùng mâu thuẫn
về
cuộc
đời
bà. Đó là bởi
v́ một
lư do nghiêm trọng.
Một
thái độ
dễ
dăi, cởi
mở
với
người
đối
thoại
có thể
làm cho bà vô t́nh tiết
lộ
nơi
cư
trú và bản
chất,
cá tính của
các đấng
Chân Sư
cho những
kẻ
thế
nhân phàm tục,
mà những
ư đồ
riêng tư,
ích kỷ
cùng những
sự
quấy
rầy,
phiền
nhiễu
của
họ
đă từng
làm cho các nhà đạo
sĩ Yogi phải
lánh ḿnh t́m nơi
ẩn
trú trên non cao rừng
thẳm.
Để
giải
quyết
sự
khó khăn
ấy,
bà đă chọn
lấy
một
lối
thoát dễ
dàng là tự
phát ngôn mâu thuẫn
với
ḿnh để
làm cho tâm trí người
đối
thoại
bị
hoang mang mờ
mịt.
Xin kể
một
thí dụ:
Bà đă có thể
nói dễ
dàng cho ông Sinnett (Phó Hội
Trưởng
Hội
Thông Thiên Học
) biết
rằng
khi bà t́m cách đột
nhập
vào xứ
Tây Tạng
hồi
năm 1854 xuyên qua xứ
Bhutan hay Népal, bà đă bị
Đại
Úy ( hiện
nay là Thiếu
Tướng)
Murray, chỉ
huy biên khu thuộc
địa
phận
ấy,
bắt
trở
lại
và đem về
giữ
trong nhà làm bạn
với
vợ
ông ta trong một
tháng. Nhưng
bà không bao giờ
kể
lại
chuyện
ấy,
và không một
ai trong số
những
bè bạn
thân hữu
của
bà đă từng
nghe nói về
việc
này. Măi về
sau, ông Edge và tôi mới
được
nghe câu chuyện
ấy
do chính Thiếu
Tướng
Murray kể
lại
vào ngày 3 tháng 3 vừa
qua trên chuyến
xe lửa
từ
Nalhati đi Calcutta, và tôi đă cho đăng trong tạp
chí của
Hội.
C̣n nói về
tuổi
tác của
bà, th́ bà kể
đủ
mọi
thứ
chuyện,nó
làm cho bà lên đến
hai mươi,
bốn
mươi,
chí đến
sáu mươi
và bảy
mươi
tuổi
cao hơn
tuổi
thật
của
bà. Chúng tôi c̣n giữ
những
thư
từ
văn kiện
về
chuyện
này do những
khách viếng
thăm và những
phóng viên các báo tường
thuật
lại
sau những
cuộc
hội
kiến
riêng với
bà, trong nhiều
buổi
diện
kiến
mà chính tôi có tham dự.
Để
tự
bào chữa,
bà nói với
tôi rằng
những
Nhân Vật
giáng lâm và ngự
trong thể
xác của
bà trong những
dịp
đó đều
có tuổi
tác y như
thế,
và thế
là bà nói không có sai, trong khi người
đối
thoại
chỉ
nh́n thấy
có cái thể
xác của
bà và tưởng
rằng
câu chuyện
bà nói chỉ
áp dụng
cho cái xác phàm đó mà thôi!
II
Trên đây tôi có dùng chữ
“ám
ảnh”
(obsession), nhưng
tôi biết
rơ sự
thiếu
sót ư nghĩa của
nó trong trường
hợp
này. Cả
hai danh từ
“ám
ảnh”
(obsession) và “chiếm
hữu”
(possession) đều
được
dùng để
nói lên sự
quấy
phá một
người
c̣n sống
bởi
ma quỷ
hay những
vong linh bất
hảo.
Một
người
bị
ám
ảnh
(obsession) là người
bị
quấy
phá, hay vây phủ,
c̣n một
người
bị
chiếm
hữu
(possession) là người
bị
tà ma quỷ
mị
nhập
xác, kiểm
chế,
ngự
trị.
Tôi tự
hỏi
những
vị
cố
đạo
thời
xưa
không đặt
ra một
danh từ
tốt
đẹp
hơn
để
chỉ
việc
chiếm
hữu,
kiểm
chế,
ngự
trị,
hay nhập
xác một
người
bởi
những
thần
linh hay vong linh tốt
lành? Nhưng
điều
ấy
không giúp cho chúng ta được
bao nhiêu trừ
khi chúng ta không biết
đến
những
trường
hợp
mà đôi khi thể
xác bà HPB bị
những
thực
thể
khác chiếm
đóng. Câu chuyện
sau đây sẽ
cho thấy
đến
mức
độ
nào.
Một
buổi
chiều
mùa hạ,
bà HPB và tôi cùng có mặt
trong văn pḥng làm việc
của
chúng tôi tại
New York. Trời
chưa
tối,
nên chúng tôi chưa
thắp
đèn lên. Bà ngồi
gần
bên cửa
sổ,
c̣n tôi đứng.
Bỗng
nhiên tôi nghe bà nói:
“Hăy
nh́n xem để
học”
Tôi day đầu
nh́n lại
và thấy
một
đám mây mù bốc
lên từ
đầu
và vai của
bà. Trong chốc
lát, nó tượng
h́nh một
vị
Chân Sư,
vị
này về
sau đă cho tôi cái khăn bịt
đầu
lịch
sử
của
ngài, nhưng
lúc
ấy
th́ chỉ
là một
h́nh bóng như
sương
mờ.
Mải
chăm chú nh́n hiện
tượng
ấy,
tôi đứng
yên không cử
động.
Cái bóng chỉ
tượng
h́nh có nửa
phần
trên thân ḿnh, rồi
lu mờ
dần
và biến
mất;
nó có được
thu hồi
trở
về
bên trong thể
xác bà HPB hay không, th́ tôi cũng không biết.
Bà ngồi
yên như
pho tượng
trong đôi ba phút, sau đó bà thở
dài một
cái, trở
lại
trạng
thái b́nh thường,
và hỏi
tôi có thấy
ǵ không. Khi tôi yêu cầu
bà giải
thích hiện
tượng
ấy,
th́ bà từ
chối
và nói rằng
tôi phải
khai mở
trực
giác để
t́m hiểu
những
hiện
tượng
của
cái thế
giới
mà tôi đang sống.
Bà chỉ
có thể
giúp đỡ
bằng
cách cho tôi xem thấy
những
hiện
tượng
nọ
kia, rồi
để
cho tôi tự
t́m hiểu
lấy
tùy khả
năng của
ḿnh.
Nhiều
nhân chứng
đă có thấy
một
hiện
tượng
khác nữa,
nó có thể
hoặc
không chứng
minh rằng
những
thực
thể
khác đôi khi cũng đă nhập
xác bà HPB. Trong năm lần
khác nhau, một
lần
để
làm vui ḷng một
vị
nữ
khách, và một
lần
cho em gái tôi là Mitchell, bà HPB đă gom trên đầu
một
lọn
tóc mịn
màu nâu lợt
và dợn
song của
bà, rồi
lấy
kéo cắt
và đưa
cho một
người
trong chúng tôi. Nhưng
lọn
tóc
ấy
khi cắt
ra th́ nó lại
thô cứng,
thẳng
tuột
và đen như
huyền
chứ
không c̣n dợn
song hay quăn chút nào, tức
là tóc của
người
phương
Đông hay người
châu Á chứ
không giống
chút nào như
những
lọn
tóc mịn
như
tơ,
màu nâu lợt
và dợn
song của
bà. Tôi c̣n cất
giữ
hai lọn
tóc cắt
ra từ
trên đầu
bà, cả
hai đều
đen như
huyền
và thô cứng
hơn
tóc bà rất
nhiều,
nhưng
có một
lọn
lại
thô cứng
hơn
lọn
kia một
cách rơ rệt.
Lọn
trước
là tóc của
người
Ai Cập,
c̣n lọn
sau là tóc của
người
Ấn
Độ.
Hiện
tượng
này c̣n có cách giải
thích nào khác hơn
là giả
thiết
rằng
những
người
đàn ông có hai lọn
tóc đó đă thật
sự
nhập
xác bà HPB trong hai lần
khác nhau khi mà những
lọn
tóc
ấy
được
cắt
ra?
Vấn
đề
nhập
xác một
người
c̣n sống,
bởi
những
người
cũng c̣n sống,
tuy là một
việc
hoàn toàn xa lạ
đối
với
người
Tây Phương
đến
nỗi
họ
không có một
danh từ
nào trong ngôn ngữ
của
họ
để
chỉ
việc
đó, vốn
đă được
biết
rơ và định
nghĩa
ở
Ấn
Độ.
Người
Ấn
gọi
hiện
tượng
đó là Àvesa, tức
là việc
chiếm
hữu,
nhập
xác, ngự
trị
xác thân của
một
người
sống.
Hiện
tượng
đó có hai loại:
khi người
đạo
sĩ xuất
vía ra khỏi
thể
xác ḿnh và nhập
vào xác một
người
khác, đó gọi
là svarupàvesa; c̣n khi nào người
đạo
sĩ dùng ư chí của
ḿnh để
tác động
ảnh
hưởng
hoặc
chế
ngự
thể
xác của
người
khác để
làm những
việc
hoàn toàn vượt
ra ngoài khả
năng của
người
kia, thí dụ
như
nói một
tiếng
ngoại
ngữ
chưa
từng
học,
hiểu
được
những
ngành học
thuật
không hề
quen biết,
đột
nhiên tàng h́nh trước
mắt
mọi
người,
biến
thành một
vật
h́nh thù đáng sợ,
chẳng
hạn
như
một
con rắn
hay một
thú dữ,
v…v…, th́ đó gọi
là saktyàvesa.
Cái quyền
năng đó chỉ
áp dụng
cho sự
tác động
tâm linh giữa
hai người
c̣n sống,
hay sự
“nhiếp”
tư
tưởng
và gây nguồn
cảm
hứng
cho một
người
sống
bởi
một
thực
thể
tâm linh có tŕnh độ
cao hơn,
chứ
nó không nên bị
hạ
thấp
ư nghĩa để
chỉ
việc
nhập
xác một
đồng
tử
bởi
một
vong hồn
người
chết
để
tạo
nên các hiện
tượng.
Trường
hợp
sau này gọi
là “gràhana”, và vong hồn
người
chết
được
gọi
là “graham”. Danh từ
này cũng được
dùng để
chỉ
việc
nhập
xác một
người
sống
bởi
một
TINH LINH NGŨ HÀNH. Hiện
tượng
này cũng có hai trường
hợp
khác nhau. Sự
nhập
xác
ấy
có thể:
a) TÁC ĐỘNG
TỰ
NHIÊN, do sự
thu hút, hấp
dẫn
một
tinh linh đến
với
người
đồng
tử.
b) TÁC ĐỘNG
CƯỠNG
CHẾ,
do sự
cưỡng
ép bằng
ư chí của
một
vị
thuật
sĩ hay phù thủy
biết
rơ những
chân ngôn thần
chú để
sai khiến
các loại
âm binh.
Chúng
tôi thấy
trong Thánh Kinh Pàncharàtra Pàdma-samhita Charyàpada của
Ấn
Độ,
chương
24, có những
huấn
thị
đầy
đủ
về
sự
thực
hành thuật
nhập
xác ( Avesa ) như
sau:
“Nay
ta dạy
cho người
biết,
hỡi
hành giả,
phương
pháp nhập
xác một
người
khác….Cái thể
xác
ấy
phải
được
tinh khiết,
tươi
tốt,
độ
trung niên, có tất
cả
những
tính chất
tốt
và không bị
những
chứng
ác bệnh
do tội
lỗi
gây ra (như
bệnh
cùi, bệnh
phong t́nh,v…v…).Xác thân
ấy
phải
là của
người
Bà La Môn hay người
Kshatriya (thuộc
giai cấp
quư tộc).Nó
phải
được
đặt
ở
một
nơi
vắng
vẻ,(để
tránh nguy cơ
bị
gián đoạn
trong khi thực
hành các nghi thức),mặt
ngửa
lên trời
và hai chân duỗi
thẳng.
Ngồi
một
bên, ngươi
phải
giữ
tư
thế
YOGASANA (một
tư
thế
của
pháp môn Yoga), nhưng
trước
khi đó, hỡi
hành giả,
ngươi
phải
đă có tập
luyện
cái quyền
năng tập
trung tư
tưởng
vào một
mục
tiêu nhất
định.
Thần
thức
(jiva) vốn
ngự
ở
chỗ
VĨ LƯ
QUAN tức
là Luân Xa nơi
Rún (nàbhichakra), nó sáng rực
như
mặt
trời,
có h́nh dáng như
con hạc
(hamsa) (*)[3]
và di chuyển
dọc
theo những
đường
vận
hà Idâ và Pingala. Sauk hi nó đă được
tượng
h́nh con hạc
(*) bằng
cách tập
trung tư
tưởng
theo pháp môn Yoga, nó sẽ
thoát ra do hai lỗ
mũi, và như
một
con chim, nó sẽ
phóng ra ngoài không gian. Ngươi
phải
tập
cho quen phép này, là phóng luồng
Sinh Khí (Prâna) cho bay lên tới
ngọn
cây, đưa
nó đi xa một
dặm,
hay năm dặm,
hay hơn
nữa,
rồi
thu hồi
nó trở
về
thể
xác ngươi
xuyên qua hai lỗ
mũi, và trả
nó lại
vị
trí cũ
ở
Luân Xa nơi
Rún. Phép này phải
được
tập
luyện
hằng
ngày cho đến
khi đạt
tới
mức
tuyệt
hảo”.
Kế
đó, sau khi đă sở
đắc
được
cái bí thuật
đó rồi,
người
đạo
sĩ có thể
thực
nghiệm
phép nhập
xác. Khi đă ngồi
theo tư
thế
nói trên, y mới
rút luồng
sinh khí (Prâna-jiva) ra khỏi
thể
xác y, và đem nó vào cái thể
xác đă chọn
làm mục
tiêu do nơi
hai lỗ
mũi, dẫn
nó đi xuống
măi cho đến
khi nó lọt
vào bí quyệt
vĩ lư
quan hăy c̣n bỏ
trống,
rồi
trụ
nó vào Luân Xa nơi
Rún, để
cho người
chết
được
phục
hồi
sinh khí và làm cho người
ta thấy
rằng
y đă sống
lại.
Mọi
người
đều
biết
câu chuyện
nhà Hiền
Giả
Sankarâ đă phục
sinh cho cái xác chết
của
vua Amaraka
ở
thành Amritapura, do Mâdhava, nhà chép tiểu
sử
của
ông thuật
lại.
Để
trả
lời
những
câu hỏi
của
Mandana Misra phu nhân về
khoa học
Ái T́nh, mà ông hoàn toàn mù tịt
v́ ông vẫn
sống
độc
thân từ
khi c̣n nhỏ,
nhà Hiền
Giả
hẹn
sẽ
giải
thích đáp trong ṿng một
tháng. Kế
đó, trong một
chuyến
đi ngao du với
các đệ
tử
đến
gần
thành Amritapura, ông nh́n thấy
cái xác chết
của
nhà vua đặt
nằm
dưới
gốc
cây, giữa
một
đám thần
dân vây chung quanh đang than khóc. Nghĩ rằng
đây là một
cơ
hội
tốt
để
thâu thập
những
kiến
thức
về
t́nh dục
mà ông c̣n thiếu
sót, Đạo
Sư
Shankara bèn giao cái thể
xác của
ông cho các đệ
tử
coi sóc, rồi
xuất
vía rồi
nhập
vào xác chết
của
vua, làm cho nó hồi
sinh trở
lại
giữa
sự
reo mừng
của
đám cận
thần
ở
chung quanh. Kế
đó, Đạo
Sư
được
đưa
trở
về
kinh đô, và trong một
thời
gian đă trải
qua cuộc
sống
b́nh thường
của
một
ông vua giữa
những
phi tần
cung nữ
trong tam cung lục
viện
và sau cùng ông đă giải
đáp những
câu hỏi
về
ái t́nh.
Bộ
sách SANKARAVIJAYA của
nhà chép tiểu
sử
Mâdhava viết
như
sau:
“SAU KHI RÚT
LUỒNG
SINH KHÍ (PRÂNA VAYU) TỪ
ĐẦU
CÁC NGÓN CHÂN TRỞ
LÊN CHO THOÁT RA NGOÀI XUYÊN QUA NÊ HUỜN
CUNG, TỨC
LUÂN XA TRÊN ĐỈNH
ĐẦU
(BRAHMARÂNDHRA), ĐẠO
SƯ
SHANKARA MỚI
TỪ
TỪ,
TỪNG
GIAI ĐOẠN
CHẬM
RĂI, NHẬP
VÀO XÁC CHẾT
CỦA
NHÀ VUA DO NÊ HUỜN
CUNG VÀ CHIẾM
ĐÓNG TRỌN
VẸN
TỪ
ĐẦU
ĐẾN
CHÂN”.
Nhân dịp
soạn
lại
tập
hồ
sơ
cũ,tôi đă t́m thấy
một
trang nhật
kư cũ trong đó có ghi lại
một
cuộc
đối
thoại
giữa
tôi với
một
vị
Chân Sư
có quốc
tịch
Hung Gia Lợi,
đă mượn
xác bà HPB buổi
tối
hôm đó. Trang nhật
kư
ấy
viết
như
sau:
“NGÀI LẤY
TAY CHE MẶT
VÀ HẠ
THẤP
BẤC
ĐÈN ĐẶT
TRÊN BÀN. TÔI HỎI
NGÀI TẠI
SAO? NGÀI NÓI RẰNG
ÁNH SÁNG LÀ MỘT
MĂNH LỰC
VẬT
CHẤT,
NẾU
ĐỂ
LỌT
VÀO MẮT
CỦA
MỘT
THỂ
XÁC BỊ
MƯỢN
TẠM,
SẼ
VA CHẠM
ĐẾN
THỂ
VÍA CỦA
NGƯỜI
MƯỢN
XÁC, GÂY CHO NÓ MỘT
SỰ
KHÍCH ĐỘNG
MẠNH
VÀ MỘT
SỨC
ĐẨY
ĐỘT
NGỘT
ĐẾN
MỨC
LÀM CHO VÍA NGƯỜI
MƯỢN
XÁC CÓ THỂ
BỊ
ĐẨY
BẬT
RA NGOÀI. THẬM
CHÍ NÓ C̉N CÓ THỂ
LÀM CHO CÁI THỂ
XÁC KIA BỊ
TÊ LIỆT.
KHI NHẬP
XÁC MỘT
NGƯỜI
KHÁC, PHẢI
RẤT
VÔ CÙNG THẬN
TRỌNG.
NGƯỜI
TA KHÔNG THỂ
TỰ
ĐỒNG
HÓA VỚI
CÁI THỂ
XÁC
ẤY
MỘT
CÁCH HOÀN TOÀN CHO ĐẾN
KHI NÀO NHỮNG
SỰ
VẬN
ĐỘNG
TỰ
NHIÊN VÔ THỨC
CỦA
NHỮNG
BỘ
MÁY TUẦN
HOÀN, HÔ HẤP
V…V…, ĐĂ ĐƯỢC
ĐIỀU
CHỈNH
CHO THẬT
ĂN KHỚP
VỚI
NHỮNG
ĐỘNG
TÁC TRONG CƠ
THỂ
CỦA
NGƯỜI
MƯỢN
XÁC, MÀ CÁI THỂ
XÁC CỦA
NGƯỜI
NÀY, DÙ
Ở
CÁCH ĐÓ BAO XA ĐẾN
ĐÂU, VẪN
CÓ LIÊN HỆ
VÔ CÙNG MẬT
THIẾT
ĐẾN
CÁI THỂ
VÍA ĐĂ XUẤT
RA.
KHI ĐÓ, TÔI MỚI
THẮP
SÁNG NGỌN
ĐÈN TREO LỦNG
LẲNG
TRÊN TRẦN
NHÀ, NHƯNG
CHÂN SƯ
LIỀN
CẦM
LẤY
MỘT
TỜ
NHẬT
BÁO CHE TRÊN ĐỈNH
ĐẦU.
TÔI NGẠC
NHIÊN VÀ YÊU CẦU
NGÀI GIẢI
THÍCH LƯ DO, TH̀ NGÀI CHO BIẾT
RẰNG
ĐỂ
ÁNH SÁNG TỪ
TRÊN CAO RỌI
XUỐNG
ĐỈNH
ĐẦU
LẠI
C̉N NGUY HIỂM
HƠN
LÀ ĐỂ
ÁNH SÁNG RỌI
VÀO MẮT”.
Hồi
đó, tôi chưa
biết
ǵ về
sáu bí huyệt
hay Luân Xa trong thân thể
con người.
Tôi cũng không biết
rằng
Luân Xa quan trọng
nhất
trong những
bí huyệt
đó, tức
Nê Huờn
Cung (brahmarândhra), nằm
ở
dưới
những
xương
sọ
trên đỉnh
đầu,
và
ở
Ấn
Độ,
người
ta có tục
lệ
chọc
thủng
cái xương
sọ
ở
chỗ
ấy
khi đem hỏa
tang xác chết
để
cho cái Vía người
chết
xuất
ra được
dễ
dàng. Hơn
nữa,
lúc đó tôi cũng chưa
đọc
câu chuyện
Đạo
Sư
Shankara xuất
vía và nhập
vào xác chết
của
ông vua xuyên qua Nê huờn
Cung là cái cửa
ngơ của
linh hồn.
Tôi chỉ
nh́n thấy
những
động
tác của
vị
Chân Sư,
và cũng chưa
hiểu
rơ những
lời
giải
thích của
ngài tối
hôm đó, nhưng
bây giờ,
với
thời
gian qua, điều
bí hiểm
đó đă được
soi sáng và cả
hai sự
việc
xảy
ra
ở
New York và Amritapura đều
có liên hệ
hỗ
tương
với
nhau. Qua sự
việc
sau này, và những
giáo lư của
Huyền
Học
Ấn
Độ,
người
ta có thể
hiểu
dễ
dàng hơn
điều
bí mật
của
sự
việc
trước.
Trước
kia th́ mọi
sự
có vẻ
tối
tăm mờ
mịt,
và thậm
chí người
ta cũng không có đến
một
danh từ
để
giải
thích sự
việc
ấy,
nhưng
nay người
ta có thể
thấy
rằng
bất
cứ
người
nào tinh thông pháp môn Yoga đều
có thể
nhập
xác một
người
khác c̣n sống,
khi mà thể
Vía của
người
này đă xuất
ra và cái thể
xác trống
trơn
được
đặt
dưới
việc
sử
dụng
của
những
bạn
bè thân hữu
đến
viếng.
Tầm
mức
quan trọng
của
vấn
đề
này đối
với
việc
mượn
xác bà HPB thật
đă hiển
nhiên, như
tôi sẽ
cố
gắng
tŕnh bày trong phần
kế
tiếp.
III
Đây xin trở
lại
vấn
đề
mượn
xác của
bà HPB, trong đó có một
bằng
chứng
luôn luôn xuất
hiện
làm cho người
ta phải
chú ư. Hăy xét trường
hợp
vị
Chân Sư
A hay B đă “giáng
lâm” qua thể
xác bà HPB độ
một
giờ
hay lâu hơn,
đă viết
vài đoạn
trong quyển
“VÉN MÀN ISIS” hoặc
đơn
phương
hoặc
với
sự
cộng
tác của
tôi, và vào một
lúc nhất
định,
đă nói một
điều
ǵ đó với
tôi hoặc
với
một
trong những
vị
khách có mặt.
Th́nh ĺnh, bà (hay ngài?) ngừng
nói chuyện,
đứng
dậy
và, với
một
lời
xin lỗi
khách v́ một
lư do nào đó, bèn rời
khỏi
pḥng trong giây lát. Sau đó bà trở
lại,
dáo dác nh́n quanh với
đôi mắt
bỡ
ngỡ
như
một
người
lạ
vừa
bước
vào một
gian pḥng có đông người,
vấn
một
điếu
thuốc
hút, và thốt
ra những
lời
không có liên quan ǵ đến
câu chuyện
đă nói lúc năy. Bà tỏ
vẻ
lúng túng, không thể
nối
tiếp
câu chuyện
đang bỏ
dở,
hoặc
nói vài câu trái ngược
hẳn
với
những
ǵ bà vừa
mới
khẳng
định,
và khi có người
nhắc
lại
cho bà biết
việc
ấy,
bà lấy
làm bực
ḿnh và thốt
lên những
lời
nói nặng
nề.
Hoặc
khi được
nhắc
lại
rằng
hồi
năy bà đă nói như
vậy
như
vậy,
th́ bà có vẻ
trầm
ngâm nghĩ ngợi
giây lát và nói: “Ờ
nhỉ,
xin lỗi
ông…”, rồi
tiếp
tục
nói về
đề
tài đang bỏ
dở.
Đôi khi bà có những
sự
thay đổi
ư kiến
như
vậy
mau như
chớp,
và v́ quên đi cái cá tính đa h́nh đa dạng
của
bà, chính tôi cũng đă lắm
khi bực
ḿnh về
sự
lư luận
không nhất
trí đó, khi bà mạnh
dạn
lên tiếng
phủ
nhận
những
điều
mà bà đă tuyên bố
một
cách chắc
chắn
và rơ rang chỉ
một
lúc trước
đó. Lần
lần,
tôi được
giải
thích cho biết
rằng
sau khi nhập
xác một
người
khác (c̣n sống),
cần
phải
có một
thời
gian ngắn
để
nối
liền
tâm thức
của
ḿnh với
kư
ức
của
nhân vật
vừa
xuất
ra trước
đó, chứ
nếu
không, mà cứ
tiếp
tục
câu chuyện
trước
khi có sự
điều
chỉnh,
th́ những
sự
lệch
lạc
như
trên vẫn
có thể
xảy
ra. Điều
này phù hợp
với
những
ǵ Chân Sư
đă nói với
tôi tại
New York về
vấn
đề
nhập
xác, và với
sự
diễn
tả
cách thức
mà Đạo
Sư
Shankara nhập
vào cái xác chết
của
vua Amaraka như
đă nói
trong bộ
sách SHAKARAVIJAYA(*):[4]
“…Đạo
Sư
Shakara MỚI
TỪ
TỪ,
TỪNG
GIAI ĐOẠN
CHẬM
RĂI, nhập
vào xác chết
của
nhà vua và chiếm
đóng trọn
vẹn
từ
đầu
đến
chân”.
Sự
giải
thích về
việc
điều
chỉnh
từ
từ
từng
giai đoạn
những
động
tác sinh lư trong hai cơ
thể
cho điều
ḥa tiết
điệu
và ăn khớp
với
nhau c̣n nới
rộng
đến
sự
điều
chỉnh
của
hai tâm thức,
và khi nào chưa
có sự
ḥa hợp
hoàn toàn, th́ đương
nhiên phải
có sự
lộn
xộn
về
tư
tưởng,
lư luận
và kư
ức
như
tôi đă diễn
tả
ở
trên, và như
phần
nhiều
những
vị
quan khách đến
viếng
bà HPB đă phải
lấy
làm vô cùng ngạc
nhiên sửng
sốt.
Thỉnh
thoảng,
khi chỉ
có hai chúng tôi trong pḥng, th́ hoặc
Nhân Vật
sắp
“thăng”, nói:
“Ta phải
giữ
điều
này lại
trong óc để
cho vị
đến
sau Ta có thể
theo dơi…”,
Hoặc
Nhân Vật
vừa
giáng lâm, sau khi chào hỏi
tôi bằng
một
lời
thân mật,
bèn hỏi
tôi vấn
đề
đang thảo
luận
là vấn
đề
ǵ trước
khi có sự
“thuyên chuyển”.
Trong những
bức
thư
của
các Chân Sư
viết
cho tôi về
bà HPB, các ngài thường
đề
cập
đến
cái xác phàm của
bà như
một
cái khí cụ
mà một
trong các ngài đang sở
hữu
và dùng tạm.
Trong quyển
Nhật
Kư của
tôi năm 1878, tôi nhận
thấy
một
đoạn
kư sự
đề
ngày 12 tháng 10 do bút tích của
Chân Sư
M. viết
qua tuồng
chữ
của
bà HPB như
sau:
“HPB mạn
đàm với
W. đến
hai giờ
sáng. W. tâm sự
rằng
y nh́n thấy
nơi
bà có đến
BA CÁ TÍNH RƠ RỆT.
Y BIẾT
chắc
như
vậy,
nhưng
không muốn
nói với
Olcott về
việc
ấy,
v́ y sợ
rằng
H.S. Olcott sẽ
chế
diễu
y !!!”
Những
chữ
gạch
đít và những
chấm
than đều
chép lại
đúng y nguyên văn. Chữ
“W.” là nói ông Wimbridge, lúc đó là khách của
chúng tôi.
Sở
dĩ có đoạn
văn do tay người
khác viết
trong tập
Nhật
Kư riêng của
tôi, là v́ khi tôi rời
khỏi
New York v́ hoạt
động
nghề
nghiệp,
mà trong năm đó tôi phải
đi vắng
nhà đến
nhiều
lần,
th́ bà HPB viết
nhật
kư thay cho tôi. Cái tên “HPB” cũng phải
được
hiểu
là những
Nhân Vật
mượn
xác của
bà trong mỗi
lần
nhất
định.
Trong đoạn
nhật
kư ngày hôm sau (13 tháng 10), cũng do một
bàn tay
ấy
viết,sau
khi điểm
danh bảy
người
khách đến
viếng
thăm hôm đó, có sự
ghi nhận
như
sau về
một
vị
khách có mặt:
“Tiến
Sĩ Pike nh́n thẳng
vào mặt
HPB nhiều
lần,
bèn giật
ḿnh và nói rằng
trên đời
không có ai đă gây cho y một
ấn
tượng
lạ
lung như
thế.
Có khi y nhận
thấy
nơi
HPB một
thiếu
nữ
độ
mười
sáu tuổi,
có khi đó là một
bà già một
trăm tuổi,
một
lần
khác đó lại
là một
người
đàn ông có râu!”
Ngày 22 tháng 10,
cũng một
bàn tay
ấy
viết:
“N. (một
vị
Chân Sư)
thăng, nhường
chỗ
cho S. (một
vị
Chân Sư)
nhập
vào (thể
xác bà HPB). Vị
sau này đến
với
mật
lệnh
của
___(*)[5]
dạy
phải
hoàn thành tất
cả
vào ngày mùng 1 tháng 12” ( để
chúng tôi lên đường
sang
Ấn
Độ)
Đoạn
nhật
kư ngày 4 tháng 11, cũng một
tuồng
chữ
ấy
viết:
“N. xuất
ra, và M. giáng lâm với
lệnh
tối
hậu
của
____(*) dạy
phải
lên đường
(sang
Ấn
Độ)
từ
ngày 15 đến
20 tháng 12 là trễ
nhất”.
Tôi cũng có nhận
được
nhiều
thơ
của
các Chân Sư
nói về
bà HPB với
tư
cách cá nhân của
bà, đôi khi nói rất
thành thật
về
những
đặc
điểm
của
bà, cả
tốt
lẫn
xấu.
Có một
lần,
tôi được
các Chân Sư,
với
những
huấn
lịnh
viết
tay, giao sứ
mạng
kín cho tôi đi đến
một
thành phố
khác để
tạo
nên một
vài diễn
biến
cần
thiết
cho sự
tiến
hóa tâm linh của
bà. Tôi vẫn
c̣n giữ
bức
văn kiện
đó.
Khi tôi đến
tỉnh
Rajputana năm 1879, tôi có nhận
được
một
bức
thư
rất
dài của
các Chân Sư.
Đó
là một
thông điệp
đầy
ḷng
ưu
ái, nhân từ,
và nếu
nó có liên quan đến
cái đề
mục
của
chúng ta bây giờ,
th́ có lẽ
tôi đă công bố
trong sách này, để
chứng
minh tính chất
cao siêu của
sự
trao đổi
thơ
từ
giữa
các Chân Sư
với
tôi trong nhiều
năm liên tiếp.
Chính trong bức
thơ
đặc
biệt
đó Chân Sư
đă giải
đáp thắc
mắc
khi tôi bày tỏ
sự
ước
muốn
rút lui ra khỏi
cuộc
đời
thế
tục
và đi theo các ngài. Tôi được
trả
lời
rằng:
“Phương
tiện
duy nhất
hiện
có sẵn
và
ở
trong tầm
tay con để
bước
đến
gần
Chúng Ta là xuyên qua Hội
Thông Thiên Học”
Tức
là cơ
quan mà tôi được
lịnh
phải
xây dựng,
củng
cố
và phát triển.
Tôi phải
tập
sống
hoàn toàn vô kỷ,
vị
tha. Chân Sư
nói thêm:
“Không một
ai trong Chúng Ta sống
cho riêng ḿnh, mà tất
cả
đều
sống
cho nhân loại”.
Đó là cái tinh thần
rốt
ráo, tối
hậu,
chứa
đựng
trong tất
cả
những
lời
giảng
dạy
của
Chân Sư
gởi
cho tôi, và đó cũng là cái lư tưởng
xuất
hiện
bàng bạc
khắp
nơi
trong bộ
sách “VÉN MÀN ISIS”.
Giáo lư chứa
đựng
trong bộ
sách này có thể
tóm tắt
đại
lược
như
sau:
“Con Người
có một
tính chất
phức
tạp,
gồm
cả
hai phương
diện
cực
đoan, một
đàng là những
thú tính thấp
hèn, một
đàng là tính chất
thiêng liêng cao quư. Sự
sống
duy nhất
chân thật
và toàn mỹ,
thoát ly khỏi
mọi
ảo
giác, ngoài ṿng tục
lụy,
khổ
đau, bởi
v́ nơi
đó không có sự
Vô Minh,
ấy
là sự
sinh hoạt
tinh thần,
tức
của
Chân Ngă.”
Bộ
sách
ấy
giúp cho con người
có một
đời
sống
trong sạch,
cao thượng;
nó giúp cho sự
mở
trí và khai mở
ḷng từ
bi bác ái đối
với
muôn loài vạn
vật;
nó chỉ
cho người
đời
thấy
con đường
Đạo
diệu
huyền.
Con đường
Đạo
ấy
luôn luôn mở
rộng
cho những
người
thiện
chí, khôn ngoan và dung cảm.
Bộ
sách
ấy
cũng truy nguyên tất
cả
mọi
kiến
thức
và hiểu
biết
của
chúng ta hiện
nay đến
những
nguồn
gốc
xa xưa
của
thời
thái cổ;
nó cũng khẳng
định
sự
hiện
diện
luôn luôn hằng
có từ
xưa
đến
nay của
các đấng
Chân Sư
và của
khoa học
Huyền
Môn; nó c̣n đem đến
cho chúng ta một
nguồn
khích lệ
và một
lư tưởng
cao siêu để
cho chúng ta cố
gắng
đạt
tới,
ngơ hầu
có thể
thực
hiện
sự
tiến
hóa tâm linh của
ḿnh.
Khi bộ
“VÉN MÀN ISIS” vừa
xuất
bản,
nó đă gây khích động
trong quần
chúng đến
mức
bản
in đầu
tiên năm ngàn cuốn
đă bán hết
sạch
trong ṿng mười
ngày. Tiến
Sĩ Shelton Mackenzie, một
trong những
nhà phê b́nh tài ba nhất
thời
đó, viết
rằng:
“Đó là một
trong những
công tŕnh dáng kể
nhất
về
tư
tưởng
xuất
chúng, công phu sưu
tầm
tỉ
mỉ,
và cách tŕnh bày đạo
lư, triết
học
bao gồm
một
học
lực
uyên thâm, quảng
bá chưa
từng
thấy
từ
nhiều
năm nay”.(Phila. Press, 9.1.1887).
Nhà phê b́nh văn
nghệ
của
nhật
báo New York Herald ra ngày 30 tháng 9 năm 1877 nói rằng:
“Những
tâm hồn
tự
do độc
lập
sẽ
hoan nghinh công tŕnh mới
xuất
bản
này như
một
sự
đóng góp sáng giá nhất
vào nền
văn chương
Đạo
Lư”.
Ông viết
tiếp:
“Với
những
đặc
điểm
lạ
lùng, những
luận
điệu
phong phú, táo tợn,
và những
đề
mục
dồi
dào bất
tận
mà tác giả
đă triển
khai một
cách vô cùng linh hoạt
và hấp
dẫn,
bộ
sách này là một
công tŕnh sáng tạo
độc
đáo phi thường
của
thế
hệ”.
Một
sự
kiện
cụ
thể
là bộ
sách “VÉN MÀN ISIS” nay đă trở
nên một
tác phẩm
cổ
điển
khuôn mẫu,
nó đă được
tái bản
nhiều
lần,
và hiện
nay, sau một
thời
gian mười
bảy
năm đă trôi qua, vẫn
đang được
nhu cầu
ở
khắp
nơi
trên thế
giới.
Một
tác giả
Mỹ
đă phát biểu
ư kiến
mà tôi cho là đúng nhất,
khi ông nói rằng:
“Đó là một
bộ
sách bao gồm
cả
một
cuộc
cách mạng
tư
tưởng
trong đó”.
PHỤ LỤC SỐ 3
Tác giả Alexander Wilder
Trích từ
báo
Từ
Ngữ,
số tháng 5, năm 1908
“Đôi khi người
ta nghi vấn về quyền tác giả
của
bộ
“Vén Màn Bí Mật
Nữ
Thần
Isis”. Một
số người
rêu rao rằng mình chính là tác giả.
Có một
cá nhân đáng làm chứng
nhất trong số những
người
có sự
hiểu
biết riêng tư
về quyền tác giả
ấy, đó là học
sĩ bác sĩ Alexander Wilder, vốn là môn đồ phái Plato
có nhiều năng lực
nhất. Mặc
dù ngày nay đã 85 tuổi,
ông vẫn còn bồng bột
như
thời
thanh xuân, vẫn còn cái hào khí trí tuệ
của
tuổi
trưởng
thành cùng với
mọi
bầu nhiệt
huyết của
phái Plato của
mình”.
H.W.P.
Một
buổi
sáng
vào mùa thu năm 1876, tôi đọc
thấy trong tờ
báo Diễn đàn Nữu
Ước
có đề cập
tới
một
tác phẩm
đang được
xuất bản
với
tựa
đề là “Pháp Thuật”
và bàn tới
những
đề tài bí nhiệm.
Vì bản
thân trước
kia có lưu
ý tới
những
đề tài này cho nên tôi viết thư
tới
địa
chỉ
được
trình bày trong báo và nhận
được
một
thư
hồi âm của
bà Hardinge Britton. Ngoài việc
giải
đáp thắc mắc của
tôi, bà còn cho tôi biết về việc
tạo
lập
Hội
Thông Thiên Học
lúc bấy giờ
đang diễn ra. Nhưng
tôi không theo đuổi
manh mối ấy. Tôi đâm ra ghê tởm
những
lời
tự
xưng
tự
mọc
của
các cá nhân cho mình có quyền năng cao siêu và những
tên tuổi
không thông dụng
chẳng
thu hút gì được
tôi. Tuy nhiên vài tuần sau khi biết rằng quyển
sách ấy đã ấn loát xong thì tôi gọi
điện
thoại
tới
bà Britton để
nhận
được
một
bản
in. Bà nói rõ rằng tác giả
không nêu danh tính và cũng không đòi tôi phải
trả
tiền mà lại
ngợi
khen tôi về tài năng
trí thức
là một
điều ǵ đó phi thường
trong địa
hạt
này. Quyển
sách rất thú vị
đối với
tôi, chứa
nhiều khuôn vàng thước
ngọc
quí giá liên quan tới
những
vấn đề bí mật.
Tiếc thay không có chỉ
mục
và việc
thiếu chỉ
mục
khiến
cho người
tìm học
cảm
thấy
quyển
sách mất giá trị
hết một
nửa.
Trong quyển
sách không có ám chỉ
nào tới
Hội
Thông Thiên Học
và tôi cũng chẳng
tò mò muốn biết về cái tổ
chức
ấy.
Vào lúc đó tôi đang biên tập
nhiều ấn
phẩm
cho ông J. W. Bouton, một
người
bán sách
ở
New York; tôi
ưa
diễn thuyết và đóng góp bài vở
cho một
hay hai tờ
báo. Tôi dẹp
sang một
bên những
sự
cam kết và liên kết khác. Tôi chỉ
vừa
nghe nói về bà Blavatsky nhưng
chẳng
có
gì liên quan tới
Thông Thiên Học
hoặc
đề tài khác mà tôi có biết chút ít. Người
ta mô tả
bà là tự
giới
thiệu
mình với
người
quen trên cương
vị
một
“nữ
quí tộc
người
Nga bon chen”, và tác phong của
bà thu hút sự
chú ư của
nhiều người.
Vào lúc đó người
ta chẳng
phát giác được
điều ǵ thêm nữa.
Vài tháng sau, vào một
buổi
chiều thoải
mái đầu mùa thu, tôi đang
ở
một
ḿnh trong nhà. Chuông reo lên và tôi ra tận
cửa
đáp lại.
Đại
tá Henry S. Olcott
xuất hiện
ở
đó có một
chuyện
vặt
cần gặp
tôi. Tôi không nhận
ra ông v́ tôi chưa
bao giờ
có dịp
làm quen với
ông, nhưng
ông vốn có công việc
chính quyền với
một
trong những
người
chủ
của
tôi trước
đó nhiều năm, cho nên từ
dạo
ấy có biết tôi. Tuy nhiên ông không ngờ
rằng tôi lại
quan tâm tới
những
đề tài không thông thường,
vì tôi đă thành công khiến cho mọi
người
chẳng
ai biết đến mình ngay cả
những
kẻ
nào hằng ngày giao tiếp với
tôi và cứ
tưởng
rằng họ
biết tỏng
về tôi. Việc
phục
vụ
lâu dài trong ngành báo chí, có quan hệ
thân mật
với
giới
công quyền, tích cực
tham gia vào những
vấn đề chính trị,
dường
như
đã đóng kín mọi
cơn
đam mê nồng nhiệt
về sự
suy đoán thần
bí khiến chẳng
ai nhận
ra, cũng như
luôn cả
đam mê về triết học
siêu việt.
Tôi nghĩ rằng bản
thân Đại
tá Olcott cũng khá sửng
sốt.
Ông Bouton đã chỉ
dẫn ông đến kiếm tôi. Bà Blavatsky đã biên soạn
xong một
tác phẩm
về các
đề tài huyền bí và triết học;
ông Bouton được
yêu cầu đảm
nhiệm
việc
việc
xuất bản
tác phẩm
ấy. Tôi cũng chẳng
bao giờ
hiểu
rõ tại
sao người
ta lại
chỉ
dẫn ông đến kiếm tôi. Vài ngày trước
đó ông Bouton đã du hành sang
nước
Anh và tôi đã viếng thăm ông nhiều lần, ngay cả
khi từ
Newark ghé sang tiễn ông đi buổi
sáng mà ông khởi
hành. Thế nhưng
ông chẳng
hề nói với
tôi một
lời
nào về
bản thảo ấy. Liệu
ông ta có thật
sự
trông mong tôi đọc
bản
thảo hay là ông ta chỉ
cố gắng né tránh việc
làm điều gì đó với
nó mà không thật
sự
thẳng
thừng
từ
chối? Bây giờ
tôi có khuynh hướng
nghĩ rằng ông chỉ
dẫn Đại
tá Olcott đến kiếm tôi để
tránh việc
phải
từ
chối. Tuy nhiên
vào lúc đó thì tôi lại
giả
định
rằng mặc
dù phương
thức
tiến hành không phải
của
một
doanh nhân, song ông Bouton thật
sự
có ư định
là tôi nên xem xét tác phẩm
ấy và tôi đồng ý đảm
nhận
nhiệm
vụ
ấy.
Đây quả
thật
là một
tài liệu
đồ sộ
và phô bày công trình khảo
cứu
trong một
địa
hạt
rất rộng,
đòi hỏi
phải
có sự
cần cù, quen thuộc
với
nhiều chủ
đề khác nhau, cũng như
có ư định
đối xử
công bằng với
người
viết. Xét vì mình có nghĩa vụ
đạo
đức,
hành động
vì lợi
ích của
ông Bouton, tôi tỏ
ra không
ưu
ái gì quá mức,
mà tôi tin rằng sự
công bằng cần phải
như
thế. Tôi coi là ḿnh có bổn
phận
nghiêm khắc. Khi tường
trình với
ông, tôi nêu rõ rằng bản
thảo
là một
sản phẩm được
nghiên cứu
công phu và trong chừng
mực
liên quan tới
tư
tưởng
hiện
hành th́ bản
thảo
có tính chất cách mạng,
nhưng
tôi nói thêm rằng tôi thấy nó dài quá cho nên nếu xuất bản
thì chẳng
có lời.
Tuy nhiên ông Bouton hiện
nay
lại đồng ý xuất bản
tác phẩm
ấy. Tôi chưa
bao giờ
biết những
điều khoản
ràng buộc
nhưng
những
diễn biến sau đó khiến tôi giả
định
rằng người
ta cũng chẳng
cân nhắc kỹ lưỡng
các điều khoản
ràng buộc.
Ông có được
bản
quyền
nhân danh bản
thân khiến ông có thể
kiểm
soát được
giá cả,
và sau đó ông từ
chối mọi
lời
đề nghị
chuyển
quyền sở
hữu
cho tác giả
hoặc
cắt giảm
bớt
cho chi phí rẻ
đi. Ông lại
giao bản
thảo
sang cho tôi với
huấn lệnh
là cắt xén đi sao cho nó càng ngắn càng tốt. Đây là việc
có quyền tha hồ quyết định
nhưng
chẳng
dễ chịu
chút nào. Thật
khó lòng mà công bằng khi người
ta chỉ
hành động
vì lợi
ích của
nhà xuất bản
mà lại
có được
một
quyền
hành đến mức
đó đối với
tác phẩm
của
một
tác giả.
Tuy nhiên tôi cũng đảm
nhận
nhiệm
vụ
ấy. Trong khi rút gọn
tác phẩm
lại,
hễ có dịp
là tôi giữ
nguyên tư
tưởng
của
tác giả
bằng một
ngôn ngữ
rành mạch,
chỉ
cắt bỏ
đi những
thuật
ngữ
và vấn đề nào xét ra có vẻ
thừa
thải
và không cần thiết cho mục
đích chính. Bằng cách này tôi đã cắt xén đi khá nhiều đủ
để
chứa
đầy trong một
quyển
sách có tầm cỡ
đáng kể.
Khi làm như
vậy
tôi chỉ
cân nhắc điều mà tôi giả
sử
là lợi
ích của
ông Bouton, và tin rằng ông muốn như
vậy
còn tôi chỉ
làm theo lệnh
ông. Nhưng
đó tỏ
ra chỉ
là một
“việc
lao động
vất vả
vì tình yêu”.
Đại
tá Olcott rất muốn tôi làm quen với
bà Blavatsky.
Ông dường
như
đánh giá bà rất cao gần tới
mức
sùng bái và cho rằng bất cứ
ai có dịp
được
biết bà ắt phài là một
ưu
ái hiếm có. Tôi hầu như
không thể
chia xẻ
được
cái bầu nhiệt
huyết ấy. Vì tự
nhiên là ngần ngại
không muốn làm quen thêm nữa
và lại
đang đóng vai trò kẻ
phê bình bản
thảo
của
bà cho nên do dự
trong một
thời
gian dài. Tuy nhiên rốt cuộc
thì tôi cũng bỏ
qua những
điều cân nhắc ấy để
tháp tùng ông đi tới
cơ
ngơi
của
hai người
tại
đường
Phố 47. Đó là một
“khu nhà phố” theo cái kiểu
chỗ
ở
chẳng
giống như
một
căn nhà giờ
đây đang lan tỏa
khắp đô thị
đông dân, và thay thế cho mối quan hệ
gia đình truyền thống bất cứ
nơi
đâu mà nó còn chiếm
ưu
thế.
Dinh cơ
mà hai người
sống
ở
đó đã được
“cải
biến” theo mục
đích ấy, họ
ở
trong một
dãy phòng chung cư
thuộc
tầng trên lầu. Trong trường
hợp
này thì gia đình bao gồm nhiều cá nhân với
những
công việc
khác nhau. Họ
thường
gặp
nhau vào lúc ăn cơm
cùng với
những
người
khác
ở
đâu đó ngẫu nhiên tới
ghé thăm.
Phòng ăn được
trang bị
theo kiểu
đơn
giản,
không giả
vờ
bắt chước
bất cứ
điều gì khác thường
hoặc
phi thường.
Có lẽ tôi phải
nói thêm rằng
về sau th́ tình huống này đã bị
thay đổi
hoàn toàn. Mùa thu năm 1879 có đặc
trưng
là những
tán lá cây sặc
sỡ
mà tôi chưa
bao giờ
được
quan sát từ
đó trở
đi. Nhiều cuộc
dã ngoại
đi thăm những
khu vườn
xung quanh đó giúp người
ta mang về những
chiếc lá có màu sắc với
mục
đích để
trang trí. Bằng cách này một
trong những
người
nội
trú
ở
khu nhà phố ấy, một
người
nước
ngoài có liên quan tới
nhóm huynh đệ
Thông Thiên Học
đã kiếm được
một
số lớn
lá cây và khởi
sự
dùng chúng để
trang điểm
cho phòng ăn. Bà tạo
ra nhiều hình dưới
dạng
huy hiệu
mà chính yếu là biểu
tượng
tam giác kép. Thế rồi bà nối tiếp bằng một
phong cảnh
Đông phương
chạy
suốt chiều dài của
khu
chung cư.
Ở
đó người
ta thấy có hình con voi, con khỉ
và những
con vật
khác cùng với
một
người
đang đứng
im như
thể
chiêm ngưỡng
phong cảnh.
Sự
trang trí này còn mãi qua mùa đông cho tới
khi những
người
trong nhà chia tay nhau.
Thế rồi tôi mang nó theo về Newark rồi lắp đặt
nó vào một
sảnh đường.
Nó tồn tại
ở
đây trong nhiều năm. Khi ông G. R. S. Mead đến viếng thăm tôi thì nó
vẫn còn
ở
đó. Về sau tôi gửi
nó cho cô Caroline Hancock
ở
Sacramento và đến
lượt
cô trình bày nó cho Hội
Thông Thiên Học
ở
San Fransico. Chắc chắn là từ
lâu rồi nó đã chịu
số phận
của
những
đồ đạc
bị
mục
nát. Nhưng
ngay từ
thời
sơ
khai nó đã nổi
tiếng bởi
được
khách viếng thăm ngưỡng
mộ
v́ quan
niệm
khéo léo và tân kỳ, có nhiều tờ
báo xuất bản
bài mô tả
nó.
Văn phòng mà bà Blavatsky sống và làm việc
trong đó được
bài trí theo một
kiểu
kỳ quặc
và rất thô sơ.
Đó là một
căn phòng lớn
ở
mặt
tiền, ngay
ở
bên phía
kế cận
đường
phố, được
thắp sáng đầy đủ.
Ở
giữa
căn phòng là “phòng riêng” của
bà, một
nơi
được
rào lại cả ba phía bằng những
vách ngăn tạm
bợ
trong đó có bàn viết và những
kệ
đựng
sách. Bà bố trí nó sao cho thuận
tiện
đến mức
độc
nhất vô nhị.
Trong cái khuôn viên ấy bà chỉ
cần thò tay ra là lấy được
một
quyển
sách, một
tờ
báo hoặc
món đồ nào khác mà bà đang cần. Nơi
chốn ấy không phù hợp
với
một
ý thức
thẩm
mỹ linh hoạt
ngoại
trừ
theo quan điểm
cổ
điển
của
Hi Lạp,
theo đó mỹ lệ
là thích
ứng
được
với
mục
đích, cho nên mọi
điều mỹ lệ
chắc chắn là thuận
lợi
và gọn
ghẽ. Bà Blavatsky làm vương
làm tướng
ở
nơi
chốn này, ra lệnh,
đưa
ra những
phán
xét, tiến hành việc
liên lạc
bằng thư
tín, tiếp khách và viết ra bản
thảo
của
quyển
sách.
Xét về phong cách hoặc
vẻ
mặt
th́ bà chẳng
giống gì với
điều mà tôi mong đợi.
Bà cao nhưng
lại
không cân đối, nét mặt
bà mang dáng
vẻ và phô bày đặc
trưng
của
một
người
đã từng
thấy nhiều, nghĩ nhiều, đi lại
nhiều và trải
nghiệm
nhiều. Gương
mặt
bà nhắc tôi nhớ
tới
lời
mô tả
mà Hippocrate viết về giống dân Scyths, giống dân mà có lẽ bà
thoát thai từ
đó. Tôi thấy mình không đủ
khả
năng mô tả
y phục
của
bà, thật
ra thì tôi chẳng
bao giờ
để
ý cho nên làm sao mà nhớ
nổi.
Tôi là đàn ông cho nên ít khi săm soi xiêm y của
phụ
nữ.
Tôi chỉ
chú ý tới
cá nhân và nếu người
đó ăn
mặc
không khác hẳn
phong cách thời
thượng
thì tôi chẳng
thể
nào nói về cách ăn mặc
đó một
cách thông minh hoặc
dễ hiểu.
Tôi có thể
nói là bà ăn mặc
chỉnh
tề. Dáng vẻ
của
bà chắc chắn là gây nhiều ấn tượng,
nhưng
bà tuyệt
nhiên không thô lỗ, vụng
về hoặc
mất dạy.
Mặt
khác bà tỏ
ra có văn hóa, quen thuộc
với
những
phong cách của
xã hội
thanh lịch
nhất cũng như
phép xã giao chân chính. Bà phát biểu
ý kiến một
cách táo bạo
và quả
quyết nhưng
lại
không sỗ sàng. Dễ dàng nhận
thấy rằng bà không chịu
khép mình trong khuôn khổ
hạn
hẹp
của
nền giáo dục
thông thường
đối với
phụ
nữ;
bà biết rất nhiều đề tài và có thể
thoải
mái thuyết trình về chúng.
Xét về nhiều chi tiết th́ tôi giả
sử
rằng mình chưa
bao giờ
hiểu
được
bà một
cách khá nhiều hoặc
đầy đủ.
Có lẽ điều này vượt
xa mức
mà tôi sẵn lòng thừa
nhận.
Tôi có nghe nói bà từng
biểu
diễn thần thông về
những
diễn biến phi thường
có thể
được
coi là phép lạ.
Cũng giống như
Hamlet, tôi tin rằng trên trời
dưới
đất có nhiều điều hơn
mức
những
người
khôn ngoan thuộc
thời
đại
này sẵn lòng tn tưởng.
Nhưng
bà Blavatsky chẳng
bao giờ
rêu rao với
tôi như
thế.
Chúng tôi luôn luôn đàm đạo
về những
đề tài quen thuộc
với
cả
đôi bên, với
tư
cách là những
cá nhân trên một
bình diện
chung. Đại
tá Olcott thường
nói với
tôi coi đó là việc
có một
cơ
hội
lớn,
nhưng
bản
thân bà chẳng
ra vẻ
làm phách chút nào. Tôi cũng chưa
bao giờ
trông thấy hoặc
biết tới
bất kỳ điều
nào như
thế xảy
ra với
bất kỳ người
nào khác.
Tuy nhiên bà có tuyên bố rằng mình có giao tiếp với
những
nhân vật
được
gọi
là “các Huynh Trưởng”
và đôi khi bà nói bóng gió là có dùng một
tác nhân hoặc
những
phương
tiện
tương
tự
như
cái gọi
là “thần giao cách cảm”.
Chẳng
cần chứng
tỏ
hoặc
khăng khăng cho rằng cái phương
tiện
truyền thông này đã được
biết tới
hoặc
thậm
chí được
tiến hành từ
thời
xa xưa.
Ở
Đông phương
người
ta biết rõ về Khabar. Tôi giả
sử
rằng có một
điều kiện
quan trọng
cho khả
năng duy trì sự
giao tiếp ấy, đó là việc
kiêng cử
mọi
sự
kích thích nhân tạo,
chẳng
hạn như
ăn thịt,
uống rượu
hoặc
dùng các chất gây nghiện
khác. Tôi không cho những
thứ
đó đặc
biệt
là không hợp
đạo
đức
nhưng
tôi phỏng
đoán rằng việc
điều độ
như
thế là thiết yếu để
cho người
ta triển
khai trọn
vẹn
được
những
quyền năng trí tuệ
và năng lực
tinh thần được
tha hồ tung hoành không bị
cản
trở
hoặc
ô nhiễm do ảnh
hưởng
của
những
thứ
thấp hèn. Nhưng
chẳng
hề thấy bà Blavatsky tu khổ
hạnh
như
thế. Bàn ăn của
bà được
cấp dưỡng
đầy
đủ
mặc
dù không thừa
mứa
theo một
cách thức
chẳng
khác gì bàn ăn của
những
người
nội
trợ
khác. Ngoài ra bà còn tha hồ hút thuốc lá và hễ có dịp
là bà lại
hút thuốc. Tôi chưa
bao giờ
thấy có bằng chứng
nào cho rằng
những
điều đó làm xáo trộn
hoặc
tuyệt
nhiên gây cản
trở
cho sự
nhạy
bén hoặc
hoạt
động
trí tuệ
của
bà.
Lần đầu tiên tôi đến thăm thì bà tiếp đãi rất lịch
sự
và thậm
chí thân thiện
nữa.
Bà dường
như
làm quen ngay tức
khắc được
với
tôi. Bà nói về
những
đoạn
rút ngắn mà tôi đóng góp cho bản
thảo
của
bà, không tiếc lời
ca tụng
những
điều tôi làm quá mức
mà nó xứng
đáng. Bà tuyên bố: “Mấy thứ
mà ông cắt bỏ
đi toàn là chuyện
vớ
vẩn”.
Chắc chắn là tôi cũng không xét đoán nghiệt
ngã như
thế. Tôi không bới
lông tìm vết mà chỉ
tìm biết xem nên cô đọng
bản
thảo
ra sao mà không ảnh
hưởng
tới
mục
đích chung. Có những
trường
hợp
khác mà qui tắc của
tôi là rà soát
kỹ bản thảo chưa
in ra theo kiểu
bới
lông tìm vết, nhưng
khi nó đă được
in ra rồi thì tôi chỉ
tìm xem ư nghĩa và công trạng
của
nó ra sao. Song le trong trường
hợp
này thì tôi chỉ
nhắm mục
đích rút gọn
tác phẩm
mà không
làm hỏng nó. Tuy nhiên tôi xin nói rõ là, thật
ra khi xuất bản
tác phẩm
này, sau khi ông Bouton đă bắt đầu làm việc
rồi mà bà Blavatsky vẫn cứ
tiếp tục
viết thêm đề tài này đề tài nọ
và tôi nghĩ rằng khá nhiều điều
trong quyển
II được
viết vào lúc đó. Tôi chẳng
nhớ
được
gì nhiều về điều này, ngoại
trừ
những
bản
in thử
thời
kỳ sau.
Chẳng
dễ gì mà tìm ra một
tựa
đề thích hợp
cho ấn phẩm
ấy. Tôi không nhớ
là người
ta có đề nghị
tôi phục
vụ
cho vấn đề ấy không. Và chắc chắn là cũng chẳng
đáng đề nghị
yêu cầu như
thế. Đây là một
địa
hạt
mà tôi đặc
biệt
yếu kém. Tôi cũng chẳng
nghĩ ra được
một
tên gọi
nào ngoại
lệ
đáng được
chọn dùng.
Ông Bouton lại
có năng lực
đặc
biệt
về điều ấy. Ông là một
người
có tài cung cấp trong thế giới
bán sách nhưng
ông có năng khiếu kinh doanh hơn
là có ý thức
thích đáng. Có lần ông xuất bản
bộ
khảo
luận
của
Hiệp
sĩ R. Payane bàn về Nghệ
thuật
Cổ
truyền và có thêm vào những
bức
tranh có liên quan tới
thần thoại
Ấn độ
và hoàn toàn xa lạ
với
đề tài ấy. Tác phẩm
này của
bà Blavatsky phần lớn
dựa
vào giả
thuyết về thời
kỳ tiền sử
của
giống dân Aryen
ở
Ấn Độ,
trong
thời
kỳ đó ta khó lòng mà nói được
rằng việc
vén màn hoặc
che màn Nữ
thần Isis đóng một
vai trò đặc
biệt
nào. Ngược
lại,
đó là việc
biểu
diễn đầy kịch
tính đặc
biệt
liên quan tới
tôn giáo và minh triết của
Ai Cập,
có
lẽ là liên kết với
những
sự
tàn ác của
các vị
vua Hyksos
ở
Syria. Chắc chắn là những
vấn đề thuộc
kho tàng học
thuật
Ai Cập
phải
được
xem xét bằng những
ngòi bút khác hơn
những
gì được
dùng để
viết ra tác phẩm
“Vén
Màn Bí Mật
Nữ
Thần Isis”.
Sau khi tác phẩm
đã được
in ra và thương
mại
hóa th́ người
ta có bàn luận
về quyền tác giả
thật
sự.
Nhiều người
không sẵn lòng thừa
nhận
bà Blavatsky có đủ
thông tin hoặc
có khả
năng trí thức
để
tạo ra một
sản
phẩm
như
thế. Quả
thật
là có những
phụ
nữ
như
Frances Burney đã soạn
ra những
bài nhạc
diễm tình được
đánh giá rất cao. Cô Farley đã thành công khi làm nhạc
trưởng
trình bày bản
“Cung hiến Lowell”. Mary Somerwill
đã viết về Khoa học
Vật
lý, còn Harriet Martineau viết về Khoa Kinh tế Chính trị
học.
Tôi nghe nói một
giáo sĩ
ở
New York, thuộc
Giáo hội
Chính thống Hi Lạp
Nga đã khẳng
định
rằng tôi mới
thật
sự
là tác giả.
Tuy nhiên
bản tường
trình ấy chẳng
lan rộng
được
bao nhiêu. Nó cũng bị
bác bỏ
theo cái cách mà ông Henry Ward Beecher đã quá cố chặn
đứng
một
bản
tường
trình tương
tự.
Ông bảo
chúng tôi rằng khi quyển
Túp lều của
chú Tom
được
xuất bản
thì có nhiều người
cứ
khắng khăng cho rằng chính mình chứ
không phải
bà Stowe là tác giả
quyển
ấy. Ông Beecher nói: “Thế rồi tôi viết bài
Norwood
hoàn toàn giải quyết được
vấn đề ấy. Cũng thế, chẳng
ai quen thuộc
với
cách
hành văn của
tôi mà lại
gán cho tôi là tác giả
quyển
Vén Màn Bí Mật
Nữ
Thần Isis.
Tôi cũng do dự
vì được
người
ta đánh giá cao theo ý nghĩa nổi
tiếng là người
biên tập
tác phẩm
này. Quả
thật
sau khi ông đồng ý làm
người
xuất bản
th́ tôi được
yêu cầu đọc
bản
in thử
để
đoan chắc rằng nhà in đã in chính xác những
từ
tiếng Hebrew và những
thuật
ngữ
khác thuộc
về những
ngôn ngữ
khác, nhưng
tôi đâu có thêm vào điều gì và tôi cũng chẳng
nhớ
liệu
mình có đánh bạo
kiểm
soát bất cứ
thứ
gì được
đóng góp cho tác phẩm
hay chăng. Nếu không có kiến thức
và sự
chuẩn
y của
bà thì hành động
như
thế ắt là dễ sợ.
Trong khi bà dấn thân viết tác phẩm
này th́ bà có nhiều
quyển
sách liên quan tới
đủ
mọi
đề tài, hiển
nhiên là để
bà tham khảo.
Có tác phẩm
của
Jacolliot viết về Ấn Độ,
tác phẩm
của
Bunsen viết về Ai Cập,
quyển
Lịch sử
Pháp thuật
của Ennermoser và những
người
khác. Bản
thân
tôi có viết đủ
thứ
tài liệu
về nhiều đề tài khác nhau cho
Tạp chí Não Tướng
Học
và các tạp chí khác thế mà bà cũng kiếm được
nhiều tác phẩm
ấy. Chúng tôi thường
thảo
luận
về các chủ
đề và đủ
thứ
đặc
trưng
của
chúng
vì bà là một
người
đàm đạo
thượng
hạng,
am tường
mọi
vấn đề mà chúng tôi trao đổi.
Bà nói tiếng Anh lưu
loát như
người
hoàn toàn quen thuộc
với
nó và thường
suy nghĩ bằng tiếng Anh. Điều này dường
như
thể
tôi đang nói
chuyện
với
bất cứ
người
nào mà tôi quen biết. Bà sẵn sàng tiếp nhận
ý tưởng
được
phát biểu
để
rồi bộc
lộ
tư
tưởng
của
chính mình một
cách minh bạch,
ngắn gọn
và thường
rắn rỏi.
Một
số từ
mà bà dùng có những
đặc
trưng
biểu
thị
nguồn gốc của
chúng. Bất cứ
thứ
gì mà bà không tán thành hoặc
coi trọng
thì bà nhanh chóng bác bỏ
là “chuyện
vớ
vẩn”.
Tôi chưa
bao giờ
nghe nói hoặc
gặp
từ
ngữ
này
ở
bất cứ
nơi
nào khác. Ngay cả
những
đề
án hoặc
dự
án của
Đại
tá Olcott cũng không thoát khỏi
sự
gay gắt ấy và thật
ra ông cũng thường
bị
bà phê phán chua cay. Lúc đó thì ông bực
tức
nhưng
ngoại
trừ
việc
phản
ứng
ngắn gọn
ngay tức
thời
thì dường
như
ông không
để
bụng
hậm
hực.
Xét về tính chân thực
trong vấn đề quyền tác giả
th́ người
ta có lần kể
cho tôi nghe một
câu chuyện
mà một
số người
đã tưởng
tượng
là có liên quan trực
tiếp tới
vấn đề này. Tôi giả
sử
rằng đây chính là
dịp
để
cho nhiều bức
thư
gửi
đến tôi bàn về đề tài ấy. Người
báo tin cho tôi là bà Elizabeth Thompson đã quá cố
ở
Boston. Bà Thompson là người
phụ
nữ
giàu sang, có nhiều chủ
trương
đầy nhã ý nhưng
có máu khoái điều
mới
lạ và ít nhiều mơ
mộng,
đeo đuổi
hết chuyện
này sang chuyện
khác và dễ được
tâng bốc nịnh
bợ.
Chẳng
hạn
như
bà tặng
tiền bạc
giúp cho trường
y khoa tổ
chức
nhiều khóa học
giảng
bài rồi lại
để
cho sự
việc
đó chìm xuồng;
bà trả tiền để
xây dựng
một
nhà nguyện
dành cho khóa học
Trường
hè về Trết lý
ở
Concord, thế rồi bà lại
đâm ra chán cái công việc
ấy; bà giúp bác sĩ Newbrough có tiền để
in quyển
thánh kinh mới
Oahspe, và sử
dụng
ông
họa sĩ Frank Carpenter để
vẽ bức
tranh Tổng
thống Lincoln cùng với
phòng làm việc
của
ông để
bà tặng
cho Quốc hội.
Của
cải
mà chồng bà để
thừa
kế cho bà trở
thành miếng mồi ngon cho đủ
thứ
ăn bám mò tới
kiếm bà và khéo
léo nịnh bợ
thường
giống như
câu thần chú “Vừng
ơi
hãy mở
cửa
ra”, chắc chắn là chỉ
để
tìm cách móc túi bà. Nhưng
bà nhanh chóng bỏ
rơi
hết người
này tới
người
khác.
Có một
thời
gian ngắn bà bị
thu hút về phía bà Blavatsky.
Điều này cũng gây khá nhiều ngạc
nhiên vì thật
khó mà tưởng
tượng
rằng bà Blavatsky lại
đi nịnh
bợ
bất cứ
ai. Bà đã từng
không ngần ngại
bảo
cho Henry Ward Beecher rằng ông không phải
là một
nhà giáo trung thực
trước
công luận
khi ông đạt
đỉnh
cao được
dân chúng ngưỡng
mộ.
Do đó có thể
nghi vấn chẳng
biết bà Thompson có hoàn toàn thành thật
hay chăng. Tôi nhớ
có lần gặp
được
bà một
ngày kia vào dịp
dùng cơm
tối trong khu nhà phố. Một
phát biểu
mà tôi thốt ra được
Đại
tá Olcott gán cho “Ánh sáng tinh tú”.
Vài ngày sau, khi tôi tiễn chân bà Thompson thì bà hỏi
ý kiến tôi theo cái kiểu
tạo
ấn tượng
cho tôi thấy rằng bà hầu như
không được
thẳng
thắn trong mối
quan hệ
với
gia đình Thông Thiên Học.
Khoảng một
năm sau đó, gia đình Thông Thiên Học
rời
New Yord đi Ấn Độ.
Bà Thompson trở
thành một
người
tham gia vào gia đình của
bác sĩ Newbrough
ở
số 34 đường
phố phía Tây. Ông ấy đang nỗ
lực
cho lưu
hành quyển
“thánh kinh mới”
của
ḿnh. Tôi ghé thăm đó một
ngày kia do lởi
mời
và khi biết rằng bà có những
căn phòng riêng trong tòa nhà ấy thì tôi có tới
thăm bà để
tò lòng tôn kính. Trong khi đàm đạo,
chúng tôi
có nhắc tới
bà Blavatsky và bà Thompson có nói nguyên văn như
sau:
“Nếu bà Blavatsky đến tận
cửa
này thì tôi sẽ ôm hôn bà thắm thiết. Nhưng
đồng thời
tôi lại
tin rằng bà ấy hoàn toàn phỉnh
gạt”.
Thế rồi bà kể
lại
câu chuyện
sau đây: Nam tước
Palm, là một
nhà quí tộc
người
Đức
đã sống một
thời
gian
ở
xứ
sở
này và chết
ở
bệnh
viện
Roosevelt. Ông đã dành nhiều chú tâm tới
những
đề tài bí hiểm
và có viết về những
đề tài ấy. Ông chơi
thân
với
nhóm người
ở
đường
phố thứ
47 và tặng
lại
tài sản
cho họ
nhưng
phải
bảo
đảm
rằng xác ông sẽ được
đem thiêu. Trong nhà dường
như
có một
người
phụ
nữ
trở
nên không thân thiện
và sẵn sàng phát biểu
bừa
bãi. Bà bảo
bà
Thompson rằng sau khi Nam tước
chết thì bà
ở
với
bà Blavatsky để
khám xét những
gì đựng
trong rương
của
Nam tước.
Người
phụ
nữ
ấy bảo
rằng một
trong những
rương
có chứa
đầy bản
thảo.
Bà Blavatsky đọc
lướt
qua một
vài trang
bản thảo rồi vội
vã đóng nắp rương
lại
cố gắng đánh lạc
hướng
chú ý của
mọi
người.
Hiển
nhiên bà Thompson tin rằng bản
thảo
đó là tài liệu
để
viết tác phẩm
Vén Màn Bí Mật
Nữ
Thần Isis.
Chắc chắn là bà cố gắng gây cho tôi ấn tượng
ấy. Nhưng
tôi không
ưa
nghe những
lời
bóng gió và cũng chẳng
thích người
khác giả
định
rằng tôi hàm ý nói điều mà tôi không nói huỵch
toẹt
ra. Việc
nói bóng gió khó lòng là một
thói quen đáng tôn trọng;
đó chỉ
là việc
né tránh và thường
là chỉ
giả
vờ
có biết một
điều gì đó vượt
ngoài mức
được
truyền đạt
trực
tiếp. Tôi chẳng
bao giờ
dùng tới
cái câu chuyện
ấy và chỉ
kể
lại
cho bác sĩ R. B. Westbrook
ở
Philadelphia và
kể
cho Đại
tá Olcott khi ông gặp
tôi lần kế tiếp
ở
New York.
Nhiều người
đã viết thư
làm ra như
thể
tôi có biết một
đều ǵ đó gây mất uy tín cho sự
thành thật
của
bà Blavatsky, và việc
bộ
Vén Màn Bí Mật
Nữ
Thần Isis
quả thật
là tân kỳ. Tôi xin trả
lời
rằng bà luôn luôn đối xử
công tâm với
tôi, và tôi không có bẩm
tính nói về bà không tử
tế. Tôi luôn luôn ngụ
ý tránh việc
bợ
đỡ
hoặc
cả
tin, nhưng
tôi ắt không báo đáp việc
đối xử
công bằng
qua việc
nói xấu hoặc
không thân thiện
với
người
khác.
Người
ta dễ dàng nhận
thấy rằng thật
ra không đủ
bằng chứng
để
bảo
đảm
việc
gán quyền tác giả
của
bộ
Vén Màn Bí Mật
Nữ
Thần Isis
cho Nam tước
Palm. Tôi chẳng
biết
liệu
ông có thể
viết tiếng Anh lưu
loát hay chăng v́ ông sinh trưởng
ở
nước
ngoài. Người
ta đâu có biết liệu
bản
thảo
trong cái rương
được
viết để
xuất bản
hay chỉ
là một
dạng
sách thích hợp
nào thôi. Thật
vậy,
tôi chưa
bao giờ
được
biết liệu
ông ấy có trù tính làm việc
đó hay chăng, thậm
chí liệu
ông có đủ
khả
năng làm việc
đó hay chăng. Mọi
điều đó cần phải
được
xét cho là đương
nhiên thì ta mới
bắt đầu có thể
giả
định
rằng có sự
giả
mạo
về quyền tác giả.
Tôi biết chắc rằng bản
thảo
mà tôi xử
trí là do bà Blavatsky viết bằng tay ra. Bất cứ
ai quen thuộc
với
bà mà có đọc
quyển
đầu tiên trong bộ
Vén Màn Bí Mật
Nữ
Thần Isis
đều chẳng
khó khăn gì mà nhận
ra rằng bà là tác giả.
Bản
thảo
ấy mặc
dù đồ sộ
nhưng
đâu có đủ
bao la để
chứa
gọn
trong một
cái rương
lớn
chất đầy giấy tờ
đã viết sẵn. Ngoài ra một
quyển
thứ
ba hoặc
thậm
chí còn nhiều hơn
nữa
đối với
những
gì được
xuất bản
đã do bà Blavatsky viết ra sau khi ông Bouton bắt tay vào việc
đem in tác phẩm
ấy. Bà tuyệt
nhiên không phải
là chuyên gia về việc
soạn
tài liệu.
Bà vá víu và thay đổi
luôn tạo
ra một
bản
kê rất đồ sộ
những
điều
cần “chỉnh
lý”. Đúng ra bà chưa
bao giờ
thật
sự
hoàn chỉnh
tác phẩm
ấy cho đến khi nhà xuất bản
bảo
bà phải
ngưng
lại
(nhà xuất bản
có tuyên bố với
tôi như
thế).
Người
ta muốn tôi đọc
bản
in thử.
Tôi không có thẩm
quyền
đọc
cho viết hoặc
thậm
chí gợi
ý điều
phải được
bao gồm trong tác phẩm
này và tôi cũng chẳng
nhớ
mình có một
lần nào chấp nhận
ngoại
lệ
ấy chăng. Bà có mô tả
một
phép chữa
bệnh
nào đó mà xét theo biểu
kiến là tán thành
việc
dùng thủy
ngân làm một
yếu tố chữa
bệnh.
Suốt đời
tôi vẫn có ác cảm
với
cái loại
thuốc ấy. Tôi đã từng
thấy nhiều cá nhân thiệt
mạng
vì dùng thủy
ngân làm thuốc còn những
người
khác thì bị
què quặt
một
cách
tuyệt
vọng.
Lời
phản
đối của
tôi có thể
đã buộc
bà bớt
đi lời
tán dương
thuốc ấy.
Bà luôn luôn đối xử
lịch
sự
với
tôi. Khi bà phải
làm việc
hối hả
nhất hoặc
khi bà đã chán ngán khách viếng thăm th́ bà ra lệnh
cho người
gác cửa
xua đuổi
mọi
khách ghé thăm. Cái lệnh
ấy được
nói đi nói lại
với
tôi nhiều lần nhưng
hễ khi bà nghe tiếng tôi gọi
th́ bà lại
gọi
vói ra ngoài để
chịu
tiếp tôi. Điều này xảy
ra khi cuộc
ghé thăm không phải
là chuyện
kinh doanh. Bà sẵn sàng trò chuyện
và am tường
về bất cứ
chủ
đề nào cho dù nó bí hiểm
đến đâu đi chăng nữa.
Ít người
nào trên mọi
ngã đường
đời
mà lại
được
trang bị đầy đủ
tài liệu
để
đàm đạo
như
thế. Ngay cả
Đại
tá Olcott (vốn tuyệt
nhiên không hèn kém hoặc
tầm thường)
cũng không bì với
bà được
ngoại
trừ
trong nghề nghiệp
chuyên môn của
chính ông.
Vì tin rằng phần chính yếu trong tác phẩm
không đủ
hấp dẫn đối với
người
mua sách cho
nên tôi khuyến cáo bà nên bao gồm trong đó những
bài tường
trình về những
chuyện
mầu nhiệm
mà bà đã quan sát thấy
ở
Ấn Độ.
Nhưng
bà khăng khăng từ
chối làm như
thế và bảo
rằng các “Huynh trưởng”
không cho phép. Đây là một
phiên tòa mà tôi không thể
nghi vấn; vì sự
khôn ngoan của
tôi về vấn đề này chỉ
là thói khôn vặt
ở
nơi
chợ
búa. Nhưng
bà sẵn sàng luôn luôn nghe những
điều buộc
tôi phải
nói hoặc
là liên quan tới
tác phẩm
của
bà hoặc
là về
những
vấn đề triết lý hay là những
đề tài của
đời
sống thường
ngày. Khi nhà in đã sắp chữ
được
hết mọi
thứ
thì người
ta sử
dụng
tôi để
biên soạn
chỉ
mục.
Người
khác ắt phải
thẩm
định
xem liệu
tôi có làm điều đó trung
thực
hay chăng. V́ tác giả
thì được
trả tiền, còn nhà xuất bản
không chịu
ứng
trước
một
xu cho mọi
thứ
mà tôi làm về vấn đề này mặc
dù vẫn cẩn
thận
tính hết mọi
thứ
thu được
do việc
bán sách, cho nên đó chẳng
qua chỉ
là việc
thừa
nhận
điều cần phải
làm.
Cuối cùng thì tác phẩm
cũng hoàn tất và bộ
Vén Màn Bí Mật
Nữ
Thần Isis
được
phát hành đúng kỳ hạn.
Cả
nhà bắt đầu một
lần nữa
dọn
dẹp
để
rời
New York. Bà Blavatsky đi đến Sở
Nhập
Tịch
và
ở
đó bà trở
thành công dân Mỹ. Điều này làm tôi sửng
sốt, một
phần vì tôi đã biết bà dự
tính rời
bỏ
xứ
sở
này thường
xuyên và một
phần vì bà thoải
mái chỉ
trích phương
thức
làm ăn và nền chính trị
của
chúng tôi. Bà giải
thích rằng nước
Mỹ có một
chính quyền tốt nhất thế giới.
Có thể
có những
vấn đề luật
pháp rắc rối mà tôi cũng chẳng
biết nữa.
Đại
tá Olcott là một
luật
sư
có tài và được
nhà cầm quyền
ở
Washington
sử
dụng
để
moi móc những
sự
vi phạm
pháp luật
mà người
ta giả
định,
ông biết việc
gì cần thiết để
cho người
nước
ngoài tự
vệ.
Vì sau khi đến Ấn Độ
cả
nhóm đã trở
thành đối tượng
nghi ngờ
có thể
làm gián điệp
cho
Chính quyền nước
Nga, nên rất có thể
là thật
khôn ngoan khi phòng hờ
như
vậy.
Sau khi tới
Bombay thì bà Blavatsky có nhiều lần viết thư
cho tôi. Bà nói về nhiều đề tài thú vị
đối với
một
học
viên về tôn giáo đối chiếu chẳng
hạn như
tôi, thư
của
bà vừa
là thứ
giải
trí vừa
là thứ
để
học.
Nhưng
khi thời
gian trôi qua thì những
nhiệm
vụ
mới
đã thay thế cho những
hồi
ức
xưa
cũ. Có những
biến cố xảy
ra chẳng
hạn
như
việc
cắt đứt
quan hệ
với
Dayananda,
là thủ lãnh của Arya Samaj, liên minh không tự
nhiên của
những
người
Mỹ đối với
những
bậc
tiền bối theo đạo
Tin lành, họ
chẳng
thích bất cứ
ai đàn áp đức
tin tôn giáo của
họ.
Tuy nhiên,
Tạp chí Nhà Thông Thiên Học
vẫn đều đều gởi
đến cho tôi và tôi vẫn bảo
quản
nó từ
số đầu tiên. Việc
này có thể
giúp tôi theo dõi nhóm người
Thông Thiên Học
ấy để
xem họ
làm gì mãi cho tới
khi hết đời
sinh hoạt
trên trần thế
kiếp này.
Tác phẩm
giờ
đây được
đệ
trình cho công luận
phán xét là thành quả
việc
quen biết khá thân mật
với
các bậc
cao đồ Đông phương
để
nghiên
cứu
khoa học
của
các ngài. Nó được
hiến dâng cho những
người
nào sẵn lòng chấp nhận
sự
thật
dù phát hiện
nó
ở
bất cứ
nơi
đâu và bảo
vệ
sự
thật
ấy ngay cả
khi phải
đương
đầu với
thành kiến thông tục.
Đó là một
toan tính
dành giúp cho học viên dò tìm được
những
nguyên tắc có tầm sống còn vốn là nền tảng
của
các hệ
thống triết học
thời
xưa.
Tác phẩm
này được
viết ra hết sức
chân thành. Nó có ngụ
ý muốn đem lại
sự
công bằng nói ra sự
thật
mà không mang ác ý hoặc
thành kiến. Nhưng
nó không nương
tay đối với
những
sai lầm đã được
sùng bái và cũng không nễ vì thẩm
quyền bị
tiếm đoạt.
Nó đòi hỏi
phải
phục
hồi một
quá khứ
bị
cưỡng
đoạt
vì việc
tín nhiệm
những
thành tựu
của
quá khứ
ấy đã bị
kềm hảm
quá lâu dài. Nó kêu gọi
phải
tước
bỏ
những
bộ
áo đi vay mượn
và minh oan cho những
danh tiếng lẫy lừng
nhưng
bị
vu khống. Sự
chỉ
trích của
nó không nhắm tới
bất kỳ dạng
sùng bái nào, tín ngưỡng
tôn giáo nào, giả
thuyết khoa học
nào mà không theo đúng tinh thần nêu trên. Con người
và các phe phái, giáo phái và trường
phái chẳng
qua chỉ
là phù du đối với
thời
buổi
ngày nay trên thế giới.
Chỉ
có SỰ
THẬT
chễm chệ
trên tảng
đá rắn chắc mới
là vĩnh hằng và tối cao.
Chúng tôi không tin vào Pháp thuật
vốn siêu việt
sự
hiểu
biết và năng lực
của
tâm trí con người,
cũng không tin vào “phép lạ”
cho dù của
thần linh hay
ma quỉ nếu pháp thuật
hay phép lạ
đó hàm ý sự
vi phạm
những
định
luật
của
thiên nhiên đã được
thiết lập
từ
ngàn đời.
Tuy nhiên chúng tôi chấp nhận
lời
nói của
tác giả thiên tài của
Festus,
theo đó tâm hồn con người
chưa
hoàn toàn được
bộc
lộ
hết, và chúng ta chưa
bao giờ
đạt
được
hoặc
thậm
chí hiểu
được
quyền năng của
nó. Liệu
có quá đáng chăng khi tin rằng con người
phải
phát triển
được
sự
nhạy
cảm
mới
mẻ
và quan hệ
mật
thiết với
thiên
nhiên? Phép lý luận
về tiến hóa phải
giảng
dạy
được
rất nhiều nếu ta đẩy
nó tới
những
kết luận
chính đáng. Nếu
ở
đâu đó, theo đường
lối thăng lên từ
thực
vật
hay khi một
linh hồn được
tiến hóa lên tới
mức
con người
cao
thượng
nhất vì được
phú cho những
phẩm
chất trí tuệ,
thì cũng chẳng
có chi là phi lý khi suy luận
và tin rằng một
năng khiếu nhận
thức
cũng đang tăng trưởng
nơi
con người
khiến cho y có thể
nhận
ra được
những
sự
kiện
và sự
thật
thậm
chí vượt
ngoài tầm hiểu
biết của
ta. Thế
nhưng
chúng tôi cũng không ngần ngại
lời
khẳng
định
của
Biffé, theo đó “điều cốt yếu bao giờ
cũng vẫn như
thế. Cho dù chúng ta khoét một
khối đá hoa cương
để
che giấu cái
pho tượng
trong khối đá đó hoặc
chồng chất hết tảng
đá này lên tảng
đá kia
ở
bên ngoài cho tới
khi hoàn tất được
đền thờ,
thì kết quả
MỚI
của
ta chỉ
là một
ý tưởng
cũ kỹ.
Điều mới
nhất trong mọi
sự
thật
vĩnh hằng
ắt có sứ
mệnh
với
một
nửa
linh hồn kia gắn bó với
điều vĩnh hằng xưa
nhất”.
Khi cách đây nhiều năm, chúng tôi lần đầu tiên du hành sang phương
Đông để
thám hiểm
thâm cung những
thánh điện
bị
bỏ
hoang của
nó thì có hai thắc mắc
đầy phiền não cứ
lẩn
quẩn
đè nặng
lên tư
tưởng
chúng tôi:
Thượng
Đế
ở
đâu, ngài là AI hoặc
là cái gì? Có ai đă từng
thấy
TINH THẦN BẤT TỬ
của
con người
khiến cho ngài có thể
đoan chắc với
bản
thể
mình về tính bất tử
của
con người
hay chăng?
Chính trong khi băn khoăn nhiều nhất để
giải quyết những
vấn đề gây rối trí này, chúng tôi tiếp xúc một
vài người
được
phú cho những
quyền năng huyền bí và sự
hiểu
biết sâu sắc đến nỗi chúng tôi có thể
thật
sự
gọi
các ngài là các bậc
hiền triết
ở
Đông phương.
Chúng tôi sẳn
sàng lắng nghe lời
giáo huấn của
các ngài. Các ngài chứng
tỏ
cho chúng tôi thấy rằng bằng cách phối hợp
khoa học
với
tôn giáo th́ người
ta có thể
chứng
minh được
sự
tồn tại
của
Thượng
Đế
và tính bất tử
của
tinh thần con người
giống như
giải
một
bài toán hình học
Euclide vậy.
Lần đầu tiên chúng tôi nhận
được
lời
xác quyết rằng triết học
Đông phương
không dành một
chỗ đứng
nào khác cho một
niềm tin không giống như
việc
tin tuyệt
đối và không nao núng vào sự
toàn năng của
chơn
ngã bất tử
nơi
chính con người.
Chúng tôi được
dạy
rằng sự
toàn năng này bắt nguồn từ
sự
tương
cận
của
tinh thần
con người
với
Hồn Vũ Trụ
tức
Thượng
Đế.
Các ngài bảo rằng ta chẳng
bao giờ
chứng
tỏ
được
Thượng
Đế
nếu không nhờ
vào tinh thần con người.
Tinh thần con người
chứng
minh được
tinh thần Thượng
Đế,
cũng giống như
một
giọt
nước
chứng
tỏ
cái cội
nguồn mà nó phải
xuất phát từ
đó. Cứ
bảo
một
người
chưa
bao giờ
nhìn thấy nước
rằng có một
đại
dương
nước
th́ hoặc
là y phải
chấp nhận
nó dựa
trên đức
tin hoặc
là y bác bỏ
nó hoàn toàn. Nhưng
nếu người
ta nhỏ
xuống trên bàn tay y một
giọt
nước
th́ bấy giờ
y có một
sự
kiện
mà từ
đó y có thể
suy ra được
mọi
thứ
còn lại.
Sau đó th́ y có thể
từng
bước
hiểu
ra được
rằng có tồn tại
một
đại
dương
vô biên và sâu thăm thẳm
chứa
đầy nước.
Y không bao giờ
còn cần tới
đức
tin mù quáng nữa;
y đã thay đổi
nó bằng sự
HIỂU
BIẾT. Khi người
ta chứng
kiến một
kẻ
phàm phu phô diễn được
những
năng lực
ghê gớm,
kiểm
soát được
các lực
thiên nhiên và mở
rộng
tầm nhìn sang thế giới
vong linh th́ cái trí biết suy tư
ắt choáng váng với
sự
tin chắc rằng nếu
Chơn
ngă
của một
người
có thể
làm được
nhiều điều như
vậy
thì năng lực
của
CHA TINH THẦN ắt phải
tương
đối rộng
lớn
hơn,
cũng
giống như
trọn
cả
đại
dương
so với
một
giọt
nước
xét về mặt
dung lượng
và mãnh lực.
Không có một
điều gì có thể
được
tạo
ra từ
hư
vô
cho nên khi chứng
tỏ
được
linh hồn con người
qua những
quyền năng mầu nhiệm
của
nó th́
bạn
cũng chứng
tỏ
được
Thượng
Đế!
Trong công trình nghiên cứu
của
chúng tôi, những
điều bí nhiệm
tỏ
ra không còn bí nhiệm
nữa.
Những
tên tuổi
và nơi
chốn mà đối với
tâm trí người
Tây phương
chỉ
có thể
xuất phát từ
chuyện
ngụ
ngôn của
Đông phương,
lại
tỏ
ra là những
thực
tại.
Chúng tôi kính cẩn
đưa
tinh thần lọt
vào trong đền thờ
nữ
thần Isis; vén lên bức
màn của
“đấng đang, đã và sẽ tồn tại”
ở
Saïs; nhìn xuyên qua bức
màn bị
vén lên để
thấy
Thâm cung Thánh điện
ở
Jerusalem; và thậm
chí còn tham vấn bên trong các hang động
đã từng
tồn tại
bên dưới
thánh điện
Bath Kol bí nhiệm.
Con gái của
Diệu
Âm đã đáp lời
từ
cái ngai từ
bi bên trong bức
màn che ấy
[[6]]
; và khoa học, thần học,
mọi
giả
thuyết của
con người
cũng như
mọi
quan niệm
xuất phát từ
sự
hiểu
biết bất toàn sẽ mãi mãi mất đi tính thẩm
quyền của
nó trước
tầm nhìn của
chúng tôi. Thượng
Đế
sống động
duy nhất đã phán bảo
qua sấm truyền của
ngài tức
là con người
và chúng tôi đă thỏa
mãn. Kiến thức
ấy thật
là vô giá; nó đã chỉ
bị
che khuất đối với
những
kẻ
nào bỏ
qua nó, chế nhạo
nó hoặc
chối bỏ
sự
tồn tại
của
nó.
Chúng tôi rất e ngại sự
phê phán, chỉ
trích và có lẽ cả
sự
thù địch
của
những
người
nào như
thế, mặc
dù những
chướng
ngại
cản
đường
chúng tôi không hề xuất phát từ
việc
bằng chứng
có căn cứ
hay những
sự
kiện
trong lịch
sử
đã được
chứng
thực
hoặc
công chúng mà tôi ngỏ
lời
với
lại
thiếu óc phân biệt
phải
trái thông thường.
Ta có thể
thấy rõ tư
tưởng
hiện
đại
đang trôi giạt
theo hướng
phóng khoáng về tôn giáo cũng như
về khoa học.
Mỗi ngày trôi qua đều khiến
cho những
kẻ
phản
động
tiến gần hơn
tới
mức
họ
bắt buộc
để
cho thẩm
quyền độc
đoán qui phục
lương
tâm của
công chúng, cái thẩm
quyền độc
đoán đó họ
đã hưởng
thụ
và vận
dụng
từ
biết
bao lâu nay. Khi Giáo hoàng có thể
đi
đến mức
cực
đoan nổi
giận
bài xích tất cả
những
kẻ
nào bênh vực
cho tự
do ngôn luận
và báo chí hoặc
khăng khăng đòi rằng khi dân luật
và giáo luật
xung đột
với
nhau thì dân luật
phải
thắng thế
hoặc
bất cứ
phương
pháp giáo
huấn nào chỉ
thuần là thế
tục thôi cũng đều có thể
được
ủng hộ
[[7]];
còn ông Tyndall với
tư
cách phát ngôn viên của
khoa học
thế kỷ
19 tuyên bố rằng: “Ta có thể
xác định
lập
trường
bất di bất dịch
của
khoa học
trong một
vài
từ
sau đây: chúng tôi đòi hỏi
và sẽ giằng lại
từ
trong tay thần học
trọn
cả
địa
hạt
lý thuyết vũ trụ
học”
[[8]];
thì ta cũng chẳng
khó khăn gì trong việc
tiên đoán kết thúc của
chuyện
đó.
Biết bao nhiêu thế
kỷ phục tùng đã không hoàn toàn làm đông giá được
cái bầu nhiệt
huyết của
con người
thành ra các tinh thể
xung quanh hạt
nhân tín ngưỡng
mù quáng; và thế kỷ
19 đang chứng
kiến sự
đụng
độ
của
kẻ
khổng
lồ khi y vứt
sợi
dây xiềng xích
của người
tí hon và leo lên chân mình. Ngay cả
cộng
đồng giáo phái Tin lành
ở
Anh và Mỹ giờ
đây cũng dấn thân vào việc
duyệt
lại
bản
văn của
các
Sấm truyền
cũng sẽ bắt buộc
phải
chứng
tỏ
nguồn gốc và công trạng
của
chính
bản văn ấy. Cái ngày mà các giáo điều áp chế lên con người
đã sắp tới
lúc cáo chung rồi.
Vậy
thì tác phẩm
của
chúng tôi là sự
biện
bạch
cho việc
công nhận
triết thuyết của
Hermes tức
Tôn giáo Minh triết đại
đồng thế giới
thời
xưa
với
vai trò là chìa khóa duy nhất khả
hữu
về điều Tuyệt
đối trong khoa học
và thần học.
Để
chứng
tỏ
rằng chúng tôi tuyệt
nhiên không lờ
đi tầm quan trọng
trong công trình của
mình, chúng tôi xin nói trước
rằng
thật
là không kỳ lạ
nếu lớp
người
sau đây lại
câu kết với
nhau để
chống lại
chúng tôi:
Những
Ki Tô hữu
nào thấy chúng tôi đang nghi vấn về bằng chứng
cho sự
đúng đắn trong đức
tin của
họ.
Những
khoa học
gia nào tự
cho là mình
cùng với
Giáo hội
Công giáo La Mã được
vơ
đũa cả
nắm xếp vào loại
không thể
sai lầm được
và một
số trường
hợp
đặc
biệt
có những
nhà hiền triết và những
triết gia của
thế giới
cổ
truyền lại
được
xếp loại
cao hơn
chính
họ.
Những
nhà khoa học
ngụy
tạo
cố nhiên là sẽ tố cáo chúng tôi điên cuồng.
Những
nhân viên Giáo hội
phóng khoáng và những
người
tư
tưởng
Tự
do thấy rằng chúng tôi không chấp nhận
điều mà họ
làm song đòi hỏi
phải
công
nhận
trọn
cả
sự
thật.
Những
nhà văn và đủ
thứ
người
có
thẩm
quyền
che giấu đức
tin thật
sự
của
mình do kiêng nễ thành kiến thông tục.
Những
bọn
con buôn và những
kẻ
sống ký sinh qua giới
báo chí, họ
làm nó bị
bại
hoại
còn hơn
cả
vương
quyền gây hại
cho nó, họ
làm ô danh một
nghề cao quí khi thấy quá dễ dàng trong việc
chế nhạo
những
sự
kiện
quá mầu nhiệm
mà họ
không hiểu
nổi;
đối với
họ
giá cả
của
một
đoạn
báo còn nhiều hơn
giá trị
của ḷng chân thành. Có nhiều người
sẽ phê phán trung thực,
nhưng
cũng có nhiều người
không phê phán trung thực
được.
Tuy nhiên chúng tôi trông mong
ở
tương
lai.
Cuộc
đấu tranh giờ
đây đang tiếp diễn giữa
một
bên là lương
tâm công
luận
còn một
bên là đám phản
động
đã phát triển
được
một
cung bậc
tư
tưởng
lành mạnh
hơn.
Cuối cùng thì hầu như
nó sẽ có kết quả
là lật
đổ
được
sai lầm để
cho Sự
Thật
chiến thắng. Chúng tôi xin lập
lại
một
lần nữa.
Chúng tôi đang lao động
vất vả
vì một
ngày mai tươi
sáng hơn.
Thế
nhưng
khi chúng tôi xét tới
sự
chống đối cay đắng mà chúng tôi phải
đương
đầu th́ còn ai có thẩm
quyền hơn
chúng tôi khi bước
vào đấu trường
mà lại
khắc lên trên
cái khiên mộc
của
ḿnh lời
tung hô của
dũng sĩ giác đấu La Mã đối với
hoàng đế Cæsar: KẺ
TỬ
TỘI
XIN CHÀO ĐỨC
HOÀNG ĐẾ.
New York tháng 9 năm 1877.
Chú thích của Nhà Xuất bản
Lời
Nói Đầu
ĐỨNG
TRƯỚC
BỨC
MÀN.
- Những
điều giả
định
đầy giáo điều của
khoa học
hiện
đại
và Thần học.
- Triết thuyết Platon cung
ứng
thuyết trung dung duy nhất.
- Duyệt
lại
các hệ
thống triết học
thời
xưa.
- Một
bản
thảo
của
Syria bàn về Simon Magus
- Chú giải các thuật
ngữ
được
dùng trong quyển
sách này.
QUYỂN
I
KHOA HỌC HIỆN
ĐẠI
“KHÔNG THỂ
SAI LẦM”
CHƯƠNG
I
NHỮNG
ĐIỀU CŨ ĐƯỢC
MANG TÊN GỌI
MỚI.
- Kinh Kabala của Đông phương.
- Các truyền thuyết xưa
được
sự
nghiên cứu
hiện
đại
ủng
hộ.
- Sự
tiến bộ
của
loài người
được
ghi dấu qua các chu kỳ.
- Khoa học bí truyền thời
xưa.
- Sự
vô giá của
bộ
kinh Phệ
đà.
- Sự
cắt xén những
quyển
Thánh kinh Do Thái giáo trong khi dịch
thuật.
- Pháp thuật
luôn luôn được
coi là một
khoa học
thiêng liêng.
- Thành tựu
của
các cao đồ pháp thuật
và giả
thuyết của
những
kẻ
hiện
đại
chỉ
biết dèm
pha.
- Con người
khao khát được
bất tử.
CHƯƠNG
II
CÁC HIỆN
TƯỢNG
PHÉP LẠ
VÀ THẦN LỰC.
- Sự
nô dịch
của
xã hội.
- Thành kiến và sự
ngu tín của
các nhà khoa học.
- Họ bị các hiện
tượng
thông linh săn đuổi.
- Các bí thuật
đã thất truyền.
- Ý chí của con người
là chủ
lực
trong các thần lực.
- Những
điều tổng
quát hóa hời
hợt
của
các
nhà bác học
người
Pháp.
- Các hiện
tượng
đồng cốt được
gán cho cái gì.
- Quan hệ
của
chúng với
tội
ác.
CHƯƠNG
III
KẺ MÙ DẮT NGƯỜI
ĐUI
- Sự
trích dẫn của
Huxley phái sinh từ
Orohippus.
-
Hệ
thống của
Comte và các môn đồ.
- Các nhà duy vật
Luân Đôn.
- Những
bộ
áo thầy tu đi vay mượn.
- Vũ trụ ngoại giới
là phân thân của
vũ trụ
nội
giới.
CHƯƠNG
IV
CÁC THUYẾT LIÊN QUAN TỚI
NHỮNG
HIỆN
TƯỢNG
THÔNG LINH
- Thuyết của
Gasparin.
-
..
Thury.
-
..
Mousseaux; Mirville.
-
..
Babinet.
-
..
Houdin.
-
..
các ông Royer và Jobart de Lamballe.
Hai anh em sinh đôi – “trí não vô thức”
và “truyền âm nhập
mật
vô thức”.
- Thuyết của
Crookes.
-
..
Faraday.
-
..
Chevreuil.
- Mendeleyeff đã ủy
thác điều gỉ
vào năm 1876.
- Sự
mù quáng của linh hồn.
CHƯƠNG
V
CHẤT ETHER, TỨC
“ÁNH SÁNG TINH TÚ”
- Là một
lực
bản
sơ
duy nhất nhưng
có nhiều tương
quan.
- Còn một
chút xíu nữa
là Tyndall đã có một
khám phá lớn.
- Không thể
có phép lạ.
- Bản chất của
nguyên
thể
chất.
- Việc
thuyết giải
một
số huyền thoại
thời
xưa.
- Sự
thí nghiệm
của
các fakirs.
- Sự
tiến hóa trong thuyết ẩn
dụ
của
Ấn Độ.
CHƯƠNG
VI
CÁC HIỆN
TƯỢNG
THÔNG LINH VẬT
THỂ.
. Chúng ta chịu
ơn
Paracelsus.
. Thuật
thôi miên Mesmer – nguồn gốc, sự
tiếp thu, tiềm năng.
- “Thuật
trắc tâm”.
- Thời
gian, Không gian, Vĩnh hằng.
- Việc
chuyển
năng lượng
từ
vũ trụ
hữu
hình sang vũ trụ
vô hình.
- Các thí nghiệm
của
Crookes và thuyết của
Cox.
CHƯƠNG
VII
CÁC NGUYÊN TỐ, TINH LINH NGŨ HÀNH VÀ ÂM MA.
- Sức
hút và đẩy
phổ
biến khắp nơi
trong mọi
giới
thuộc
thiên nhiên.
- Các hiện
tượng
thông linh tùy thuộc
vào môi trường
vật
thể
xung quanh.
- Những
quan sát
ở
Xiêm la.
- Âm nhạc trong các bệnh
rối loạn
thần kinh.
- “Linh hồn của
thế giới”
và các tiềm năng của
nó.
- Chữa
bệnh
bằng cách chạm
vào người
và những
nhà chữa
bệnh
theo kiểu
đó.
- “Diakka” và những
loài ma quỉ
tồi tàn của
Prophyry.
- Cây đèn không dập
tắt được.
- Thời
nay chẳng
ai biết tới
sinh lực.
- Thuyết tương
quan lực
đã xưa
lắm rồi.
- Pháp thuật
được
tin tưởng
phổ
biến
ở
khắp nơi.
CHƯƠNG
VIII
MỘT
SỐ ĐIỀU BÍ NHIỆM
CỦA
THIÊN NHIÊN
- Liệu
các hành tinh có ảnh
hưởng
tới
số phận
của
con người
chăng?
- Đoạn
văn rất kỳ bí của
Hermes.
- Vật
chất không chịu
đứng
yên.
- Lời
tiên tri của
Nostradamus đã hoàn thành.
- Sự
đồng cảm
giữa
các hành tinh và cây cối.
- Ấn Độ
có biết tới
các
tính chất của
màu sắc.
- “Những
điều trùng hợp”
là phương
thuốc trị
bá bệnh
của
khoa học
hiện
đại.
- Mặt
trăng và thủy
triều.
- Những
rối loạn
về đạo
đức
và tâm trí lan tràn như
bệnh
dịch.
- Chư
thần trong đền thờ
Chư
Thần
chỉ là các lực
thiên nhiên.
- Bằng chứng
về quyền năng pháp thuật
của
Pythagoras.
- Các chủng loại vô hình của
không gian tinh vi.
- “Tứ
diệu
đề” của
Phật
giáo.
CHƯƠNG
IX
CÁC HIỆN
TƯỢNG
TUẦN HOÀN
- Ý nghĩa của thành ngữ
“lớp
áo bằng da”.
- Sự
tuyển
trạch
tự
nhiên và kết quả
của
nó.
- “Vòng tất yếu” của
người
Ai Cập.
- Các giống dân Tiền Adam.
- Tinh thần giáng xuống vật
chất.
- Bản chất ba ngôi của
con người.
- Các tạo vật
thấp nhất trên thang
tồn tại.
- Mô tả
đặc
biệt
các tinh linh ngũ hành.
- Proclus bàn về các sinh linh trong bầu không khí.
- Các tinh linh ngũ hành được
gọi
bằng nhiều tên khác nhau.
- Quan điểm
của
Swedenborg về sự
chết của
linh hồn.
- Những
hồn
người
vướng
vòng tục
lụy.
- Những
đồng cốt không trong sạch
và các “vong linh hướng
dẫn”.
- Thuật
trắc tâm trợ
giúp cho việc
khảo
cứu
khoa học.
CHƯƠNG
X
CHƠN
NHƠN
VÀ PHÀM NHƠN
- Cha Félix tố cáo các nhà khoa học.
- “Điều bất khả tư
nghị”.
- Nguy cơ
của
những
kẻ
sơ
cơ
trục
triệu
ma quỉ.
- Lares và Lemures.
- Bí mật
của
các đền thờ
Ấn Độ.
- Sự
luân hồi.
- Thuật
phù thủy
và các nhà phù thủy.
- Sự
xuất thần do uống nước
Soma linh thiêng.
- Một
vài
“u hồn” rất dễ bị
tổn
thương.
- Thí nghiệm
của
Clearchus đối với
một
đứa
bé trai đang ngủ.
- Tác giả chứng
kiến một
thử
nghiệm
pháp thuật
ở
Ấn Độ.
- Trường
hợp
Cevennois.
CHƯƠNG
XI
CÁC KỲ TÍCH VỀ VẬT
THỂ
VÀ TÂM LÝ
- Con người
có đạt
được
việc
không bị
tổn
thương.
- Phóng chiếu thần lực
của
ý chí.
- Không bị
nhiễm nọc
độc
của
rắn.
- Dùng âm nhạc
để
làm mê mẫn loài rắn.
- Bàn về các hiện
tượng
quái thai.
- Người
ta thú nhận
rằng chưa
thăm
dò được
địa
hạt
tâm lý.
- Những
sự
nuối tiếc thất vọng
của
Berzelius.
- Biến dòng sông thành máu là một
hiện
tượng
của
giới
thực
vật.
CHƯƠNG
XII
“VỰC
THẲM
KHÔNG VƯỢT
QUA ĐƯỢC”.
- Các nhà khoa học thú nhận
là mình dốt
nát.
- Đền thờ
Chư
thần của
chủ
nghĩa hư
vô.
- Cấu tạo
tam bội
của
lửa.
- Định
nghĩa bản
năng và lý trí.
- Triết thuyết của
Kỳ Na giáo Ấn Độ.
- Lemprière cố tình biểu
diễn sai lạc.
- Anh hồn của
con người
không bất tử.
- Các kiếp luân hồi của
Đức
Phật.
- Các bức
tranh mặt
trời
và mặt
trăng trong pháp thuật
Tây Tạng.
- Giải thích hiện
tượng
ma cà rồng.
- Trò ảo thuật
ở
Bengal.
CHƯƠNG
XIII
THỰC
TẠI
VÀ HÃO HUYỀN
- Cơ
sở
lý luận
của
bùa.
- Những
điều bí nhiệm
còn chưa
giải
thích được.
- Cuộc
thực
nghiệm
pháp thuật
ở
Bengal.
- Các thành tích đáng ngạc
nhiên của
Chibh Chondor.
- Trò leo dây của
Ấn Độ
chỉ
là ảo
giác.
- Hồi sinh các vị
fakirs bị
chôn sống.
- Giới
hạn
của những
tiềm sinh (tạm
ngưng
sống).
- Thuật
đồng cốt hoàn toàn đối lập
với
thuật
cao đồ.
- Các “vong linh hiện
hình” nghĩa là gì?
- Shudāla Mādan.
-
Triết lý của
thuật
khinh thân.
- Thuốc trường
sinh và nước
cam lồ dung môi
vạn
năng.
CHƯƠNG
XIV
MINH TRIẾT CỦA
AI CẬP
- Cội
nguồn của
dân Ai Cập.
- Các công trình tạo
tác hùng vĩ của
họ.
- Vùng đất thời
xưa
của
các Pharaon.
- Các dinh thự
ở
Nilot rất xa xưa.
- Các thuật
chiến tranh và hòa bình.
- Thần thoại
và di tích
ở
Mê hi cô.
- Chúng rất giống với
nguồn gốc Ai Cập.
- Thánh Moise là một
tu sĩ của Osiris.
- Những
bài học
mà các di tích
ở
Xiêm la dạy
cho ta.
- Thập
giá chữ
Tau của
Ai Cập
ở
Palenque.
CHƯƠNG
XV
ẤN ĐỘ
LÀ CÁI NÔI CỦA
LOÀI NGƯỜI
- Đạt
được
“giáo lý bí nhiệm”.
- Hai di tích thuộc
quyền sở
hữu
của
một
học
giả
nổi
tiếng Nam phạn.
- Người
Ấn Độ
bo bo giữ
độc
quyền.
- Lydia Maria Child bàn về khoa biểu
tượng
của
tượng
dương
vật.
- Thời
đại
kinh Phệ
Đà và Đức
Bàn Cổ.
- Truyền thuyết về các giống dân tiền hồng thủy.
- Châu Atlantis và các dân cư
của
nó.
- Các di tích
ở
Peru.
- Sa mạc Gobi và những
bí mật
của
nó.
- Các huyền thoại
Tây Tạng
và Trung
Hoa.
- Pháp sư
trợ
giúp chứ
không cản
trở
thiên nhiên.
- Mẹ Ấn Độ
truyền thừa
triết học,
tôn giáo, nghệ
thuật
và khoa học
cho hậu
thế.
Joan-
Hãy phất cao ngọn
cờ
phấp phới
trên những
bức
tường!
Vua Henry VI.
Hồi IV
“Cuộc
đời
của
tôi đã được
dành trọn
cho việc
nghiên cứu
con người,
số phận
và
hạnh phúc của y”.
J. M. BUCHANAN, Bác sĩ Y khoa
Tác phẩm
Phác họa các Bài thuyết trình về Nhân loại
học.
Như
chúng tôi được
biết đã 19 thế kỷ
trôi qua từ
khi cái đêm đen của
Ngoại
đạo
và Tà
giáo lần đầu tiên bị
xua tan bởi
ánh sáng thiêng liêng của
Ki Tô giáo; và đã hai thế kỷ
mới
trôi qua từ
khi ngọn
đèn sáng rỡ
của
Khoa học
Hiện
đại
bắt đầu soi sáng cho bóng tối vô minh của
biết bao thời
đại.
Trong phạm
vi những
thời
kỳ liên tiếp đó, chúng ta bị
bắt buộc
phải
tin rằng đã xảy
ra sự
tiến bộ
thật
sự
về đạo
đức
cũng như
tri thức
của
loài người.
Các nhà triết học
thời
xưa
cũng quá đủ
đối với
các thế hệ
đương
đại
nhưng
họ
lại
dốt nát so với
các nhà khoa học
hiện
nay.
Luân lý của
Ngoại
đạo
có lẽ cũng đáp
ứng
được
nhu cầu của
những
người
thất học
thời
xưa,
nhưng
chỉ
khi “Ngôi sao sáng rực
ở
Bethlehem” giáng lâm thì người
ta mới
thấy rõ được
con
đường
chân chính của
đạo
đức
toàn bích và con đường
giải
thoát. Xưa
kia thì thú tính là qui luật
còn đức
tính và tính linh là ngoại
lệ.
Ngày nay kẻ
trì độn
nhất cũng có thể
đọc
hiểu
được
ý chí của
Thượng
Đế
qua lời
của
Ngài được
thiên khải;
con người
được
cổ
võ để
trở
nên thánh thiện
và đang càng ngày càng tốt hơn.
Sau đây là một
lời
giả
định:
Sự
thật
ra sao? Một
đằng là giáo đoàn thiếu tính linh, đầy giáo điều thường
khi lại
trụy
lạc
nữa
với
một
bè lũ giáo phái ba tôn giáo lớn
đánh nhau, thay vì hợp
nhất thì chỉ
bất hòa, thay v́ chứng
minh thì chỉ
có giáo điều với
những
nhà thuyết pháp mê đắm thú vui giác quan, với
giáo dân đạo
đức
giả
và ngu tín
chỉ mưu
cầu khoái lạc
và của
cải,
bị
những
thúc bách tàn bạo
của
qui luật
sống đời
thường
muốn tỏ
ra là ḿnh khả
kính trong khi lòng chân thành và lòng sùng đạo
chân chính chỉ
là ngoại
lệ.
Một
đằng thì các giả
thuyết của
khoa học chỉ là những
lâu đài xây trên bãi cát; không đồng ý được
với
nhau về
bất cứ
vấn đề nào; cãi cọ
đầy hiềm khích và ganh tị;
nói chung là trôi giạt
về phía chủ
nghĩa duy vật.
Một
trận
đánh giáp lá cà một
mất
một
còn giữa
Khoa học
và Thần học
để
tranh nhau việc
không thể
sai lầm. Đây là “một
cuộc
xung đột
ngàn đời”.
Ở
Rome, tòa thánh tự
phong của
Ki Tô giáo, vị
kế nghiệp
ngai của
thánh Peter đang làm tổn
hại
cho trật
tự
xã hội
với
một
mạng
lưới
vô hình nhưng
có mặt
khắp nơi
của
những
tác nhân ngu tín, xúi bẫy họ
làm cách mạng
ở
Âu châu để
chiếm được
quyền tối cao về
cả thế quyền lẫn thần quyền. Ta thấy
đấng tự
xưng
là “Giáo hoàng phó tế của
đấng Ki Tô” lại
sát cánh với
những
người
Hồi giáo chống Ki Tô để
chống lại
một
quốc gia Ki Tô giáo khác, công khai cầu khẩn
Thượng
Đế
ban phước
cho những
người
nào qua hàng thế kỷ
đã đứng
vững
dùng lửa
máu và kiếm gươm
để
tự
cho mình là đấng Ki Tô, sứ
giả
của
Thượng
Đế!
Ở
Berlin – một
trong những
nơi
học
thức
nhất – các vị
giáo sư
khoa học
chính xác
hiện
đại
ngoảnh
mặt
quay lưng
với
những
kết quả
khoe khoang là đã khai sáng được
từ
thời
sau
Galileo, lại đang lặng
lẽ dập
tắt ngọn
nến
ở
Florentine vĩ đại;
tóm lại
thì họ
đang tìm cách chứng
tỏ
hệ
thống nhật
tâm ngay cả
khi trái đất vẫn đang quay, nhưng
những
giấc mơ
của
các nhà khoa học
bị
hão huyền ấy mà Newton
là một
kẻ mơ
mộng,
còn mọi
nhà thiên văn học
quá khứ
và hiện
tại
chẳng
qua chỉ
là những
kẻ
biết khéo léo tính toán về những
bài toán không kiểm
chứng
được
[[10]].
Giữa
hai kẻ
khổng
lồ đang xung đột
nhau ấy – tức
là
Khoa học và Thần học
- th́ công chúng đâm ra hoang mang, nhanh chóng mất niềm tin vào tính
bất tử
nơi
phàm ngã của
con người,
mất hết niềm tin vào bất kỳ loại
thần linh nào và nhanh chóng xuống cấp chỉ
còn sống giống như
một
con thú. Đây là bức
tranh đương
đại
được
soi sáng bởi
ánh mặt
trời
chính ngọ
của
cái kỷ
nguyên Ki Tô giáo và kỷ
nguyên khoa học
này!
Liệu
có thật
sự
công bằng chăng khi kết án ném đá những
tác giả
khiêm tốn và ôn nhu nhất
vì họ đã hoàn toàn bác bỏ thẩm
quyền của
hai đối thủ
nêu trên? Liệu
ta có bắt buộc
phải
chấp nhận
câu châm ngôn chân chính của
thế kỷ
này qua lời
tuyên bố của
Horace Greeley không: “Tôi
không dè dặt
chấp nhận
quan điểm
của
bất
cứ
ai dù người
đó còn sống hay đã chết”?
[[11]]
Dù sao đi nữa
thì đó cũng là châm ngôn của
chúng tôi và chúng tôi ngụ
ý nguyên tắc đó sẽ thường
xuyên dẫn dắt chúng tôi qua suốt tác phẩm
này.
Trong số nhiều hậu
quả
phi thường
của
thế kỷ
ta, có một
tín ngưỡng
kỳ lạ
của
cái gọi
là các nhà Thần linh học
đã vươn
lên trong đám tàn tích nghiêng ngã của
các tôn giáo tự
phong là mình được
thiên khải
và các triết thuyết duy vật;
thế nhưng
chỉ
có
nó mới
hiến ra một
chỗ trú khả
dĩ cuối cùng để
thỏa hiệp
giữa
đôi bên. Cái bóng ma chẳng
ai trông thấy
được
này ngay từ
thời
tiền-Ki tô không được
thế kỷ
thực
chứng
và chính chắn của
chúng ta nhiệt
liệt
hoan nghênh; điều
này cũng chẳng
có ǵ đáng ngạc
nhiên. Thời
thế đă đổi
thay rất kỳ lạ;
chỉ
mới
gần đây thôi, một
nhà thuyết pháp nổi
tiếng
ở
Brooklyn đã sắc sảo
nhận
xét trong một
bài giảng
rằng nếu Chúa Giê su mà có trở
lại
biểu
diễn trên
đường
phố New York giống như
ngài đã từng
biểu
diễn trên đường
phố Jerusalem thì ngài ắt thấy mình bị
nhốt vào nhà tù của
những
Ngôi mộ
[[12]]
Thế
thì liệu
Thần linh học
có thể
trông mong cái loại
nghênh đón nào? Cũng đúng
thôi, kẻ
xa lạ
kỳ quặc
ấy thoạt
nhìn dường
như
chẳng
có gì hấp dẫn và cũng chẳng
có gì đầy triển
vọng.
Nó chẳng
có hình thù gì và lại
cục
mịch
giống như
một
đứa
trẻ
được
bảy
cô bảo
mẫu xúm xít lại
chăm nom thì đến
khi hết tuổi
dậy
thì nó ắt tỏ
ra què quặc
không được
lành lặn
như
người
khác. Kẻ
thù của
nó thì hằng hà sa số, còn bạn
bè và người
bảo
trợ
cho nó thì đếm được
trên đầu ngón tay. Nhưng
thế nghĩa là sao chứ?
Biết bao giờ
thì người
ta mới
chấp nhận
sự
thật
một
cách tiên nghiệm?
Đó là vì những
kẻ
cổ
xúy cho Thần linh học
trong khi cuồng tín đã thổi
phồng lên những
phẩm
tính của
mình và bưng
tai bịt
mắt trước
những
khuyết điểm
của
mình
cho nên không bào chữa
được
việc
người
ta nghi ngờ
về tính thực
tại
của
mình. Làm sao chúng ta có thể
ngụy
tạo
được
khi chúng ta chẳng
có một
mô hình nào để
bắt chước
theo đó mà ngụy
tạo.
Bản
thân sự
cuồng tín của
các nhà
Thần linh học
cũng là bằng chứng
cho việc
các hiện
tượng
phép lạ
của
họ
là có thật
và có thể
xảy
ra được.
Họ
cung cấp cho ta những
sự
kiện
mà ta có thể
khảo cứu
chứ
không phải
những
điều khẳng
định
mà ta phải
tin dù
không có chứng
minh. Hàng triệu
những
người
nam nữ
có lý trí đâu có dễ ǵ mà sa vào một
ảo
giác tập
thể
như
thế. Do đó trong khi giáo đoàn căn cứ
theo sự
giải
thích của
riêng mình về
Thánh kinh
và khoa học căn cứ
vào
bộ
Luật
do mình tự
tạo
ra về những
khả
năng trong thiên nhiên; cả
hai đều từ
chối không lắng nghe Thần linh học
một
cách công tâm thì khoa học
thật
sự
và tôn giáo chân chính đều im
lặng
và nghiêm trang chờ
đợi
những
sự
phát biểu
thêm
nữa.
Trọn cả vấn đề hiện
tượng
phép lạ
dựa
vào việc
hiểu
biết đúng đắn những
triết lý cổ
xưa.
Thế
thì trong khi bối rối chúng tôi biết hướng
về ai nếu không phải
là các nhà hiền triết thời
xưa
vì các nhà hiền triết
thời
nay lấy cớ
là mê tín dị
đoan cho nên từ
chối không chịu
giải
thích cho chúng tôi hiểu?
Nếu chúng tôi hỏi
họ,
họ
biết
gì về khoa học
và tôn giáo chân chính; không phải
chỉ
về những
vấn đề chi tiết tủn
mủn
mà về
mọi quan điểm
phóng khoáng của
hai thứ
chân lý bài trùng này – chúng rất mạnh
mẽ khi hợp
nhất với
nhau nhưng
lại
yếu đuối xiết bao khi tách rời
khỏi
nhau. Ngoài ra chúng tôi thấy mình có thể
có lợi
khi so sánh cái khoa học
hiện
đại
huênh hoang này với
sự
vô minh thời
xưa,
so sánh cái Thần học
hiện
đại
đã được
cải
thiện
này với
“giáo lý bí nhiệm”
của
tôn giáo đại
đồng thế giới
thời
xưa.
Do đó chúng tôi có thể
tìm ra một
mảnh
đất trung dung mà chúng
tôi có thể
đạt
tới
và mang lại
lợi
ích cho đôi bên.
Chỉ có triết học
của
Plato (vốn là toát yếu cầu kỳ nhất của
hệ
thống bí hiểm
thuộc
cổ
Ấn độ)
mới
có thể
cung
ứng
cho chúng ta mảnh
đất trung dung này. Mặc
dù Plato
đã mất được
22 thế kỷ
¼, song những
đầu óc vĩ đại
trên thế giới
vẫn còn bận
tâm với
những
tác phẩm
của
ông. Ông là người
thuyết giải
thế
giới
theo ý nghĩa rộng
lớn
nhất của
từ
này. Và mọi
triết gia vĩ đại
nhất thuộc
kỷ nguyên tiền-Ki Tô đều phản
ánh trung thực
trong tác phẩm
của
mình thần linh học
của
các triết gia Phệ
đà vốn đã sống hàng ngàn năm trước
thời
đại
mình và cách diễn đạt
siêu hình của
nó. Ta ắt thấy Vyasa. Djiminy, Kapila,
Vrihaspati và Sumati cũng như
biết bao người
khác đã truyền đạt
dấu ấn không phai nhòa được
của
mình cho Plato và trường
phái của
ông xuyên qua các thế kỷ
trung gian. Như
vậy
mới
bảo
đảm
được
sự
suy diễn của
Plato và các nhà
hiền triết cổ
Ấn Độ
đều tiết lộ
cùng một
loại
minh triết. Nếu cơn
chấn động
của
thời
gian vẫn còn làm sống sót nó thì cái minh triết này chẳng
lẽ không thể
là thiêng liêng và vĩnh hằng hay sao?
Plato dạy dỗ về sự
công
bằng vốn là nền tảng
của
linh hồn người
có sự
công bằng và là phúc lợi
lớn
nhất của
y. “Tỉ
lệ
với
trí năng của
mình, con người
đã thừa
nhận
những
đòi hỏi
siêu việt
của
ông”. Thế
nhưng
những
nhà bình luận
về ông hầu như
đều nhất trí rằng họ
cảm
thấy dội
với
mọi
đoạn
văn hàm ý rằng siêu hình học
của
ông dựa
trên một
nền tảng
vững
chắc chứ
không phải
trên những
quan niệm
lý tưởng.
Nhưng
Plato không thể
chấp nhận
một
triết lý không có những
hoài bão tâm linh; đối với
ông thì triết lý và tâm linh là một.
Đó là v́ nhà hiền triết thời
cổ
Hi Lạp
chỉ
có một
mục
tiêu duy nhất để
đạt
tới:
tri thức
chân thỰc.
Y chỉ coi là các triết gia chân chính khi những
người
nào
tìm hiểu
về sự
thật
mà có điều tri thức
về điều thật
sự
tồn tại
đối nghịch
với
điều chỉ
là bề ngoài; tri thức
về điều
luôn luôn tồn tại
đối nghịch
với
điều chỉ
phù du tạm
bợ;
và tri thức
về điều
vốn tồn tại
thường
trụ
đối nghịch
với
điều cứ
tiêu trưởng
luân phiên được
phát triển
rồi lại
bị
hủy
diệt.
“Vượt
ngoài mọi
kiếp tồn tại
hữu
hạn
và những
nguyên nhân thứ
cấp, mọi
định
luật,
ý tưởng
và nguyên lý, có một
trí THôNG tuệ
hoặc
tâm trí (Nous tức
tinh thần) nguyên khí bản
sơ
của
mọi
nguyên khí, Ý tưởng
Tối cao mà mọi
ý tưởng
khác đều dựa
vào đó; bậc
Quân vương
và đấng Ban bố Pháp luật
cho vũ trụ;
nguyên chất tối hậu
từ
đó phái sinh ra bản
thể
và thực
thể
của
vạn
vật.
Nguyên nhân đầu tiên và hữu
hiệu
của mọi trật
tự
hài hòa và mỹ lệ,
tuyệt
diệu
và tốt đẹp,
thấm nhuần vũ trụ;
do tối hảo
và
ưu
việt
cho nên nguyên nhân đó được
gọi
là Điều Thiện
Tối cao, Thượng
Đế,
‘Chúa tể
Muôn loài’
[[13]].
Ngài không phải
là sự
thật
cũng như
là trí thông minh
mà là “cha của
nó”. Mặc
dù các giác quan thể
xác của
ta không thể
nhận
biết được
bản
thể
vĩnh hằng này của
các sự
vật,
song tâm trí của
những
người
nào không cố tình trì độn
đều có thể
lĩnh hội
được
nó. Chúa Giê su có dạy
những
đệ
tử
ưu
tú của
ḿnh như
sau: “Ta sẽ ban cho các con biết được
sự
bí nhiệm
của
nước
Thiên chúa, nhưng
ta sẽ không ban điều đó cho công
chúng . . . Vì vậy
ta nói với
họ
bằng dụ
ngôn hoặc
ẩn
dụ;
vì họ
có mắt cũng như
mù, có tai cũng như
điếc cho nên họ
có hiểu
ǵ đâu”[[14]].
Porphyry thuộc
trường
phái Tân Platon có đoan chắc với
ta rằng triết lý của
Plato
được
giảng
dạy và minh họa trong các bí pháp. Nhiều người
đã thắc mắc và thậm
chí chối bỏ
điều này; trong tác phẩm
Aglaophomus,
Lobeck đã đi đến mức
cực
đoan khi biểu
diễn những
cơn
hoan lạc
thiêng liêng chẳng
khá gì hơn
một
pha
trình diễn rỗng tuếch để
thu hút óc tưởng
tượng.
Điều này dường
như
thể
trong vòng hơn
20 thế kỷ
thành Athens và nước
Hi Lạp
cứ
mỗi 5 năm thì lại
lui tới
Eleusis để
chứng
kiến một
trò hề tôn giáo trang trọng!
Augustine là
đức
Cha giám mục
ở
Hippo đã giải
quyết những
điều khẳng
định
ấy. Ông tuyên bố rằng học
thuyết của
các môn đồ Plato
ở
Alexandria là giáo lý bí truyền nguyên thủy
của
những
môn đồ đầu tiên của
Plato, ông còn mô tả
Plotinus là
Plato tái thế. Ông cũng giải
thích động
cơ
thúc đẩy
của
vị
triết gia vĩ đại
nhằm che giấu ý nghĩa bên trong của
điều mà ḿnh giảng
dạy
[[15]]
.
Còn về phần các thần thoại
thì trong tác phẩm
Gorgias
và Phœdon, Plato có tuyên bố
đó là những
công cụ
của
những
sự
thật
lớn
lao rất đáng mực
mưu
cầu. Nhưng
các nhà bình luận
ít
giao tiếp
với
bậc
đại
triết gia đến nỗi họ
bắt buộc
phải
thừa
nhận
rằng họ
mù tịt
chẳng
biết “phần học
thuyết chấm dứt
ở
đâu và phần thần thoại
bắt đầu
ở
đâu”. Plato đã xua tan niềm mê tín dị
đoan thông tục
liên quan tới
pháp thuật
và ma quỉ,
ông đã triển
khai những
ý niệm
quá lố về thời
gian biến nó thành các thuyết hợp
lý và các quan niệm
siêu hình. Có lẽ những
thứ
này không hoàn toàn phù hợp
với
phương
pháp lý luận
qui nạp
mà Aristotle đã xác lập;
tuy nhiên chúng thỏa
đáng đến mức
cao nhất đối với
những
người
nào lĩnh hội
được
sự
tồn tại
của
cái năng lực
cao siêu là giác ngộ
tức
tuệ
giác, vốn được
coi là một
tiêu chuẩn
để
nhận
biết sự
thật.
Khi đặt
mọi
nền tảng
học
thuyết của
mình trên sự
tồn tại
của
Trí tuệ
Tối cao, Plato có dạy
rằng
Nous
tức
tinh thần, tức
hồn lý
trí của con người
được
“Cha Thiêng Liêng sản
sinh ra”, nó có bản
chất tương
cận
hoặc
thậm
chí đồng chất với
Thiên tính và nó có thể
chứng
kiến những
thực
tại
vĩnh hằng. Năng lực
chiêm ngưỡng
thực
tại
theo kiểu
trực
tiếp và
ngay trước
mắt chỉ
thuộc
về Thượng
Đế
thôi; hoài bão có được
sự
hiểu
biết như
vậy
cấu thành cái thực
sự
được
ngụ
ý qua từ
triết lý
tức
là yêu quí minh triết. Yêu sự
thật
vốn cố hữu
nơi
yêu điều thiện,
và nó chiếm
ưu
thế
hơn
mọi
ham muốn của
linh hồn, làm cho linh hồn được
tẩy
trược
và đồng hóa với
phần thiêng liêng, như
vậy
chi phối được
mọi
hành vi của
cá thể,
nó nâng con người
lên tới
việc
tham gia và hiệp
thông với
Thiên tính, phục
hồi
y cho giống như
Thượng
Đế.
Trong tác phẩm
Theœtetus,
Plato có bảo rằng “Sự
bay bổng
này cốt là trở
nên giống như
Thượng
Đế
và sự
đồng hóa này là trở
nên công chính và thánh thiện
cùng với
sự
minh triết”.
Người
ta luôn luôn quả
quyết rằng nền tảng
của
sự
đồng hóa này là sự
tồn tại
trước
của
tinh thần tức
Nous.
Trong ẩn
dụ
về cổ
xe và những
con ngựa
có cánh được
trình bày trong
Phœdrus,
ông biểu
diễn bản
chất thông linh có tính phức
hợp
bao gồm hai
phần: phần thumos tức
epithumetic
được
tạo
ra từ
nguyên chất của
thế giới
hiện
tượng;
còn phần
thumocides,
có bản chất liên kết với
thế giới
vĩnh hằng. Cuộc
sống trên trần thế
hiện
nay là một
sự
sa đọa
và trừng
phạt.
Linh
hồn
ở
trong “nấm mồ mà ta gọi
là
thể
xác”
và trong trạng
thái nhập
xác trước
khi có được
giới
luật
do giáo dục
thì noëtic, yếu tố tinh thần, vẫn “yên ngủ”.
Như
vậy
sự
sống là một
giấc mơ
hơn
là một
thực
tại.
Cũng giống như
những
kẻ
bị
tù
ở
trong cái hang dưới
đất được
mô tả
trong tác phẩm
Nước
Cộng
Hòa
vốn quay lưng
về phía ánh sáng, chúng ta chỉ
nhận
thức
được
cái bóng của
sự
vật
và nghĩ rằng những
cái bóng này là các thực
tại
có thật.
Chẳng
lẽ cái ý tưởng
này về
Maya
tức
điều hão huyền của
các giác quan trong sinh hoạt
trên cõi trần lại
không phải
là một
đặc
điểm
nổi
bật
trong triết lý Phật
giáo hay sao? Nhưng
nếu chúng ta không hoàn toàn phục
tùng
bản chất đầy dục
lạc
thì những
cái bóng đó cũng gợi
ra nơi
ta hoài niệm
về cái thế
giới
cao siêu mà chúng ta từng
một
lần
ở
nơi
đó. “Tinh thần nội
tại
vẫn nhớ
lờ
mờ
và mơ
màng về trạng
thái cực
lạc
trước
khi sinh ra, cũng
như
một
sự
khao khát dự
báo theo bản
năng là nó sẽ trở
lại”.
Đó là phạm
vi giới
luật
của
triết học
nhằm giải
thoát nó ra khỏi
sự
nô lệ
cho giác quan, và nâng nó lên tới
thiên giới
của
tư
tưởng
thuần túy để
có được
tầm nhìn về chân, thiện,
mỹ vĩnh hằng. Trong tác phẩm
Theœtetus,
Plato có bảo rằng: “Linh hồn không thể
nhập
vào hình tướng
của
một
con người
nếu nó chưa
bao giờ
thấy được
sự
thật.
Đây là việc
nhớ
lại
những
điều mà linh hồn
ta trước
kia đã thấy khi đồng hành với
Đấng thiêng liêng, bất chấp những
sự
việc
mà giờ
đây ta bảo
rằng
đang hiện
hữu,
chỉ ngước
mắt nhìn lên điều vốn
thực
sự
tồn tại.
Vì sao chỉ có nous tức
tinh thần của
triết gia hoặc
người
tìm hiểu
thật
sự
cao cấp mới
được
chấp cánh bay lên; bởi
vì y đã vận
dụng
hết năng lực
của
mình để
ghi khắc những
điều này vào tâm trí, việc
chiêm nghiệm
những
điều đó khiến cho nó trở
nên thiêng liêng. Bằng cách vận
dụng đúng đắn những
sự
vật
này mà nó nhớ
lại
từ
kiếp trước,
bằng cách thường
xuyên tự
hoàn thiện
ḿnh với
các bí pháp hoàn hảo,
con người
trở
nên thật
sự
toàn bích, là một
điểm
đạo
đồ của
minh triết thiêng liêng”.
Vì thế cho nên ta mới
hiểu
được
tại
sao những
phong cảnh
cao siêu nơi
Bí pháp đều luôn luôn xảy
ra vào ban đêm. Cuộc
sống của
tinh thần nội
tại
là sự
chết của
bản
chất ngoại
giới,
và đêm đen của
cõi trần xác định
ngày của
cơi tâm linh. Do đó Dionysos tức
mặt
trời
vào ban đêm đã được
tôn thờ
nhiều hơn
Helios, là tinh cầu đó vào ban ngày. Trong các Bí pháp có trình bày
tượng
trưng
điều kiện
tồn tại
trước
của
tinh thần và linh hồn, tinh thần và linh
hồn lướt
qua sống trên cõi trần và cõi Âm ty với
những
sự
khốn khổ
trong kiếp sống đó th́ linh hồn mới
được
tẩy
trược,
mới
khôi phục
lại
được
sự
cực
lạc
thiêng liêng để
hiệp
nhất trở
lại
với
tinh thần. Theon
ở
Smyrna đã
khéo léo so sánh giới
luật
của
triết học
với
những
nghi thức
của
thần bí, ông bảo
rằng: “Ta có thể
gọi
triết học
là sự
khai tâm vào điều bí nhiệm
chân chính và giáo huấn về những
Bí pháp chân chính. Sự
khai tâm này có năm phần: I., sự
tẩy
trược
sơ
bộ;
II., chấp nhận
cho gia nhập
vào các nghi thức
bí mật;
III., khải
huyền, khai thị;
IV., phong chức
hoặc
tấn phong; V., điều thứ
năm là sản
phẩm
của
tất cả
những
điều trên, đó là tình bằng hữu
và sự
hiệp
thông bên trong với
Thượng
Đế,
hưởng
thụ
được
cái sự
cực
lạc
vốn bắt nguồn từ
việc
giao tiếp thân mật
với
các thực
thể
thiêng liêng . . . Plato gọi
epopteia,
sự
khai thị
cá nhân là việc
hoàn toàn chiêm ngưỡng
các
sự
vật
mà ta lĩnh hội
được
bằng trực
giác về các sự
thật
và ư tưởng
tuyệt
đối. Ông cũng coi việc
quấn băng trên đầu và đội
vương
miện
là việc
tương
tự
như
thẩm
quyền mà bất cứ
người
nào tiếp nhận
từ
vị
huấn sư
của
ḿnh
nhằm dẫn dắt người
khác cũng chiêm nghiệm
được
như
thế. Cấp năm là sự
cực
lạc
hoàn hảo
nhất bắt nguồn từ
vị
huấn sư
(và do đó theo Plato) việc
đồng hóa với
thiên tính đến mức
tối đa nơi
loài người”
[[16]]
.
Thuyết của
Plato
là như
thế. Ralph Waldo Emerson có nói rằng: “Xuất phát từ
Plato có đủ
mọi
thứ
mà các nhà tư
tưởng
vẫn còn viết lách và bàn luận
về chúng”. Ông đã hấp thu được
học
thức
thuộc
thời
đại
mình
ở
Hi Lạp
từ
Philolaus cho tới
Socrates; rồi tới
Pythagoras
ở
Ý; rồi thì điều mà ông tìm được
từ
Ai Cập
và Đông phương.
Ông bác học
đến nỗi mọi
triết thuyết Âu Á đều có trong học
thuyết của
ông; ngoài khả
năng tu dưỡng
và chiêm nghiệm,
ông còn có thêm bản
chất và phẩm
tính của
một
nhà thơ.
Các môn đồ của
Plato thường
bám sát lấy các thuyết tâm lý của
ông. Tuy nhiên nhiều người
như
Xenocrates đã đánh bạo
có những
suy đoán táo tợn
hơn.
Speusippus, vốn là cháu và người
nối nghiệp
vị
đại
triết gia, là tác giả
của
quyển
Giải tích Số,
một
bộ
khảo
luận
về các con Số theo Pythagoras. Ta không thấy
trong tác phẩm
Các cuộc
Đối thoại
có một
số những
điều suy đoán của
ông ấy; nhưng
vì ông là người
lắng nghe những
bài thuyết trình không được
viết ra của
Plato cho nên phán đoán của
Enfield chắc chắn là chính xác, theo đó ông chẳng
khác gì thầy của
ḿnh. Hiển
nhiên, mặc
dù không đích danh thì ông chính là kẻ
đối địch
mà Aristotle
đã chỉ
trích, khi ông tự
cho là trích dẫn lập
luận
của
Plato chống lại
học
thuyết của
Pythagoras, theo đó bản
thân vạn
vật
đều là những
con số hoặc
đúng hơn
là không tách rời
khỏi
ý tưởng
về những
con số. Ông đặc
biệt
cố
gắng chứng
tỏ
rằng học
thuyết của
Plato về những
ý tưởng
có bản
chất khác với
học
thuyết của
Pythagoras, theo đó ông giả
định
rằng những
con số và các độ
lớn
tồn tại
độc
lập
với
những
sự
vật.
Ông cũng quả
quyết Plato
dạy rằng không thể
có tri thức
chân thực
nếu ta không đưa
đối tượng
của
tri thức
đó vượt
ra ngoài hoặc
vượt
lên trên mức
độ
cảm
nhận
theo cảm
quan.
Nhưng
Aristotle không phải
là một
nhân chứng
đáng tin cậy.
Ông trình bày sai lệch
về Plato và hầu như
lại
biếm họa
các học
thuyết của
Pythagoras. Có một
điều luật
để
thuyết giải
sẽ dẫn dắt chúng ta trong việc
khảo
sát mọi
ý kiến triết học:
“Khi tác động
tất yếu theo luật
của
riêng mình, tâm trí con
người
bắt buộc
phải
ấp ủ
cùng một
ý tưởng
căn bản,
và tâm hồn con người
phải
lưu
luyến với
cùng một
xúc cảm
trải
qua mọi
thời
đại”.
Chắc chắn là Pythagoras đã khơi
dậy
sự
đồng cảm
tri thức
sâu sắc nhất trong thời
đại
của mình, và học
thuyết của
ông đã gây ảnh
hưởng
mạnh
mẽ lên tâm trí của
Plato. Ý tưởng
chủ
yếu của
ông là có một
nguyên lý thường
trụ,
đơn
nhất ẩn
bên dưới
mọi
hình tướng,
mọi
sự
thay đổi
và mọi
hiện
tượng
khác của
vũ
trụ. Aristotle quả quyết rằng ông có dạy
“những
con số là những
nguyên thể
đầu tiên của
mọi
thực
thể”.
Ritter đã diễn tả
ý kiến cho rằng ta nên coi công thức
của
Pythagoras dưới
dạng
biểu
tượng
và điều này chắc chắn là chính
xác. Aristotle tiếp tục
liên kết
những
con số
này với
“những
hình tướng”
và “ý tưởng”
của
Plato. Thậm
chí ông tuyên bố Plato có dạy
rằng “các hình tướng
đều là những
con số” và “các ý tưởng
đều tồn tại
thực
chất là những
thực
thể
có thật”.
Thế
nhưng
Plato đâu có dạy
như
vậy.
Ông tuyên bố rằng nguyên nhân tối hậu
là Điều thiện
Tối cao. “Các ý tưởng
là những
đối tượng
thuộc
quan niệm
thuần túy của
lý trí con người,
và chúng là thuộc
tính
của Lý trí Thượng
Đế”
[[17]]
. Ông cũng chưa
bao giờ
bảo
rằng “hình tướng
là những
con số”. Ta có thể
tìm thấy điều ông giảng
dạy
ở
tác phẩm
Timœus:
“Thượng
Đế
tạo ra những
sự
vật
khi chúng thoạt
tiên xuất lộ
tùy theo các hình
tướng
và con số”.
Khoa học hiện
đại
có công nhận
rằng mọi
định
luật
cao siêu của
thiên nhiên đều có dạng
một
phát biểu
định
lượng.
Đây có lẽ là việc
bày tỏ
minh bạch
hơn
và khẳng
định
rõ ràng hơn
về
học thuyết của
Pythagoras.
Những
con số được
coi là biểu
diễn tốt nhất cho những
định
luật
hài âm vốn thấm nhuần vũ trụ.
Chúng ta cũng biết rằng trong hóa học,
học
thuyết về nguyên tử
và các định
luật
hóa hợp
quả
thật
và có thể
nói là được
định
nghĩa tùy tiện
bằng những
con số. Ông W. Archer Butler có diễn tả
điều đó như
sau: “Vậy
là thông qua mọi
bộ
môn của
mình, thế giới
vốn là một
môn số học
sống động
đang phát triển
và một
môn hình học
đang tĩnh tại”.
Chìa khóa cho những
giáo điều của
Pythagoras vốn là công thức
chung về đơn
chất trong đa dạng,
nhất bổn
tán vạn
thù và thấm nhuần vạn
thù. Nói tóm lại
đây là giáo lý cổ
truyền về sự
phân thân. Ngay cả
thánh tông đồ Paul cũng chấp
nhận
là nó đúng sự
thật:
“Vạn
vật
đều xuất phát từ
ngài, thông qua ngài và
ở
nơi
ngài”. Như
ta có thể
thấy qua đoạn
trích dẫn sau đây, câu nêu trên hoàn toàn thuần túy thuộc
về Ấn giáo và Bà la môn giáo:
“Khi chu kỳ hoại
không – Pralaya – đã hết thời
hạn
thì Đấng Cao Cả
– Para-Atma tức
Para-Purusha – Đấng Chí Tôn tồn tại
tự
thân, vạn
vật
đều xuất phát từ
ngài, thông qua ngài, đã, đang và sẽ tồn tại
. . . đều tan biến để
được
phân thân từ
thực
chất của
chính ngài thành ra đủ
thứ
tạo
vật”
(Manava
Dharma Sastra,
quyển
I, câu kinh 6 và 7).
Thập
nguyên thần bí 1+2+3+4=10 là một
cách để
diễn tả
ý tưởng
này. Một
là Thượng
Đế,
Hai là vật
chất, Ba là tổ
hợp
của
Đơn
nguyên
và Lưỡng
nguyên tham dự
vào bản
chất của
cả hai, do đó là thế
giới
hiện
tượng;
Tứ
nguyên tức
hình tướng
hoàn hảo
diễn tả
sự
trống rỗng của
vạn
vật;
còn Thập
nguyên tức
tổng
thể
vạn
vật,
bao gồm trọn
cả
càn khôn. Vũ trụ
là tổ
hợp
của
một
ngàn nguyên tố, thế
nhưng
là biểu
hiện
của
chỉ
một
tinh thần thôi – đó là một
khối hỗn mang đối với
giác quan nhưng
là một
càn khôn hài hòa đối với
lý trí.
Trọn cả sự
tổ
hợp
bao gồm những
con số lũy
tiến nơi
ý tưởng
sáng tạo
đều thuộc
về Ấn giáo. Đấng tồn tại
tự
thân (Đấng Tự
Tại
Swayambhu tức
Swayambhuva tức
Chơn
như
theo cách gọi
của
một
số người)
vốn nhất như.
Tự
bản
thân ngài phân thân ra
năng lực
sáng tạo
tức
Brahma
tức
Purusha (tức
nam tính thiêng liêng) và một
trở
thành Hai; từ
Lưỡng
nguyên đó vốn kết hợp
nguyên thể
thuần túy trí thức
với
nguyên thể
vật
chất, có triển
khai ra một
nguyên thể
thứ
ba tức
là Viradj, thế
giới
hiện
tượng.
Từ
tam vị
nhất thể
vô hình và không thể
hiểu
nổi
này tức
ba ngôi của
Bà la môn giáo mới
triển
khai ra tam nguyên thứ
nhì biểu
diễn ba năng lực:
sáng tạo,
bảo
tồn và biến hóa. Ba năng lực
này được
tiêu biểu
qua Brahma, Vishnu
và Siva, nhưng
chúng lại
mãi mãi được
hòa lẫn thành một.
Nhất nguyên,
Brahma hoặc
theo kinh
Phệ
đà
gọi là Tridandi, là Thượng
Đế
biểu
lộ
ra tam bội,
khai sinh ra thánh ngữ
Aum
biểu
tượng,
tức
là ba ngôi toát yếu. Chỉ
có nhờ
vào ba ngôi này bao giờ
cũng chủ
động
và nắm bắt được
với
mọi
giác quan của
ta thì Nhất nguyên vô hình và không ai biết được
mới
có thể
biểu
lộ
được
cho thế giới
của
kẻ
phàm phu. Khi ngài trở
thành
Sarira
tức
là khi ngài
khoác lấy một
hình tướng
hữu
hình th́ ngài tiêu biểu
cho mọi
nguyên khí của
vật
chất, mọi
mầm mống của
sự
sống, lúc đó ngài là Purusha, Thượng
Đế
ba mặt
tức
quyền năng tam bội,
là bản
thể
của
tam nguyên trong kinh Phệ
đà.
“Xin các đấng Brahma hãy biết tới
Âm tiết thiêng liêng (Aum) tức
là ba linh từ
của
Savitri và hãy đọc
kinh
Phệ
đà
hằng ngày”. (Đức
Bàn Cổ,
iv, câu kinh 125).
“Sau khi đã tạo
ra vũ trụ,
Ngài vốn có quyền năng không ai hiểu
được
lại biến mất vì bị
hấp thu vào Linh hồn Tối cao . . . Sau khi đã triệt
thoái vào trong bóng tối bản
sơ
thì Linh hồn lớn
vẫn
ở
bên trong điều không ai biết được,
và không có mọi
hình tướng
. . .
“Khi đã lại
hợp
nhất các
nguyên thể
ngũ hành tinh vi thì nó lại được
dẫn nhập
vào hoặc
là một
chủng
tử
thực
vật
hoặc
là một
mầm mống động
vật
và
ở
mỗi thứ
này thì nó đều khoác lấy một
hình tướng
mới”.
“Chính vì thế
mà bằng cách luân phiên thức
rồi ngủ,
Đấng Bất Di Bất Dịch
khiến cho mọi
tạo
vật
đang tồn tại
cứ
sống rồi lại
chết đi mãi, cứ
hoạt
động
rồi lại
trơ
lì”. (Đức
Bàn Cổ
, i, câu kinh 50 và những
câu kinh khác).
Người
nào đã nghiên cứu
Pythagoras và những
suy đoán của
ông về Đơn
nguyên Monad (sau khi đã phân thân ra Lưỡng
nguyên thì nó bèn triệt
thoái vào trong im lặng
và đen tối, như
vậy
tạo
ra Tam nguyên) đều có thể
ngộ
ra được
nguồn gốc triết lý của
nhà đại
Hiền triết
ở
Samos và sau ông là triết lý của
Socrates và Plato.
Speusippus dường
như
đã dạy
rằng hồn thông linh vốn bất tử
cũng giống như
tinh thần tức
hồn thuần túy và ta sẽ chứng
tỏ
lập
luận
của
ông thêm nữa.
Cũng giống như
Philolaus
và Aristotle khi thảo luận
về linh hồn; ông cũng biến hậu
thiên khí (æther) thành ra một
nguyên tố sao cho có năm nguyên tố chính tương
ứng
với
năm hình đều đặn
trong Hình học.
Điều này cũng trở
thành một
học
thuyết của
trường
phái Alexandria [[18]].
Thật
vậy
trong các học
thuyết của
môn đồ trường
phái này
có nhiều điều không xuất hiện
trong các công trình của
các môn đồ phái Plato xưa
hơn,
nhưng
chắc chắn về thực
chất th́ chính triết gia ấy phải
dạy
dỗ nó, nhưng
vì ông thường
kín tiếng cho nên nó không được
ủy quyền để
viết v́ quá bí hiểm
cho nên không thể
xuất bản
lung tung. Cũng giống như
vị
đại
sư
phụ
của
mình Speusippus và sau đó là Xenocrates đều chủ
trương
rằng
anima mundi
tức
hồn thế giới,
không phải
là Đấng Thiêng Liêng mà là một
sự
biểu
lộ.
Các triết gia đó chẳng
bao giờ
quan niệm
Đấng Nhất Như
là một
bản chất thú tính
[[19]].
Đấng Nhất Như
nguyên thủy
không
tồn tại
theo như
ta hiểu
về thuật
ngữ
này. Chừng
nào ngài chưa
hiệp
nhất với
vạn
hữu
thì sự
tồn tại
do phân thân (đơn
nguyên và lưỡng
nguyên) còn phải
được
tạo
ra. Điều được
tôn vinh – là một
điều ǵ đó được
biểu
lộ
ngự
nơi
trung tâm cũng như
chu
vi, nhưng
đó chỉ
là phản
ánh của
Đấng Thiêng Liêng – đó chính là Hồn Thế Giới
[[20]].
Trong học thuyết này ta thấy có cái thần của
Phật
giáo Bí truyền.
Ý tưởng
của
con người
về Thượng
Đế
chính là cái hình ảnh
ánh sáng chói
lòa mà y thấy phản
chiếu trong cái gương
lõm của
linh hồn chính mình; thế nhưng
đây không phải
là Thượng
Đế
mà chỉ là sự
phản
chiếu của
Ngài. Sự
vinh quang của
Ngài có
ở
đó, nhưng
đó chỉ
là ánh sáng của
Tinh thần chính Ngài
mà con người
trông thấy, và đó là tất cả
những
gì y có thể
chấp nhận
được
khi chứng
kiến.
Cái gương
càng rõ thì hình ảnh
của
Thượng
Đế
càng trong sáng.
Nhưng
cùng trong lúc đó thì ta không thể
chứng
kiến được
ngoại
giới.
Nơi
bậc
đạo
sĩ Yoga đang xuất thần, nơi
nhà Thấu thị
đã giác ngộ,
tinh thần sẽ chiếu sáng giống như
mặt
trời
lúc chính ngọ,
nơi
nạn
nhân bị
bại
hoại
vì bị
trần thế thu hút, sự
chói sáng đó biến mất vì cái gương
bị
những
vết vật
chất làm mờ
tối đi. Những
người
như
thế chối bỏ
Thượng
Đế
của mình và sẵn lòng dẹp
bỏ
linh hồn của
con người
ngay trong chớp
mắt.
không có thượng
đế, không có linh hồn
ư?
Thật
là một
tư
tưởng
hủy
diệt
dễ sợ!
Cơn
ác mộng
làm cho kẻ
cuồng loạn
nổi
điên lên trở
thành một
kẻ
Vô thần; nó trình bày trước
tầm nhìn sôi nổi
của
y một
đoàn không ngừng
ghê gớm
những
điểm
linh quang vũ trụ
lướt
qua mà
không do ai
tạo ra; tự
xuất hiện,
tự
tồn tại
và tự
phát triển;
cái Bản
ngã này lại
vô
Ngã vì nó chẳng
là ǵ cả
và chẳng
là ai cả;
nó trôi nổi
tiến lên phía trước
mà
chẳng
xuất phát từ
đâu,
nó bị
thôi thúc không do Nguyên nhân nào cả
vì không hề có nguyên
nhân và nó cũng xông tới
chẳng
biết chỗ nào nữa.
Và điều này diễn ra trong một
vòng Vĩnh hằng mù quáng, trơ
lì và
không có nguyên nhân. Thậm
chí cái quan niệm
sai lầm ấy còn ghê gớm
hơn
khi đem so sánh với
Niết Bàn trong Phật
giáo! Trước
Niết Bàn còn có vô số sự
biến hóa tâm linh và những
sự
chuyển
kiếp, trong đó thực
thể
không hề mất đi ý thức
cá biệt
của
chính mình hết một
giây nào, và nó có thể
tồn tại
trong hàng triệu
thời
đại
trước
khi đạt
tới
cái Hư
Vô Tối Hậu.
Mặc
dù một
số người
đã coi Speusippus là thấp kém hơn
Aristotle, song le thế gian chịu
ơn
ông v́ đã định
nghĩa và xiển
dương
nhiều điều mà Plato đã bỏ
mặc
cho lờ
mờ
trong học
thuyết của
mình về
điều Cảm
nhận
được
và điều Lý tưởng.
Câu châm ngôn của
ông là: “Ta biết được
điều Phi vật
chất nhờ
vào tư
tưởng
khoa học,
ta biết được
điều
có tính Vật
chất nhờ
vào nhận
thức
khoa học”[[21]].
Xenocrates có xiển
dương
nhiều giáo
huấn và thuyết bất thành văn của
sư
phụ
mình. Ông cũng chấp nhận
học
thuyết của
Pythagoras, hệ
thống những
con số và toán học
của
Pythagoras được
đánh giá cao nhất. Vì chỉ
công nhận
có ba mức
độ
hiểu
biết:
Tư
tưởng,
Nhận
thức
và Trực
quan
(tức
hiểu
biết do
Trực
giác);
cho nên y khiến tư
tưởng
bận
rộn
với
mọi
thứ
vượt
ngoài
tầm các cõi trời;
Nhận
thức
lo về những
sự
vật
trong các cõi trời
và Trực
giác lo về chính các cõi trời.
Ta lại thấy những
thuyết này hầu như
với
ngôn ngữ
giống hệt
như
thế trong
Manava-Dharma-Shastra
khi nó nói về sự
sáng tạo
con người:
“Ngài (Đấng Tối Cao) rút ra từ
bản
thể
chính ḿnh cái thần khí bất tử
vốn
không bị
diệt
vong nơi
thực
thể
và ngài ban cho linh hồn của
thực
thể
ấy cái ngã thức
Ahancara
để
làm kẻ
dẫn đạo
tối cao”. Thế
rồi ngài ban cho linh hồn của
thực
thể
ấy (con người)
trí năng được
tạo thành từ
ba phẩm
chất
cùng với
năm cơ
quan để
nhận
thức
bên ngoài”.
Ba phẩm
chất này là Trí tuệ,
Lương
tâm và Ý chí tương
ứng
với
Tư
tưởng,
Nhận
thức
và Trực
quan của
Xenocrates. Speusippus đã phát triển
thêm nữa
mối quan hệ
của
các con số với
những
ý tưởng
và Xenocrates
còn đạt
hơn
nữa;
ông vượt
qua Plato khi định
nghĩa học
thuyết về các Độ
lớn
không thể
phân chia được.
Khi qui giản
chúng về những
nguyên tố bản
sơ
lý tưởng,
ông chứng
tỏ
rằng mọi
hình và mọi
dạng
đều bắt nguồn từ
đường
nhỏ nhất không phân chia được.
Hiển
nhiên là Xenocrates chấp nhận
cùng một
thuyết giống như
Plato liên quan tới
hồn người
(được
giả
sử
là một
con số), mặc
dù Aristotle phản
đối điều này cũng như
mọi
giáo huấn khác của
triết
gia ấy [[22]].
Đây là kết luận
hiển
nhiên mà nhiều học
thuyết của
Plato đã được
trình bày truyền khẩu,
cho dù nó chứng
tỏ
rằng chính Xenocrates chứ
không phải
Plato mới
là người
đầu tiên khai sáng ra thuyết về các độ
lớn
không
phân chia được.
Ông cho Linh hồn phái sinh từ
Lưỡng
nguyên bản
sơ
và gọi
nó là một
con số tự
thân vận
động[[23]].
Theophrastus nhận
xét rằng ông đã du nhập
và loại
bỏ
thuyết Linh hồn này nhiều hơn
bất kỳ môn đồ Plato nào khác. Ông
xây dựng
học
thuyết vũ trụ
luận
dựa
vào đó và chứng
tỏ
rằng
ở
mỗi phần trong không gian vũ trụ
đều tất yếu có tồn tại
một
loạt
liên tiếp và lũy tiến các thực
thể
sinh động
biết suy tư
và thuộc
về
tâm linh[[24]].
Đối với
ông, Hồn Người
là một
hợp
thể
với
những
tính chất tâm linh nhất của
Đơn
nguyên và Lưỡng
nguyên vì có những
nguyên khí cao nhất của
cả
hai. Giống như
Plato và Prodicus, nếu ông đề cập
tới
các Nguyên tố coi là những
Quyền năng Thiêng
liêng, và gọi
chúng là thần linh thì ông cũng như
những
người
khác không gắn liền ý tưởng
nhân hình với
tên gọi
ấy. Krische nhận
xét rằng ông chỉ
gọi
chúng là thần linh sao cho các quyền năng ngũ hành này không bị
lẫn lộn
với
loài ma quỉ
của
cõi âm ty (Âm ma)
[[25]].
Vì Hồn Thế
Giới
thấm nhuần trọn
cả
Vũ trụ
cho nên ngay cả
những
con thú cũng phải
có nơi
mình một
điều ǵ đó thiêng liêng
[[26]]
. Đây cũng là giáo lý của
các Phật
tử
và môn đồ Hermes;
còn Đức
Bàn Cổ
phú một
linh hồn cho ngay cả
loài cây và những
cọng cỏ mảnh mai nhất.
Theo thuyết này thì loài thần linh là những
thực
thể
trung gian giữa
mức
hoàn hảo
của
đấng thiêng liêng và đầy tội
lỗi của
loài người
[[27]],
và ông chia chúng ra thành các lớp,
mỗi lớp
lại
được
chia nhỏ thành nhiều phân lớp.
Nhưng
ông có phát biểu
rõ ràng rằng hồn cá thể
hoặc
hồn cá nhân là thần hộ
mệnh
chủ
đạo
của
mỗi người
và không một
thần linh nào có
nhiều quyền năng đối với
chúng ta hơn
là vị
thần hộ
mệnh
ấy. Như
vậy
Daimonion
của Socrates là thần linh hoặc
Thực
thể
Thiêng liêng linh hứng
cho y trọn
cả
đời.
Điều này còn tùy thuộc
vào việc
con người
mở
hoặc
đóng nhận
thức
của
mình đối với
Diệu
âm thiêng liêng. Cũng giống như
Speusippus, ông gán tính bất tử
cho tâm tức
là thể
thông linh, là hồn phi thuần lý. Nhưng
một
số triết gia Hermes đã dạy
rằng linh hồn chỉ
tồn tại
liên tục
riêng biệt
chừng
nào nó còn có bất kỳ hạt
vật
chất trần tục
nào được
nhập
thể
nơi
nó khi nó băng qua các cõi; khi nó đã được
tẩy
trược
hoàn toàn th́ các hạt
vật
chất
bị tiêu diệt
chỉ còn tinh hoa của linh hồn hòa lẫn với
tinh thần
thiêng liêng (hồn
Thuần lý) và từ
đó trở
đi cả
hai đã hiệp
nhất.
Zeller nêu rõ rằng Xenocrates cấm ăn mặn
(thịt
động
vật)
không phải
vì ông thấy những
con thú có điều ǵ đó tương
cận
với
con người
khi ông gán cho chúng ý
thức
lờ
mờ
về Thượng
Đế
mà vì “lý do ngược
lại
kẻo
sự
phi lý của
hồn thú nhờ
vậy
có thể
gây ảnh
hưởng
nào đó lên chúng ta”
[[28]].
Nhưng
chúng tôi tin rằng đúng hơn
là vì, cũng giống như
Pythagoras, ông có sư
phụ
và gương
điển
hình
của mình là các bậc
hiền triết Ấn Độ.
Cicero mô tả
Xenocrates coi thường
mọi
thứ
ngoại
trừ
đức
hạnh
cao nhất
[[29]]
và mô tả
tính tình của
ông là không có tì vết và rất nghiêm khắc khổ
hạnh
[[30]]
. “Để
giải
thoát chúng ta
khỏi sự
phục
tùng việc
tồn tại
bằng giác quan, muốn chinh phục
được
những
yếu tố của
người
Khổng
lồ nơi
bản
chất trần tục
của
ta thông qua bản
chất thiêng liêng th́ đó là vấn đề của
chúng ta”. Zeller có khiến ông dạy
rằng:
“Sự
thanh khiết ngay cả
qua những
điều ao
ước
thầm kín nhất trong tâm hồn ta chính là bổn
phận
lớn
nhất và chỉ
có triết học
cũng như
việc
khai tâm vào các Bí pháp mới
giúp ta thành tựu
được
mục
đích này”
[[31]].
Crantor, là một
triết gia khác có liên quan tới
thời
kỳ đầu của
Hàn lâm học
viện
Plato, quan niệm
hồn người
được
tạo
ra từ
bản
chất nguyên sơ
của
vạn
vật:
Đơn
nguyên tức
một
và Lưỡng
nguyên tức
hai.
Plutarch có nói dông dài về triết gia này; cũng giống như
sư
phụ
ḿnh, ông tin rằng hồn người
được
phân phối nơi
các cơ
thể
trần tục
là bị
lưu
đày và trừng
phạt.
Herakleides (mặc
dù một
số nhà phê bình không tin là ông bám sát triết lý bản
sơ
của
Plato) cũng dạy
khoa luân lý như
thế
[[32]]
. Zeller trình bày ông với
chúng ta là giống như
Hicetas và Ecphantus, ông có truyền thụ
học
thuyết của
Pythagoras
về
việc
trái đất quay vòng quanh trục
trong một
ngày đêm, còn các định
tinh thì bất động,
nhưng
Zeller có nói thêm rằng ông không biết trái đất quay vòng quanh mặt
trời
mỗi một
năm và cũng không biết hệ
nhật
tâm
[[33]]
. Nhưng
chúng ta có đủ
bằng chứng
cho rằng trong các Bí pháp có dạy
về hệ
nhật
tâm và Socrates chết
vì thuyết vô thần nghĩa là
vì truyền bá cái kiến thức
linh thiêng ấy. Herakleides chấp nhận
trọn
vẹn
quan điểm
của
Pythagoras và Plato về hồn người
cùng với
những
năng lực
và năng khiếu của
nó. Ông mô tả
nó là một
bản thể sáng chói, rất tinh anh. Ông khẳng
định
rằng linh hồn
ở
nơi
ngân hà trước
khi “giáng sinh” tồn tại
dưới
dạng
hạ
nguyệt
tinh. Thần linh hoặc
tinh linh của
ông là những
cơ
thể
giống như
dạng
hơi
và không khí.
Trong tác phẩm
Epinomis
có trình bày đầy đủ
học
thuyết về những
con số của
Pythagoras liên quan tới
các tạo
vật.
Trên cương
vị
là một
môn đồ Plato chân chính, tác giả
quả
quyết rằng ta chỉ
có thể
đạt
được
minh triết bằng cách tìm hiểu
rốt ráo
về bản
chất huyền bí của
sự
sáng tạo;
chỉ
bằng cách đó thì ta mới
bảo
đảm
có kiếp sống cực
lạc
sau khi chết. Trong bộ
khảo
luận
này người
ta suy đoán rất nhiều về
tính bất tử
của
linh hồn; nhưng
tác giả
của
nó có
nói thêm rằng ta chỉ
có thể
đạt
được
tri thức
này nhờ
hoàn toàn thấu hiểu
được
những
con số; đó là v́ con người
không thể
phân biệt
được
đường
thẳng
với
đường
cong thì ắt chưa
bao giờ
có được
minh triết đủ
để
chứng
minh
toán học được
về
điều
vô hình;
điều này nghĩa là chúng ta phải
chắc mẫm về
sự
tồn tại
khách quan của
anh hồn (thể
tinh vi) trước
khi chúng ta học
biết rằng chúng ta có một
tinh thần thiêng liêng và bất tử.
Iamblichus cũng nói
giống như
thế; vả
lại
ông còn nói thêm rằng đó là một
điều bí mật
thuộc
về cuộc
điểm
đạo
cao nhất. Ông bảo
rằng Quyền năng Thiêng liêng cảm
thấy phẫn nộ
với
“những
kẻ
không biểu
lộ
được
thành phần của
icostagonus”
nghĩa là những
người
đưa
ra phương
pháp khiến cho một
hình khối 12 mặt
nội
tiếp được
trong một
hình cầu
[[34]].
Cái ý tưởng
“những
con số” đều có đức
hạnh
cao nhất luôn luôn tạo
ra điều tốt đẹp
và không bao giờ
gây ra điều
xấu xa; nó nhằm nói tới
sự
công bình, tính tình bình thản
và mọi
điều hài hòa. Khi tác giả
nói tới
mỗi ngôi sao đều là một
hồn cá thể
thì ông chỉ
ngụ
ý rằng người
Ấn Độ
khai tâm còn các môn đồ Hermes đã dạy
dỗ trước
và sau ông, theo
đó mỗi ngôi sao đều là một
thiên thể
độc
lập
giống như
hành tinh trái đất có một
linh hồn của
riêng mình, mỗi nguyên tử
vật
chất đều thấm nhuần luồng du nhập
thiêng liêng của
hồn thế giới.
Nó thở
hít và sống động;
nó cảm
nhận
và đau khổ
cũng như
vui hưởng
cuộc
sống trên quãng đường
du hành của
mình. Liệu
có nhà vạn
vật
học
nào sẵn ḷng tranh cãi điều này dựa
vào bằng chứng
xác đáng hay chăng? Do đó ta phải
coi các thiên thể
là hình ảnh
của các chư
thần linh tham gia vào quyền năng nơi
bản
chất ấy; và mặc
dù các thần linh không bất tử
về thực
thể
linh hồn, song tác nhân của
họ
trong cơ
cấu tổ
chức
vũ trụ
vẫn có quyền được
tôn vinh thiêng liêng, giống như
ta
tôn vinh các tiểu
thần linh. Ý tưởng
này thật
là minh bạch
và người
ta quả
thật
phải
có ác ý lắm mới
trình bày sai lệch
nó được.
Nếu tác giả
của
Epinomis
đặt
các vị
hỏa
thần này cao hơn
loài thú, loài cây cỏ
và ngay cả
loài
người
nữa
(tất cả
những
thứ
này đều là các tạo
vật
trần tục
nên được
ông xếp vào địa
vị
thấp kém) th́ ai có thể
chứng
tỏ
được
rằng ông sai hoàn toàn? Quả
thật
người
ta cần phải
thâm nhập
vào chiều sâu khoa siêu hình
học trừu
tượng
thuộc
các triết lý thời
xưa
thì mới
hiểu
được
rằng xét cho cùng th́ đủ
thứ
hiện
thân trong cái quan niệm
của
triết lý ấy đều dựa
vào việc
lĩnh hội
đồng nhất về bản
chất của
Nguyên nhân Bản
sơ
cùng với
những
thuộc
tính và phương
pháp của
nó.
Lại nữa
khi tác giả
của
quyển
Epinomis
chen vào giữa
các thần linh cao nhất và thấp nhất này (các linh hồn có hiện
thân) ba lớp
thần linh và khiến cho vũ trụ
chứa
đầy các thực
thể
vô hình th́ ông lại
còn hợp
lý hơn
các nhà khoa học
hiện
đại
khi họ
cho rằng giữa
hai cực
đoan đó có một
chỗ đứt
đoạn
rộng
lớn
về thực
thể
và là sân chơi
của
các lực
mù quáng. Trong số ba lớp
này thì hai lớp
đầu tiên vốn
vô hình, thân thể
của
họ
toàn bằng chất dĩ thái và lửa
(các
chơn
linh hành tinh);
các thần linh thuộc
lớp
thứ
ba khoác lấy các cơ
thể
dạng
hơi;
họ
thường
vô hình nhưng
đôi khi trở
nên cụ
thể
để
cho ta thấy được
trong một
vài giây. Đây là các thần linh trần tục
tức
anh hồn của
ta.
Nếu các học
thuyết này được
nghiên cứu
theo phép tương
tự
dựa
vào nguyên tắc tương
ứng
thì xưa
kia nó đã dẫn dắt các môn đồ phái cổ
truyền, giờ
đây nó có thể
dẫn
dắt các môn đồ trường
phái hiện
đại
từng
bước
tiến tới
việc
giải
quyết được
các điều bí nhiệm
lớn
nhất. Khi đứng
trên bờ
vực
thẳm
tối đen ngăn cách thế
giới
tâm linh với
thế
giới
vật
lý, khoa học
hiện
đại
mắt nhắm nghiền,
mặt
ngoảnh
đi tuyên bố rằng vực
thẳm
này là không có đáy và không thể
vượt
qua được,
mặc
dù nó vẫn cầm trên tay một
ngọn
đuốc mà chỉ
cần thả
xuống thấp một
ít thôi, xuống dưới
vực
sâu thì nó cũng chứng
tỏ
được
là
mình đang lầm lỗi. Nhưng
người
kiên nhẫn tìm học
triết lý của
Hermes đã xây dựng
được
một
cái cầu bắc ngang qua vực
thẳm
này.
Trong tác phẩm
Các Mảnh vụn Khoa học,
Tyndall có buồn bã thú nhận
như
sau: “Nếu bạn
hỏi
tôi xem
liệu
khoa học
đã giải
quyết, hay hiện
nay rất có thể
giải
quyết được
vấn đề của
vũ trụ
hay chưa,
thì tôi phải
lắc đầu hoài nghi”. Nếu sau khi nghĩ lại
mà ông có cải
chính mãi sau này và đoan chắc với
thính giả
rằng bằng
chứng
thực
nghiệm
đã giúp ông khám phá ra “sự
hứa
hẹn
và mãnh lực
của
mọi
phẩm
tính sự
sống” trong cái vật
chất bị
bao trùm đầy tủi
nhục
ấy thì ông chỉ
nói đùa thôi. Thật
khó cho giáo sư
Tyndall đưa
ra được
bất kỳ bằng
chứng
tối hậu
và không thể
bác bỏ
được
về điều mà mình khẳng
định,
cũng khó khăn như
vậy
Job xỏ
cái móc câu vào lỗ mũi của
con quái vật
dưới
nước.
KHOA HỌC HIỆN
ĐẠI
“KHÔNG THỂ
SAI LẦM”
BỨC
MÀN CHE NỮ
THẦN ISIS
PHẦN I. KHOA HỌC
CHƯƠNG
I
NHỮNG
ĐIỀU CŨ ĐƯỢC
MANG TÊN GỌI
MỚI.
- Kinh Kabala của Đông phương.
- Các truyền thuyết xưa
được
sự
nghiên cứu
hiện
đại
ủng
hộ.
- Sự
tiến bộ
của
loài người
được
ghi dấu qua các chu kỳ.
- Khoa học bí truyền thời
xưa.
- Sự
vô giá của
bộ
kinh Phệ
đà.
- Sự
cắt xén những
quyển
Thánh kinh Do Thái giáo trong khi dịch
thuật.
- Pháp thuật
luôn luôn được
coi là một
khoa học
thiêng liêng.
- Thành tựu
của
các cao đồ pháp thuật
và giả
thuyết của
những
kẻ
hiện
đại
chỉ
biết dèm pha.
- Con người
khao khát được
bất tử.
CHƯƠNG
I
“Ta là Chơn
ngã”
Một
câu châm ngôn của
triết học
Hermes
“Chúng ta bắt đầu khảo
cứu
nơi
mà sự
suy đoán hiện
đại
đã co vòi lại
v́ mất niềm tin. Và đối với
chúng ta những
yếu tố thông thường
trong khoa học
là những
thứ
mà các bậc
hiền triết ngày nay khinh thường
là điều hoang tưởng
hoặc
tuyệt
vọng,
vì đó là những
điều bí nhiệm
khôn dò”.
Tác phẩm
Zanoni của
BULWER.
Ở
đâu đó trong thế giới
rộng
rãi này có tồn tại
một
quyển
Cổ
thư
– xưa
đến nổi
mà những
nhà buôn đồ cổ
thời
nay có
thể
cân nhắc trên những
trang giấy của
nó biết bao nhiêu thời
gian vẫn không hoàn toàn đồng ý được
với
nhau về bản
chất của
loại
kết cấu mà nó được
viết trên đó. Nó là bản
sao duy nhất của
nguyên bản
mà giờ
đây còn tồn
tại. Tài liệu
xưa
nhất bằng tiếng Hebrew bàn về
học thuật
huyền bí (Siphra
Dznieouta)
được
biên soạn
từ
bản
sao này vào lúc mà bản
sao ấy đã được
xem xét theo sự
minh giải
của
một
di tích văn học.
Một
trong những
hình minh họa
trong đó biểu
diễn Bản
thể
Thiêng liêng là phân thân của
ADAM
[[35]]
giống như
một
cung chói sáng tiến ra để
tạo thành vòng tròn; thế rồi sau khi đã đạt
tới
điểm
cao nhất trên chu vi thì Điều Vinh Diệu
khôn tả
đó vòng xuống trở
lại
quay về
trần thế, mang theo một
loại
người
cao hơn
đi vào vòng xoáy. Khi nó càng ngày càng tới
gần hành tinh ta thì Phân thân càng ngày càng lu mờ
cho đến khi tiếp đất th́ nó tối đen như
đêm ba mươi.
Một
điều xác tín, dựa
trên bảy ngàn năm, kinh nghiệm
– người
ta giả
định
như
vậy[[36]]
đã được
các triết gia Hermes của
mọi
thời
đại
ấp ủ
cho rằng sớm
muộn
gì thì do tội
lỗi vật
chất cũng trở
nên thô trược
hơn
so với
lúc con người
mới
được
tạo
ra;
vào lúc khởi
thủy
cơ
thể
con người
có bản
chất bán tinh anh; trước
khi sa đọa
loài người
thoải
mái giao tiếp với
các vũ trụ
giờ
đây không còn ai nhìn thấy nữa.
Nhưng
từ
lúc đó trở
đi, vật
chất đã trở
thành hàng rào khủng
khiếp ngăn cách chúng ta với
thế
giới
tinh thần. Truyền thuyết nội
môn xưa
nhất cũng dạy
rằng trước
khi có Adam thần bí đã có nhiều giống người
sống rồi chết đi, mỗi giống người
lần lượt
nhường
chỗ cho giống người
khác.
Liệu
những
giống người
trước
đó này có hoàn hảo
hơn
chăng? Liệu
có giống người
nào thuộc
về giống người
có cánh
mà Plato đề cập
tới
trong tác phẩm
Phœdrus
hay chăng? Khoa học
có thẩm
quyền đặc
biệt
giải
quyết vấn đề này.
Các hang động
ở
Pháp và di chỉ
của
thời
kỳ đồ đá cung
ứng
một
khởi
điểm
để
ta bắt đầu.
Khi chu kỳ tiếp diễn thì mắt người
càng ngày càng mở
ra cho đến khi y đâm ra biết được
về “điều thiện”
và “điều ác” cũng như
bản
thân các đấng Elohim. Sau khi đạt
tới
tột
đỉnh
thì chu kỳ bắt đầu đi xuống. Khi vòng cung đạt
tới
một
mức
nào đó khiến cho nó song song với
một
đường
cố định
trên cõi trần tục
thì con người
được
thiên nhiên cung cấp cho “lớp
áo bằng da” và Thiên Chúa
“đã mặc
quần áo đó cho họ”.
Ta có thể
truy nguyên cũng niềm tin này (về sự
tồn tại
trước
đó của
một
giống người
có tính linh hơn
hẳn
so với
giống người
mà giờ
đây ta thuộc
về) tới
tận
những
truyền
thuyết xa xưa
nhất của
hầu hết mọi
dân tộc.
Trong bản
thảo
cổ
truyền Quiché mà Brasseur de Bourbourg xuất bản
tức
là quyển
Popol Vuh,
người
ta đề cập
tới
những
người
đầu tiên là giống dân có thể
ăn nói, lý luận,
với
tầm
nhìn vô hạn,
và biết ngay tức
khắc mọi
chuyện.
Theo Philo Judæus bầu không khí chứa
đầy một
tập
đoàn vô hình các Chơn
linh, một
số bất tử
và không tàn ác, còn một
số hữu
hoại
và độc
hại.
“Chúng ta thoát thai từ
các con của
El và chúng ta lại trở
thành các con của
El”. Và phát biểu
dứt
khoát của
một
tín đồ Ngộ
đạo
vô danh viết quyển
Phúc âm theo thánh John
cho rằng “biết bao nhiêu người
tiếp nhận
Ngài” nghĩa là thực
tế tuân theo giáo lý bí
truyền của
Chúa Giê su đều “trở
thành con của
Thiên Chúa” (I, 12) cũng nêu lên niềm tin ấy. Bậc
Thầy có kêu lên rằng “các con không biết mình là
thần linh
ư?”
Trong tác phẩm
Phœdrus,
Plato có mô tả
tuyệt
vời
trạng
thái mà con người
đã từng
đạt
được
và y sẽ lại
trở
thành như
thế: trước
và sau khi “bị
cắt cụt
mất cánh” khi “y sống giữa
các thần linh, bản
thân y là vị
thần linh trong thế giới
lồng lộng
trên không”. Từ
thời
kỳ xa xưa
nhất các triết thuyết
tôn giáo đều có dạy
rằng trọn
cả
vũ trụ
chứa
đầy các thực
thể
thiêng liêng và tâm linh thuộc
đủ
mọi
giống người.
Theo thời
gian, một
trong những
giống người
này tiến hóa ra thành ADAM, người
nguyên thủy.
Trong huyền thoại, người
Kalmuck và một
số bộ
tộc
ở
Tây bá lợi
á cũng mô tả
những
tạo
vật
sơ
khai hơn
so với
giống người
hiện
nay. Họ
bảo
rằng các thực
thể
này hầu như
có kiến thức
vô biên và rất dũng cảm
thậm
chí đến mức
đe dọa
nổi
loạn chống lại
vị
Chơn
linh đại
Thủ
lãnh. Để
trừng
phạt
sự
tự
phụ
của
họ
khiến cho họ
biết thế nào là khiêm tốn, vị
thủ
lãnh giam nhốt họ
trong những
thể
xác
và thế là bị
các giác quan khống chế. Họ
chỉ
có thể
thoát
ra khỏi những
thể
xác này qua một
thời
kỳ lâu dài ăn năn, tự
tẩy
rửa
và tự
phát triển.
Họ
nghĩ rằng các
Shamans
của họ đôi khi có được
những
thần thông mà xưa
kia mọi
người
đều
có.
Thư
viện
Astor
ở
New York mới
đây được
bổ
sung bản sao bộ
Khảo
luận
Y khoa viết vào thế kỷ
16 trước
Công nguyên (chính xác là năm 1552 trước
Công nguyên), theo niên đại
học
thường
được
chấp nhận
th́ đây là thời
kỳ thánh Moses mới
có 21 tuổi.
Nguyên bản
được
viết trên vỏ cây bên trong của
Cây gió Cyperus;
giáo sư
Schenk
ở
Leipsig đã tuyên bố rằng nó không chỉ
trung thực
mà còn là bản
hoàn hảo
nhất ông đã từng
thấy. Nó bao gồm một
tờ
chiếc giấy gió màu vàng nâu có phẩm
chất tốt nhất, rộng
3 tấc, dài 20 mét và tạo
thành một
cuộn
sách được
chia thành 110 trang, tất cả
đều được
đánh số cẩn
thận.
Nhà khảo
cổ
học
Ebers đã mua được
nó
ở
Ai Cập
vào năm 1872-1873 từ
tay “một
người
Ả
Rập
sung túc
ở
Luxor”. Khi bình
luận
về trường
hợp
này báo Diễn đàn New York có nói: Tài liệu
bằng giấy gió đó có “bằng chứng
nội
tại
là một
trong 6 quyển
Sách Hermes về Y học
do Clement
ở
Alexandria đặt
tên”.
Ban biên tập
có nói thêm rằng: “Vào thời
Iamblichus, năm 363 sau Công nguyên, các lễ sư
Ai Cập
có trưng
bày 42 quyển
sách mà họ
gán cho Hermes (Thuti). Theo tác giả
đó thì trong số những
quyển
sách ấy có 36 quyển
bao hàm lịch
sử
về mọi
kiến thức
của
loài người;
6 quyển
cuối cùng bàn về giải
phẫu cơ
thể
học,
bệnh
lý học,
bệnh
nhãn khoa, dụng
cụ
phẫu thuật
và thuốc men
[[37]]
. Tài liệu
Giấy gió Ebers
rõ ràng là một
trong các tác phẩm
cổ
truyền của
Hermes”.
Nếu tia sáng soi rọi
cho khoa học cổ
truyền của
Ai Cập
do nhà khảo
cổ
học
người
Đức
ngẫu nhiên gặp
một
người
Ả
Rập
“sung túc
ở
Luxor” thì làm sao ta có thể
biết được
ánh sáng mặt
trời
nào sẽ rọi
vào những
hang động
tối tăm của
lịch
sử
do
sự
gặp
gỡ
cũng ngẫu nhiên giữa
một
người
Ai Cập
giàu có nào khác và một
người
mạo
hiểm
tìm học
về thời
cổ
nào khác.
Những
khám phá của
khoa học
hiện
đại
không bất đồng với
những
truyền thuyết xưa
nhất cho rằng loài
người
có nguồn gốc xa xưa
không thể
tin nổi.
Trong vòng vài năm vừa
qua địa
chất học
(trước
kia chỉ
thừa
nhận
rằng ta chỉ
có thể
truy nguyên con người
đến tận
đệ
tam kỷ)
đã tìm ra những
bằng chứng
không phản
bác được
theo đó
con người
tồn tại
trước
cả
thời
Băng hà cuối cùng
ở
Âu châu – hơn
250 ngàn năm! Đối với
Thần học
của
các Giáo phụ
th́ đây là một
khối cứng
ngắc khó lòng phá vỡ
được
nhưng
là một
sự
thật
được
các triết gia thời
xưa
chấp nhận.
****************
Bất kỳ môn đồ Kinh Kabala nào quen thuộc
với
hệ
thống số và hình học
của
Pythgoras đều có thể
chứng
minh được
rằng quan niệm
siêu hình của
Plato vốn dựa
vào những
nguyên lý toán học
nghiêm xác nhất.
Tác phẩm
Magicon
có nói: “Toán học
chân chính là một
điều ǵ đó liên quan tới
mọi
khoa học
cao cấp; còn toán học
thông thường
chẳng
qua chỉ
là một
bóng ma lừa
gạt
và tính không thể
sai lầm của
nó vốn được
tâng bốc quá lời
chỉ
bắt nguồn từ
việc
nền tảng
của
nó là những
tư
liệu,
điều kiện
và những
điều qui chế như
thế”. Khoa học
gia nào tin rằng mình chọn
theo phương
pháp Aristotle chỉ
v́ mình bò khi không chịu
chạy
từ
việc
chứng
tỏ
cái riêng
dẫn tới
cái chung. Khoa học
gia ấy đã vinh danh cho phương
pháp triết học
qui nạp
này và đã bác bỏ
triết học
của
Plato mà họ
coi là thiếu thực
chất. Giáo sư
Draper phàn nàn rằng những
nhà thần bí suy đoán như
Amonius Saccas
và Plotinus đã thế chỗ cho “các nhà triết học
nghiêm khắc của
các bảo
tàng viện
cổ
xưa”
[[38]].
Ông quên rằng môn hình học
là môn duy nhất trong các khoa học
đi từ
cái chung đến cái riêng, cho nên chính là phương
pháp mà Plato
sử
dụng
trong triết học
của
mình. Chừng
nào khoa học
chính xác còn hạn
chế việc
quan sát vào những
tình huống vật
lý và tiến hành theo kiểu
Aristotle th́ nó chắc chắn là không thể
sai lầm.
Tuy nhiên mặc
dù thế
giới
vật
chất
vốn vô biên đối với
chúng ta, song nó vẫn còn hữu
hạn,
thế là cái thuyết duy vật
mãi mãi đi cái vòng lẩn
quẩn
không thể
bay vút lên cao hơn
mức
chu vi vòng tròn ấy cho phép. Chỉ
có thuyết số học
về vũ trụ
của
Pythagoras
học được
của các đạo
trưởng
Ai Cập
mới
có thể
dung hòa được
hai đơn
vị
tinh thần và vật
chất, khiến cho mỗi đơn
vị
chứng
tỏ
được
đơn
vị
kia về
mặt
toán học.
Những
con số linh thiêng của
vũ trụ
qua các tổ
hợp
bí truyền giải
quyết được
bài toán lớn,
giải
thích được
thuyết bức
xạ
và chu kỳ phân thân. Trước
khi phát triển
thành các bậc
cao hơn
th́ các bậc
thấp hơn
phải
phân thân từ
các bậc
tâm linh cao hơn
nữa
để
rồi khi đạt
tới
mức
bước
ngoặt
th́ nó lại
được
tái hấp thụ
vào vô cực.
Cũng như
mọi
thứ
khác trong cái thế giới
tiến hóa đời
đời
này, sinh lý học
phải
chịu
sự
xoay vòng tuần hoàn. Cũng như
giờ
đây nó dường
như
khó lòng xuất lộ
khỏi
cái bóng của
vòng
cung dưới
thấp; cũng vậy,
một
ngày kia nó có thể
tỏ ra là đã
ở
điểm
cao nhất trên chu vi vòng tròn vào cái thời
sớm
hơn
hẳn
thời
của
Pythagoras.
Mochus là người
ở
xứ
Sidon, nhà sinh lý học
và giáo sư
giải
phẫu cơ
thể
học
đã
lừng
danh rất lâu trước
thời
nhà hiền triết
ở
Samos, còn nhà hiền triết
ở
Samos lại
nhận
được
những
giáo huấn linh thiêng của
các môn đồ và hậu
duệ.
Pythagoras là nhà triết học
thuần túy am hiểu
sâu sắc về
những
hiện
tượng
thâm thúy của
thiên nhiên, là nhà quí tộc
thừa
kế kho học
thức
cổ
truyền với
mục
đích vĩ đại
là giải
thoát linh hồn ra khỏi
vòng xiềng xích của
giác quan và buộc
nó phải
thực
chứng
được
quyền năng của
mình, phải
sống
vĩnh hằng trong ký
ức
của
con người.
Bức
màn bí mật
thâm sâu không thể
xuyên thấu đã che phủ
lên môn khoa học
được
giảng
dạy
trong thánh điện.
Đây là nguyên nhân khiến cho người
thời
nay đánh giá thấp các triết lý cổ
truyền.
Ngay cả Plato và Philo Judæus cũng bị
nhiều nhà bình luận
buộc
tội
là tiền hậu
bất nhất một
cách phi lý trong khi rõ ràng là bản
thiết kế làm nền tảng
cho mê lộ
với
những
điều mâu thuẫn siêu hình đã gây rối trí xiết bao
cho người
đọc
tác phẩm
Timæus.
Nhưng
liệu
có một
nhà xiển
dương
triết học
cổ
điển
nào đã từng
đọc
Plato mà hiểu
ông chăng? Đây là vấn đề được
bảo đảm
là đúng qua phần phê phán mà ta thấy nơi
những
tác giả
như
Stalbaüm, Schleirmarcher,
Ficinus (bản dịch tiếng La tinh), Heindorf, Sydenham, Buttmann, Taylor
và Burges, chứ
đừng
nói tới
những
người
có ít thẩm
quyền hơn.
Việc
nhà triết học
người
Hi Lạp
ngầm ám chỉ
những
điều bí truyền rõ rệt
là đã làm
rối trí những
nhà bình luận
này đến mức
tối đa. Họ
chẳng
những
trân tráo lạnh
lùng gợi
ý rằng một
số đoạn
khó hiểu
hiển
nhiên là ngụ
ý khác đi mà họ
còn dám liều mạng
sửa
văn khác đi nữa.
Dòng chữ
của
Orpheus:
“Trong bài hát thì thứ
tự
của
giống dân thứ
sáu
đã kết thúc”
chỉ có thể
được
thuyết giải
là ám chỉ
giống dân thứ
sáu
đã tiến hóa liên tiếp qua các cõi [[39]]
. Burges có viết: “ . . . hiển
nhiên là nó đã được
rút ra từ
một
vũ
trụ khởi
nguyên luận
trong đó người
ta bịa
đặt
rằng con người
được
sáng tạo ra sau cùng”
[[40]].
Chẳng
lẽ cái người
đảm
đương
việc
biên tập
tác phẩm
của
người
khác mà ít ra lại
không hiểu
nổi
ngụ
ý của
tác giả
hay sao?
Thật
vậy,
ngay cả
những
người
ít có thành kiến nhất trong các nhà phê bình hiện
đại
nói chung dường
như
đều cho rằng các triết gia thời
xưa
thiếu những
kiến thức
sâu sắc và rốt ráo về khoa học
chính xác mà thế kỷ
hiện
nay của
chúng ta đang khoe khoang xiết bao. Thậm
chí người
ta còn nghi vấn chẳng
biết các triết gia thời
xưa
có hiểu
được
chăng cái nguyên lý khoa học
căn bản:
không một
điều gì có thể
được
tạo ra từ
hư
vô.
Nếu họ
phỏng
đoán rằng
vật
chất có tính bất diệt
– theo các nhà bình luận
ấy – th́ đó không phải
là hậu
quả
của
một
công thức
đã được
xác lập
mà chỉ
là do lý luận
theo trực
giác và bằng phép tương
tự.
Chúng tôi có ý kiến ngược
lại.
Những
điều
suy đoán của
các triết gia ấy về vật
chất vẫn được
bỏ ngỏ cho công luận
phê phán: nhưng
giáo huấn của
họ
về những
sự
việc
tâm linh có tính bí truyền sâu sắc. Như
vậy
vì đã thệ
nguyện
giữ
bí mật
và kín miệng
đối với
những
đề tài bí hiểm
của
tôn giáo bao gồm quan hệ
giữa
tinh thần với
vật
chất, cho nên họ
cạnh
tranh với
nhau bằng những
phương
pháp khéo léo để
che giấu đi ý kiến thực
của
mình.
Các nhà khoa học đã chế nhạo
rất nhiều, còn
các nhà thần học
đã bác bỏ
thuyết
Chuyển
kiếp,
thế
nhưng
nếu ta hiểu
đúng được
nó khi áp dụng
vào tính bất diệt
của
vật
chất và tính bất tử
của
tinh thần thì ta ắt nhận
thức
được
rằng đó là một
quan niệm
cao siêu. Tại
sao trước
tiên ta không xem xét vấn đề này theo quan điểm
của
cổ
nhân rồi mới
dám cả
gan dèm pha những
người
giảng
dạy
nó?
Việc
giải
thích vấn đề lớn
là
thời
gian vĩnh hằng
không thuộc
về lãnh vực
mê tín dị
đoan theo tôn
giáo cũng như
duy vật
thô thiển.
Sự
hài hòa và đồng dạng
toán học
của
cơ
tiến hóa lưỡng
bội
(tâm linh và thể
chất) chỉ
được
minh giải
qua những
con số vạn
năng của
Pythagoras, ông đã xây dựng
hệ
thống của
mình hoàn toàn
trên cái gọi
là “ngôn ngữ
âm luật”
trong kinh
Phệ
đà
của Ấn Độ.
Chỉ
mới
gần đây thì một
trong những
học
giả
nhiệt
thành nhất về tiếng Bắc phạn
là Martin Haug mới
đảm
đương
việc
dịch
thuật
Aitareya Brahmanam
của bộ
Rig Phệ
đà.
Mãi cho tới
lúc đó chẳng
ai biết gì về
nó; những
lời
giải
thích ấy đã biểu
thị
không thể
chối cãi sự
đồng nhất của
hệ
thống Pythagoras và Bà la môn giáo. Trong cả
hai hệ
thống này đều rút ra ý nghĩa bí truyền từ
con số: trong hệ
thống Pythagoras có mối quan hệ
thần bí của
mọi
con số với
mọi
điều mà trí người
có thể
hiểu
được;
trong hệ
thống Bà la môn giáo người
ta rút ra ý nghĩa bí truyền từ
số âm tiết tạo
nên mỗi câu thơ
trong
các Mantras thần chú. Plato
là môn đồ nhiệt
thành của
Pythagoras đã thực
chứng
hoàn toàn được
điều đó đến nỗi ông chủ
trương
rằng hình khối 12 mặt
là hình kỷ
hà mà
Đấng Hóa Công
sử
dụng
để
kiến tạo
nên vũ trụ.
Một
số hình
này có ý nghĩa đặc
biệt
long trọng.
Chẳng
hạn
như
số 4
(hình khối 12 mặt
là gấp 3 lần số 4) được
môn đồ Pythagoras coi là linh thiêng. Chính hình vuông toàn bích (trong
đó không có một
đường
biên nào vượt
hơn
đường
biên khác
chỉ một
điểm
nhỏ
theo chiều dài), nó là biểu
hiệu
của
sự
công bằng đạo
đức
và sự
bình đẳng
thiêng liêng được
biểu
diễn bằng hình học.
Mọi
quyền năng và mọi
bản
đại
hòa tấu có bản
chất tâm linh và thể
chất đều nội
tiếp trong hình vuông toàn bích và hồng danh khôn tả
của
Ngài (hồng danh này không thể
thốt nên lời
bằng cách nào khác) được
thay thế
bằng con số 4 linh thiêng ấy, nó là lời
thề ràng buộc
long trọng
đối với
các thần bí gia
thời
xưa
là
Tứ
linh tự.
Nếu ta giải
thích rành mạch
và đối chiếu thuyết chuyển
kiếp của
Pythagoras với
thuyết tiến hóa hiện
đại
thì ta ắt thấy nó cung cấp mọi
“mắt xích còn thiếu” cho cái chuỗi xích tiến hóa hiện
đại.
Nhưng
có ai trong đám khoa học
gia chúng ta mà lại
chịu
mất thời
giờ
quí báu về những
trò ngông cuồng đó của
cổ
nhân. Mặc
dù có bằng chứng
ngược
lại,
song họ
chẳng
những
chối bỏ
việc
các quốc gia thời
cổ
sơ
có kiến thức
chắc chắn về hệ
thống Nhật
tâm mà còn bác bỏ
việc
các triết gia thời
xưa
có thể
biết điều
đó. “Bedes Đáng Kính”, Augustines và Lactantii dường
như
do dốt nát đầy giáo điều đã bóp nghẹt
mọi
niềm tin vào các nhà thần học
xưa
hơn
thời
kỳ thế kỷ
tiền-Ki Tô. Nhưng
giờ
đây ngôn ngữ
học
đã làm quen nhiều hơn
với
kho tài liệu
tiếng Bắc phạn,
cho nên phần nào giúp ta bào chữa
được
cho họ
đứng
trước
những
lời
buộc
tội
bất công. Chẳng
hạn
như
trong
kinh Phệ
đà
ta thấy có bằng chứng
chắc chắn cho rằng ngay từ
năm 2.000 trước
Công nguyên, các nhà hiền triết và học
giả
Ấn Độ
ắt đã quen thuộc
với
việc
trái đất hình tròn cũng như
hệ
thống Nhật
tâm. Vì thế cho nên Pythagoras
và Plato đều biết rõ sự
thật
thiên văn này; đó là v́ Pythagoras đã thu lượm
được
kiến thức
nơi
Ấn Độ
hoặc
từ
những
người
đã
ở
Ấn Độ,
còn Plato chỉ
trung thành phản
ánh lại
giáo huấn của
Pythagoras. Chúng tôi xin trích dẫn
hai đoạn
trong
Aitareya Brahmana:
Trong “Thần chú về Con rắn”
[[41]]
, Brahmana tuyên bố như
sau:
Thần chú
này được
Nữ
hoàng loài Rắn,
Sarpa-rājni,
chứng
kiến, vì trái đất là Nữ
hoàng của
loài Rắn do nó là mẹ
đứng
đầu mọi
thứ
biết vận
động.
Thoạt
tiên trái đất chỉ
có một
cái đầu tròn không có tóc (hói) nghĩa là không có cây cối. Thế rồi
nó quan niệm
ra thần chú này mang lại
cho kẻ
nào biết thần chú ấy quyền năng có được
bất kỳ hình tướng
nào
mà ḿnh muốn. Nó “phát âm ra thần chú” nghĩa là hiến tế cho chư
thần linh và do đó tức
khắc có một
dáng vẻ
sặc
sỡ,
nó đâm ra thiên biến vạn
hóa, có thể
tạo
ra bất kỳ hình tướng
nào mà ḿnh muốn,
biến đổi
từ
hình tướng
này
sang hình tướng
khác.
Thần chú này bắt đầu bằng
cụm
từ:
“Ayam
gaūh priśnir akramīt
(x., 189).
Việc
mô tả
trái đất có dạng
một
cái
đầu tròn và trọc
lóc
thoạt tiên là mềm và chỉ trở
nên
cứng
do được
thần Vâyu tức
là thần
gió phà hơi
vào, việc
đó bắt buộc
gợi
ra ý tưởng
rằng tác giả
của
các thánh thư
Phệ
đà
đã có biết trái đất hình tròn
hoặc
hình cầu; hơn
nữa
nó thoạt
tiên là một
khối dạng
keo và dần dần mới
nguội
lại
do ảnh
hưởng
của
gió và thời
gian. Kiến thức
của
họ
về
việc
trái đất hình cầu; và giờ
đây ta còn có bằng chứng
để
dựa
vào đó mà khẳng
định
là người
Ấn Độ
đã hoàn toàn quen thuộc
với
hệ
thống Nhật
tâm, ít ra cũng từ
2.000 năm trước
Công nguyên.
Cũng trong bộ
khảo
luận
đó, vị
lễ sư
Hotar
được
dạy
cách lập
lại
các kinh
Shastras
và cách giải thích hiện
tượng
mặt
trời
mọc
và mặt
trời
lặn.
Kinh dạy:
“Các Agnishtoma là vị
thần linh đốt cháy. Mặt
trời
chưa
bao giờ
mọc
cũng như
chưa
bao giờ
lặn.
Khi người
ta nghĩ mặt
trời
lặn
thì
không phải
như
vậy,
họ đã nhầm lẫn. Đó là v́ sau khi đạt
tới
lúc tận
cùng của
một
ngày thì mặt
trời
tạo
ra hai tác dụng
đối nghịch
khiến cho điều
ở
bên dưới
trở
thành đêm, còn điều
ở
phía bên trên trở
thành ngày. Khi thiên hạ
tin rằng mặt
trời
mọc
vào buổi
sáng th́ nó chỉ
làm như
sau: sau khi đã đạt
tới
điểm
tận
cùng của
đêm th́ bản
thân nó tạo
ra hai tác dụng
đối nghịch,
biến điều
ở
bên dưới
thành ngày và điều
ở
phía bên kia thành đêm. Thật
ra mặt
trời
không bao giờ
lặn,
nó cũng chẳng
lặn
đối với
ai đã biết như
thế”
[[42]]
.
Câu này có tính kết luận
đến mức
ngay cả
dịch
giả
của
bộ
Rig Phệ
đà
là Tiến sĩ Haug cũng bắt buộc
phải
nhận
xét như
vậy.
Ông bảo
rằng đoạn
này bao hàm việc
“chối
bỏ
có sự
tồn tại
của
hiện
tượng
mặt
trời
mọc
và mặt
trời
lặn”,
và tác giả
giả
định
rằng mặt
trời
“vẫn luôn luôn
ở
vị
trí trên cao”
[[43]]
.
Ở
một
trong những
tác phẩm
Nivids
xưa
nhất, Rishi Kutsa, là một
bậc
hiền triết Ấn Độ
thời
xa xưa
nhất đã giải
thích ẩn
dụ
về những
định
luật
đầu tiên dành cho các thiên thể.
Đó là v́ việc
làm “điều
mà ḿnh không nên làm” nên Anāhit
(Anaïtis tức
Nana là Kim tinh của
người
Ba Tư)
biểu
diễn trái đất trong huyền thoại
mới
bị
kết án phải
quay xung quanh mặt
trời.
Các
Sattras
tức
những
khóa hiến tế
[[44]]
chứng
tỏ
chắc chắn rằng
rất sớm,
vào khoảng
thế
kỷ 18 hoặc
20 trước
Công nguyên, th́ người
Ấn Độ
đã tiến bộ
rất nhiều về
khoa học thiên văn. Các Sattras
kéo dài một
năm và chẳng
qua chỉ
là “bắt chước
lộ
trình hằng năm của
mặt
trời”.
Ông Haug có
nói rằng chúng được
chia ra thành hai bộ
phận
riêng biệt,
mỗi bộ
phận
bao gồm 6 tháng, mỗi tháng 30 ngày; giữa
hai bộ
phận
này là
Vishuvan
(đường
xích đạo,
tức
lúc chính ngọ)
chia trọn
cả
Sattras
ra thành hai nửa.
v.v. . .
[[45]]
. Mặc
dù học
giả
này gán cho việc
trước
tác đa số bộ
Brahmanas
vào thời
kỳ 1400 tới
1200 năm trước
Công nguyên, song ông có ý kiến cho rằng bài thánh ca xưa
nhất có thể
được
ấn định
vào ngay lúc bắt đầu kho tài liệu
kinh
Phệ
đà vào giữa
năm 2400 và 2000 trước
Công nguyên. Ông thấy chẳng
có lý do gì để
coi kinh Phệ
đà là kém phần xưa
cũ hơn
các thánh thư
của
Trung Hoa. V́
Kinh Thư
và các bài hiến tế trong Kinh
Thi đã được
chứng
tỏ
là xưa
cũ tới
mức
2200 năm trước
Công nguyên, cho nên chẳng
bao lâu nữa
các nhà ngôn ngữ
học
ắt phải
bắt buộc
thừa
nhận
rằng người
Ấn Độ
thời
tiền hồng thủy
là bậc
thầy về
kiến thức
thiên văn.
Dù sao đi nữa,
có những
sự
kiện
chứng
tỏ
rằng một
số phép tính toán thiên văn vẫn chính xác đối với
người
Chaldea vào thời
Julius Cæsar cũng giống như
thời
nay. Khi nhà chinh phục
ấy cải
cách lịch
thì người
ta thấy dương
lịch
thường
dùng tương
ứng
rất ít với
mùa
màng đến nỗi mà mùa hè đã lẫn lộn
vào những
tháng mùa thu, còn các tháng mùa thu lại
nhập
nhằng vào ngay giữa
mùa đông. Chính Sosigenes, là nhà thiên văn học
người
Chaldea đã phục
hồi được
trật
tự
từ
cái mớ
hỗn độn
ấy
bằng cách đẩy
lùi ngày 25 tháng 3 lui lại
90 ngày, do đó khiến cho tương
ứng
với
điểm
xuân phân; và cũng chính Sosigenes đã ấn định
độ
dài của
các tháng giống như
chúng
vẫn còn như
vậy
hiện
nay.
Ở
Châu Mỹ, đạo
quân Motezuman đã phát hiện
ra rằng lịch
của
người
Aztecs qui cho mỗi tháng con số bằng nhau về
ngày và tuần lễ. Mức
độ
cực
kỳ chính xác trong phép tính toán thiên văn của
họ
lớn
đến nỗi những
phép kiểm
chứng
sau này không
phát hiện
ra được
họ
tính sai,
còn người
Âu Châu đổ
bộ
lên Mễ tây cơ
năm 1519 th́ tính theo lịch
của
Cæsar đã đi sớm
gần 11 ngày so với
thời
gian chính xác.
Chúng ta biết
ơn
những
bản
dịch
chính xác vô giá của
bộ
kinh Phệ
đà và những
khảo cứu
cá nhân của
Tiến sĩ Haug vì chúng bổ
chứng
cho những
lời
khẳng
định
của
các triết gia Hermes. Ta có thể
dễ dàng chứng
minh được
thời
kỳ Zarathustra Spitama (Zoroaster) xa xưa
khôn tả.
Bộ
Brahmanas
mà ông Haug gán cho là đã có từ
4000 năm nay mô tả
sự
đấu tranh tôn giáo giữa
những
người
Ấn Độ
thời
xưa
sống vào thời
tiền-Phệ
đà và người
Ba Tư.
************
Người
ta gán cho rằng pháp thuật
là một
khoa học linh thiêng giúp ta tham dự
vào các thuộc
tính của
Thượng
Đế.
Philo Judæus có nói rằng: “Nó tiết lộ
các thao tác của
thiên nhiên và giúp ta chiêm ngưỡng
được
những
quyền năng thiên thể”
[[46]]
. Vào thời
sau này, việc
nó bị
lạm
dụng
và thoái hóa thành
ra thuật
phù thủy
khiến nó nói chung bị
ghê tởm.
Do đó ta chỉ
bàn tới
pháp thuật
ở
vào quá khứ
xa xưa
trong thời
kỳ mà mọi
tôn giáo chân chính đều dựa
trên cơ
sở
hiểu
biết các quyền năng huyền bí của
thiên nhiên. Giai
cấp giáo sĩ
ở
cổ
Ba Tư
không hề lập
nên pháp thuật
như
người
ta thường
nghĩ mà chính các pháp sư
Magi mới
sáng lập
ra pháp thuật,
tên gọi
của
họ
phái sinh từ
pháp thuật.
Mobeds, là các lễ sư
của
Bái Hỏa
giáo – những
người
Ghebers cổ
truyền – ngay cả
thời
nay cũng được
gọi
là
Magoï
trong thổ
ngữ
Pehlvi
[[47]]
. Pháp thuật
xuất hiện
trên thế
giới
cùng với
những
giống người
xa xưa
nhất.
Cassien có nhắc tới
một
bộ
khảo
luận
nổi
tiếng vào thế kỷ
thứ
4 và 5 mà người
ta tin là của
Ham, con trai của Noah, đến lượt
Noah lừng
danh là đã tiếp nhận
bộ
khảo
luận
đó từ
Jared, là hậu
duệ
đời
thứ
tư
của
Seth tức
con trai của
Adam
[[48]]
.
Ta biết tên thánh Moses vì ông có hiểu
biết mẹ
của nữ
hoàng Ai Cập,
là Thermuthis, bà cứu
ông khỏi
chết đuối trên dòng sông Nile. Bản
thân vợ
của
vua Pharaoh
[[49]]
, Batria, cũng là một
điểm
đạo
đồ, còn tín đồ Do Thái chịu
ơn
bà v́ có bậc
đạo
sư
“đã học
được
mọi minh triết của người
Ai Cập,
có lời
lẽ và hành vi dũng mãnh”
[[50]]
. Thánh tử
vì đạo
Justin dựa
vào thẩm
quyền của
Trogus Pompeius chứng
tỏ
rằng Joseph đã hiểu
biết rất nhiều về pháp thuật
nhờ
học
được
của
các lễ sư
cao cấp Ai Cập
[[51]]
.
Cổ
nhân biết nhiều về một
vài môn khoa học
so với
các nhà bác học
hiện
đại
vẫn còn chưa
khám phá hết.
Mặc
dù nhiều người
vẫn ngần ngại
thú nhận,
song nhiều khoa học
gia đã công nhận
rằng: “Trình độ
kiến thức
khoa học có được
vào thời
kỳ xã hội
sơ
khai vĩ đại
hơn
nhiều so với
mức
những
người
hiện
đại
sẵn lòng công nhận”.
Tiến sĩ A. Todd Thomson, là biên tập
của
tác phẩm
Khoa học Huyền bí
của Salverte có nói như
vậy;
ông còn nói
thêm: “Nhưng
kiến thức
đó chỉ
được
hạn
chế trong các đền thờ
đã bị
cẩn
thận
che khuất khỏi
cặp
mắt soi bói của
dân chúng và tương
phản
với
giới
lễ sư”.
Khi nói tới
kinh
Kabala,
nhà bác học Franz von Baader có nhận
xét rằng:
“Chẳng
những
việc
cứu
chuộc
và khoa minh triết của
ta mà bản
thân khoa học
của
ta cũng do người
Do Thái truyền lại”.
Nhưng
tại
sao không nói hết câu cho độc
giả
biết người
Do Thái có được
minh triết do ai truyền thừa?
Origen (vốn đã thuộc
về trường
phái Alexandria của
các môn đồ Plato) tuyên bố rằng thánh Moses ngoài việc
giảng
huấn về giao
ước
còn truyền thụ
một
số bí mật
rất quan trọng
“từ
vùng sâu thẳm
ẩn
tàng trong định
luật”
trao lại
cho
70 môn đồ lão thành. Ông ra lệnh
cho họ
chỉ
truyền thụ
những
bí mật
này cho người
nào mà họ
thấy xứng
đáng.
Thánh Jerome gọi các tín đồ Do Thái
ở
Tiberias và Lydda là các bậc
huấn sư
duy nhất về cách thuyết giải
thần
bí. Cuối cùng Ennemoser nhấn mạnh
tới
ý kiến theo đó “các tác phẩm
của
Dionysius Areopagita rành rành là dựa
cơ
sở
trên kinh
Kabala
của Do Thái giáo”. Khi chúng ta xét tới
việc
các môn đồ phái Ngộ
đạo
tức
các Ki Tô hữu
sơ
khai chẳng
qua chỉ
là tín đồ của
phái Essenes thời
xưa
mang một
danh hiệu
mới,
thì sự
kiện
này cũng chẳng
có gì lấy làm lạ.
Giáo sư
Molitor tưởng
thưởng
xứng
đáng kinh
Kabala.
Ông nói:
“Đã qua rồi cái thời
tiền hậu
bất nhất
và hời
hợt
cả
trong thần học
lẫn trong khoa học;
và vì thuyết duy lý cách mạng
ấy chẳng
để
lại
ǵ ngoại
trừ
sự
rỗng tuếch của
chính mình, sau khi đã hủy
hoại
mọi
thứ
tích cực,
cho nên giờ
đây đã đến lúc ta lại
chú ư
tới
cái sự
khải
huyền bí nhiệm
vốn là động
cơ
thúc đẩy
linh hoạt
ắt phải
mang lại
sự
cứu
chuộc
cho ta . . . Các Bí pháp của
Do Thái thời
xưa
(vốn bao hàm mọi
bí nhiệm
của
Do Thái thời
nay đã được
đặc
biệt
tính toán để
đặt
kết cấu thần học
dựa
trên những
nguyên lý minh triết thiêng liêng sâu sắc nhất và có được
một
nền tảng
vững
chắc
cho mọi khoa học lý tưởng.
Nó ắt mở
ra một
con đường
mới
. . . cho cái mê lộ
tối tăm của
các thần thoại,
điều bí nhiệm
và cấu tạo
của
các quốc gia ban sơ.
Chỉ
trong các truyền thuyết này mới
có bao hàm hệ
thống các trường
phái nhà tiên tri; nhà tiên tri Samuel không tìm thấy
mà chỉ phục hồi lại
hệ
thống này;
nó có cứu
cánh
chẳng
có gì khác hơn
là đưa
các học
giả
tới
minh triết và tri thức
cao nhất khi họ
tỏ
ra xứng
đáng và khai tâm họ
vào
các điều bí nhiệm
sâu xa hơn.
Được
xếp vào loại
điều
bí nhiệm
này là
pháp thuật,
nó có bản chất lưỡng
tính: pháp thuật
thiêng liêng và pháp thuật
gian tà tức
tà thuật.
Mỗi một
trong các loại pháp thuật
này lại
được
chia thành hai loại
nhỏ:
loại
chủ
động
và loại
thụ
động;
trong loại
chủ
động
con người
cố gắng giao tiếp với
thế
giới
để
học
được
những
điều ẩn
tàng; trong loại
thụ
động
y cố gắng đạt
quyền năng khống chế các tinh linh; trong loại
chủ
động
y thực
thi những
hành vi tốt đẹp
và mang lại
phúc lợi,
trong loại thụ động
y thực
hiện
mọi thứ
hành động
ma quỉ
và thiếu tự
nhiên”
[[52]]
.
Giới
giáo sĩ của
ba đoàn thể
Ki Tô giáo nổi
bật
nhất là Chính thống giáo Hi Lạp,
Công giáo La Mã và Tin Lành đều tỏ
ý phản
đối mọi
hiện
tượng
tâm linh biểu
lộ
qua cái
gọi là “đồng cốt”. Thật
vậy
chỉ
có một
thời
kỳ rất ngắn đã trôi qua từ
khi cả
Giáo hội
Công giáo La Mã lẫn Tin Lành đều thiêu đốt, treo cổ
và thậm
chí còn giết hại
mọi
nạn
nhân chới
với
mà các vong linh – đôi khi là các lực
thiên nhiên mù quáng và cho đến nay chưa
giải
thích được
– biểu
lộ
thông qua cơ
thể
họ.
Đứng
đầu ba giáo hội
này và nổi
bật
nhất là Giáo hội
La Mã. Bàn tay nó đã đỏ
thắm máu vô tội
của
vô số nạn
nhân đã bị
đổ
ra nhân
danh thiên tính giống như-Moloch
đang cầm đầu đức
tin của
nó. Nó sẵn sàng và sốt sắng bắt đầu lại.
Nhưng
nó bị
bó chân bó tay do cái tinh thần tiến bộ
và tự
do tôn giáo thuộc
thế kỷ
19 mà ngày nào nó cũng chửi
rủa
và xúc
phạm. Chính thống giáo Nga-Hi Lạp
thân thiện
nhất và giống như-Đức
Ki Tô v́ có đức
tin sơ
khai, đơn
giản,
mặc
dù mù quáng. Bất chấp sự
thật
thực
tế không có sự
hợp
nhất nào giữa
các giáo hội
Hi Lạp
và La Tinh và cả
hai
đã chia tay nhau từ
cách đây nhiều thế
kỷ. Song Đức
Giáo hoàng La Mã dường
như
thường
xuyên phớt
lờ
sự
kiện
ấy bằng một
cách trơ
trẽn nhất có thể
được.
Giáo hội
La Mã đã nhận
vơ
về
mình cái quyền quản
hạt
chẳng
những
đối
với
các xứ
sở
trong phạm
vi giáo xứ
của
Chính thống giáo mà còn đối với
mọi
tín đồ Tin Lành nữa.
Giáo sư
Draper có nói rằng: “Giáo hội
cứ
khăng khăng cho rằng nhà nước
chẳng
có quyền đối với
bất cứ
điều gì mà Giáo
hội
tuyên bố trong địa
hạt
quản
trị
của
mình và Tin Lành chỉ
là phái nổi
loạn
tuyệt
nhiên chẳng
có quyền gì hết; ngay cả
ở
các giáo xứ
trong cộng
đồng Tin Lành thì vị
giám mục
Công giáo
vẫn là vị
chủ
chiên tâm linh
hợp
pháp duy nhất[[53]].
Những
sắc lệnh
không ai buồn chú ý tới,
những
bức
thư
chỉ
dụ
của
Giáo hoàng chẳng
ai thèm đọc,
những
lời
mời
đọc
dự
công hội
đại
kết chẳng
ai buồn đếm xỉa,
những
việc
rút phép thông công bị
người
ta
chế nhạo
– tất cả
những
thứ
đó dường
như
chẳng
làm ai nao núng. Sự
kiên trì của
họ
chỉ
ăn khớp
với
sự
trơ
tráo của
họ
thôi. Vào năm 1864, người
ta đã đạt
tới
đỉnh
cao phi lý khi Giáo hoàng Pius thứ
IX đã rút phép thông công
và công khai trút lên Nga hoàng sự
mạ
lỵ
coi đó là kẻ
ly giáo
bị trục xuất ra khỏi
lòng của
Hội
thánh Mẹ
[[54]]
. Từ
khi nước
Nga được
Ki Tô hóa cách đây 1000 năm, các vị
tổ
tiên cũng như
bản
thân Nga hoàng chưa
bao giờ
đồng
ý gia nhập
Công giáo La Mã. Tại
sao không đòi hỏi
quyền quản
hạt
của
Giáo hội
đối với
các Phật
tử
ở
Tây Tạng
hay là bóng dáng của
những
Hyk-Sos thời
xưa?
Hiện
tượng
đồng cốt đã biểu
hiện
mọi
lúc
ở
Nga cũng như
ở
mọi
xứ
sở
khác. Thế
lực
này phớt
lờ
những
sự
dị
biệt
về tôn giáo, nó cười
nhạo
quốc tịch
và xâm lấn bất kỳ cá nhân nào mà không được
mời
gọi,
cho dù đó là một
vị quân vương
đứng
đầu nước
hay một
kẻ
ăn xin nghèo nàn.
Ngay cả vị Phó tế của
Thiên Chúa hiện
nay tức
bản
thân Giáo hoàng Pius thứ
IX cũng không thoát khỏi
tay người
khách không mời
mà đến. Trong vòng 50 năm vừa
qua người
ta biết
rằng Đức
Giáo hoàng đã chịu
nhiều cơn
chứng
rất dị
thường.
Trong nội
bộ
Tòa thánh Vatican thì người
ta bảo
đó là các
linh ảnh về Thiên Chúa,
còn ngoài phạm vi Tòa thánh thì giới
y sĩ bảo
đó là các cơn
động
kinh; và theo tin đồn của
dân chúng thì người
ta gán cho nó là bị
ma ám
thuộc
loại
Peruggia, Castelfidardo và Mentana!
“Đèn bật
lên thì màu xanh; thế
mà giờ
đây nó tắt ngúm như
tối đêm ba mươi
Những
giọt
mồ hôi lạnh
sợ
hãi toát lên trên da thịt
run rẩy
của
tôi
Thiết tưởng
vong hồn của
những
người
mà tôi đã khiến cho họ
bị
giết hại
Đã trở
lại.
. .”
[[55]]
Ông hoàng Hohenlohe rất nổi
tiếng vào phần tư
đầu tiên trong thế kỷ
hiện
nay về quyền năng chữa
bệnh,
bản
thân ông cũng là một
đồng cốt vĩ đại.
Thật
vậy,
những
hiện
tượng
và quyền năng ấy không thuộc
về thời
đại
hoặc
xứ
sở
đặc
biệt
nào. Chúng tạo
thành một
phần các thuộc
tính tâm lý của
con người
tức
Tiểu
vũ trụ.
Trong hàng thế kỷ
các
Klikouchy
[[56]]
, Yourodevoÿ [[57]]
và những
tạo
vật
khốn khổ
khác đã bị
những
bệnh
kỳ lạ
mà giới
giáo sĩ Nga và giới
bình dân gán cho là bị
ma quỉ
ám. Những
người
ấy bu đầy lối vào nhà thờ
chính, không dám liều mình len vào trong kẻo
đám ma quỉ
ương
ngạnh
kiểm
soát
họ có thể
vật
họ
xuống đất. Voroneg, Kiew, Kazan và mọi
đô thị
đều có những
di tích thông thần của
các vị
thánh đã được
phong thánh, những
nơi
ấy đều
đầy dẫy những
đồng cốt vô ý thức.
Người
ta có thể
luôn luôn tìm thấy
một
số những
người
ấy tụ
tập
thành những
nhóm dị
hợm
lãng vãng nơi
cổng
và cửa
ngõ. Vào những
giai đoạn
nào trong khi thi hành thánh lễ
Misa của
vị
giáo sĩ chủ
lễ, chẳng
hạn
như
khi có xuất hiện
các bí tích hoặc
bắt đầu
cầu nguyện
và đồng ca bài “Ejey
Cheroúvim”,
thì những
kẻ
nửa
điên nửa
đồng cốt này bắt đầu gáy như
gà, sủa
như
chó, rống như
bò và rống như
lừa,
rồi cuối cùng bò lăn bò càn ra trong những
cơn
co giật
dễ sợ.
Lời
giải
thích
mộ
đạo
là “kẻ
không trong sạch
không thể
chịu
đựng
được
lời
cầu nguyện
thiêng liêng”. Xúc động
vì ḷng trắc ẩn,
một
số tâm hồn từ
thiện
tìm cách phục
hồi chức
năng cho những
kẻ
bị
bệnh
và bố thí cho họ.
Đôi khi một
vị linh mục được
mời
tới
để
trục
tà ma, trong diễn biến ấy hoặc
là ông hành lễ vì lòng từ
thiện
và tình thương
hoặc
là vì viễn ảnh
cám dỗ kiếm được
tiền bạc
chỉ
có 20 xu Nga tùy theo những
xung lực
Ki Tô giáo của
ông. Nhưng
các tạo
vật
khốn khổ
ấy – họ
chỉ
là đồng cốt đôi khi cái cơn
đó chân thực
th́ họ
tiên tri được
và thấy được
linh ảnh
[[58]]
– họ
chưa
bao giờ
bị
quấy nhiễu vì sự
bất hạnh
của
mình. Tại
sao giới
giáo sĩ lại
ngược
đãi họ
hoặc
thiên hạ
ghét bỏ,
tố cáo họ
là đám phù thủy
đáng bị
nguyền rủa?
Óc phân biệt
phải
trái bình thường
và công lý ắt chắc chắn gợi
ý rằng nếu có ai phải
bị
trừng
phạt
thì đó dứt
khoát không phải
là những
nạn nhân không tự
lo liệu
được
cho mình mà loài ma quỉ
bị
gán cho việc
kiểm
soát hành động
của
họ.
Điều tồi tệ
nhất xảy
ra cho bệnh
nhân đó là khi vị
linh mục
rưới
đẫm nước
thánh lên bệnh
nhân khiến cho tạo
vật
khốn khổ
ấy bị
cảm
lạnh. Nếu nước
thánh tỏ
ra vô hiệu
lực
thì kẻ
Klikoucha
đó bị
bỏ
mặc
cho ý chí của
Thượng
Đế
và được
chăm sóc bằng tình thương
và lòng trắc ẩn.
Cho dù mê tín và mù quáng thì một
đức
tin được
chỉ đạo
dựa
trên những
nguyên
tắc đó chắc chắn vẫn đáng được
kính trọng
và không thể
xúc phạm
tới
con người
hoặc
Thượng
Đế
chân chính. Các tín đồ Công
giáo La Mã, thứ
đến là các giáo sĩ Tin Lành – ngoại
trừ
một
số nhà tư
tưởng
lỗi lạc
nhất trong
đám họ
– đều không được
như
thế cho nên mục
đích của
chúng tôi là nêu ra nghi vấn trong tác phẩm
này. Chúng tôi muốn biết họ
dựa
vào cơ
sở
nào mà đối xử
với
các nhà thần linh học
và môn đồ kinh Kabala, người
Ấn Độ
và Trung
Quốc theo cách họ
vẫn làm tức
là tố cáo những
người
Ấn Độ
và Trung Quốc này cùng với
những
người
không theo đạo
– là sản
phẩm
do chính họ
tạo
ra – đến nỗi nhiều kẻ
bị
kết án tù đày phải
chịu
ngọn
lửa
hỏa
ngục
thiêu
đốt mãi không bao giờ
tắt.
Chúng tôi tuyệt
nhiên không thấy có tư
tưởng
bất kính nào – chứ
đừng
nói đến phạm
thượng
– đối với
Quyền năng Thiêng liêng làm cho vạn
vật
(hữu
hình và vô hình) hiện
hữu.
Chúng tôi thậm
chí chẳng
dám nghĩ tới
sự
uy nghi và hoàn hảo
vô biên của
nó. Chúng tôi chỉ
cần biết rằng
Nó
tồn tại
và rất minh triết. Chỉ
cần biết rằng chúng tôi cũng có một
Điểm
Linh Quang mang bản
thể
của
Nó
giống như
mọi
đồng loại
khác.
Quyền năng tối cao mà chúng tôi kính trọng
vốn vô biên và vô tận;
đó là MẶT
TRỜI
TÂM LINH TRUNG
ƯƠNG”
vĩ đại
mà chúng tôi bị
bao quanh bởi
những
thuộc
tính của
nó và những
tác dụng
hữu
hình của
Ý CHÍ ấy mà không ai nghe
thấy được;
đó là Thượng
Đế
của cổ
nhân cũng như
của
các nhà thấu thị
thời
nay. Ta chỉ
có thể
nghiên cứu
được
bản chất của
ngài nơi
những
thế
giới
mà SẮC LỆNH
dũng mãnh của
ngài đã tạo
ra. Ta chỉ
truy nguyên được
sự
khải
huyền
của
ngài qua ngón tay của
chính ngài chỉ
vào những
hình bất diệt
về sự
hài hòa trong vũ trụ
trên bề mặt
của
Càn khôn. Đó là cái phúc âm duy nhất không thể
SAI LẦM mà chúng tôi công nhận.
Khi nói tới
các nhà địa
lý thời
xưa
trong tác phẩm
Theseus,
Plutarch có nhận
xét rằng họ
“chèn vào những
bờ
mép trong bản
đồ của
họ
những
phần trên thế
giới
mà họ chẳng
biết gì, họ
ghi thêm các chú thích bên lề với
nội
dung là bên ngoài bờ
mép bản
đồ
chẳng
có gì ngoại
trừ
những
sa mạc
đầy cát
với
những
con thú hoang
và những
đầm lầy không ai tới
gần được”.
Liệu
các nhà thần học
và khoa học
của
chúng ta có làm giống như
thế
chăng? Trong khi nhà thần học
nhét đầy thiên
thần hoặc
ma quỉ
vào thế
giới
vô hình thì các triết gia lại
cố gắng thuyết phục
các môn đồ rằng
ở
đâu không có
vật
chất
thì
ở
đó chỉ
là
hư
vô.
Biết bao nhiêu những
kẻ
thâm căn cố đế mặc
dù theo thuyết duy vật
lại
thuộc
về
các Chi bộ
Tam Điểm?
Các huynh đệ
Hoa Hồng Thập
Tự
(những
thần bí gia thực
hành của
thời
trung cổ)
vẫn còn sống sót nhưng
chỉ
hữu
danh vô thực
thôi. Họ
có thể
“nhỏ
lệ
trước
ngôi mộ
của
bậc
Thầy đáng kính là Hiram Abiff”,
nhưng
họ
sẽ hoài công mưu
tìm cái nơi
đúng thực
“có cành cây sim”. Chỉ
còn lại
chữ
nghĩa bút sa gà chết, còn cái thần của
bản
văn đã biến đi mất rồi. Họ
giống như
dàn đồng ca người
Anh hoặc
người
Đức
trong vở
nhạc
kịch
của Ý mãi tới
hồi bốn trong vở
Ernani
mới
xuống hầm mộ
của
Charlemagne hát lên cái âm mưu
của
mình bằng một
ngôn ngữ
mà họ
chẳng
biết gì hết. Như
vậy
nếu muốn, mỗi đêm các vị
hiệp
sĩ thời
nay của
Mái vòm Linh thiêng
có thể
“đi xuyên qua chín mái vòm để
xuống tận
trong ruột
trái đất” mà họ
“chẳng
bao giờ
phát hiện
được
Châu thổ
linh thiêng của
Enoch”. Các “ngài Hiệp
sĩ
ở
Thung lũng phía Nam” cũng như
“Thung lũng phía Bắc” có thể
cố gắng
đoan chắc với
mình rằng “sự
giác ngộ
ló dạng
với
tâm trí của
mình” khi ḿnh tiến bộ
về thuật
Tam Điểm,
“bức
màn mê tín, chuyên chế, tàn bạo”
v.v. . . không còn che khuất tầm nhìn của
tâm trí mình nữa.
Nhưng
đây toàn là
những
lời
rỗng tuếch chừng
nào họ
còn phớt
lờ
bà mẹ
Pháp thuật
và ngoảnh
mặt
quay lưng
với
chị
em sinh đôi của
bà tức
là Thần linh học.
Thật
vậy,
hỡi
các “Ngài Hiệp
sĩ
ở
Đông phương”,
các ngài có thể
“rời
bỏ
trạm
yên nghỉ
của mình và ngồi bệch
xuống sàn với
thái độ
đau buồn gục
đầu vào bàn tay” vì các ngài đã khiến cho số phận
của
mình phải
tham khóc đầy tang tóc. Từ
khi Phillipe le Bel đã tiêu diệt
các Hiệp
sĩ
ở
Đền thờ
th́ chẳng
còn ai dám xuất hiện
để
xua tan nỗi nghi ngờ
của
các ngài bất chấp mọi
lời
rêu rao ngược
lại.
Quả
thật
các ngài là “những
kẻ
lang thang ra khỏi
Jerusalem đi tìm cái kho tàng đã bị
mất của
vùng thánh địa”.
Các ngài đã tìm
ra chưa?
Tiếc thay là chưa,
vì thánh điện
ấy đã bị
phàm tục
hóa; những
cột
trụ
minh triết, dũng mãnh và mỹ lệ
đã bị
hủy
hoại.
Từ
nay trở
đi, “các ngài phải
lang thang trong đêm tối” và “viễn du trong sự
khiêm hạ”
giữa
núi rừng
để
đi tìm cái “linh từ
đã thất truyền”. “Các ngài vẫn cứ
tiếp tục
đi” nhưng
sẽ chẳng
bao giờ
tìm được
chừng
nào cuộc
hành hương
của
các ngài còn bị
hạn
chế vào
bảy
hoặc
ngay cả
bảy
lần bảy;
bởi
vì các ngài
“đang du hành trong đêm tối” và bóng đen này chỉ
có thể
bị
xua tan bởi
ánh sáng của
ngọn
đuốc chân lý chói lòa mà chỉ
có mỗi đám hậu
duệ
chân chính của
Ormasd đang giương
cao. Chỉ
có họ
mới
dạy
cho các ngài cách phát âm
đúng đắn của
hồng danh được
khải
huyền cho Enoch, Jacob và thánh Moses. “Các ngài cứ
tiếp tục
đi”, cho đến khi vị
R. S. W. của
các ngài học
được
cách nhân 333 thay vì 666 thì lại
bắn trúng con số Con thú trong kinh Khải
huyền, lúc
đó các ngài mới
có thể
thận
trọng
mà hành động
“một
cách kín đáo”.
**********
Loài người
có một
sự
khao khát bẩm
sinh không thể
đè nén được
và
phải được
thỏa mãn trong bất kỳ tôn giáo nào thay thế cho cái thần học
đầy giáo điều,
không được
ai chứng
minh và cũng chẳng
ai chứng
minh nổi
trong thời
đại
Ki Tô giáo của
chúng ta. Đây là lòng khao khát mưu
tìm bằng chứng
về
sự
bất tử.
Ngài Thomas Browne đã diễn tả
điều đó như
sau: “thật
đáng buồn cho con người
khi bảo
rằng y đă tới
số rồi, chẳng
còn một
trạng
thái tương
lai nào nữa
và điều đó dường
như
diễn tiến tới
mức
nếu không như
vậy
thì tất cả
hóa ra là rỗng tuếch”. Nếu có bất kỳ tôn giáo nào
đề nghị
cung cấp những
bằng chứng
bất tử
dưới
dạng
những
sự
kiện
khoa học,
và nếu cái hệ
thống được
xác lập
ấy được
thúc đẩy
theo phương
án củng
cố các giáo điều của
mình bằng những
sự
kiện
như
thế th́ cái lòng sùng
kính và mến mộ
đối với
giáo hội
Ki Tô ắt sẽ là không còn nữa.
Nhiều Ki Tô hữu
thánh thiện
đã bắt buộc
phải
công nhận
rằng không có uyên nguyên
chân thực
nào giúp ta bảo đảm
được
một
trạng
thái tương
lai mà con người
có
thể
nương
tựa
vào đó. Làm sao một
niềm tin như
thế có thể
đứng
vững
được
qua vô số thời
đại,
nếu trong mọi
quốc gia cho dù văn minh hay dã man thì con người
cũng
được
phép
có chứng
minh về sự
kiện
ấy? Chẳng
lẽ chính sự
tồn tại
của
một
niềm tin như
thế không đủ
là bằng chứng
cho thấy cả
triết gia biết suy nghĩ lẫn kẻ
dã man không có lư trí đều
bắt buộc
phải
công nhận
bằng chứng
của
giác quan mình hay sao? Nếu trong những
trường
hợp
riêng rẽ,
ảo giác về ma có thể
là kết quả
của
những
nguyên nhân vật
lý th́ mặt
khác trong hàng ngàn trường
hợp
hiện
hình ra thành người
để
trò chuyện
với
nhiều cá nhân cùng một
lúc, tập
thể
họ
đều trông thấy và nghe thấy sự
hiện
hình đó thì chẳng
lẽ tất cả
đều bị
loạn
trí hay sao?
Các tư
tưởng
gia vĩ đại
nhất của
Hi Lạp
và La Mã đều coi những
vấn đề đó là những
sự
kiện
đã được
chứng
minh. Họ
phân biệt
những
thứ
hiện
hình ra bằng những
tên gọi
vong hồn, linh hồn và
u hồn:
vong hồn giáng xuống Âm phủ
sau khi cá nhân chết;
linh hồn
tức
tinh thần thanh khiết thăng lên thiên đường;
còn cái
u hồn
bức
rức
(vong hồn vẫn còn vướng
vòng tục
lụy)
lẩn
quẩn
quanh ngôi mộ
vì
sức
hút của
vật
chất và sự
ưa
thích xác phàm vẫn chiếm
ưu
thế
nơi
nó và ngăn cản
nó thăng lên các cõi cao.
Ovid khi nhắc tới
cấu tạo
tam bội
của
phần hồn có nói rằng:
“Xác phàm nằm trong lòng
đất, u hồn lẩn
quẩn
quanh
mộ,
vong hồn rớt
xuống âm phủ,
còn
linh hồn
mưu
tìm thiên giới.”
Nhưng
tất cả
những
định
nghĩa như
thế phải
được
triết học
phân tích cẩn
thận.
Quá nhiều tư
tưởng
gia chúng ta không thấy
rằng trong ngôn ngữ
có rất nhiều biến
đổi
cách dùng từ
theo ẩn
dụ
và hiển
nhiên là đầy bí mật
của
các tác giả
Thần bí thời
xưa,
họ
thường
có bổn
phận
không được
tiết lộ
những
bí mật
long trọng
của
thánh điện,
cho nên tiếc thay đã làm lầm lạc
các nhà dịch
thuật
và bình luận.
Dịch
giả
đọc
hiểu
câu chữ
của
các nhà luyện
kim đan thời
trung cổ
theo nghĩa đen; ngay cả
học
giả
hiện
đại
cũng thường
hiểu
lầm khoa biểu
tượng
học
ẩn
giấu của
Plato. Một
ngày nào đó, họ
có thể
học
biết được
rành mạch
hơn
th́ mới
vỡ
lẽ ra rằng triết học
thời
xưa
cũng như
triết học
thời
nay đều thực
hành phương
pháp thiết yếu cực
đoan: ngay từ
những
thời
kỳ đầu của
con người,
những
sự
thật
căn bản
về mọi
điều mà ta
được
phép biết trên trần thế đều được
cao đồ giữ
an toàn trong thánh điện;
những
sự
khác nhau về tín điều và phép thực
hành tôn giáo đều chỉ
là bề ngoài; những
người
canh giữ
sự
thiên khải
nguyên sơ
và đã giải
quyết được
mọi bài toán trong phạm vi của trí người
hiểu
được
đều liên kết với
nhau qua một
tổ
chức
tam điểm
đại
đồng thế giới
về
khoa học và triết học
tạo
thành một
dây xích liền một
khúc vòng quanh quả
địa
cầu. Ngôn ngữ
học
và
tâm lý học
cần phải
tìm cho ra cái đầu mút của
sợi
dây xích ấy. Nếu tìm được
thì nó sẽ nhận
biết được
rằng chỉ
cần nới
lỏng
được
một
mắt xích trong cái hệ
thống tôn giáo cổ
xưa
ấy thì ta có thể
tháo gở
được
cái chuỗi
dây xích bí nhiệm
ấy.
Việc
lơ
là và giữ
kỹ những
bằng chứng
ấy đã đẩy
những
người
có đầu óc lỗi lạc
như
Hare và Wallace cùng với
những
người
đầy quyền lực
khác vào hội
đoàn Thần linh học
hiện
đại.
Đồng thời
nó lại
bắt buộc
những
người
khác bẩm
sinh không có trực
giác tâm linh phải
sa vào chủ
nghĩa duy vật
thô thiển
núp dưới
nhiều tên gọi
khác nhau.
Nhưng
chúng tôi chẳng
thấy có ích lợi
gì mà theo đuổi
đề tài này thêm nữa.
Đó là vì
mặc
dù theo ý kiến của
hầu hết những
người
đương
đại,
chỉ
có một
ngày tràn đầy học
thức
trong cái ánh sáng nhá nhem ấy có những
triết gia cổ
xưa
còn trong cái ánh sáng chói lọi
giữa
trưa
của
ngày ấy cũng có mọi
triết gia
thời
nay của
ta; và mặc
dù bằng chứng
của
hàng chục
tư
tưởng
gia thời
xưa
và thời
trung cổ
đã tỏ
ra vô giá trị
đối với
các nhà thực
nghiệm
thời
nay dường
như
thể
thế giới
chỉ
mới
khai sinh ra từ
năm thứ
nhất sau Công nguyên
và mọi
kiến thức
đều mới
được
phát triển
gần đây th́ chúng tôi cũng chẳng
hề mất hi vọng
hoặc
mất can đảm.
Bây giờ
là lúc thuận
tiện
hơn
bao giờ
hết để
duyệt
lại
các triết lý cổ
xưa.
Các nhà khảo
cổ
học,
ngôn ngữ
học,
thiên văn học,
hóa học
và vật
lý học
đang càng ngày càng tiến gần đến mức
họ
bắt buộc
phải
xét tới
các triết lý cổ.
Khoa học
vật
lý đã đạt
tới
sự
giới
hạn
của
sự
thám hiểm;
thần học
theo giáo điều thấy
động
cơ
linh hứng
cho mình đã khô cạn.
Nếu chúng tôi không đánh giá lầm dấu hiệu
th́ đã gần tới
lúc thế
giới
nhận
được
bằng chứng
cho thấy chỉ
có tôn giáo cổ
truyền mới
hài hòa với
thiên nhiên và chỉ
có khoa học
cổ
truyền mới
bao
trùm được
mọi thứ
mà ta có thể
biết được.
Những
bí mật
đã giấu kín lâu nay có thể
được
tiết lộ;
những
quyển
sách đã bị
quên lãng lâu nay và những
nghệ
thuật
đă bị
thất truyền từ
bao đời
nay có thể
lại
được
đưa
ra trước
ánh sáng; những
sách bằng giấy gió và bằng da mỏng
có tầm quan trọng
vô giá có thể
mở
ra trong tay những
người
tự
cho là mình vớ
được
chúng từ
các xác
ướp
hoặc
chạm
phải
chúng trong những
hầm mộ
bị
chôn giấu; những
bảng
biểu
và cột
trụ
với
những
thứ
điêu khắc khải
huyền sẽ làm sững
sờ
các nhà thần thoại
và làm băn khoăn các nhà khoa học
cũng có thể
được
khai quật
và thuyết minh. Ai mà biết được
tương
lai sẽ xảy
ra điều gì? Chẳng
bao lâu
nữa
một
kỷ
nguyên tỉnh
ngộ
và tái thiết sẽ bắt đầu, thậm
chí nó đã bắt đầu rồi. Chu kỳ này hầu như
đã đi hết đoạn
đường
của
nó, một
chu kỳ mới
sắp bắt đầu và những
trang sử
mới
trong tương
lai có thể
chứa
đầy bằng
chứng
và chứng
minh hùng hồn rằng
“Nếu ta có thể
tin được
tổ
tiên,
Thì các Chơn
linh đã giáng lâm để
đàm đạo
với
con người,
Và dạy cho y bí mật
về
thế giới
mà chưa
ai biết”.
Tác giả xin kính dâng bộ
sách này cho Hội
Thông Thiên Học,
được
sáng lập
ở
New York, năm 1875 sau Công nguyên, ĐỂ
HỘI
NGHIÊN CỨU
NHỮNG
ĐỀ TÀI MÀ BỘ
SÁCH BÀN TỚI
CHƯƠNG
II
CÁC HIỆN
TƯỢNG
PHÉP LẠ
VÀ THẦN
LỰC.
- Sự
nô dịch
của
xã hội.
- Thành kiến và sự
ngu tín của
các nhà khoa học.
- Họ bị các hiện
tượng
thông linh săn đuổi.
- Các bí thuật
đã thất truyền.
- Ý chí của con người
là chủ
lực
trong các thần lực.
- Những
điều tổng
quát hóa hời
hợt
của
các
nhà bác học
người
Pháp.
- Các hiện
tượng
đồng
cốt được
gán cho cái gì?
- Quan hệ
của
chúng với
tội
ác.
“Lòng kiêu hảnh
(nơi
mà không có trí xảo)
bước
vào để
bảo
vệ
chúng
ta,
Và lấp đầy mọi
ý thức
trống rỗng cồn cào trong tâm khảm
. . .”
GIÁO HOÀNG
“Nhưng
tại
sao những
tác động
của
thiên nhiên lại
phải
thay đổi?
Có thể
có một
triết
lý sâu sắc hơn
mức
ta mơ
ước
tới
– một
triết lý khám phá ra được
những
bí mật
của
thiên nhiên
nhưng
không làm thay đổi
lộ
trình của
nó qua việc
thâm nhập
vào các bí mật
ấy”.
BULWER
*************
Cổ
nhân bao giờ
cũng xuất sắc
– nhất là các nhà Pháp thuật
và chiêm tinh gia người
Chaldea – vì họ
tha thiết yêu mến và tha thiết theo đuổi
kiến thức
trong mọi
ngành khoa học.
Họ
cố gắng thâm nhập
các bí mật
của
thiên nhiên cũng giống như
các nhà vạn
vật
học hiện
đại
và chỉ
dùng phương
pháp duy nhất khiến người
ta có thể
đạt
được
mục
tiêu này, nghĩa là bằng lý trí và nghiên cứu
thực
nghiệm.
Nếu các triết gia hiện
đại
không thể
hiểu
được
sự
thật
là họ
đã thâm nhập
sâu hơn
về các điều bí nhiệm
của
vũ trụ
thì điều này cũng không tạo
ra một
lý do xác đáng tại
sao ta không tin họ
có được
kiến thức
này hoặc
buộc
tội
họ
chịu
trách nhiệm
về điều mê tín dị
đoan. Chẳng
có gì bảo
đảm
được
lời
kết tội
ấy và mọi
khám phá khảo
cổ
mới
đều nổi
dậy
chống lại
giả
định
đó. Họ
đều vô song về mặt
hóa học
và trong bài thuyết trình nổi
tiếng
Bàn về các Thuật
đã Thất truyền,
Wendell Phillips có nói: “Hóa học
của
thời
kỳ xa xưa
nhất đã đạt
tới
mức
mà
ta thậm
chí chưa
bao giờ
đến gần được”.
Bí mật
của
thủy
tinh dễ dát mỏng
– “nếu chỉ
được
nâng đỡ
ở
một
đầu, do trọng
lượng
của
chính mình th́ trong vòng 20 tiếng đồng nó sẽ rút
gọn lại thành một
sợi
dây mảnh
mai mà bạn
có thế quấn quanh cổ
tay mình” – ắt khó lòng mà tái phát hiện
được
trong các xứ
văn minh của
ta chẳng
khác nào bay lên mặt
trăng.
Có một
sự
thật
lịch
sử
là việc
tạo
ra một
cái cốc
bằng thủy
tinh do một
người
lưu
đày mang tới
La Mã vào triều đại
Tiberius – cái cốc này “khi được
ném mạnh
xuống hè đường
bằng đá hoa cương
không bị
vụn
tan hoặc
nứt
vì do sự
va chạm
ấy” và nếu nó có bị
“móp méo chút
ít” thì cũng dễ dàng nắn lại
hình dáng cũ bằng một
cái búa. Nếu ngày nay người
ta nghi ngờ
việc
ấy th́ đó chỉ
là v́ người
hiện
đại
không thể
làm được
như
vậy.
Và thế nhưng,
nơi
Samarkand và một
số tu viện
ở
Tây Tạng,
người
ta vẫn có thể
tìm thấy những
cái cốc và đồ thủy
tinh như
thế mãi tới
tận
ngày nay; thậm
chí có người
quả
quyết rằng mình có thể
làm được
giống như
vậy
nhờ
có hiểu
biết về
chất dung môi vạn
năng đã bị
chế nhạo
rất
nhiều và xưa
nay đã bị
nghi ngờ.
Tác nhân này mà Paracelsus và Van Helmont quả
quyết rằng đó là một
lưu
chất nào đó trong thiên nhiên “có thể
rút gọn
mọi
vật
thể
trần thế, đồng chất cũng như
hỗn hợp
qui về
nguyên thể
bản
sơ
tức
vật
chất nguyên thủy
cấu tạo
thành chúng, hoặc
rút gọn
chúng thành ra một
chất lỏng
đồng dạng,
đồng đẳng
và dễ uốn, nó hiệp
nhất được
với
nước,
với
các thể
dịch
trong mọi
vật
thể,
song vẫn giữ
được
những
tính chất
căn cốt của
chính mình; và nếu nó lại
được
hòa lẫn với
chính nó th́ do đó sẽ được
chuyển
hóa thành nước
sơ
cấp thuần khiết”; liệu
có điều ngăn cản
không cho
ta tin vào phát biểu
ấy? Tại
sao nó lại
không tồn tại
và tại
sao ý tưởng
này được
coi là không tưởng?
Chẳng
lẽ lại
v́ các nhà hóa học
hiện
đại
của
ta không thể
chế tạo
ra nó hay sao? Nhưng
chắc chắn là ta có thể
không cần nhiều cố gắng tưởng
tượng
cũng quan niệm
được
rằng mọi
vật
thể
thoạt
tiên ắt phải
xuất phát từ
một
vật
chất bản
sơ
nào đó, và tùy theo những
bài học
của
thiên văn học,
địa
chất học
và vật
lý học,
vật
chất này ắt phải
là một
lưu
chất. Tại
sao vàng – các nhà khoa học
của
ta biết
rất ít về khởi
nguyên của
vàng – lại
thoạt
tiên là
một
vật
chất bản
sơ
của
vàng,
là một
lưu
chất nặng
nề mà Van Helmont có nói rằng “do bản
chất của
chính mình tức
là do có sự
cố kết mạnh
mẽ giữa
các hạt,
nó theo được
một
dạng
rắn chắc sau đó”?
Dường
như
có rất ít sự
phi lý khi tin vào một
“nguyên thể
vạn
năng làm tan hòa được
mọi
vật
thể
thành ra
nguyên tử
sinh hóa
của mình”. Van Helmont gọi
đó là “chất muối cao siêu nhất và thành
công nhất trong mọi
chất muối; nhờ
đã đạt
được
mức
độ
tối cao về
đơn
giản,
thuần khiết và tinh vi, chất muối ấy chỉ
nếm trải
được
khả năng vẫn còn bất biến và không bị
hao mòn do những
đối tượng
mà nó tác động
lên đó và
làm tan hòa được
những
vật
thể
khó điều chế và khó xử
lý nhất; cũng giống như
đá, đá quí, thủy
tinh, đất, lưu
huỳnh, kim loại
v.v. . . tan hòa thành muối đỏ
có trọng
lượng
bằng trọng
lượng
của
chất bị
hòa tan, và điều này
cũng dễ dàng như
việc
nước
nóng làm cho tuyết tan chảy
ra”.
Những
người
chế tạo
loại
thủy
tinh dễ dát mỏng
đã khẳng
định
và giờ
đây đã khẳng
định
rằng họ
nhúng thủy
tinh thông thường
vào lưu
chất này trong nhiều tiếng
đồng hồ để
có được
tính chất dễ dát mỏng.
Chúng ta có một
bằng chứng
sờ
sờ
ra trước
mắt và sẵn có về những
khả
năng ấy. Một
thông tín viên nguyên người
nước
ngoài thuộc
Hội
Thông Thiên Học,
một
nhà hành nghề y nổi
tiếng,
một
người
đã nghiên cứu
khoa học
huyền bí tới
tận
30 năm, đã thành công trong việc
thu lượm
điều mà ông gọi
là “chất dầu chân chính của
vàng” nghĩa là nguyên tố bản
sơ.
Các nhà hóa học
và vật
lý học
đã nhìn thấy và
đã khảo
sát nó, và bắt buộc
phải
thú nhận
rằng họ
cũng chẳng
biết
bằng cách nào
mà thu hoạch được
nó và họ
cũng không làm được
như
thế. Chẳng
có gì đáng ngạc
nhiên khi ông muốn giấu kín tên tuổi
của
mình; đôi khi sự
chế nhạo
và thành kiến của
công luận
còn nguy hiểm
hơn
tòa án tôn giáo thời
xưa.
“Chất đất của
Adam” này cận
kề ngay sát nách chất dung môi vạn
năng, và là một
trong những
bí mật
quan trọng
nhất của
các nhà luyện
kim đan.
Không một
môn đồ Kabala nào tiết lộ
nó cho thế giới
vì ông có diễn tả
nó trong câu nói lóng nổi
tiếng sau đây: “Nó sẽ giải
thích được
những
con chim
ưng
của các nhà luyện
kim đan, và cách ‘cắt cụt
cánh’ những
con chim
ưng
ấy”; đây là một
bí mật
mà Thomas Vaughan (Engenius Philalethes) phải
mất 20 năm mới
học
được.
Giống như
buổi
bình minh của
khoa học
vật
lý bung ra thành ánh sáng thanh thiên bạch
nhật
chói lòa, cũng vậy
các khoa học
tâm linh hòa
lẫn càng ngày càng sâu hơn
vào đêm tối và đến lượt
chúng lại
bị
chối bỏ.
Cũng vậy,
ngày nay các bậc
thầy vĩ đại
nhất về tâm lý học
lại
bị
coi là “những
vị
tổ
tiên dốt nát và mê tín dị
đoan” chẳng
khác nào những
kẻ
leo dây gây ám thị
và những
nhà ảo
thuật
vì thế đấy mặt
trời
học
thức
hiện
đại
ngày nay chiếu sáng lòa đến nỗi có một
công lý tiên đề theo đó các triết gia và nhà khoa học
thời
xưa
chẳng
biết điều gì, và sống trong đêm
đen mê tín dị
đoan. Nhưng
những
kẻ
vu khống quên mất rằng mặt
trời
ngày nay dường
như
tối đen so với
cũng tinh cầu đó ngày mai cho dù điều đó có đúng hay chăng; và
cũng như
những
người
thuộc
thế kỷ
chúng ta nghĩ rằng tổ
tiên
của
mình là dốt nát; cũng vậy
hậu
duệ
của
họ
có lẽ sẽ coi họ
là
chẳng
biết điều gì.
Thế giới
đang vận
động
theo chu kỳ. Các giống dân sắp tới
chẳng
qua chỉ
là mô phỏng
lại
các giống dân đã biến mất từ
lâu rồi; cũng
như
có lẽ chúng ta là hình ảnh
của
những
giống dân đã sống cách đây hằng trăm thế kỷ.
Sẽ có lúc mà những
kẻ giờ
đây đang công khai nói xấu các môn đồ phái Hermes, nhưng
lại
âm thầm suy gẫm những
quyển
sách phủ
đầy bụi
của
họ, để
rồi đạo
văn các ý tưởng
của
họ,
đồng hóa chúng và biến các ý tưởng
ấy thành ý tưởng
của
chính mình – những
kẻ
ấy rồi ra sẽ phải
trả
nợ.
Pfaff đã thẳng
thắn kêu lên “ai đâu đã từng
được
coi là có những
quan điểm
bao quát về thiên nhiên nhiều hơn
Paracelsus? Ông là người
dũng cảm
sáng tạo
ra các loại
hóa dược,
sáng lập
nên những
phe phái can đảm;
chiến thắng những
cuộc
tranh cãi, thuộc
về những
đầu óc đã sáng tạo
ra trong chúng ta
một
cách suy tư
mới
về sự
tồn tại
tự
nhiên của
các sự
vật.
Điều mà ông truyền bá qua những
tác phẩm
của
mình bàn về điểm
kim thạch,
người
lùn và các tinh linh trong hầm mỏ;
bàn về các cung hoàng đạo,
những
người
tí hon và
thuốc trường
sinh. Nhiều người
đã dùng chúng để
đánh giá thấp về
ông; nhưng
những
điều đó không làm nhụt
đi ḷng biết
ơn
nhớ
tưởng
của
chúng ta đối với
các công trình của
ông nói chung, cũng như
lòng hâm mộ
của
chúng ta đối
với
những
nỗ lực
táo bạo,
phóng khoáng của
ông và sinh hoạt
trí thức
cao cả
của
ông”
[[59]]
.
Có nhiều nhà bệnh
lý học,
nhà hóa học,
nhà chữa
bệnh
vi lượng
đồng căn, và nhà từ
điển
đã làm nguôi ngoai nỗi khát khao kiến
thức
của
mình qua những
sách vở
của
Paracelsus. Frederick Hufeland có được
những
học
thuyết lý thuyết bàn về bệnh
truyền nhiễm từ
viên “lang băm” người
trung cổ
này (Sprengel đã hả
hê gọi
như
vậy
cái người
cao siêu hơn
chính mình
như
thế
đấy). Hemman (ông ra sức
biện
minh cho triết gia vĩ đại
này và cố gắng chỉnh
đốn lại
kỷ
niệm
vì việc
ông bị
nói xấu) gọi
ông là “nhà hóa học
vĩ đại
nhất
đương
thời”
[[60]]
. Giáo sư
Molitor
[[61]]
và Tiến sĩ Ennemoser, nhà tâm lý học
lỗi lạc
người
Đức
[[62]]
cũng như
vậy.
Theo lời
phê phán của
họ
về
những
công trình lao động
của
môn đồ phái Hermes này, Paracelsus là nhà trí thức
“xuất sắc nhất đương
thời”,
một
“thiên tài cao cả”.
Nhưng
ánh
sáng hiện
đại
của
ta giả
định
rằng mình còn biết nhiều hơn
và những
ý tưởng
của
môn đồ phái Hoa hồng Thập
tự
về
các tinh linh ngũ hành, yêu tinh và quỉ
lùn đã chìm vào cõi “u linh của
pháp thuật”
và chuyện
thần tiên trong
buổi
thiếu thời
[[63]]
.
Chúng ta đã hoàn toàn sẵn sàng thừa
nhận
cùng với
kẻ
đa nghi rằng một
nửa
(thậm
chí còn hơn
nữa)
những
điều dường
như
là hiện
tượng
phép lạ
này chẳng
qua chỉ
là những
trò lừa
phỉnh
ít nhiều tinh
xảo. Những
chuyện
lật
tẩy
gần đây, nhất là về những
đồng cốt “hiện
hình” cũng đủ
chứng
tỏ
quá nhiều sự
kiện
ấy. Chắc chắn là nhiều chuyện
khác vẫn còn được
dành sẵn và điều này sẽ tiếp tục
cho đến khi những
cuộc
trắc
nghiệm
đã trở
nên hoàn hảo
và các nhà thần linh học
đã trở
nên có lý trí đến mức
không còn cung cấp cơ
hội
cho những
người
đồng cốt hoặc
cung cấp vũ khí cho các địch
thủ.
Liệu
những
nhà thần linh học
biết điều
nghĩ gì về tính cách của
những
thiên thần
hướng
dẫn sau khi độc
quyền chiếm dụng
thời
gian, sức
khỏe
và phương
tiện
của
một
người
đồng cốt khốn khổ
có lẽ trong nhiều năm lại
thình lình bỏ
rơi
y khi y cần tới
sự
giúp đỡ
của
họ
nhiều nhất? Chẳng
có gì ngoại
trừ
đó là những
tạo vật
không có linh hồn hoặc
tán tận
lương
tâm
cho nên mới
phạm
tội
bất công như
thế. Tình huống
ư?
Chỉ
là ngụy
biện
thôi. Họ
ắt là cái loại
vong linh nào khi cần thiết mà
lại không triệu
tập
được
một
đội
quân vong linh bè bạn
của
mình (nếu có được
như
vậy)
để
lôi kéo người
đồng cốt vô tội
ra khỏi
cái hố sâu được
đào sẵn dưới
chân y? Những
điều đó đã xảy
ra vào thời
xưa
và những
điều đó cũng
có thể
xảy
ra bây giờ.
Trước
thời
thần linh học
hiện
đại
cũng đã có những
chuyện
hiện
hình và trong mọi
thời
đại
trước
kia đều có những
hiện
tượng
phép lạ
giống như
thời
đại
chúng ta.
Nếu những
sự
biểu
lộ
hiện
đại
là một
thực
tại
và những
sự
kiện
rành rành ra đó thì cái gọi
là “các phép lạ”
và chiến tích thần thông của
thời
xưa
ắt cũng phải
như
vậy;
hoặc
nếu phép lạ
chẳng
qua chỉ
là chuyện
hư
cấu mê tín dị
đoan thì những
sự
biểu
diễn thời
nay ắt cũng phải
như
thế vì chúng đâu có dựa
vào chứng
cớ
nào tốt hơn.
Nhưng
trong cái dòng thác ngày càng gia tăng các hiện
tượng
huyền bí đổ
xô từ
đầu mút này tới
đầu mút kia của
quả
địa
cầu thì mặc
dù
2/3 của những
sự
biểu
diễn đều được
chứng
tỏ
là giả
mạo
thế thì những
cuộc
biểu
diễn được
chứng
tỏ
là chân thực
không thể
nghi ngờ
hoặc
cãi bướng
được
sẽ ra sao? Trong số đó ta có thể
thấy những
sự
giao tiếp thông qua
các đồng cốt không chuyên nghiệp
cũng như
chuyên nghiệp,
họ
vốn cao thượng
và vĩ đại
một
cách thánh thiện.
Thường
thường
thì thông qua lũ trẻ
con ngây thơ
và những
người
dốt nát ngớ
ngẩn,
chúng tôi nhận
được
những
giáo huấn
và huấn điều triết học,
những
bài diễn thuyết linh hứng,
và thi ca, âm nhạc
và hội
họa
vốn hoàn toàn xứng
đáng với
tên tuổi
mà người
ta gán cho tác giả của chúng. Những
lời
tiên tri của
họ
thường
được
nghiệm
đúng và những
khảo nghiệm
của
họ
mang đầy hảo
ý mặc
dù về mặt
đạo
đức
diễn ra hiếm hơn.
Đâu là những
vong linh, những
quyền năng hoặc
sinh linh thông tuệ
hiển
nhiên là
ở
bên ngoài
người
đồng cốt chính hiệu
và là các thực
thể
tự
thân?
Những
sinh linh thông tuệ
này đáng được
gọi
như
thế; và chúng khác xa đa số âm ma và yêu tinh lởn
vởn
xung quanh phòng lên đồng biểu
diễn trên cõi trần, khác xa như
ngày khác đêm.
Chúng tôi phải
thú nhận
rằng tình hình dường
như
rất nghiêm trọng.
Việc
các “vong linh” dối trá và vô luân như
thế thường
xuyên kiểm
soát các đồng cốt càng ngày càng trở
nên phổ
biến hơn;
và những
tác dụng
độc
hại
của
điều
dường
như
là ma thuật
thường
xuyên tăng trưởng.
Một
số những
đồng cốt tốt nhất đang từ
bỏ
diễn đàn công luận
và rút lui khỏi
ảnh
hưởng
của
nó; phong trào thần linh học
đang trôi dật
dờ
về
hướng
nhà thờ.
Chúng tôi đánh bạo
tiên đoán rằng nếu các nhà thần linh học
không
khởi
sự
nghiên cứu
triết học
cổ
truyền để
học
cách phân biệt
các vong linh và ngăn ngừa
các vong linh tồi tệ
thì chỉ
trong vòng 25 năm tới
họ
phải
nhảy
bổ
tới
nhóm đạo
thánh thể
của
Công giáo La Mã để
trốn tránh những
vong linh “hướng
dẫn” và “kiểm
soát” mà họ
đã si mê từ
biết bao lâu nay. Những
dấu hiệu
của
thảm
họa
này đã phơi
bày ra rồi đấy. Trong một
hội
nghị
gần đây
ở
Philadelphia người
ta đã nghiêm túc đề nghị
tổ
chức
một
giáo
phái Thần linh học
Ki Tô giáo. Đó là vì sau khi đă triệt
thoái ra khỏi
nhà thờ
và chẳng
học
được
gì về
triết lý của
các hiện
tượng
phép lạ
tức
là bản
chất của
các vong linh, họ
đang trôi nổi
trên một
biển
cả
bấp bênh giống
như
con tàu không có la bàn hoặc
bánh lái. Họ
không thể
thoát khỏi
thế tiến thoái lưỡng
nan; họ
phải
chọn
giữa
Porphyry và Pio Nono.
Trong khi các nhà khoa học học chân chính như
Wallace, Crookes, Wagner, Butlerof, Varley, Buchanan,
Hare, Reichenbach, Thury, Perty, de Morgan, Hoffmann, Goldschmidt, W.
Gregory, Flammarion, Sergeant Cox và nhiều người
khác tin chắc vào nhiều phép lạ
hiện
hành thì nhiều người
được
nêu tên trên đây lại
bác bỏ
thuyết vong linh của
người
quá cố. Do đó, dường
như
cũng hợp
lý thôi khi nghĩ rằng nếu “Katie King”
ở
Luân Đôn –
một
điều nào đó
duy nhất đã hiện
hình mà công chúng bắt buộc
ít nhiều đã tin tưởng
do tôn trọng
khoa học
– không phải
là vong linh
của một
người
đã chết thì đó ắt phải
là hình bóng tinh anh đã được
cô đặc
lại
của
một
trong các âm ma của
phái Hoa hồng Thập
tự
(chỉ
là điều hoang tưởng
do mê tín dị
đoan) hoặc
là của
một
lực
nào đó trong thiên nhiên cho
đến nay chưa
ai giải
thích được.
Tuy nhiên cho dù nó là “vong linh còn khỏe
mạnh
hay yêu quỉ
bị
nguyền rủa”
thì cũng chẳng
quan trọng
bao nhiêu; vì một
khi người
ta đã chứng
tỏ
được
rằng cơ
thể
của
nó không phải
làm bằng chất
đặc
th́ nó ắt phải
và nhất định
là một
“vong linh”, một
sự
hiện
hình, một
thần khí.
Đó là một
sinh linh thông tuệ
hoạt
động
bên ngoài cơ
thể
ta và do đó nó phải
thuộc
về một
giống sinh linh nào đó đang tồn tại
cho dù
chưa
ai nhìn thấy. Nhưng
nó là cái gì vậy?
Cái điều
gì đó vốn biết suy nghĩ và thậm
chí nói năng nữa,
thế
nhưng
không phải
là con người;
chẳng
ai sờ
mó thấy nó thế nhưng
đó không phải
là một
vong linh đã thoát xác; nó giả
vờ
yêu thương,
đam mê, hối hận,
sợ
sệt,
vui mừng
nhưng
thật
ra có xúc cảm
chi đâu; nó là cái gì vậy?
Cái tạo
vật
giả
nhân giả
nghĩa vốn lấy làm thích thú khi lừa
gạt
được
người
điều
tra trung thực
và chế nhạo
xúc cảm
thiêng
liêng của
con người,
nó là cái gì vậy?
Đó là v́ nếu không có Katie King của
ông Crookes thì những
tạo
vật
tương
tự
cũng làm được
chỉ
chuyện
như
thế. Ai có thể
thăm dò được
điều bí mật
này? Chỉ
có nhà tâm lý học
chân chính
thôi. Và liệu
y phải
đi tìm những
quyển
sách giáo khoa của
mình
ở
đâu nếu không phải
là
ở
những
hốc xó xỉnh
bị
bỏ
lơ
trong tủ
sách nơi
mà tác phẩm
bị
khinh bỉ
của
các môn đồ Hermes và nhà thông thần đã bị
phủ
bụi
trong nhiều
năm nay.
Khi trả lời
một
câu đả
kích của
một
kẻ
đa nghi thời
đó tên là Webster nhằm vào những
người
tin tưởng
các hiện
tượng
tâm linh và pháp thuật,
Henry More (môn đồ phái Plato được
kính trọng, người
Anh) có nói rằng
[[64]]
: “Con về
phần cái ý kiến khác mà đa số những
nhà cải cách thiêng liêng chủ
trương
theo đó chính Ma quỉ
xuất hiện
dưới
dạng
Samuel th́ người
ta không buồn khinh thường
ý kiến ấy. Đó là vì mặc
dù tôi không hoài nghi nhiều sự
xuất
hiện
trong các buổi
chiêu hồn này, coi đó là
những
vong linh đùa nghịch
chứ
không phải
vong hồn của
người
quá cố trở
lại,
song tôi tin chắc rằng linh hồn của
Samuel có xuất hiện
cũng xác tín như
trong những
buổi
chiêu hồn khác; theo như
Porpyrius mô tả
trên kia, có thể
các loại
vong linh ấy biến đổi
thành ra thiên hình vạn
trạng,
ba hồi thì đóng vai
ma quỉ, ba hồi thì đóng vai thiên thần hoặc
chư
thiên và ba hồi đóng vai
vong linh của người
quá cố.
Và tôi thú nhận
rằng một
vong linh như
thế có thể
là
hiện
thân
của Samuel
ở
đây v́ bất chấp mọi
thứ
mà Webster viện
dẫn ngược
lại,
lập
luận
của
ông thật
ra hết sức
yếu
ớt
và lúng túng”.
Khi nhà siêu hình học
và triết gia tầm cỡ
như
Henry More mà đưa
ra chứng
cớ
như
thế thì chúng tôi có thể
yên tâm giả
sử
rằng người
ta đã nghiêm chỉnh
cứu
xét
quan điểm
của
chúng tôi. Các nhà bác học
khảo
cứu
vốn nói chung là rất nghi ngờ
về
các vong linh và nói riêng là nghi ngờ
“vong hồn của
người
đã quá cố” th́ trong vòng 20 năm vừa
qua đã moi óc chế ra những
tên gọi
mới
dành
cho một
sự
vật
xưa
cũ. Như
vậy
đối với
ông Crookes và Sergeant Cox th́ đó là “lực
tâm linh”. Giáo sư
Thury
ở
Geneva gọi
nó là chất “psychode” tức
lực
ngoại lai;
Giáo sư
Balfour Stewart gọi
nó là “năng lượng
điện
sinh học”;
Faraday,
“bậc
thầy vĩ đại
về triết lý thực
nghiệm
trong vật
lý học”,
nhưng
xét theo biểu
kiến là một
kẻ
sơ
cơ
về tâm lý học
ngạo
mạn
gọi
nó là một
“tác động
cơ
bắp vô ý thức”,
“một
tác động
trí não vô ý thức”
và còn gì
nữa?
Ngài William Hamilton gọi
nó là một
“tư
tưởng
tiềm tàng”; Tiến sĩ Carpenter gọi
nó là “nguyên lý động
cơ
thúc đẩy
của
ý tưởng”
v.v. . . Có bao nhiêu nhà khoa học
thì có bấy nhiêu tên gọi.
Cách đây nhiều năm, triết gia của nước
Đức
cổ
xưa,
Schopenhauer đã giải
quyết lực
và vật
chất cùng một
lúc; và từ
khi ông Wallace cải
đạo
th́ nhà nhân loại
học
vĩ đại
hiển
nhiên đã chọn
theo các ư tưởng
đó. Theo học
thuyết của
Schopenhauer thì vũ trụ
chẳng
qua chỉ
là sự
biểu
lộ
của
ý chí. Mọi
lực
trong thiên nhiên cũng chỉ
là một
tác dụng của ư chí, biểu
diễn một
mức
độ
cao hoặc
thấp tính cách ngoại
giới
của
ý chí. Đó là giáo huấn của
Plato (ông nêu rõ rằng mọi
vật
hữu
hình đều được
sáng tạo
hoặc
tiến hóa ra từ
ý chí vĩnh hằng và vô hình, theo dạng
thức
của
ý chí). Cõi Trời
của
ta, theo ông được
tạo
ra dựa
vào khuôn mẫu vĩnh hằng của
“Thế
giới
Ý niệm”
vốn được
bao hàm trong hình khối
12 mặt
(mô hình kỷ
hà của
Đấng thiêng liêng sử
dụng)
giống như
mọi
thứ
khác nữa
[[65]]
. Theo Plato, Bản thể
Nguyên sơ
là phân thân của
Trí tuệ
Hóa công (Nous)
vốn chứa
đựng
từ
thời
gian vĩnh hằng cái “ý
tưởng”
về “thế giới
được
tạo tác” ra và ngài tạo
ra ư tưởng
đó từ
bản
thân mình
[[66]]
. Những
định
luật
của
thiên nhiên là những
hệ
thức
đã được
xác lập
của
ý niệm
này đối với
những
hình thức
biểu
lộ
của
nó. Schopenhauer có nói: “Những
hình
thức
này là thời
gian, không gian và tính nhân quả.
Trải
qua thời
gian và không gian, ý niệm
biến thiên với
vô vàn biểu
lộ”.
Những
ý niệm
này đâu có gì là mới
và ngay cả
đối với
Plato thì chúng cũng chẳng
hề tân kỳ. Chúng
ta đọc
thấy điều sau đây trong tác phẩm
Sấm truyền của
người
Chaldea
[[67]]
: “Những
công trình của
thiên nhiên cùng tồn tại
với
Ánh sáng tri thức,
tâm linh của
ngôi Cha. Đó là v́ chính linh hồn tô điểm
cho cõi trời
vĩ đại
và tô điểm
nó theo Cha trời”.
Philo có nói [[68]]
(người
ta đã sai lầm khi buộc
tội
ông là rút ra triết lý mình từ
triết lý của
Plato): “Vậy
thì thế
giới
vô hình đã được
hoàn tất và được
đặt
vào trong Lý trí của
Thượng
Đế”
Trong Thần phổ
của Mochus, chúng ta thấy trước
hết là Hậu
thiên khí (Æther) rồi tới
phong (air) Ulom – Thượng
Đế
mà ta có thể
hiểu
được
tức
là vũ trụ
vật
chất hữu
hình sinh ra từ
hai nguyên khí nêu trên
[[69]]
.
Trong các bài thánh ca của phái Orpheus, Eros Phanes tiến hóa ra từ
Trứng
Tâm linh, có thấm nhuần Gió tinh anh Hậu
thiên khí, Gió
[[70]]
là “thần khí của
Thượng
Đế”,
nghe nói Ngài vận
động
trong Hậu
thiên khí, “ưu
tư
bên trên Hỗn mang” tức
là “Ý chí” Thiêng
liêng. Trong Katakopanisād của
Ấn Độ,
Purusha tức
Tinh thần Thiêng liêng đã đứng
trước
vật
chất nguyên thủy
rồi, từ
sự
hợp
nhất này mới
nảy
sinh ra đại
Hồn của
Thế
giới,
“Maha=Atma, Brahm, Chơn
linh Nguồn sống”
[[71]]
, các tên gọi
ấy đồng nhất với
tên gọi
Hồn Vũ Trụ
tức
Anima Mundi
và Ánh sáng Tinh tú của các nhà thông thần và môn đồ kinh Kabala.
Pythagoras tiếp nhận
học
thuyết của
mình từ
các thánh điện
Đông phương,
còn Plato biên soạn
chúng ra một
dạng dễ hiểu
hơn
thành ra những
con số thần bí của
bậc
hiền triết (ông đã hoàn toàn chọn
theo học
thuyết của
Pythagoras) đối với
đầu óc của
kẻ
chưa
được
điểm
đạo.
Như
vậy
đối với
Plato,
Càn Khôn
chính là “Ngôi Con” mà cha mẹ của nó là Tư
Tưởng
Thiêng Liêng và Vật
Chất Thiêng Liêng[[72]]
.
Dunlap có nói [[73]]
: “Người
Ai Cập
phân biệt
Horus già với
Horus trẻ,
Horus già là
anh em
của Osiris, còn Horus trẻ là con
trai của Osiris và Isis”. Horus già là
Ý niệm
về
thế giới
vẫn còn lại
trong Tâm trí của
đấng Hóa công, “được
sinh ra trong đêm tối trước
khi thế giới
được
sáng tạo ra”. Horus thứ
nhì là “Ý niệm”
này xuất phát từ
Ngôi Lời
và đã khoác lấy vật
chất, có được
sự
tồn
tại đúng thực
[[74]]
.
Sấm truyền của
người
Chaldea
có nói: “Thượng
Đế
trần tục,
vĩnh hằng, vô biên, trẻ
và già, có dạng
uốn éo”
[[75]]
.
“Dạng
uốn éo” này là một
hình thái tu từ
để
diễn tả
sự
rung động
của
Ánh sáng Tinh tú
mà các lễ sư
ngày xưa
hết sức
quen thuộc,
mặc
dù họ
có quan niệm
khác với
chất ether của
các nhà khoa học
hiện
đại;
đó là v́ họ
đặt
vào Hậu
thiên khí ấy cái Ý niệm
Vĩnh hằng vốn thấm nhuần Vũ trụ
tức
là
Ý chí
trở
thành Lực
và sáng tạo ra hoặc
tổ
chức
vật
chất.
Van Helmont có nói: “Ý chí là quyền năng đầu tiên trong mọi
quyền năng. Đó là v́ thông qua ý chí của
đấng Sáng tạo,
người
ta tạo
ra vạn
vật
và làm cho chúng chuyển
động
. .
. Ý chí là thuộc
tính của
mọi
sinh linh tâm linh và càng bộc
lộ
tích cực
nơi
những
sinh linh này khi sinh linh ấy giải
thoát ra khỏi
vật
chất”. Paracelsus – ông được
gọi
là “đấng thiêng liêng” – có nói thêm với
cùng một
giọng
điệu:
“Đức
tin”
phải
xác nhận
óc tưởng
tượng
v́ đức
tin xác lập
ý chí
. . .Ý chí quyết tâm là khởi
đầu của
mọi
thao tác pháp thuật
. . . Vì người
ta không tưởng
tượng
được
hoàn chỉnh
và tin tưởng
hết mình vào kết quả
cho
nên pháp thuật
mới
bấp bênh trong khi lẽ ra thì chúng phải
hoàn toàn chắc chắn”.
Chỉ cần một
năng lực
đối kháng là không tin và đa nghi, nếu được
phóng chiếu thành một
dòng có cường
độ
lực
tương
đương
thì có thể
kềm chế được
dòng năng lượng
kia và đôi khi hoàn toàn hóa giải
được
nó. Tại
sao các nhà thần
linh học
lại
lấy làm lạ
khi sự
hiện
diện
của
một
số kẻ
đa nghi hoặc
những
người
cảm
thấy cay đắng chống lại
hiện
tượng
phép lạ,
vô ý thức
vận
dụng
quyền năng ư chí của
mình chống lại
nó, ắt cản
trở
và thường
chận
đứng
hoàn toàn được
những
pha trình diễn? Nếu không có một
quyền năng
hữu
thức
nào trên trần thế đôi khi thấy
một
quyền năng khác can thiệp
vào hoặc
thậm
chí hóa giải
được
mình thì tại
sao ta phải
lấy làm lạ
khi quyền năng
thụ
động
vô ý thức
của một
người
đồng cốt lại
thình lình có những
tác dụng
bị
tê liệt
do một
quyền năng chống đối khác, mặc
dù nó cũng được
vận
dụng
một
cách vô ý thức?
Các giáo sư
Faraday và Tyndall khoe khoang rằng
sự
hiện
diện
của
họ
ở
một
buổi
lên đồng chận
đứng
ngay tức
khắc mọi
pha trình diễn. Chỉ
nội
sự
kiện
này không thôi cũng chứng
tỏ
cho các nhà khoa học
lỗi lạc
thấy rằng trong những
hiện
tượng
phép lạ
này có một
lực
nào đó đáng cho họ
quan tâm. Với
vai trò là một
nhà khoa học,
giáo sư
Tyndall có lẽ nổi
bật
lên trong nhóm người
lên đồng; với
vai trò là một
nhà quan sát sáng trí, một
người
chẳng
dễ gì bị
lừa
gạt
bởi
một
người
đồng cốt
đầy thủ
đoạn,
cho dù có khéo léo thì có lẽ y chẳng
hay ho gì hơn
những
người
khác có mặt
trong phòng và nếu những
pha trình diễn chẳng
qua chỉ
là trò lừa
bịp
khéo léo đến nỗi gạt
gẫm được
người
khác th́ những
pha đó
việc
gì phải
dừng
lại
cho dù có vì lợi
ích của
ông
đi chăng nữa.
Có người
đồng cốt nào dám khoe khoang những
hiện
tượng
phép lạ
mà Chúa Giê su (và sau này là thánh tông đồ Paul) đã tạo
ra? Thế
nhưng
ngay cả
Chúa Giê su cũng
gặp
những
trường
hợp
lực
chống đối vô ý thức
đã thắng được
ngay cả
dòng ý chí được
điều khiển
rất khéo léo của
chính ngài. “Và ngài không làm được
nhiều công trình vĩ đại
ở
đó chỉ
v́ họ
không tin”.
Người
ta có suy
gẫm về mọi
quan điểm
này trong triết lý của
Schopenhauer. Các nhà khoa học
“khảo
cứu”
có thể
tham khảo
tác phẩm
của
ông rất có ích lợi.
Họ
ắt thấy trong đó có nhiều giả
thuyết kỳ lạ
dựa
vào các ý tưởng
cổ
xưa,
các suy
đoán về những
hiện
tượng
“mới”
vốn có thể
tỏ
ra là hợp
lý như
bất kỳ hiện
tượng
nào khác khiến cho họ
đỡ
mất công vô ích sáng chế ra những
thuyết mới.
Các lực
thông linh và lực
ngoại
lai, các quyền năng “động
cơ
thúc
đẩy
ý niệm”
và “năng lượng
điện
sinh học”,
các thuyết về “tư
tưởng
tiềm tàng” và ngay cả
“tác động
trí não vô ý thức”
đều có thể
cô đọng
trong từ
ngữ:
ánh sáng tinh tú của môn đồ kinh Kabala.
Trong tác phẩm
của
Schopenhauer
có trình bày các ý kiến và thuyết táo bạo
khác xa ý kiến của
đa số nhà khoa học
chính thống. Nhà suy đoán liều mạng
này nhận
xét; “thực
ra chẳng
có
vật
chất
mà cũng chẳng
có
tinh thần.
Việc
hòn đá có khuynh hướng
rớt
xuống theo luật
trọng
trường
cũng giống như
tư
tưởng
trong óc người
. . . Nếu vật
chất có thể
– có ai biết tại
sao đâu – rơi
xuống đất thì nó cũng có thể
– có ai biết tại
sao không – suy nghĩ . . . Ngay cả
trong cơ
học,
ngay
khi ta vượt
quá mức
toán học
thuần túy, ngay khi ta đạt
tới
sức
kết dính và lực
trọng
trường
khôn dò v.v. . . th́ ta cũng giáp mặt
với
những
hiện
tượng
mà các giác quan của
ta cho là bí nhiệm
giống như
ý chí và TƯ
TƯỞNG
nơi
con người
– ta thấy mình đương
đầu với
điều không thể
hiểu
nổi
vì mọi
lực
trong thiên nhiên đều không thể
hiểu
nổi.
Thế
thì cái vật
chất
mà bạn cứ
giả
vờ
cho rằng mình biết rất rõ và do đó vì quá quen thuộc
với
nó cho
nên bạn
rút ra đủ
mọi
kết luận
và lời
giải
thích, gán đủ
chuyện
cho vật
chất ấy, cái vật
chất ấy là như
thế nào nhỉ?
Điều mà bạn
có thể
nhận
thức
trọn
vẹn
bằng lý trí và các giác quan thì chẳng
qua hời
hợt
thôi, giác
quan và lý trí chẳng
bao giờ
đạt
tới
được
bản
chất chân thực
ở
bên trong của
vạn
vật.
Kant có ý kiến như
thế. Nếu bạn
cho rằng trong đầu người
có một
loại
ý thức
tinh thần
nào đó thì bạn
cũng bắt buộc
phải
thừa
nhận
điều đó đối với
một
tảng
đá. Nếu cái vật
chất cực
kỳ thụ
động
và chết lặng
của
bạn
mà có thể
biểu
lộ
được
khuynh hướng
hấp dẫn trọng
trường
hoặc
hút và đẩy
giống như
điện
rồi phóng ra các tia lửa
điện
thì nó cũng
có thể
suy nghĩ giống như
bộ
óc vậy.
Tóm lại ta cũng có thể
thay thế
mọi hạt của
cái gọi
là tinh thần bằng một
hạt
vật
chất tương
đương
và thay thế
mọi hạt vật
chất bằng một
hạt
tinh thần tương
đương
. . . Như
vậy
Descartes
phân chia vạn
vật
ra thành vật
chất và tinh thần chẳng
bao giờ
tỏ
ra là chính xác về mặt
triết học;
nhưng
nếu chúng ta chia chúng thành ra
ý chí
và sự
biểu
lộ
(cách phân chia này không dính dáng gì cách phân chia thành vật
chất và tinh thần) vì nó làm cho vạn
vật
trở
nên tâm linh hóa: mọi
thứ
thoạt
tiên là có thực
thuộc
ngoại
giới
– tức
là vật
thể
và vật
chất – bị
nó biến hóa thành ra một
biểu
diễn và mọi
sự
biểu
lộ
biến thành ý chí”
[[76]]
.
Quan niệm
này bổ
chứng
cho điều mà ta đã diễn tả
về
đủ
thứ
tên gọi
dành cho cùng một
sự
vật.
Những
kẻ
tranh cãi chỉ
khẩu
chiến về
ngôn từ
thôi. Cho dù người
ta gọi
các hiện
tượng
phép lạ
ấy là lực,
năng lượng,
điện
hoặc
từ,
ý chí hoặc
quyền năng tinh thần, th́ nó bao giờ
cũng là sự
biểu
lộ
riêng phần của
linh hồn,
cho dù đã thoát xác hay bị
giam cầm trong cơ
thể
một
lúc nào đó – đó là một
bộ
phận
của
cái
ý chí thông tuệ
cá biệt
và toàn năng, thấm nhuần trọn
cả
thiên nhiên được
ta biết là THƯỢNG
ĐẾ do ngôn ngữ
của
loài người
còn thiếu sót nên không diễn tả
chính xác được
các ảnh
tượng
tâm lý.
Ý niệm
của
một
số nhà triết học
kinh viện
về
vật
chất ắt sai lầm nhiều mặt
khi xét theo quan điểm
của
môn đồ kinh Kabala. Hartmann gọi
quan niệm
của
họ
là một
“thành kiến theo
bản năng”.
Hơn
nữa,
ông chứng
tỏ
được
rằng không một
nhà thực
nghiệm
nào có thể
làm được
gì dính dáng tới
vật
chất chính hiệu
mà chỉ
giao tiếp với
các lực
do vật
chất phân chia thành. Tác dụng
hữu
hình của
vật
chất chẳng
qua chỉ
là tác dụng
của
lực.
Do đó ông kết luận
rằng điều mà giờ
đây ta gọi
là vật
chất chẳng
qua chỉ là khối tập
hợp
các lực
nguyên tử
mà người
ta dùng từ
vật
chất
để
diễn đạt:
ngoài điều đó ra thì vật
chất chẳng
qua chỉ
là một
từ
vô nghĩa đối với
khoa học.
Mặc
dù có nhiều lời
thú nhận
thẳng
thắn của
các
chuyên gia – nhà vật
lý học,
sinh lý học
và hóa học
– theo đó họ
chẳng
biết tí gì về vật
chất
[[77]]
, song họ vẫn thần thánh hóa vật
chất.
Mọi hiện
tượng
mới
mà họ
thấy mình không thể
giải
thích được
đều bị
nghiền nát ra, vo viên chế thành nhang để
đốt trên bàn thờ
của
nữ
thần bảo
trợ
cho các nhà khoa học
hiện
đại.
Chẳng
ai bàn về đề tài này hay ho hơn
Schopenhauer
trong tác phẩm
Parerga.
Trong tác phẩm
này ông bàn dông dài về từ
khí động
vật,
thần nhãn, phép chữa
bệnh
đồng cảm,
thuật
thấu thị,
pháp thuật,
những
điềm báo trước,
thấy ma và những
vấn đề tâm linh khác. Ông bảo
rằng: “Tất cả
mọi
biểu
hiện
này đều
là nhánh nhóc của cùng một
cái cây và cung cấp cho ta những
bằng chứng
không chối bỏ
được
về sự
tồn tại
của
một
chuỗi sinh linh vốn dựa
trên một
trật
tự
tạo
vật
khác hẳn
so với
thiên nhiên đặt
nền tảng
trên các định
luật
về không gian, thời
gian và sự
thích
ứng.
Trật
tự
sự
vật
khác biệt
này vốn sâu sắc hơn
nhiều vì đó là trật
tự
nguyên thủy
và trực
tiếp; khi nó có mặt
thì những
định
luật
thông
thường
của
thiên nhiên (vốn chỉ
là hình thức)
đâm ra vô hiệu
lực;
do đó khi nó tác động
trực
tiếp thì thời
gian và không gian chẳng
còn có thể
ngăn cách được
bất kỳ cá thể
nào nữa
và sự
ngăn cách cố hữu
nơi
các hình tướng
ấy không còn tạo
ra những
hàng rào không vượt
qua nổi
đối với
sự
giao tiếp bằng tư
tưởng
và tác động
trực
tiếp của
ý chí. Bằng cách này người
ta có thể
tạo
ra mọi
thay đổi
theo một
lộ
trình khác hẳn
lộ
trình của
tính
nhân quả
vật
lý nghĩa là tác động
qua sự
biểu
lộ
ý chí thể
hiện
một
cách đặc
thù bên ngoài chính cá thể.
Vì vậy
tính cách đặc
thù của
mọi
sự
trình diễn nêu trên chính là việc
nhìn thấy và tác động
từ
xa
trong quan hệ
với
thời
gian cũng như
quan hệ
với
không gian. Một
tác động
từ
xa như
thế
chính là điều tạo
thành tính cách căn bản
của
cái gọi
là
pháp thuật;
vì đó chính là tác động
trực
tiếp của
ý chí ta, một
tác động
thoát khỏi
quan hệ
nhân quả
qua tác động
vật
lý nghĩa là do tiếp xúc”.
Schopenhauer tiếp tục:
“Ngoài điều đó ra, những
pha trình diễn ấy còn cung cấp cho ta một
cơ
sở
xác thực
và hoàn toàn hợp
lý để
chống lại
thuyết duy vật
và ngay
cả thuyết tự
nhiên nữa
vì theo sự
minh giải
của
pha trình diễn ấy thì cái trật
tự
sự
vật
trong thiên nhiên (mà cả
hai triết lý nêu trên đều tìm cách trình bày là tuyệt
đối chân thực
duy nhất) hiện
ra trước
mắt ta trái
lại chỉ thuần túy mang tính hiện
tượng
và hời
hợt,
nó chứa
đựng
ngay dưới
đáy của
mình một
bản
thể
sự
vật
riêng rẽ
và hoàn toàn độc
lập
với
những
định
luật
của
chính nó. Chính vì thế
mà tại
sao những
pha trình diễn
này – ít ra thì cũng theo một
quan điểm
thuần túy triết học
– là vượt
ngoài tầm bất kỳ sự
so sánh quan trọng
nhất nào trong số mọi
sự
kiện
được
trình bày cho ta trong địa
hạt
thực
nghiệm.
Vì vậy
bổn
phận
của
mọi
nhà khoa
học là phải làm quen với
những
pha trình diễn ấy”.
***********
Nếu các nhà thần linh học
bồn chồn muốn theo sát giáo điều trong quan niệm
về “thế giới
tâm linh” th́ họ
đừng
có bảo
các
nhà khoa học
này hãy nghiên cứu
các hiện
tượng
của
mình với
tinh thần thực
nghiệm
chân chính. Toan tính ấy chắc sẽ là có kết quả
phần nào tái phát hiện
được
pháp thuật
thời
xưa
của
Moses và Paracelsus. Bên dưới
vẻ
đẹp
gạt
gẫm của
một
số những
pha hiện
hình thì một
ngày kia họ có thể
tìm thấy những
vị
phong thần và thủy
thần đẹp
đẽ của
môn đồ Hoa hồng Thập
tự
đùa giỡn
trong dòng thần lực
oath
và lực
thông linh.
Ông Crookes vốn tin chắc vào những
sinh linh
ấy; đã cảm thấy rằng bên dưới
lớp
da nõn nà của
Katie có che phủ
một
tâm hồn được
ngụy
trang phần nào vay mượn
từ
người
đồng cốt và những
người
lên đồng chứ
chẳng
có linh hồn
gì hết! Và những
nhà bác học
tác giả
của
quyển
Vũ trụ Vô hình
khi từ
bỏ
thuyết “điện
sinh học”
của
mình bắt đầu nhận
thấy trong chất ether vũ trụ
có khả năng
đó là một
tập
ảnh
của
đấng Vô biên,
en-soph.
Chúng ta đâu có tin rằng mọi
vong linh giao tiếp
ở
những
buổi
lên đồng
đều thuộc
lớp
sinh linh tên là “Tinh linh ngũ hành” và “Âm ma”. Nhiều vong linh đó –
nhất là trong số những
sinh linh kiểm
soát người
đồng cốt trong nội
giới
nói, viết và hành động
khác nữa
theo nhiều kiểu
khác nhau – đều là
các vong linh của người
đã thoát xác. Liệu
các vong linh ấy là tốt hay
xấu
đều phần lớn
tùy thuộc
vào đạo
đức
riêng tư
của
người
đồng cốt, cũng tùy thuộc
nhiều vào đám người
lên đồng có mặt
và tùy thuộc
phần lớn
vào
cường
độ
và mục
tiêu trong chủ
đích của
họ.
Nếu mục
tiêu ấy chỉ
là thỏa
mãn óc tò mò và mua vui một
vài trống canh thì cũng hoài công khi trông mong có một
điều ǵ đó nghiêm chỉnh.
Nhưng
trong bất kỳ trường
hợp
nào thì vong
linh con người
cũng
chẳng
bao giờ
hiện
hình ra được
đúng như
con người
ấy.
Chúng chẳng
bao giờ
xuất hiện
trước
nhà khảo
cứu
mà khoác lấy da thịt
rắn chắc ấm áp với
bàn tay rịn
mồ hôi và những
khuôn mặt
trên cơ
thể
với
vật
liệu
thô trược.
Cùng lắm thì họ
cũng chỉ
có thể
phóng chiếu sự
phản
ánh tinh anh của
mình lên những
làn sóng trong khí quyển
và nếu trong những
dịp
hãn hữu
mà giác quan của
người
phàm tục
còn sống trên cõi ngoại
giới
có thể
sờ
vào được
tay chân và quần áo của
họ,
thì người
ta cũng chỉ
cảm
thấy giống như
gió hiu hiu thoảng
qua quét nhẹ
lên cái chỗ bị
sờ
mó chứ
đâu giống như
bàn tay của
một
người
hoặc
cơ
thể
làm bằng vật
chất. Thật
hoài công khi biện
hộ
rằng “các vong linh hiện
hình” đã phô trương
ra với
những
quả
tim đập
thình thịch
và những
giọng
nói oang oang (có hoặc
không kèn không trống) là các vong linh của
con người.
Những
giọng
nói – nếu ta có
thể
gọi
một
âm thanh như
thế
là giọng nói – của
một
sự
hiện
hình vong linh một
khi mà ta đă nghe thấy rồi th́ khó lòng có thể
quên được.
Giọng
nói của
một
vong linh thuần túy giống như
tiếng thì thào rung rẩy
của
một
cây hạc
cầm văng vẳng
từ
xa; giọng
nói của
một
vong linh đau khổ
vì thế cho nên không thuần túy nếu không phải
là cực
kỳ tồi tệ,
có thể
được
đồng hóa với
tiếng người
phát ta từ
một
cái thùng rỗng.
Đây không phải
là
triết lý của
chúng tôi mà là của
vô số thế hệ
các nhà thông thần và pháp sư
dựa
vào kinh nghiệm
thực
tiễn. Cổ
nhân cũng chứng
minh khẳng
định
về đề tài này
[[78]].
Tiếng nói của
vong linh không hề được
phát âm ra. Tiếng nói của
vong linh bao gồm một
loạt
các âm thanh tạo
cho ta cảm
tưởng
là một
cột
không khí nén từ
bên dưới
bay vút lên trên và tỏa
lan ra xung quanh người
còn sống đang đối
thoại. Nhiều người
tận
mắt chứng
kiến chứng
nhận
rằng trường
hợp
Elizabeth Eslinger nghĩa là
[[79]]
: phó quản đốc của
nhà tù Weinsberg, Mayer, Eckhart, Theurer và Knorr (bằng chứng
có tuyên thệ),
Düttenhöfer và nhà toán học
Kapff
chứng
nhận
rằng họ
thấy sự
hiện
hình
giống như
một
cột
mây.
Trong thời
khoảng
11 tuần lễ, bác sĩ Kerner và các con, nhiều vị
mục
sư
Tin lành, luật
sư
Fraas, nhà chạm
trỗ Düttenhöfer, hai y sĩ Siefer và Sicherer, thẩm
phán Heyd
và Nam tước
Von Hugel cùng với
nhiều người
khác nữa
đã theo dõi sự
hiện
hình này hằng ngày. Trong thời
gian nó xảy
ra, tù nhân Elizabeth cầu nguyện
bằng một
giọng
vang vang không ngừng
nghỉ;
do đó vì “vong linh” cũng đồng thời
đang nói chuyện
cho nên đây không thể
nào là thuật
truyền âm nhập
mật,
và họ
bảo
rằng cái giọng
ấy “chẳng
có chút nào giống như
con người;
không ai có thể
bắt chước
được
âm thanh của
nó”.
Chúng tôi sẽ trình bày thêm nữa
nhiều
bằng chứng
của
các tác giả
thời
xưa
liên quan tới
sự
thật
hiển
nhiên bị
bỏ
lơ
này. Giờ
đây chúng tôi chỉ
quả
quyết khẳng
định
lại
rằng không một
vong linh nào mà các nhà thần linh học
cho rằng thuộc
về con người
lại
đã từng
được
chứng
minh với
đầy đủ
chứng
cớ
như
thế. Những
người
nhạy
cảm
có thể
cảm thấy ảnh
hưởng
của
các vong linh đã thoát xác
truyền cho họ
trong nội
giới.
Những
vong linh ấy có thể
tạo
ra những
sự
hiện
hình
nơi
ngoại
giới
nhưng
chúng không thể
làm được
gì khác hơn
mức
đã được
mô tả
trên kia. Chúng có thể
kiểm
soát cơ
thể
của
người
đồng cốt, bộc
lộ
ham muốn và ý tưởng
của
mình theo nhiều cách khác nhau mà các nhà thần linh học
thừa
biết, nhưng
chúng không làm
hiện
hình
được
điều vốn phi vật
chất và thuần túy tâm lnh tức
là
bản thể
thiêng liêng
của mình. Như
vậy
một
khi đúng đắn thì mọi
cái gọi
là “sự
hiện
hình” đều (có
lẽ)
được
tạo
ra do ý chí
của cái vong linh mà “sự
xuất hiện”
chẳng
qua chỉ
có thể
cùng lắm là thể
hiện
phàm nhơn,
hoặc
là do chính những
yêu tinh âm ma vốn thường
quá ngu đần cho nên không đáng được
vinh danh gọi
là ma quỉ.
Trong những
dịp
hiếm hoi thì
các vong linh có thể
khống chế và kiểm
soát được
những
sinh vật
mất linh hồn, họ
thường
sẵn sàng vỗ ngực
xưng
tên nếu được
bỏ
mặc
cho lộng
hành, sao cho cái vong linh đầy ác ý “trong không trung” uốn nắn theo
hình hài thực
của
một
vong linh
con người
ắt bị
vong linh con người
điều động
như
một
con rối và không thể
hành động
hoặc
thốt nên lời
nào khác hơn
những
thứ
mà “linh hồn bất tử”
áp đặt
lên y. Nhưng
điều này đòi hỏi
nhiều điều kiện
mà giới
lên đồng nói chung (thậm
chí cả
các nhà thần linh học
nữa)
đều không biết mặc
dù có thói quen đều đặn
tham dự
các buổi
lên đồng. Đâu phải
ai cũng có thể
thu hút được
các vong linh con người
mà ḿnh muốn. Một
trong những
điều thu hút mạnh
mẽ nhất đối với
những
người
quá cố là sự
luyến ái tha thiết của
họ
đối với
những
người
còn bị
bỏ
lại
trên trần thế. Nó từng
bước
lôi cuốn họ
một
cách không chống cự
nổi
vào trong dòng TINH TÚ
QUANG rung động
giữa
người
có thiện
cảm
với
họ
và linh hồn Vũ trụ.
Có một
điều kiện
rất quan trọng
nữa
là sự
hài hòa và sự
thanh khiết về
từ
điện
của
người
có mặt.
Nếu triết lý này là sai lầm, nếu mọi
hình thể
được
“hiện
hình” xuất lộ
trong những
phòng
tối đen
từ
những
buồng kín còn
tối đen hơn
nữa
lại là vong linh của những
người
đã từng
một
thời
sống trên trần thế, th́ tại
sao có một
sự
khác nhau như
thế
giữa
chúng và
những
bóng ma đột
nhiên xuất hiện
mà chẳng
cần tới
phòng kín hoặc
người
đồng cốt? Có ai đă từng
nghe nói tới
những
sự
hiện
hình, những
“vong hồn” quậy
phá lẩn
quẩn
ở
nơi
chốn mà họ
bị
sát hại
hoặc
trở
về vì một
lý do bí mật
nào
đó của
riêng mình, “thò tay ra sờ
thấy ấm áp”
như
da thịt
người
sống
thế
mà người
ta biết rằng họ
đã chết và bị
đem chôn rồi, làm sao phân biệt
họ
được
với
kẻ
phàm phu còn sống? Chúng tôi có những
sự
kiện
được
kiểm
chứng
kỹ lưỡng
về những
sự
hiện
hình như
thế đột
nhiên trở
nên nhìn thấy
được,
nhưng
chưa
bao giờ
xảy
ra cho đến khi bắt đầu kỷ
nguyên “hiện
hình” th́ chúng tôi mới
thấy có một
điều gì đó giống như
vậy.
Trong tác phẩm
Người
đồng
cốt và Buổi
rạng đông,
số ra mùng 8 tháng 9 năm 1876, chúng tôi đọc
thấy một
bức
thư
của
“một
mệnh
phụ
du hành khắp lục
địa”,
kể
lại
một
trường
hợp
xảy
ra trong một
căn nhà bị
ma ám. Bà nói: “Một
âm thanh kỳ lạ
vang lên
từ
một
góc tối om của
phòng đọc
sách . . . khi nhìn vào thì bà thấy có
một
đám mây hoặc
một
cột
hơi
nước
chói sáng . . .
vong linh vướng
vòng tục
lụy
đang lởn
vởn
ở
chỗ bị
nguyền rủa
do hành vi tà vạy
của
mình . . .”.
Vì vong linh này chắc chắn là sự
hiện
hình
đích thực
của một
âm ma, nó tự
ý hiện
ra cho người
khác thấy – tóm lại
là một
u hồn
– cho nên cũng giống như
mọi
hồn ma khả
kính khác, nó có thể
trông thấy được
nhưng
không thể
sờ
thấy được,
hoặc
nếu ta sờ
vào nó thì nó truyền cho ta cái cảm
giác là một
khối nước
bị
bàn tay nắm chặt
lại
giống như
hơi
nước
lạnh
bị
ngưng
đọng
lại.
Nó
chói sáng
và trông giống như
hơi
nước;
trong chừng
mực
mà ta
có thể
nói được
thì đó có lẽ là u hồn thật
sự
của
phàm nhơn
thuộc
“vong linh” bị
hành hạ
và còn vướng
vòng tục
lụy
do chính nó đă hối hận
vì những
tội
ác của
mình hoặc
của
những
người
khác hoặc
vong linh khác. Những
điều bí mật
ở
bên kia cửa
tử
có rất nhiều và những
“sự
hiện
hình” thời
nay chỉ
khiến cho chúng trở
nên rẻ
tiền và lố bịch
trước
mắt kẻ
thờ
ơ.
Người
ta có thể
phản
đối những
điều quả
quyết nêu trên bằng một
sự
kiện
mà
các nhà thần linh học
đều thừa
biết:
Tác giả đã từng
công khai chứng
nhận
mình có thấy những
hình dáng được
hiện
hình như
thế.
Chắc chắn là chúng tôi đã làm như
thế và sẵn sàng lập
lại
lời
chứng
nhận.
Chúng tôi đã nhận
ra những
hình thù ấy là những
biểu
diễn hữu
hình của
những
người
quen biết, thậm
chí của
những
thân bằng quyến thuộc.
Cùng với
nhiều khán giả
khác, chúng tôi đã nghe chúng thốt ra những
lời
lẽ bằng những
ngôn ngữ
không
quen thuộc
chẳng
những
đối với
người
đồng cốt và mọi
người
khác trong phòng (ngoại
trừ
chúng tôi), mà trong một
số trường
hợp
còn không quen thuộc
với
hầu hết nếu không phải
là tất cả
mọi
đồng cốt
ở
Âu Mỹ, vì đó là
ngôn ngữ
của
các bộ
tộc
và dân tộc
Đông phương.
Vào thời
ấy, những
trường
hợp
này được
coi đúng đắn là bằng chứng
thuyết phục
về thuật
đồng cốt chân thực
của
người
nông dân không có học
thức
ở
Vermont ngồi trong một
“buồng
kín”. Tuy nhiên những
hình thù này
không phải
là hình dáng của những
người
mà chúng hiện
hình ra như
thế. Đó chỉ
là những
pho tượng
chân dung của
họ
được
đám âm ma kiến tạo,
làm linh hoạt,
giựt
dây thao tác. Nếu trước
kia
chúng tôi chưa
minh giải
điều này th́ đó chỉ
là v́ lúc ấy công luận
trong giới
thần linh học
thậm
chí chưa
sẵn sàng lắng nghe luận
đề căn bản
theo đó có các tinh linh ngũ hành và âm ma. Từ
đó trở
đi thì người
ta đă nêu ra và
ít nhiều bàn luận
rộng
rãi về đề tài này. Giờ
đây có ít nguy cơ
toan tính phóng lên cái biển
gợn
sóng lăn tăn những
lời
chỉ
trích cái triết lý cổ
kính của
các bậc
thánh hiền thời
xưa,
vì công luận
đă được
chuẩn
bị
phần
nào để
cứu
xét nó, cân nhắc một
cách vô tư.
Hai năm xáo động
đã có kết quả
là có thay đổi
tốt hơn.
Pausanias có viết rằng bốn trăm năm sau trận
chiến Marathon,
ở
nơi
chiến trường
người
ta vẫn còn nghe thấy
tiếng ngựa
hí
và tiếng hò reo của
những
chiến sĩ mờ
mờ
nhân ảnh.
Giả
sử
rằng bóng ma của
những
chiến sĩ trận
vong đúng là vong linh thực
của
họ
thì chúng trông giống như
những
hình bóng “mờ
mờ
nhân ảnh”
chứ
không phải
là những
con người
hiện
hình ra. Thế thì ai hoặc
cái gì tạo
ra tiếng ngựa
hí? Chẳng
lẽ là “vong hồn” của
loài ngựa
chăng? Và nếu rõ rệt
là sai lầm khi cho rằng loài ngựa
có vong hồn – điều này không một
ai trong đám nhà động
vật
học,
sinh
lý học hoặc
tâm lý học
hoặc
ngay cả
thần linh học
có thể
chứng
minh hoặc
bác bỏ
được
– th́ chúng ta phải
coi như
đương
nhiên là chính “linh hồn bất tử”
của
con người
đã tạo
ra tiếng ngựa
hí
ở
Marathon để
làm cho phong cảnh
của
trận
đánh lịch
sử
trở
nên sống động
và đầy kịch
tính hơn.
Người
ta đă thấy đi thấy lại
hồn ma của
những
con chó, con mèo và đủ
thứ
con vật
khác; về vấn đề này sự
chứng
nhận
trên khắp thế
giới
cũng đáng tin cậy
như
sự
chứng
nhận
đối với
việc
hồn ma con người
hiện
hình. Nếu ta được
phép tạm diễn tả
như
vậy
thì ai hoặc
cái gì
làm nhân cách hóa được
hồn ma của
những
con thú đã quá cố? Phải
chăng lại
là vong linh của
con người?
Khi đặt
vấn đề ra như
thế thì chẳng
còn gì mà nói chuyện
lòng vòng: hoặc
là ta phải
thừa
nhận
rằng loài thú cũng có vong hồn và vong linh sống còn như
chính chúng ta hoặc
là ta phải
chủ
trương
theo Porphyry rằng trong thế
giới
vô hình có một
loài ma quỉ
đầy ác ý và nhiều thủ
đoạn
là những
sinh linh trung gian giữa
người
còn sống và chư
“thần linh”; các tinh linh này rất khoái chí khi hiện
hình dưới
bất cứ
hình thù nào mà nó có thể
tưởng
tượng
ra được,
bắt đầu bằng hình người
và chấm dứt
bằng hình thú của
vô số loài thú
[[80]]
.
Trước
khi dám đánh bạo
quyết định
vấn đề liệu
hồn ma của
loài thú có thường
được
nhìn thấy và chứng
nhận
là vonh hồn của
những
con thú đã chết trở
lại
hay chăng, thì ta phải
cẩn
thận
xem xét cách
ứng
xử
mà người
ta tường
trình về chúng. Liệu
những
hồn ma này có hành động
theo những
thói quen và phô diễn những
bản
năng giống như
con thú trong buổi
sinh thời
hay chăng? Liệu
hồn ma của
những
con thú săn mồi có nằm chờ
nạn
nhân hoặc
hồn ma
của những
con thú nhút nhát có cao chạy
xa bay khi thấy mặt
con người
hay chăng; hoặc
những
con thú nhút nhát lại
có hồn ma tỏ
ra đầy ác ý với
bẩm
tính quậy
phá hoàn toàn xa lạ
bản
chất của
mình? Nhiều nạn
nhân của
vụ
ma
nhập
– nhất là những
người
chịu nạn
ở
Salem và những
thuật
phù thủy
khác trong lịch
sử
– chứng
nhận
là đã thấy những
con chó, mèo, heo và những
con thú khác chui vào buồng mình, cắn xé mình và chà đạp
lên cơ
thể
đang thiu
ngủ của mình và còn nói chuyện
với
ḿnh nữa,
thường
thường
thì xúi giục
mình tự
tử
hoặc
phạm
những
tội
ác khác.
Trong trường
hợp
đã được
kiểm
chứng
kỹ lưỡng
của
nạn
nhân Elizabeth Eslinger mà Bác sĩ Kerner có đề cập
tới
thì sự
hiện
hình của
vị
linh mục
thời
xưa
ở
Wimmenthal
[[81]]
có kèm theo một
con chó lớn
màu đen mà linh mục
gọi
là
cha của mình,
khi có mặt
nhiều nhân chứng
con chó này vẫn leo lên giường
của
các tù nhân. Và một
dịp
khác
vị linh mục xuất hiện
với
một
con chiên và đôi khi với
hai con chiên. Hầu hết những
người
bị
kết án
ở
Salem đều bị
các nhà nữ
thấu thị
buộc
tội
là đã tham vấn những
con chim màu vàng với
âm mưu
đầy ác ý, những
con chim
vàng đó đậu
trên vai của
họ
hoặc
trên xà nhà phía ngay trên đầu
[[82]]
. Và trừ
phi ta không tin lời
chứng
nhận
của
hàng ngàn nhân chứng
ở
khắp nơi
trên thế
giới
và trong mọi
thời
đại
để
cho chỉ
có các nhà đồng cốt thời
nay
mới
độc
quyền có thuật
thấu thị
th́ hồn ma của
loài thú vẫn xuất hiện
và bộc
lộ
đủ
mọi
đặc
điểm
tồi tệ
nhất trong bản
chất bại
hoại
của
con người
mà bản
thân hồn ma đó lại
không mang hình người.
Thế
thì liệu
chúng có
thể
là cái gì nếu không phải
là tinh linh ngũ hành?
Descartes là một
trong số ít người
tin tưởng
và dám bảo
rằng môn y học
huyền bí mà chúng ta còn chịu
ơn
nhiều phát kiến “có định
mệnh
là mở
rộng
phạm
vi của
triết học”;
còn Brierre de Boismont chẳng
những
chia xẻ
những
hi vọng
ấy mà còn công khai thừa
nhận
mình có thiện
cảm
với
“thuyết siêu tự
nhiên” mà ông coi là “tín điều vĩ đại”
phổ
biến khắp thế
giới
. . . Ông bảo
rằng: “Chúng tôi đồng ý
với
Guizot khi cho rằng sự
tồn tại
của
xã hội
vốn được
gói ghém trong đó. Lý trí hiện
đại
mặc
dù theo
chủ nghĩa thực
chứng
vẫn không thể
nào giải
thích được
nguyên nhân sâu xa của
bất kỳ hiện
tượng
phép lạ
nào cho nên
thật
là hoài công mà
bác bỏ thuyết siêu tự
nhiên,
nó vốn phổ
biến trên khắp thế
giới
và ngự
trong tâm khảm
con người.
Những
đầu óc cao siêu nhất thường
là những
môn đồ nhiệt
thành nhất của
nó”
[[83]]
.
Christopher Columbus đã khám ra Châu Mỹ, còn Americus Vespecius lại
gặt
hái được
vinh quang và tiếm quyền của
người
phát hiện.
Theophrastus Paracelsus đã tái phát hiện
được
những
tính chất huyền bí của
nam châm – “cục
xương
của
Horus” mà 12 thế kỷ
trước
thời
ông đã đóng một
vai trò quan trọng
xiết bao trong các bí pháp thần thông – và tự
nhiên là ông trở
thành người
sáng lập
ra trường
phái từ
điển
và thuật
thông thần pháp thuật
thời
trung cổ.
Nhưng
Mesmer sinh trưởng
gần 300
năm sau ông với
tư
cách là môn đồ thuộc
trường
phái của
ông đã đưa
những
phép lạ
của
từ
điển
ra trước
công chúng, gặt
hái được
vinh quang lẽ ra thuộc
về nhà triết gia bái hỏa,
còn bậc
thầy vĩ đại
lại
chết trong nhà thương!
Trò đời
vẫn như
thế: những
khám phá mới
bắt nguồn từ
những
khoa học
cổ
xưa;
những
con người
mới
bắt nguồn cũng từ
cái thiên nhiên xưa
cũ!
Tác giả xin kính dâng bộ sách này cho Hội Thông Thiên Học, được
sáng lập ở New York, năm 1875 sau Công nguyên, ĐỂ HỘI NGHIÊN CỨU
NHỮNG ĐỀ TÀI MÀ BỘ SÁCH BÀN TỚI
CHƯƠNG III
KẺ MÙ DẮT NGƯỜI ĐUI
- Sự trích dẫn của Huxley phái sinh từ
Orohippus.
-
Hệ thống của Comte và các môn đồ.
- Các nhà duy vật Luân Đôn.
- Những bộ áo thầy tu đi vay mượn.
- Vũ trụ ngoại giới là phân thân của vũ trụ nội giới.
“Mảnh gương linh hồn không thể phản chiếu được cả trời lẫn đất; và
một đằng biến mất ra khỏi bề mặt của gương, còn một đằng phải
được phàn chiếu vào sâu thẳm bên trong nó”.
ZANONI
“Vậy th́ ai đã ban cho ngươi sứ mệnh loan báo cho nhân dân rằng đấng
thiêng liêng không tồn tại – người thấy có được lợi ích gì khi
thuyết phục thiên hạ rằng một lực mù quáng chủ trì vận mệnh của
họ và ngạc nhiên giáng xuống kẻ phạm tội ác cũng như kẻ đức
hạnh.”
ROBESPIERRE (Bài diễn thuyết,
ngày 7 tháng 5 năm 1794).
***************
Nhưng các kẻ thù thâm căn cố đế và ít thỏa hiệp nhất của Thần
linh học chính là một tầng lớp rất may chỉ bao gồm một ít thành
viên, tuy nhiên họ kịch liệt phản đối lớn tiếng hơn và khẳng định
quan điểm của mình bằng cách hò hét xứng đáng cho một chính
nghĩa tốt hơn. Đây là những kẻ tự
xưng mình làm khoa học đối với nước Mỹ còn non trẻ; một tầng
lớp lai căng những kẻ ngụy triết gia mà đầu chương này có nhắc tới
đôi khi không có quyền được coi là học giả nhiều hơn mức sở hữu
một cái máy điện hoặc đọc một bài thuyết trình ấu trĩ về bệnh
điên và bệnh cuồng ám trung bình chủ nghĩa. Nếu tin vào họ thì
những người ấy toàn là các tư tưởng gia thâm thúy và các nhà sinh
lý học, bạn chắc khỏi cần phải nói chuyện tào lao về siêu hình
học với họ; họ đều là những kẻ thuộc thuyết Thực chứng, là những
kẻ đầu óc vẫn còn ấu trĩ miệng còn hôi sữa của Auguste Comte, họ
hí hửng khi nghĩ rằng mình lôi kéo được nhân loại lầm lạc ra khỏi
cái vực sâu đen tối của sự mê tín dị đoan và để tái lại càn khôn
dựa vào những nguyên tắc đã được cải tiến. Vốn là những kẻ ghê sợ
tâm linh và ưa nổi giận, họ không thể chịu nổi sự sỉ nhục cay độc
hơn mức khi người ta gợi ý với họ rằng thiên phú cho họ tinh thần
bất tử. Nếu nghe theo họ thì người ta ắt tưởng tượng rằng nơi
những người nam nữ chẳng có phần hồn nào khác hơn là phần hồn theo
“khoa học” hoặc “phần hồn không theo khoa học” cho dù cái loại phần
hồn đó có thể ra sao đi chăng nữa [[84]]
.
Cách đây chừng 30 – 40 năm, ở nước Pháp, Auguste Comte – một sinh viên
trường Bách Khoa đã ở lại
nhiều năm tại cơ sở ấy đóng vai
thầy ôn tập về môn Giải tích số Siêu việt và Cơ học Thuần lý
– một buổi sáng đẹp trời bừng mắt dậy với một ý tưởng phi lý là
ḿnh trở thành một bậc đạo sư. Ở nước Mỹ thì người ta có thể
gặp các vị đạo sư ở bất cứ góc đường nào; còn ở Âu Châu thì họ
hiếm như những con chim thiên nga đen. Nhưng nước Pháp là xứ sở của
những điều mới lạ. Auguste Comte đã trở thành một bậc đạo sư và
cái mốt thời thượng ấy đôi khi lây nhiễm nhiều đến nỗi ở xứ Anh
mực thước th́ trong một thời gian nào đó ông cũng được coi là Newton
của thế kỷ thứ 19.
Bệnh dịch ấy lan tràn và chỉ trong một thời gian nó đã lan nhanh
như chớp sang nước Đức, nước Anh và nước Mỹ. Nó có được các bậc
Cao đồ ở nước Pháp, nhưng cơn kích động ấy chẳng kéo dài được
lâu. Bậc đạo sư thì cần tiền mà các môn đồ thì không sẵn ḷng mở
hầu bao ra. Cơn sốt hâm mộ một tôn giáo không có Thượng Đế nguội lạnh
cũng nhanh khi nó bùng cháy. Trong số mọi vị tông đồ nhiệt thành
của bậc đạo sư th́ chỉ còn sót lại đúng một vị là đáng cho ta
chú ý. Đó là nhà ngôn ngữ học trứ danh Littré, thành viên của Bác
học viện Pháp và rắp ranh
làm thành viên của Hàn lâm viện Khoa học Pháp quốc, nhưng bị Tổng
Giám mục Orleans có ác tâm cản trở ông thành một “Hàn lâm viện sĩ
Pháp” [[85]]
.
Nhà triết học toán học – bậc cao đạo của “tôn giáo tương lai” –
giảng dạy giáo lý của ḿnh cũng chẳng khác gì mọi bậc đạo sư
huynh đệ của thời hiện đại. Ông thần thánh hóa “phụ nữ” và dựng
lên bàn thờ cho phụ nữ, nhưng vị nữ thần phải trả tiền th́ mới
sử dụng được bàn thờ. Những kẻ duy lý đã cười nhạo cơn loạn trí
của Fourier; họ đã cười nhạo thánh Simonist; và tha hồ chế nhạo
Thần linh học. Cũng như kẻ duy lý và duy vật ấy bị thuật tu từ
hùng biện của bậc đạo sư mới hớp hồn chẳng khác gì biết bao nhiêu
con chim sẻ đầu óc rỗng tuếch bị nhựa bẫy chim bắt dính. Việc mơ
ước một loại thiên tính nào đó, việc theo các điều “chưa ai biết”
là một xúc cảm bẩm sinh nơi con người; vì thế cho nên kẻ vô thần
tồi bại nhất dường như cũng không miễn nhiễm được xúc cảm ấy. Bị
lừa gạt bởi cái vẻ bề ngoài óng ả của
con ma trơi thả mồi bắt bóng
ấy, các môn đồ cứ cắm đầu đi theo nó cho tới khi họ phát hiện ra
mình đang lội bì bõm trong một vũng lầy không có đáy.
Núp dưới chiêu bài tự xưng là bác học, những kẻ Thực chứng của
xứ sở này đã được tổ chức thành ra các câu lạc bộ và ủy ban rắp
tâm nhổ bật tận rễ Thần linh học trong khi tự cho là mình khảo cứu
thần linh học một cách vô tư.
Vì quá nhút nhát không dám thách thức giáo hội và giáo lý Ki Tô
cho nên họ ra sức làm hao mòn cái điều mà mọi tôn giáo đều dựa vào
đấy - đức tin của con người nơi Thượng Đế và tính bất tử của chính
mình. Chính sách của họ là chế nhạo điều cung cấp một cơ sở không
thông dụng cho một đức tin như thế – Thần linh học với phép lạ. Khi
tấn công vào chỗ yếu nhất của nó, họ đã bộc lộ ra sự yếu kém
về phương pháp qui nạp của nó và những sự ngoa ngoắc mà ta thấy
trong những học thuyết siêu việt của những kẻ tuyên truyền cho nó.
Lợi dụng việc nó không được lòng người và phô bày một lòng can
đảm vừa giận dữ vừa không đúng chỗ như lòng can đảm của hiệp sĩ
lang thang ở La Mancha, họ đòi hỏi người ta phải công nhận ḿnh là
những nhà nhân ái và làm phước đang đè bẹp một sự mê tín di đoan
quái gở.
Ta hãy xem tôn giáo tương lai mà Comte khoe khoang cao siêu hơn Thần
linh học được bao lăm, và liệu các môn đồ của nó ít cần tới nơi
nương náu là những nhà thương điên bao nhiêu khi họ ân cần khuyên các
đồng cốt mà họ quan tâm xiết bao hãy đi tị nạn ở các nhà thương
điên ấy. Trước khi bắt đầu, chúng tôi xin mọi người lưu ý cho sự
thật là ¾ những đặc điểm ô nhục được phô bày trong phong trào Thần
linh học hiện đại có thể được trực tiếp truy nguyên tới tận những
kẻ duy vật phiêu lưu mà dám tự cho mình là nhà thần linh học. Comte
đã sỗ sàng miêu tả người phụ nữ tương lai được “thụ thai nhân
tạo”. Bà chẳng qua chỉ là chị cả của cái lý tưởng Đa tình tự do
luyến ái. Sự miễn nhiễm đối với tương lai mà giáo huấn của các
môn đồ ngớ ngẩn của ông nêu ra đã tiêm nhiễm vào một số những kẻ
ngụy thần linh học đến mức khiến cho họ tạo ra những hiệp hội
sống cộng đồng. Tuy nhiên chẳng hiệp hội nào sống được dài lâu.
Đặc điểm nổi bật của chúng thường là thú tính duy vật, được sơn
son thếp vàng bằng một lá mỏng là triết lý kim loại Hòa Lan,
nhưng vẫn lòi đuôi ra là một tổ hợp những lời thô tục tiếng Hi
Lạp cho nên cộng đồng ấy chẳng thể nào khá hơn được là phải thất
bại.
Trong quyển thứ 5 của bộ sách
Nước Cộng Hòa, Plato có gợi ra một phương pháp cải tiến giống
người bằng cách loại bỏ những cá nhân không khỏe mạnh hoặc dị
dạng và ghép đôi những mẩu ưu tú của cả hai giới tính. Ta không
thể trông mong rằng vị “thiên tài của thế kỷ” cho dẫu là một bậc
đạo sư lại có thể moi óc ra được một điều ǵ khác mới tinh.
Comte là một nhà toán học. Sau khi đã khéo léo tổ hợp nhiều chuyện
không tưởng xưa cũ thì ông bèn tô điểm cho tổng thể và cải tiến ý
niệm của Plato, vật chất hóa nó để rồi trình bày cho thế giới
cái quái thai vĩ đại nhất đã từng xuất phát từ đầu óc của một
con người!
Chúng tôi xin bạn đọc nhớ cho rằng chúng tôi không đả kích Comte
trên cương vị là một triết gia mà với vai trò là kẻ tự xưng là
nhà cải cách. Trong cái sự âm u hết thuốc chữa về những quan điểm
chính trị, triết học và tôn giáo của ông, chúng tôi cũng thường
bắt gặp lẻ tẻ những quan sát và nhận xét trong đó cách lập luận
sâu sắc và tư tưởng đúng đắn sánh ngang với việc giải trình xuất
sắc. Nhưng thế rồi những thứ đó làm lóa mắt bạn chẳng khác nào
những tia chớp trong đêm tối âm u để rồi một lúc sau nhấn chìm bạn
vào trong một sự tối tăm hơn bao giờ hết. Nếu được cô đọng và chấm
câu trở lại cho đúng th́ xét chung nhiều tác phẩm của ông có thể
gộp lại thành một bộ sách với nhiều câu kinh rất tân kỳ, định
nghĩa rất sáng tỏ và thật sự tài tình được hầu hết những tật
xấu của xã hội ta. Nhưng thật hoài công khi tìm kiếm – hoặc là qua
những lời quanh co tẻ nhạt trong 6 quyển
Giáo trìnhTriết học Thực chứng
của ông hoặc nhái theo giới giáo sĩ dưới dạng đối thoại:
Vấn đáp về Tôn giáo Thực chứng
– bất kỳ ý tưởng nào đề nghị ngay cả những phương thuốc tạm
thời cho các tật xấu ấy. Môn đồ của ông gợi ý rằng giáo lý cao
siêu của bậc đạo sư đâu có dự tính
dành cho điều dung tục. Khi so
sánh những giáo điều mà thuyết Thực chứng rao giảng với những
phép thực hành nêu gương của các tông đồ thì chúng tôi ắt phải
thú nhận rằng trong thâm căn cố đế của nó có khả năng là một học
thuyết nào đó rất bình bình. Trong khi bậc “cao đạo” rao giảng
rằng “phụ nữ không còn là phụ
nữ đối với đàn ông [[86]]
; trong khi lý thuyết của các nhà lập pháp thực chứng bàn
về hôn nhân và gia đình chủ yếu cốt ở việc khiến cho người phụ
nữ “chỉ là bạn đồng hành của đàn ông bằng cách tước bỏ mọi chức
năng làm mẹ của người phụ nữ”[[87]];
và trong khi học chuẩn bị cho tương lai thay thế chức năng ấy bằng
cách áp sát “một lực tiềm tàng”
vào “người phụ nữ trinh khiết”
[[88]]
th́ một số bậc tu cư sĩ lại công khai rao giảng thuật đa hôn
còn những người khác quả quyết rằng giáo lý của mình là tinh hoa
của triết học tâm linh.
Theo ý kiến của giới giáo sĩ La Mã – họ lao động vất vả trong cơn
ác mộng mãn tính về ma quỉ – thì Comte đã hiến dâng người “phụ nữ
tương lai” của mình cho con “yêu râu xanh” nhập vào [[89]]
. Theo ý kiến của những người phàm tục hơn thì từ nay trở đi
ta phải coi Thiên tính của thuyết Thực chứng là một con ngựa cái
giống hai chân. Ngay cả Littré cũng phải đưa ra những điều hạn chế
thận trọng khi chấp nhận vai trò tông đồ của tôn giáo mầu nhiệm
này. Ông viết vào năm 1859 như sau:
“Ông Comte chẳng những nghĩ rằng mình đã tìm thấy các nguyên lý,
đã vạch ra các phác họa và đã cung cấp phương pháp mà còn suy
diễn ra các kết quả và dựng nên được kiến trúc xã hội và tôn
giáo của tương lai. Chúng tôi xin được dè dặt về phần
thứ
nhì này, đồng thời tuyên bố
rằng chúng tôi xin chấp nhận trọn cả phần thứ nhất là sự kế
thừa” [[90]]
.
Ông còn nói thêm rằng: “Trong một tác phẩm vĩ đại nhan đề
Hệ thống Triết lý Thực chứng,
ông Comte đã đặt nền tảng cho một triết lý [?] rốt cuộc phải thay
thế cho mọi thần học và trọn cả siêu hình học. Một tác phẩm như
thế tất nhiên phải bao gồm việc trực tiếp ứng dụng vào sự quản
trị xã hội; và vì trong đó
chẳng có chi là tùy tiện và v́ chúng tôi thấy trong đó có một
khoa học chân thực [?] cho nên
việc tôi gắn bó với những nguyên lý khiến tôi cũng phải gắn bó
với những hậu quả cốt yếu”.
Ông Littré đã tỏ ra xứng đáng là đứa con chân thực của vị đạo sư.
Thật ra thì trọn cả hệ thống của Comte đối với chúng tôi được xây
dựng trên một trò chơi chữ. Khi họ bảo rằng “thuyết
Thực chứng” thì bạn nên hiểu đó là
Chủ nghĩa Hư vô; khi bạn nghe
từ ngữ trinh khiết thì bạn
nên nghĩ nó là từ ngữ dâm ô
v.v. . . Vì là một tôn giáo dựa trên thuyết phủ định cho nên các
tín đồ của nó khó lòng thực hiện được nó mà hầu như không phải
nói trắng khi đang ngụ ý là đen!
Littré tiếp tục: “Triết lý Thực chứng không chấp nhận thuyết vô
thần vì kẻ vô thần không phải là một đầu óc thực sự giải thoát
mà còn là một nhà thần học theo kiểu riêng mình; y giải thích về
bản thể của sự vật, y biết
sự vật bắt đầu như thế nào! . . .
Thuyết vô thần chỉ là thuyết Phiếm thần và hệ thống này
vẫn hoàn toàn thuộc về thần học do đó thuộc về bè phái thủ
cựu” [[91]].
Quả thật là mất thời giờ nếu cứ trích dẫn thêm nữa những lời
biện luận nghịch lý này. Comte đã đạt tới tột đỉnh của sự phi
lý và tiền hậu bất nhất vì sau khi phát kiến ra triết lý của
mình ông lại gọi nó là một “Tôn giáo”. Và như thường lệ, các môn
đồ lại vượt quá cả nhà cải cách về mặt phi lý. Vốn là các triết
gia giả định nổi bật lên trong Hàn lâm viện Mỹ của Comte, giống như
con đom đóm chiếu sáng ban đêm
ở bên cạnh một hành tinh, họ khiến cho ta không còn nghi ngờ gì
nữa về đức tin của họ và đối chiếu “cái hệ thống sinh hoạt” ấy
do bậc tông đồ người Pháp soạn thảo nên sánh với sự “đần độn”
của Thần linh học; dĩ nhiên là thiên vị có lợi cho thuyết Thực
chứng. Nhân tiện khi trích dẫn Cassaudiere mà không gán cho ông ta tư
tưởng này, tác giả quyển Vấn
đáp Tôn giáo Thực chứng hò hét: “Muốn hủy diệt thì bạn phải
thay thế”; và các môn đồ của ông hăm hở chứng tỏ họ đang nôn nóng
muốn thay thế Ki Tô giáo, Thần linh học và ngay cả Khoa học nữa
bằng cái loại hệ thống ghê tởm nào đó.
Một trong các môn đồ ấy ba hoa chích chòe như sau: “Thuyết Thực
chứng là một giáo lý tích hợp.
Nó bác bỏ hoàn toàn mọi dạng đức tin thần học và siêu hình học;
mọi dạng thuyết siêu tự nhiên và do đó cả Thần linh học nữa. Tinh
thần thực chứng chân chính cốt ở việc thay vì nghiên cứu các định
luật bất di bất dịch của mọi hiện tượng th́ hãy nghiên cứu cái
gọi là các nguyên nhân của hiện tượng cho dù là nguyên nhân gần hay
nguyên nhân xa. Dựa vào cơ sở đó, nó cũng bác bỏ thuyết vô thần; y
còn nói thêm khi đạo văn những câu trong tác phẩm của Littré: “Vì
kẻ vô thần trong thâm tâm là một nhà thần học, kẻ vô thần không
bác bỏ các vấn đề mà thần học nêu ra, chỉ bác bỏ các giải pháp
của thần học đối với những vấn đề này, do đó y thật là phi lý.
Đến lượt chúng tôi, những nhà
Thực chứng bác bỏ vấn đề ấy dựa trên cơ sở là trí năng hoàn
toàn không hiểu nổi nó và chúng ta chỉ phí sức khi hoài công mưu
tìm những nguyên nhân đầu tiên và cuối cùng. Bạn thấy đấy, thuyết
Thực chứng hoàn toàn giải thích [?] được thế giới, con người, bổn
phận và số phận của y” [[92]]
.
Điều này rất xuất sắc và giờ đây bằng cách đối chiếu, chúng tôi
sẽ trích dẫn điều mà nhà khoa học thật sự vĩ đại, Giáo sư Hare,
suy nghĩ về hệ thống này. Ông bảo rằng: “Xét cho cùng thì triết
lý Thực chứng của Comte chỉ là tiêu cực. Comte thừa nhận rằng ông
chẳng biết gì về nguồn gốc
và nguyên nhân của các định
luật thiên nhiên; khởi nguyên của chúng hoàn toàn khôn dò đến nỗi
mà ta chẳng hoài công bỏ ra thời gian xem xét tỉ mỉ mục đích ấy.
. . Cố nhiên học thuyết của ông khiến ông rành rành là một kẻ dốt
đặc cán mai về nguyên nhân
của các định luật hoặc những phương tiện giúp xác lập chúng; và
học thuyết ấy chẳng có cơ sở nào ngoại trừ lập luận
tiêu cực nêu trên nhằm phản
đối những sự kiện được nhận biết liên quan tới sự sáng tạo tâm
linh. Như vậy trong khi để cho nhà vô thần chịu sự khống chế duy
vật thì Thần linh học sẽ dựng nên bên trong và bên trên cũng không
gian ấy một sự khống chế có tầm quan trọng cũng như lớn lao như
thời gian vĩnh hằng đối với thời gian trung bình của kiếp người
và cũng giống như các cõi vô biên của các định tinh đối với vùng
diện tích có thể ở được trên quả địa cầu [[93]]
.
Tóm lại, thuyết Thực chứng dự tính tiêu diệt Thần học, Siêu hình
học, Thần linh học, thuyết Vô thần, thuyết Duy vật, thuyết Phiếm
thần và Khoa học; và rốt cuộc nó phải kết liễu bằng cách tự
hủy diệt mình. De Mirville nghĩ rằng theo thuyết Thực chứng thì
“trật tự chỉ bắt đầu ngự trị trong tâm trí con người vào lúc mà
tâm lý học sẽ trở thành một loại
vật lý học trí não, còn
lịch sử trở thành một loại vật lý học xã hội”. Mohammed hiện
đại trước hết phải giúp cho thiện nam tín nữ trút được gánh nặng
về Thượng Đế và linh hồn của chính mình; nhiên hậu mới vô hình trung
moi bụng học thuyết của chính mình bằng lưỡi gươm quá sắc bén là
siêu hình học, lúc nào ông cũng nghĩ rằng mình đang né tránh siêu
hình học, vậy là hé lộ ra mọi vết tích của triết học.
Vào năm 1864, M. Paul Janet, một thành viên của Bác học viện đã đọc
một bài thuyết trình về thuyết Thực chứng trong đó có những lời
lẽ đáng chú ý sau đây:
“Có một số tâm trí được nuôi dưỡng và cấp dưỡng dựa vào khoa học
chính xác và thực chứng, tuy nhiên họ lại cảm thấy có một loại
xung lực bản năng hướng về triết học. Họ có thể thỏa mãn được bản
năng này chỉ dựa vào những yếu tố mà họ đã có sẵn trong tầm
tay. Tuy nhiên, vì họ không biết gì về khoa học tâm lý và chỉ nghiên
cứu sơ sơ về siêu hình học cho nên họ quyết tâm chiến đấu chống lại
cái môn siêu hình học cũng như tâm lý học ấy mà họ biết về môn
này cũng ít như môn kia. Sau khi đã làm như thế họ cứ tưởng ḿnh
đã sáng lập nên một Khoa học Thực chứng trong khi sự thật là họ
chỉ kiến tạo nên một thuyết siêu hình mới mẻ bất toàn và què
quặt. Họ nhận vơ mình có thẩm quyền và không thể sai lầm vốn chỉ
là thuộc tính của các khoa học chân chính thôi, những khoa học dựa
vào kinh nghiệm và tính toán; nhưng họ thiếu một thẩm quyền như
thế vì các ý tưởng của họ đã khiếm khuyết thì chớ, song le lại
còn thuộc về cùng một lớp như những ý tưởng mà họ đả kích. Vì
thế cho nên địa vị của họ rất yếu kém, các ý tưởng của họ rốt
cuộc sẽ sụp đổ và chẳng bao lâu sau sẽ bị tản mác đi bốn phương”
[[94]]
.
Các nhà Thực chứng ở Châu Mỹ đã liên kết với nhau trong nỗ lực
không mệt mỏi để lật đổ Thần linh học. Mặc dù vậy, để chứng tỏ
là mình vô tư, họ nêu ra những thắc mắc mới mẻ như sau: “Liệu là
trong các giáo điều về sự Hoài thai Vô nhiễm, Tam vị Nhất thể và
sự Biến thể có bao nhiêu điều là hợp lý, nếu chúng phải chịu cuộc
trắc nghiệm của sinh lý học, toán học và hóa học? Và họ “tiến
hành giải đáp rằng những điều thất thường trong Thần linh học
cũng có tính phi lý đâu có gì quá đáng so với những đức tin rõ
rệt và khả kính này”. Đúng vậy. Nhưng không có sự phi lý thần
học nào cũng như sự hão huyền thần linh học nào có thể sánh kịp
sự trụy lạc và đần độn trong cái khái niệm thực chứng về việc
“thụ thai nhân tạo”. Vì tự mình chối bỏ mọi tư tưởng về các
nguyên nhân bản sơ cũng như nguyên nhân tối hậu, cho nên họ bèn áp
dụng các thuyết điên rồ của mình để xây dựng nên một người phụ
nữ bất khả hữu cho các thế hệ tương lai tôn thờ; họ thay thế người
bạn đồng hành sống động bất tử của người đàn ông bằng tục bái
vật phụ nữ của người Da đỏ thuộc Obeah, cái ngẫu tượng bằng gỗ
mà hằng ngày người ta nhồi nhét trứng rắn vào để ấp cho nở ra
rắn con bằng nhiệt của mặt trời!
Và thế là nếu ta được phép thắc mắc nhân danh óc phân biệt phải
trái thông thường thì tại sao thần bí gia Ki Tô giáo lại bị trách
cứ là cả tin hoặc các nhà thần
linh học lại bị phó thác cho Bedlam, khi một
tôn giáo thể hiện sự phi lý
nổi loạn như thế lại có được các môn đồ ngay cả trong hàng ngũ các
viện sĩ Hàn lâm – khi những sử thi ngông cuồng như sau đây lại được
thốt ra qua chính miệng của Comte và được các tín đồ của ông
ngưỡng mộ: “Mắt tôi bị chói lòa – mỗi ngày chúng càng sáng mắt
ra với sự trùng hợp càng ngày càng tăng giữa sự đột phá xã hội
của bí nhiệm nữ giới và sự
suy thoái tâm trí của bí tích thánh thể. Đức Mẹ Đồng Trinh đă hạ
bệ Thượng Đế trong tâm trí của các tín hữu Công giáo miền Nam!
Thuyết Thực chứng đã ngộ ra được sự không tưởng Utopia của thời
trung cổ bằng cách biểu diễn mọi thành viên của đại gia đình là
dòng dõi của một bà mẹ đồng
trinh không có chồng . . .” Và lại nữa, sau khi trình bày
phương thức tiến hành: “Sự
phát triển qui trình mới
chẳng bao lâu nữa sẽ khiến nảy sinh ra một giai cấp không cần di
truyền, thích ứng với sự sinh sản dung tục nhiều hơn sự tuyển mộ
các vị lãnh tụ tâm linh hoặc ngay cả các vị lãnh tụ thế tục mà
thẩm quyền của họ lúc đó dựa vào một nguồn gốc thật sự cao siêu
không cần phải né tránh việc
khảo cứu” [[95]]
.
Chúng ta ắt sẽ điều tra đúng đắn về việc này, cho dù ta phát
hiện chúng nơi những “điều thất thường của Thần linh học” hay nơi
những điều bí nhiệm của Ki Tô giáo, có bất cứ thứ gì phi lý hơn
cái “giống dân vị lai” lý tưởng này. Nếu khuynh hướng duy vật không
bị phủ nhận thô bạo do cách ứng xử của một số người ủng hộ nó
vốn là những người công khai rao giảng tục đa hôn thì chúng tôi ắt
tưởng tượng rằng cho dù có hay không có một dòng dõi các giáo sĩ
được sinh ra như thế, thì chúng tôi cũng chẳng thấy có việc tuyệt
tự khi không có con cháu của “những bà mẹ không có chồng”.
Việc một triết lý có thể sinh ra tự nhiên xiết bao một giai cấp
những kẻ hà khắc về mô phạm như thế được diễn tả qua ngòi bút
của một trong những nhà viết tiểu luận lắm điều nhất với những
tình tự như sau: “Đây là một thời đại rất buồn [[96]]
đầy dẫy những đức tin đã chết và đang hấp hối, đầy dẫy
những lời cầu nguyện vô hồn được thốt ra trong sự hoài công mưu
tìm những vị thần linh đã biến mất. Nhưng hỡi ôi! Đó cũng là một
thời đại huy hoàng đầy ánh sáng hoàng kim túa ra từ mặt trời khoa
học đang lên! Liệu ta sẽ làm gì được cho những kẻ bị đắm tàu về
đức tin, bị phá sản về trí tuệ
nhưng . . . lại tìm thấy sự an ủi qua
ảo ảnh của thần linh học,
qua những điều hão huyền của thuyết siêu việt hoặc qua
bóng ma trơi của thuật thôi
miên mesmer? . . .”
Cái bóng ma trơi
giờ đây là một hình ảnh được ưu ái xiết bao đối với nhiều nhà
triết học tí hon, bản thân nó đang phấn đấu để được công nhận.
Cách đây chẳng bao lâu khi cái hiện tượng giờ đây đã quen thuộc bị
một thông tấn viên của tờ Thời báo Luân Đôn cực lực chối bỏ;
những lời quả quyết của y có tầm quan trọng mãi cho tới khi công
trình của Bác sĩ Phipson được chứng nhận của Beccaria, Humboldt và
các nhà vạn vật khác đã giải quyết được vấn đề này [[97]].
Các nhà Thực chứng nên chọn một cách diễn tả nào đó hay ho hơn,
đồng thời theo sát các phát hiện của khoa học. Còn về phần thuật
thôi miên mesmer thì nó đã được chọn dùng ở nhiều nơi trên nước Đức
và được công khai sử dụng một cách thành công không chối cãi được
ở nhiều bệnh viện; các y sĩ có mức lỗi lạc, học thức và tiếng
tăm lừng lẫy đã tin tưởng và chứng tỏ các tính chất huyền bí
của nó; vị diễn giả tự mãn về những người đồng cốt và bệnh
điên khùng chẳng hy vọng ǵ sánh kịp các y sĩ ấy về mặt lỗi lạc,
học thức và tiếng tăm.
Chúng tôi chỉ cần nói thêm một vài lời nữa trước khi bỏ hẳn đề
tài này. Chúng tôi thấy các nhà Thực chứng đặc biệt hân hoan với
ảo tưởng rằng các nhà bác học
khác, hoặc Huxley (người mà mọi người Âu châu đều coi là một trong
các nhà khoa học vĩ đại nhất) đã dứt khoát từ chối vinh dự ấy
và Tiến sĩ Maudsley ở Luân Đôn cũng làm như thế. Trong một bài
thuyết trình do Huxley đọc vào năm 1868 ở Edimburg bàn về
Cơ sở Vật lý của Sự Sống,
ông thậm chí dường như xúc động rất nhiều trước sự phóng khoáng
của vị Tổng giám mục ở New York khi đồng nhất hóa ông với triết
lý của Comte. Ông Huxley có nói: “Về phần mình, tôi xin nói vị giám
mục khả kính nhất có thể băm ông Comte ra thành mảnh vụn bằng
phép biện chứng giống như một vị Agag hiện đại, và tôi chẳng toan
tính giữ tay ông lại. Theo như việc nghiên cứu của tôi về điều đặc
trưng cho triết lý Thực chứng tôi thấy trong đó có ít hoặc không có
giá trị khoa học nào và có nhiều
điều hoàn toàn đối lập với
chính bản thể của khoa học cũng giống như bất kỳ điều nào đó
trong Công giáo tôn trọng quyền tối thượng của Giáo hoàng. Thật
vậy, triết lý của Comte thực tế có thể được mô tả tóm tắt là
Công giáo trừ Ki Tô giáo”. Hơn
nữa Huxley thậm chí còn trở nên giận dữ và khởi sự tố cáo người
Tô cách lan là vô ơn bạc nghĩa vì đã để cho vị Giám mục nhầm lẫn
Comte với người sáng lập ra một triết lý, lẽ ra phải thuộc về
Hume. Vị giáo sư kêu lên: “Chỉ cần khiến cho David Hume trăn trở trong
ngôi mộ của mình hầu như trong phạm vi tầm nghe thuộc căn nhà của
ông thì một thính giả chú ý cũng đã lắng nghe được không một
tiếng càu nhàu trong khi những học thuyết đặc trưng nhất của ông
được gán cho một tác giả người Pháp mãi 50 năm sau mà trong những
trang viết ảm đạm và lải nhải
của tác giả ấy chúng ta đã bỏ qua sức sống của tư tưởng và sự
minh bạch của cách hành văn . . .[[98]]
.
Tội nghiệp cho Comte! Dường như ít ra trong xứ sở này thì những đại
diện cao cấp nhất của triết lý của ông giờ đây đã bị thu gọn
thành ra “một nhà vật lý học, một y sĩ chuyên khoa bệnh thần kinh
và một luật sư”. Một nhà phê bình rất trí xảo đã đặt biệt hiệu
cho bộ ba tuyệt vọng này là “một
bộ ba bất bình thường, vốn hùng hục lao động vất vả cho nên
không có thời giờ để làm quen với những nguyên tắc và luật lệ
thuộc ngôn ngữ của mình” [[99]]
.
Để kết luận về vấn đề này ta thấy các nhà Thực chứng không từ
bỏ bất cứ phương tiện nào để lật đổ Thần linh học nhằm hậu
thuẫn cho tôn giáo của mình.
Người ta thấy các bậc cao đạo về thực chứng thổi kèn không biết
mệt và mặc dù những bức tường của thành Jericho thời nay dường
như chẳng hề sụp đổ thành cát bụi trước luồng hơi của họ, thế
nhưng họ cũng không từ bỏ một phương tiện nào để đạt tới một mục
tiêu mong muốn. Những nghịch lý của họ thật là độc nhất vô nhị và
những lời buộc tội các nhà thần linh học thật là vô địch về mặt
lý luận. Chẳng hạn như trong bài thuyết trình mới đây, người ta có
nhận xét rằng: “Chính việc độc quyền vận dụng bản năng
tôn giáo đã tạo ra sự vô luân
về tình dục. Các linh mục, tu sĩ nam và tu sĩ nữ, các vị thánh,
những người đồng cốt, những
kẻ xuất thần và các tín đồ đều khét tiếng là dâm ô” [[100]].
Chúng tôi lấy làm thích thú mà nhận xét rằng trong khi thuyết
Thực chứng cao rao mình là một tôn giáo thì Thần linh học chẳng bao
giờ tự cho mình là bất cứ thứ gì khác hơn khoa học, một triết lý
đang tăng trưởng hoặc đúng hơn là một sự khảo cứu về các lực trong
thiên nhiên còn ẩn tàng và cho đến nay chưa ai giải thích được.
Tính khách quan trong đủ thứ hiện tượng của nó đã được chứng minh
bởi nhiều đại diện chân chính của khoa học và những “con khỉ” bắt
chước đều chối bỏ một cách không đạt hiệu lực.
Cuối cùng ta có thể nhận xét về các nhà Thực chứng vốn khách
sáo bàn tới mọi hiện tượng tâm lý là họ giống như nhà tu từ học
của Samuel Butler,
“ y không thể mở miệng ra
Nhưng một phép chuyển nghĩa
lại tuôn ra từ đó”.
Chúng tôi cũng không có dịp để cho tầm nhìn của nhà phê bình mở
rộng ra vượt quá mức những kẻ bá láp và những kẻ lên mặt dạy
đời không đáng mang danh hiệu là nhà khoa học. Nhưng nếu ta cũng
không chối bỏ được việc xem xét những đề tài mới bởi những vị có
hàng ngũ cao siêu trong thế giới khoa học rất thường trôi qua mà không
bị thách đố khi nó lẽ ra phải bị phê phán. Sự thận trọng nảy
sinh từ một thói quen cố định trong việc nghiên cứu thực nghiệm,
toan tính chuyển từ ý kiến này tiến lên ý kiến kia, tầm quan
trọng được dành cho những vị có thẩm quyền đã được công nhận -
tất cả đều dung dưỡng cho thói bảo thủ về tư duy tự nhiên
sẽ biến thành thói giáo điều. Sự tiến bộ của khoa học rất thường
phải trả giá khi người cải cách bị tẩy chay hoặc chịu số phận
thánh tử vì đạo. Có thể nói người cải cách trong phòng thí
nghiệm phải đứng mũi chịu sào trước cái thành lũy tập quán và
thành kiến. Hiếm khi nào có một tay thân thiện mở he hé cánh cửa
hậu. Y có thể không mang tới những lời phản đối ồn ào và những
lời chỉ trích hỗn xược của những kẻ vô danh tiểu tốt ở
tiền phòng khoa học, nhưng sự thù nghịch của một tầng lớp khác
mới là nguy cơ thật sự mà người cải cách phải giáp mặt và vượt
qua. Kiến thức gia tăng mau chóng, nhưng đoàn thể lớn các nhà khoa
học đâu có quyền bị mất uy tín. Trong bất cứ trường hợp nào th́
họ cũng làm hết sức mình để cho phát kiến mới cùng với nhà
phát kiến phải bị đắm tàu. Chiến thắng thuộc về kẻ nào đã đạt
được bằng sự can đảm cá nhân, trực giác và sự kiên trì. Có rất
ít lực trong thiên nhiên khi lần đầu tiên được loan báo mà lại không
bị chế nhạo để rồi bị dẹp sang một bên, coi là phi lý và phản khoa
học. Vì làm nhụt lòng kiêu hảnh của những kẻ chưa hề khám phá ra
bất cứ điều gì cho nên những lời quả quyết đúng đắn của những
người bị từ chối lắng nghe cho đến khi không cần thận trọng phủ
nhận nữa, thế là hỡi ôi nhân loại ích kỷ và tội nghiệp xiết bao!
Đến lượt chính những kẻ phát hiện này lại thường trở thành người
chống đối và áp bức những kẻ thám hiểm mới gần đây hơn trong địa
hạt định luật thiên nhiên. Thế là từng bước một, loài người cứ
chạy vòng vòng xung quanh cái vòng kiến thức hạn hẹp của mình,
khoa học thường xuyên sửa đổi những nhầm lẫn của ḿnh và hôm sau
lại hiệu đính những thuyết sai lầm của ngày hôm trước. Trường hợp
này đã thường xảy ra chẳng những đối với các vấn đề thuộc về
tâm lý học chẳng hạn như thuật thôi miên mesmer, theo ý nghĩa kép là
một hiện tượng vật lý và tâm linh, mà còn đối với cả những khám
phá trực tiếp liên quan tới khoa học chính xác và dễ dàng chứng
tỏ được.
Liệu ta có thể làm được gì? Liệu ta có nhớ lại được cái quá khứ
khó chịu ấy chăng? Liệu ta có vạch mặt chỉ tên những học giả
thời trung cổ đồng lõa với giới giáo sĩ chối bỏ thuyết Nhật tâm
vì e rằng đụng chạm tới một giáo điều của giới giáo sĩ? Liệu ta
có nhớ chăng các nhà bác học về vỏ sò đã từng một thời chối bỏ
việc những vỏ sò rải rác trên khắp mặt quả địa cầu đã từng là
nơi cư trú của những sinh vật? Làm thế nào mà các nhà vạn vật
học vào thế kỷ thứ 18 lại tuyên bố rằng đó chỉ là
các mô phỏng của thú vật
thôi. Và làm thế nào mà các nhà vạn vật ấy lại đấu tranh, cãi
vã, chiến đấu và chửi rủa lẫn nhau đối với những xác ướp khả
kính của thời xưa trong gần một thế kỷ cho tới khi Buffon dàn xếp
vấn đề này bằng cách chứng tỏ rằng những kẻ phủ nhận đã sai
lầm? Chắc chắn một vỏ sò đâu có chi là siêu việt và nó phải là
một đề tài hoàn toàn rành rành cho bất kỳ việc nghiên cứu chính
xác nào; và nếu các nhà khoa học không đồng ý nổi với nhau về
điều đó thì ta khó lòng mà trông mong họ sẽ tin tưởng vào những
hình tướng phù du – của những bàn tay, khuôn mặt và đôi khi trọn
cả cơ thể – xuất hiện trong những buổi lên đồng của các đồng cốt
tâm linh khi họ tỏ ra là ngay thẳng.
Có tồn tại một tác phẩm nào đó tỏ ra là một tài liệu đọc rất
có lợi trong lúc rảnh rỗi của những nhà khoa học đa nghi. Đó là một
tác phẩm do Flourens (Thư ký trọn đời của Hàn lâm viện Pháp) ấn
hành tên là Lịch sử các Nghiên
cứu của Bouffon. Trong đó tác giả cho thấy nhà vạn vật học vĩ
đại đã đấu tranh và cuối cùng chinh phục được những kẻ ủng hộ
thuyết mô phỏng ra sao; và
những kẻ đó vẫn còn tiếp tục chối bỏ bất cứ điều gì rành rành
dưới ánh mặt trời cho đến khi lâu lâu thì đoàn thể các nhà bác
học lại sa vào cơn thịnh nộ với một trận dịch phủ định. Nó chối
bỏ Franklin và dòng điện đã được ông tinh chế; nó chế nhạo Fulton
với hơi nước đã được cô đọng lại của ông; nó biểu quyết làm cho
kỹ sư Perdonnet phải bó tay vì đã đề nghị xây dựng đường rầy xe
lửa, nó trố mắt nhìn Harvey làm cho ông cũng phát ngượng, nó tuyên
bố Bernard de Palissy “ngu như bò!”.
Trong tác phẩm thường được trích dẫn: “Xung
đột giữa Khoa học và Tôn giáo”, Giáo sư Draper cho thấy dứt
khoát có khuynh hướng làm lệch cán cân công lý và chỉ đổ thừa cho
giới giáo sĩ cản trở bước tiến của khoa học. Mặc dù rất kính
nễ và hâm mộ tác giả và nhà khoa học hùng biện này chúng tôi
cũng phải phản đối và đền ơn đáp nghĩa cho mọi người. Tác giả của
quyển Xung Đột có nhắc tới
nhiều phát hiện nêu trên. Trong mọi trường hợp ông đều tố cáo việc
giới giáo sĩ kháng cự cay đắng và lại kín miệng đối với cũng
sự chống đối đó mà mọi nhà phát hiện mới bao giờ cũng phải
trải nghiệm trong sự kềm kẹp của khoa học đương đại. Việc ông
khẳng định nhân danh khoa học: “Tri thức là quyền lực” chắc chắn là
đúng. Những vụ lạm dụng quyền lực cho dù nó bắt nguồn từ việc
quá khôn ngoan hay quá dốt nát thì cũng đều có tác dụng tai hại.
Hơn nữa, giới giáo sĩ bây giờ đã im hơi lặng tiếng rồi. Thời nay
thì sự phản đối của họ đâu mấy khi được thế giới khoa học đếm xỉa
tới. Nhưng trong khi thần học lui vào hậu trường th́ các nhà khoa
học lại nắm lấy cây quyền trượng chuyên chế bằng cả hai tay và họ
sẽ sử dụng nó giống như chư thiên thần cherubim và ngọn gươm bốc
cháy ở vườn Eden để giữ cho thiên hạ lánh xa cây hằng sống đời
đời để mãi mãi ở trong phạm vi của thế giới vật chất hữu hoại
này.
Đáp lại lời phê phán của Tiến sĩ Gully về thuyết sương mù lửa
của ông Tyndall, Tổng biên tập báo
Nhà Thần linh học Luân Đôn
nhận xét rằng nếu toàn bộ đoàn thể
các nhà thần linh học không bị thiêu sống ở Smithfield trong thế
kỷ này th́ chúng ta chỉ biết ơn khoa học thôi do lòng từ bi tột
đỉnh ấy. Được thôi, ta hãy thừa nhận rằng trong trường hơp này các
nhà khoa học đang gián tiếp là người ban ơn công khai đến mức mà
việc thiêu sống các học giả uyên bác không còn là mốt thời thượng
nữa. Nhưng cũng thật bất công khi thắc mắc xem liệu cái xu hướng
biểu lộ đối với học thuyết thần linh do Faraday, Tyndall, Huxley,
Agassiz và những người khác chẳng lẽ lại không bảo đảm được việc
nghi ngờ liệu các nhà quí phái bác học này cùng với môn đồ của
họ có quyền năng vô hạn mà Tòa án Tôn giáo đã từng một lần có
được hay chăng, hay là giờ đây các nhà thần linh học lại không có
được lý do cảm thấy thoải mái như hiện nay? Cho dù giả sử rằng
họ không thiêu sống tín đồ vì có tồn tại một thế giới vong linh –
thật là bất hợp pháp khi thiêu sống người ta – liệu họ có gửi các
nhà thần linh học đến Bedlam hay chăng? Chẳng lẽ họ không gọi chúng
ta là “những kẻ độc tưởng không chữa được”, “những kẻ điên loạn
bị ảo giác”, “những kẻ bái vật” cùng với những tên gọi đặc trưng
như thế? Thật vậy, chúng tôi không thể hiểu nổi điều ǵ đã kích
động đến mức vị Tổng biên tập báo
Nhà Thần linh học, Luân Đôn
lại phải làm ơn vì sự giám hộ đầy hảo ý của các nhà khoa học.
Chúng tôi tin rằng việc mới đây truy tố Lankester-Donkin-Slade ở Luân
Đôn rốt cuộc lại không làm sáng mắt ra cho những nhà thần linh học
đầy hi vọng để họ thấy rằng thuyết duy vật ngoan cố thường ngu
tín hơn cả thuyết cuồng tín của tôn giáo nữa.
Một trong những tác phẩm tài ba nhất của Giáo sư Tyndall viết ra
chính là bài tiểu luận chua cay của ông bàn về
Martineau và thuyết Duy vật .
Đồng thời vào một ngày nào đó trong những năm tương lai, tác giả
chắc chắn sẽ rất sẵn lòng cắt xén một số cách diễn đạt thô tục
không thể tha thứ được trong đó. Tuy nhiên vào lúc này, chúng tôi
không bàn tới những điều đó mà chỉ xem xét điều ông phải trình
bày về hiện tượng ý thức. Ông trích dẫn thắc mắc sau đây của ông
Martineau: “Một người có thể bảo rằng ‘tôi cảm nhận, tôi suy nghĩ,
tôi yêu thương’ nhưng làm thế nào mà ư thức lại hòa nhập vào vấn đề
ấy?” Và ông trả lời như sau: “Ta không thể nghĩ ra nổi việc chuyển
từ vật lý học của bộ óc sang các sự kiện tương ứng của ý thức.
Cứ cho rằng một tư tưởng nhất định và một tác động phân tử trong bộ
óc xảy ra cùng một lúc, thì chúng ta cũng có được cơ quan trí
thức và xét theo biểu kiến cũng không có được bất kỳ bộ phận thô
sơ nào của cơ quan khiến ta có thể qua một quá trình lý luận
chuyển từ phần này sang phần kia. Chúng cùng nhau xuất hiện, nhưng
chúng ta chẳng biết tại sao?
Nếu tâm trí và các giác quan của ta có thể mở rộng, tăng cường và
soi sáng đến mức giúp ta có thể thấy và cảm nhận được chính
những phần tử của bộ óc; nếu ta có thể theo dõi mọi sự vận
động, sự xếp nhóm và sự phóng điện của chúng, và nếu chúng ta
quen thuộc rất nhiều với những trạng thái tương ứng của tư tưởng
và xúc cảm th́ chúng ta vẫn còn lâu mới giải quyết được vấn đề
này: ‘Làm cách nào mà các quá trình vật lý ấy lại liên kết
được với các sự kiện của ý thức?’ Vực sâu ngăn cách giữa hai lớp
hiện tượng này vẫn còn không vượt qua được đối với trí năng”
[[101]]
.
Vực sâu này (vốn không vượt qua nổi đối với Giáo sư Tyndall cũng
giống như lửa sương mù khi nhà khoa học giáp mặt với nguyên nhân mà
ông không thể biết được) chỉ là một hàng rào đối với những người
không có trực giác tâm linh. Tác phẩm “Phác
thảo các bài Thuyết trình về Hệ thống Thần kinh học của Nhân
loại học” của Giáo sư Buchanan, một tác phẩm được viết ra mãi
từ năm 1854, có những gợi ý theo đó nếu kẻ thông thái rởm mà quan
tâm chút ít thì họ ắt thấy có một nhịp cầu có thể bắc ngang qua
cái vực thẳm dễ sợ này. Đó là một trong những cái thùng chứa mà
hạt giống tư tưởng của các vụ mùa tương lai được tích trữ trong
đó do hiện tại đang chắt mót. Nhưng kết cấu của thuyết duy vật
dựa hoàn toàn trên cái hạ tầng cơ sở thô trược ấy tức là lý trí.
Khi họ đã vươn hết mọi khả năng
giới hạn tột cùng th́ các vị giảng dạy thuyết ấy cùng lắm cũng
chỉ tiết lộ cho ta thấy một vũ trụ các phân tử do một xung lực
huyền bí làm linh hoạt. Liệu ta có thể thắc mắc xem căn bệnh
của các nhà khoa học có thể được chẩn đoán tốt hơn qua việc suy ra
từ bảng phân tích của Giáo sư Tyndall về trạng thái tâm trí của
giới giáo sĩ tôn sùng quyền uy của Giáo hoàng bằng cách chỉ thay
đổi chút ít các tên gọi. Đó là vì nếu ta hiểu các “nhà hướng
dẫn tâm linh” là các nhà khoa học, nếu “quá khứ tiền khoa học” thay
thế cho “hiện tại duy vật”, nếu “tinh thần” thay thế cho “khoa học”,
th́ trong đoạn văn sau đây ta sẽ có một bức chân dung sống động của
một nhà khoa học hiện đại mà một bậc thầy đã vẽ nên:
“. . . Các vị dẫn dắt tâm linh của họ độc quyền sống trong quá
khứ tiền khoa học đến nỗi ngay cả những người thật sự có trí năng
phát triển mạnh trong đám họ cũng đâm ra bị teo tóp đối với sự
thật khoa học. Họ có mắt nhưng chẳng nhìn thấy gì; họ có tai nhưng
chẳng nghe thấy gì; vì cả tai lẫn mắt của họ đều bị chết mê
chết mệt bởi những phong cảnh và âm thanh của một thời đại khác.
Liên quan tới khoa học thì bộ óc tôn sùng Quyền uy của Giáo hoàng
do thiếu vận dụng cho nên hầu như cũng giống bộ óc chưa phát triển
của một đứa bé. Và thế là giống như những đứa trẻ con về kiến
thức khoa học nhưng lại mạnh dạn vận dụng quyền năng tâm linh trong
đám người dốt nát, họ đã khuyến khích và thực hiện những phép
thực hành dủ để khiến cho những người thông minh trong đám họ phải
đỏ mặt lên vì xấu hổ” [[102]].
Nhà Huyền bí học giơ cao cái gương ra trước khoa học để cho khoa
học có thể nhìn thấy được mình trông giống như cái gì.
Từ khi lịch sử ghi nhận được những định luật đầu tiên mà con người
đã xác lập được thì chưa bao giờ có một dân tộc nào mà bộ luật
của nó không treo lủng lẳng những vấn đề sống còn của các công dân
dựa trên sự xác nhận của hai hoặc ba nhân chứng đáng tin cậy. Thánh
Moses, nhà lập pháp đầu tiên mà chúng ta gặp trong lịch sử thời
xưa có nói: “Kẻ nào đáng chết sẽ phải bị xử chết dựa theo phán
quyết của hai nhân chứng hoặc ba nhân chứng” [[103]]
. Montesquieu có nói: “Những luật lệ nào xử tội chết một
người dựa vào lời cung khai chỉ của một nhân chứng thôi ắt là tai
hại cho tự do. Lý trí đòi hỏi phải có hai nhân chứng” [[104]]
.
Như vậy giá trị của nhân chứng đã được mặc nhiên đồng ý và chấp
nhận ở mọi xứ sở. Nhưng các nhà khoa học không chịu chấp nhận
bằng chứng của cả triệu người chống lại một người. Hàng trăm
ngàn người đã hoài công xác nhận những sự thật.
Họ có mắt nhưng lại không nhìn
thấy. Họ quyết tâm vẫn còn mù lòa và điếc. Ba mươi năm chứng
tỏ thực tiễn và bằng chứng của nhiều triệu tín đồ ở Âu Mỹ chắc
chắn là có quyền được tôn trọng và chú ý đến một mức nào đó.
Đặc biệt là như vậy khi phán quyết của 12 nhà thần linh học, chịu
ảnh hưởng của bằng chứng do bất kỳ hai người nào xác nhận, cũng
đủ thẩm quyền để đưa một nhà khoa học ra treo cổ vì một tội ác
có lẽ phạm phải do sự thôi thúc của một cơn chấn động trong những
phần tử trí não không bị kềm chế bởi một ý thức báo phục đạo
đức trong tương lai.
Toàn thể thế giới văn minh phải coi khoa học nói chung là một mục
tiêu thiêng liêng đáng kính trọng và tôn thờ; vì chỉ có khoa học
mới giúp cho con người hiểu được Đấng Thiêng Liêng qua việc thật sự
đánh giá cao công trình của ngài. Webster có nói: “Khoa học là việc
hiểu biết về sự thật hoặc các
sự kiện, đó là việc khảo cứu sự thật
vì sự thật và theo đuổi kiến
thức thuần túy”. Nếu định nghĩa này là chính xác th́ đa số các
học giả thời nay đã tỏ ra trá ngụy đối với vị nữ thần của
mình: “Sự thật vị sự thật”. Và liệu ta có thể mưu tìm được chìa
khóa cho mọi sự thật trong thiên nhiên ở đâu nữa nếu không phải là
trong sự bí nhiệm của tâm lý học mà cho đến nay ta chưa thăm dò
được? Tiếc thay! Khi thăm dò về thiên nhiên như thế biết bao nhiêu
nhà khoa học đã kén cá chọn canh chỉ lựa chọn những sự kiện để
nghiên cứu mà cùng lắm cũng chỉ ủng hộ cho thành kiến của mình.
Tâm lý học không có kẻ thù nào tồi tệ hơn trường phái y học được
mệnh danh là những thầy thuốc chữa mẹo. Thật là hoài công mà nhắc
cho họ nhớ rằng cái gọi là khoa học chính xác rành rành như y
học, hầu như chẳng xứng đáng gì với tên gọi ấy. Bất chấp mọi
ngành kiến thức y học, các y sĩ vẫn phải nên nghiên cứu tâm lý
học hơn bất kỳ ngành học nào khác vì nếu không có tâm lý học
việc thực hành y học sẽ bị suy thoái thành ra chỉ là việc phỏng
đoán và trực giác may rủi mà hầu như họ hoàn toàn bỏ lơ. Chỉ
nội việc không tán đồng những học thuyết mà họ truyền bá cũng
đủ làm họ giận dữ coi đó là tà thuyết và mặc dù một phương pháp
chữa trị không được công nhận và không được lòng dân đã tỏ ra là
cứu được cả ngàn người thì với vai trò một y sĩ đoàn, họ dường
như vẫn có khuynh hướng bám lấy những giả thuyết và những phương
thuốc đã được chấp nhận, làm giảm giá trị cả nhà cải cách lẫn
phương thức cải cách cho đến khi họ có được dấu ấn cầu chứng của
sự chính qui. Trong khi đó
hàng ngàn bệnh nhân bất hạnh có thể chết đi, nhưng chừng nào mà
danh dự của nghề nghiệp vẫn còn được biện minh thì đây chỉ là vấn
đề có tầm quan trọng thứ yếu.
Xét về mặt lý thuyết thì y học mang lại phúc lợi nhiều nhất,
đồng thời không có một trường phái nào lại bộc lộ nhiều ví dụ
về thành kiến nhỏ nhen thuyết duy vật, thuyết vô thần và sự ngoan
cố đầy ác ý như y học. Những sự ưu ái và bảo trợ của các y sĩ
hàng đầu hiếm khi nào được đo lường qua sự hữu dụng của một phát
kiến. Việc rạch cho chảy máu qua việc cho đỉa cắn, giác hơi và
dùng dao mổ được giới bình dân tán thành lan nhanh như bệnh dịch,
nhưng rốt cuộc nó bị thất sủng không đếm xỉa tới công lao; nước mà
giờ đây người ta thoải mái dùng cho bệnh nhân bị sốt thì có một
thời được dùng cho họ, việc tắm nước nóng được thay thế bằng tắm
nước lạnh và có một thời thủy liệu pháp bị coi là một chuyện
điên rồ. Vỏ cây Peri – mà một người thời nay bênh vực cho thẩm
quyền của thánh kinh đã nghiêm chỉnh cố gắng đồng nhất hóa nó
với “Cây Hằng Sống” trên thiên đường [[105]]
và được mang tới Tây Ban Nha vào năm 1632 – bị bỏ lơ trong nhiều
năm. Giáo hội đã từng một lần tỏ ra phân biệt đối xử còn nhiều
hơn khoa học nữa. Theo lời thỉnh cầu của Hồng y De Lugo, Innocen X.
đã mang lại cho giáo hội uy tín và danh tiếng đầy quyền lực của
ḿnh.
Trong một quyển sách cổ tựa đề là
Ma quỉ học, tác giả trích
dẫn nhiều ví dụ về những phương thuốc quan trọng thoạt đầu bị bỏ
lơ rồi sau đó mới nổi bật lên được chú ý chỉ do tình cờ. Ông
cũng chứng tỏ rằng hầu hết các phát kiến mới trong y học đã tỏ
ra chẳng có ǵ khá hơn là “sự hồi sinh và chọn dùng trở lại những
phép thực hành rất xưa cũ”. Trong thế kỷ vừa qua, rễ cây dương xỉ
dương tính được một mệnh phụ tên là Nouffleur (một nữ lang băm) bán
và quảng cáo rùm beng là một loại thuốc nhảm nhí bí mật chữa
được bệnh giun sán. Vua Louis XV đã bỏ ra một món tiền lớn để mua
bí quyết ấy; sau đó các y sĩ mới phát hiện ra rằng chính Galen
đã khuyên dùng và viết toa phương thuốc đó để trị bệnh ấy. Cái
bột thuốc trứ danh của Hầu tước Portland chữa bệnh thống phong
chính là chất diacentaureon của
Cælius Aurelianus. Về sau người ta mới nhận biết được rằng các tác
giả y khoa thời xa xưa nhất đã sử dụng nó, họ đã tìm thấy nó
trong các phẩm của các triết gia Hi Lạp thời xưa.
Nước y khoa của Bác sĩ Husson
cũng thế, nó mang tên của ông. Phương thuốc nổi tiếng này để trị
bệnh thống phong cũng được nhận ra dưới chiêu bài mới chính là
Colchicum autumnale, tức là cây
nghệ ở đồng cỏ vốn đồng nhất với một cây tên là
Hermodactylus có công dụng là
một chất giải độc nào đó đối với bệnh thống phong; nó đă được
nhận biết và bảo vệ do Oribasius, là một y sĩ vĩ đại vào thế kỷ
thứ tư và Ætius Amidenus,
một y sĩ xuất sắc khác ở Alexandria vào thế kỷ thứ 5. Sau đó
nó đã bị bỏ lơ và chìm vào quên lãng v́ nó đã
quá xưa cũ cho nên không được
coi là thuốc tốt được công nhận bởi các thành viên của các khoa y
vốn thịnh hành vào cuối thế kỷ vừa qua!
Ngay cả Magendie vĩ đại, là một nhà sinh lý học khôn ngoan, cũng
không phát hiện được điều ǵ nếu các y sĩ thời xa xưa nhất chưa từng
phát hiện ra nó và thấy điều đó là tốt. Phương thuốc mà ông đề
nghị chữa bệnh lao nghĩa là dùng axit prussic, ta có thể thấy trong
những tác phẩm của Lumæus, quyển 4 của bộ
Amenitates Academicœ, trong đó
ông chứng tỏ rằng người ta đã dùng nước cất của cây nguyệt quế
để chữa bệnh lao phổi và đạt được nhiều ích lợi. Pliny cũng đoan
chắc với ta rằng nước chiết xuất từ cây hạnh đào và hột cứng
của cây anh đào chữa được bệnh ho dai dẳng nhất. Tác giả của
quyển Ma quỉ học đã nhận
xét rất hay rằng ta có thể quả quyết một cách hoàn toàn xác tín
rằng “đủ thứ phép chế biến bí mật của thuốc phiện mà người ta ca
ngợi là phát hiện của thời nay thì đều có thể được nhận thấy
trong những tác phẩm của các tác giả thời xưa”, họ thấy là ḿnh
bị mất uy tín vào thời nay.
Khắp nơi người ta đều công nhận rằng từ thời xa xưa miền viễn Đông
đã là vùng đất của tri thức. Ngay cả ở Ai Cập thì môn thực vật
học và khoáng vật học cũng đã được các nhà bác học nghiên cứu
rộng rãi hơn nước nào hết ở vùng Trung Á cổ sơ. Sprengel cho dù
tỏ ra là bất công và đầy thành kiến về mọi điều khác nữa cũng
lại thú nhận nhiều điều này trong tác phẩm
Lịch sử Y học của mình. Thế
nhưng mặc dù điều đó, bất cứ khi nào thảo luận tới đề tài pháp
thuật thì pháp thuật Ấn Độ hiếm khi nào được nêu ra cho bất cứ ai
vì nói chung nó ít được thực hành ở xứ sở ấy nên chẳng ai biết
tới nó so với ở bất kỳ dân tộc cổ xưa nào khác. Đối với người
Ấn độ thì pháp thuật còn có tính cách bí truyền nhiều hơn mức
ngay cả đối với các tu sĩ Ai Cập nữa. Nó được coi là linh thiêng
đến nỗi người ta chỉ phần nào công nhận sự tồn tại của nó và
người ta chỉ thực hành nó trong những trường hợp khẩn cấp nơi công
cộng. Nó còn hơn hẳn một vấn
đề tôn giáo nữa vì nó được coi là linh thiêng. Mặc dù có thực
hành một đạo đức nghiêm khắc và thanh khiết thì các bậc đạo
trưởng ở Ai Cập không một lúc nào có thể được so sánh với những
môn đồ tu khổ hạnh của phái Lõa thể cả về cuộc sống thánh thiện
lẫn những quyền năng phép lạ mà họ đã phát triển được do sự cầu
khẩn siêu tự nhiên về mọi thứ trần tục. Những người nào biết rõ
họ thì còn tôn kính họ nhiều hơn các pháp sư của Chaldea nữa. Vì
từ bỏ những tiện nghi đơn giản nhất của cuộc sống cho nên họ sống
trong rừng rậm với cuộc đời một tu sĩ ẩn dật nhất[[106]]
trong khi các huynh đệ người Ai Cập của họ ít ra cũng quây
quần lại với nhau. Mặc dù lịch sử đã gây sỉ nhục cho mọi người
thực hành pháp thuật và thuật bói toán, song lịch sử cũng tuyên
cáo là họ nắm được những bí mật vĩ đại nhất về kiến thức y
học và có tài khéo siêu quần bạt tụy khi thực hành y thuật. Trong
các tu viện ở Ấn Độ có bảo tồn được nhiều bộ sách ghi chép lại
bằng chứng về học thuật của họ. Việc ta toan tính xét xem liệu
các môn đồ phái Lõa thể này có phải là những người thực sự sáng
lập ra pháp thuật ờ Ấn Độ hay chăng, hoặc liệu họ chỉ thực hành
điều đã được truyền thừa cho họ từ các bậc Rishis xưa nhất (bảy
nhà thánh thiền sơ khai) [[107]]
ắt bị các học giả chính xác coi như chỉ là sự suy đoán.
“Việc họ cẩn thận khi giáo dục giới trẻ tuổi, làm cho giới thanh
niên quen thuộc với những tình cảm rộng lượng và đầy đức hạnh,
đặc biệt tôn vinh chúng và những câu châm ngôn và những bài thuyết
trình các sử gia ghi chép lại được chứng tỏ rằng họ là các
chuyên gia về vấn đề triết học, siêu hình học, thiên văn học, đạo
đức và tôn giáo” (một tác giả hiện đại nói như thế). Họ vẫn bảo
tồn được phẩm giá của mình khi chịu uy thế của những ông hoàng đầy
quyền lực nhất mà họ cũng không
chịu hạ cố tới viếng thăm hoặc bận tâm xin xỏ những ân huệ
nhỏ nhặt nhất. Nếu những ông hoàng muốn được các bậc thánh nhân
ấy khuyên lơn hoặc cầu nguyện thì họ bắt buộc phải thân chinh đến
tận nơi hoặc cử sứ giả đi thay. Không có bí mật quyền năng nào của
loài cây cỏ hoặc khoáng vật mà những người này không biết. Họ đã
dò thấu được thiên nhiên đến chỗ sâu thẳm của nó, trong khi tâm lý
học và sinh lý học là những quyển sách mở ngỏ đối với họ, kết
quả là một môn khoa học mà giờ đây ta gọi một cách ngạo mạn là
pháp thuật.
Trong khi những phép lạ được ghi chép trong Kinh Thánh đã trở thành
những sự kiện được Ki Tô hữu chấp nhận th́ việc không tin vào
chúng lại bị coi là kẻ vô đạo, thế mà những câu chuyện kể về phép
lạ và điều huyễn hoặc trong
Atharva Veda [[108]]
lại khiến cho các Ki Tô hữu khinh bỉ hoặc bị họ coi là bằng chứng
ma quỉ. Thế nhưng xét theo nhiều phương diện, bất chấp sự ngần ngại
của một vài học giả tiếng Bắc phạn thì chúng tôi vẫn có thể
chứng tỏ rằng hai bên đồng nhất với nhau. Hơn nữa, vì kinh Phệ đà
giờ đây được các học giả chứng minh là có trước Thánh kinh của Do
Thái giáo nhiều thời đại cho nên ta cũng dễ dàng suy diễn được
rằng nếu bên này có vay mượn của bên kia th́ các Thánh thư của Ấn
Độ không bị cáo buộc là đạo văn.
Trước hết, vũ trụ khởi nguyên luận của họ cho thấy ý kiến thịnh
hành trong các nước văn minh đã sai lầm xiết bao khi cho rằng người
Ấn Độ coi Brahma là vị thủ lãnh hoặc Thần linh Tối cao của mình.
Brahma là một đấng thần linh thứ cấp và là một đấng “làm
cho nước vận động” giống như Jehovah. Ngài là thần linh
sáng tạo và theo biểu diễn
ẩn dụ thì ngài có bốn đầu tương ứng với bốn phương chính. Ngài là
đấng hóa công, kiến trúc sư
của thế giới. Trong quyển Thần
thoại Ấn Độ, Polier có nói: “Ở trạng thái sáng tạo bản sơ, vũ
trụ sơ khai bị chìm ngập trong nước dựa vào lòng của Đấng Vĩnh
Hằng. Khi nảy sinh từ cái khối hỗn mang u minh ấy, Brahma tức kiến
trúc sư của thế giới ngự trên một lá hoa sen trôi nổi (di chuyển?)
trên nước, không hề phân biệt được bất cứ thứ gì ngoại trừ nước
và bóng đêm”. Điều này đồng nhất tối đa với vũ trụ khởi nguyên
luận của Ai Cập mà trong những câu mở đầu có cho thấy rằng Athor
[[109]]
tức Mẹ Ban Đêm (biểu diễn bóng tối vô biên) là yếu tố bản sơ
bao phủ vực sâu vô tận, được làm linh hoạt do nước và tinh thần vũ
trụ của Đấng Vĩnh Hằng, chỉ ngự trong Hỗn mang thôi. Cũng giống
như trong Thánh kinh của Do Thái giáo, lịch sử sáng tạo bắt đầu
bằng thần khí của Thượng Đế và sự phân thân sáng tạo của ngài là
một Đấng Thiêng Liêng khác [[110]]
. Khi nhận thấy một tình trạng sự vật ảm đạm như thế, Brahma
khiếp đảm tự nhủ: “Ta là ai? Ta từ đâu ra?” Thế rồi ngài thấy một
tiếng nói: “Hãy cầu nguyện với Bhagavant tức là Đấng Vĩnh Hằng,
cũng được biết là Parabrahma”. Brahma nổi lên từ tư thế bơi, an tọa
trên một hoa sen ở tư thế nhập định và suy gẫm về Đấng Vĩnh Hằng,
Đấng Vĩnh Hằng hài lòng với bằng chứng về sự mở đạo như thế cho
nên vén bức màn đen bản sơ để khai mở sự hiểu biết của Brahma.
“Sau đó Brahma từ trứng vũ trụ (hỗn mang vô cực) xuất hiện thành
ánh sáng, vì sự hiểu biết
của ngài giờ đây đã được khai mở và ngài khởi sự hoạt động; ngài
di chuyển trên mặt nước vĩnh
hằng có bên trong mình là thần khí của Thượng Đế; ngài là
Narayana do có khả năng làm
cho nước vận động”.
Hoa sen, hoa linh thiêng của người Ai Cập cũng như của người Ấn Độ,
là biểu tượng của Horus cũng như là biểu tượng của Brahma. Không có
đền thờ nào ở Tây Tạng hoặc Nepal mà ta không thấy hoa sen, biểu
tượng này có ý nghĩa rất gợi ý. Cành
hoa huệ mà vị Tổng thiên
thần cầm trên tay rồi dâng cho Đức Mẹ Đồng Trinh trong những bức
tranh về “lễ truyền tin” cũng có ý nghĩa biểu tượng bí truyền
giống hệt như thế. Chúng tôi xin bạn đọc hãy tham khảo ngài William
Jones [[111]]
. Đối với người Ấn Độ, hoa sen là biểu hiệu của quyền năng
sinh sản trong thiên nhiên do tác nhân của lửa và nước (tinh thần và
vật chất). Một câu thơ trong Chí
Tôn Ca có nói: “Hỡi Đấng Vĩnh Hằng! Con thấy Brahma là đấng
sáng tạo được đăng quang nơi ngài
bên trên hoa sen!”, còn ngài W. Jones cho thấy rằng hạt giống của
hoa sen – ngay cả trước khi nảy mầm – cũng chứa những chiếc lá đã
được tạo ra hoàn chỉnh, là hình dáng thu nhỏ của điều mà một ngày
kia chúng sẽ trở thành những cái cây hoàn chỉnh; hoặc tác giả
của quyển Ngoại Đạo có nói:
“Như vậy thiên nhiên đã cung cấp cho ta một mẫu
hình tiền chế về những sản
vật của nó”, ông còn nói thêm rằng: “hạt giống của mọi cái cây
hiển giao có chứa những đóa
hoa đích thực bao hàm
một cây nhỏ dưới dạng phôi thai
đã được tạo dựng rồi” [[112]].
Đối với các Phật tử, nó cũng có ý nghĩa giống như vậy. Maha-Maya
tức Maha-Deva là mẹ của Đức Phật Thích Ca đã được Bồ Tát (Chơn
linh của Đức Phật) báo tin cho ngài biết sẽ hạ sinh một hoàng nam,
Bồ Tát xuất hiện bên cạnh giường nằm của mẫu hậu trên tay cầm
một đóa hoa sen. Cũng vậy
người Ai Cập thường biểu diễn Osiris và Horus có liên kết với hoa
sen.
Tất cả những sự kiện này đều chứng tỏ rằng ý tưởng ấy có nguồn
gốc như nhau trong cả ba hệ thống tôn giáo: Ấn Độ giáo, Ai Cập
giáo và Do Thái Ki Tô giáo. Ở bất cứ nơi đâu mà người ta sử dụng
cây bông súng (cây hoa sen) thần bí này th́ nó có nghĩa là sự phân
thân của điều thuộc ngoại giới xuất phát từ điều ẩn tàng thuộc
nội giới – tư tưởng vĩnh hằng của Đấng Thiêng Liêng hằng vô hình
chuyển từ dạng trừu trượng sang dạng cụ thể tức hữu hình. Đó là
v́ ngay khi bóng đen bị xua tan và “có được ánh sáng” thì sự hiểu
biết của Brahma được khai mở và ngài thấy trong thế giới ý niệm (cho
đến nay nó đã bị đời đời che giấu trong tư tưởng Thiêng liêng) có
những hình tướng nguyên mẫu của mọi sự vật vô hạn trong tương lai
ắt phải bước vào tồn tại và do đó trở nên hữu hình. Ở giai đoạn
tác động đầu tiên này, Brahma còn chưa trở thành kiến trúc sư,
đấng kiến tạo vũ trụ v́ cũng giống như một kiến trúc sư, trước
hết ngài phải làm quen với kế hoạch và ngộ ra những hình tướng
lý tưởng được chôn vùi trong lòng Đấng Vĩnh Hằng cũng giống như
những lá hoa sen tương lai được giấu kín bên trong hạt giống của cây
hoa đó. Và chính nhờ ý tưởng này mà ta mới tìm ra được ngọn
nguồn và cách giải thích của câu thơ trong vũ trụ khởi nguyên luận
Do Thái giáo như sau: “Và Thượng Đế phán hãy để cho đất sinh ra . . .
Cái cây ăn quả đơm bông kết trái theo loại hình của cây mà
hạt giống đã có sẵn nơi chính
nó. Trong mọi tôn giáo nguyên thủy thì “Ngôi Con của Cha” là Thượng
Đế sáng tạo nghĩa là tư tưởng của ngài trở nên hữu hình; và
trước Công nguyên, từ ba Ngôi của Ấn Độ giáo xuống mãi tới ba Ngôi
trong kinh Kabala của các kinh thánh được giải thích theo Do Thái giáo
thì ba Ngôi của Thượng Đế trong mỗi quốc gia đều được định nghĩa đầy
đủ và xác minh trọn bên trong các ẩn dụ. Trong tín điều của Ki Tô
giáo ta thấy đó chẳng qua chỉ là việc nhân tạo một cái cành mới
vào cái thân cây cũ; và việc các Giáo hội Hi Lạp cũng như La Mã
đều chọn dùng biểu tượng hoa huệ mà vị Tổng thiên thần cầm lấy
vào lúc có lễ Truyền tin cho thấy có một tư tưởng với ý nghĩa
siêu hình học giống như trên.
Hoa sen là sản phẩm của lửa (nhiệt) và nước vì thế cho nên nó là
biểu tượng kép của tinh thần và vật chất. Thượng Đế dưới dạng Ngôi
Hai trong ba Ngôi cũng giống như Jehovah (Adam-Kadmon) và Osiris, hoặc
đúng hơn là Pimander tức là Quyền năng của Tư tưởng Thiêng liêng của
Hermes; đó là v́ chính
Pimander biểu diễn gốc rễ của mọi vị thần Thái dương trong Ai Cập
giáo. Đấng Vĩnh Hằng là Chơn linh của Lửa, ngài khuấy động làm đơm
hoa kết trái và phát triển thành một hình tướng cụ thể mọi điều
sinh ra từ nước tức đất nguyên thủy do từ Brahma tiến hóa ra; nhưng
vũ trụ chính là Brahma và ngài chính là vũ trụ. Đây là triết lý
của Spinoza mà ông đã dẫn xuất từ triết lý của Pythagoras, cũng
chính vì triết lý ấy mà Bruno trở thành một thánh tử vì đạo.
Sự kiện lịch sử này chứng tỏ thần học Ki Tô giáo đã đi lệch
khỏi khởi điểm của mình xiết bao. Bruno đă bị sát hại vì đã chú
giải một biểu tượng mà các Ki Tô hữu thời sơ khai đã chọn dùng
và các thánh tông đồ đã xiển dương! Cái cành cây bông súng của Bồ
Tát và sau này của Tổng thiên thần Gabriel tiêu biểu cho lửa và
nước tức là ý niệm về sự sáng tạo và sự sinh sản, nó đă được
triển khai thành giáo điều xa xưa nhất trong phép bí tích rửa tội.
Các học thuyết của Spinoza và Bruno hầu như giống hệt nhau, mặc dù
lời lẽ của Spinoza thần bí hơn và được chọn lựa cẩn thận hơn lời
lẽ mà ta thấy trong các thuyết của tác giả
Nguyên lý của Nguyên nhân Bản sơ
tức là Vũ trụ Vô biên và Thế
giới. Cả Bruno (ông thú nhận rằng thông tin của mình bắt nguồn
từ Pythagoras) và Spinoza (ông không thẳng thắn công nhận điều đó)
cho thấy triết lý của ông đã tiết lộ điều bí mật; cả hai đều coi
Nguyên nhân Bản sơ theo cùng một quan điểm. Đối với họ, Thượng Đế là
một Thực thể hoàn toàn tự thân vận động, một Đấng Chơn linh Vô
cực và là Đấng Tự Tại duy nhất hoàn toàn tự do và độc lập với
những hậu quả hoặc nguyên nhân khác; cũng nhờ vào Ý chí ấy, ngài
đã tạo ra vạn vật và cung cấp xung lực đầu tiên cho mọi định luật
vũ trụ, mãi mãi khiến cho vạn vật trong vũ trụ được tồn tại và
có trật tự. Cũng giống như các môn đồ Swābhāvikas của Ấn Độ bị
gọi sai lầm là kẻ Vô thần (họ giả sử rằng vạn vật kể cả con
người, chư thần linh và các chơn linh đều sinh ra từ chơn như Swabhāva
tức bản thể của chúng [[113]]
; cả Spinoza lẫn Bruno đều đi tới kết luận rằng
ta phải mưu tìm Thượng Đế trong
nội bộ thiên nhiên chứ không phải bên ngoài thiên nhiên. Đó là v́
sự sáng tạo vốn tỉ lệ với quyền năng của Tạo hóa, vũ trụ cũng
như Tạo hóa phải vô hạn và vĩnh hằng cho nên một hình tướng đều
phân thân từ bản thể của mình, đến lượt nó lại sáng tạo ra một
hình tướng khác. Các nhà bình luận thời nay đều khẳng định rằng
Bruno mặc dù không được nâng đỡ
bởi niềm hi vọng về một thế giới khác tốt đẹp hơn song chẳng
thà chịu mất mạng còn hơn bỏ niềm xác tín của mình”; do đó
người ta suy ra rằng Giordano Bruno không tin rằng con người tiếp tục
tồn tại sau khi chết. Giáo sư Draper khẳng định dứt khoát rằng
Bruno không tin vào sự bất tử của linh hồn. Khi nhắc tới vô số nạn
nhân bị Giáo hội của Đức Giáo hoàng đối xử không khoan dung về
mặt tôn giáo, ông nhận xét rằng: “Việc chuyển từ kiếp này sang
kiếp tới, mặc dù trải qua một sự thử thách nghiệt ngã cũng là
việc chuyển từ một sự rắc rối phù du sang hạnh phúc đời đời . .
. Trên đường vượt qua vực thẳm đen tối, vị thánh tử vì đạo tin
rằng có một bàn tay vô hình dẫn dắt mình . . . Bruno tin rằng không
có được một sự hỗ trợ như thế. Những ý kiến triết học (ông đã
chịu mất mạng để bảo vệ nó) không thể an ủi chút nào cho ông”
[[114]]
.
Nhưng Giáo sư Draper dường như hiểu biết rất hời hợt về đức tin
thật sự của các triết gia. Chúng ta có thể không bàn tới Spinoza,
thậm chí để cho ông vẫn còn là một kẻ cực kỳ vô thần và duy vật
dưới mắt những nhà phê bình; vì ông đã tỏ ra rất dè dặt cẩn
thận trong các tác phẩm của mình khiến cho kẻ nào không hiểu được
ý tại ngôn ngoại của ông và không hoàn toàn quen thuộc với ý
nghĩa ẩn tàng của siêu hình học Pythagoras, thật khó lòng nhận
biết được đâu là tình cảm thật sự của ông. Nhưng về phần Giordano
Bruno, nếu ông tin theo học thuyết của Pythagoras th́ ông ắt phải tin
vào kiếp sau, do đó ông không thể là một kẻ vô thần đến nỗi triết
lý không mang lại cho ông được “niềm an ủi” nào. Lời buộc tội của
ông rồi sau đó thú nhận mà Giáo sư Domenico Berti trình bày trong
tác phẩm Cuộc đời của Bruno
vốn được biên soạn theo những tài liệu nguyên gốc mới được xuất bản
gần đây, đã chứng tỏ không còn nghi ngờ gì nữa đâu là triết lý
thật sự, đức tin và học
thuyết của ông. Cũng giống như các môn đồ của Plato thuộc trường
phái Alexandria và các môn đồ kinh Kabala sau này, ông cho rằng Chúa
Giê su là một pháp sư theo nghĩa mà Porphyry và Cicero gán cho danh
xưng ấy – họ gọi pháp sư là tri thức thiêng liêng – cũng như Philo
Judæus mô tả Pháp sư là người điều tra mầu nhiệm nhất về những
điều bí nhiệm ẩn tàng trong thiên nhiên chứ không phải theo ý nghĩa
thoái hóa mà thế kỷ của ta gán cho từ pháp thuật. Theo quan niệm
cao cả của ông, thì Pháp sư là
những người thánh thiện đã dứt bỏ mọi chuyện khác trên trần thế,
đã chiêm ngưỡng được một cách rõ ràng hơn những đức tính thiêng
liêng và hiểu được bản chất thiêng liêng của chư thần linh và các
vong linh; do đó pháp sư mới khai tâm được người khác cũng về những
bí pháp ấy, vốn cốt ở việc duy trì sự liên giao không gián đoạn
với các thực thể vô hình trong buổi sinh thời. Nhưng chúng ta
sẽ chứng tỏ được niềm tin sâu thẳm trong nội tâm của Bruno về
triết học tốt hơn qua việc trích dẫn những đoạn văn từ
lời buộc tội và
thú nhận của chính ông.
Những lời cáo buộc của Mocenigo (kẻ kết án ông) được trình bày
qua những lời lẽ sau đây:
“Tôi tên là Zuane Mocenigo vốn là con trai của ngài Marcantonio lừng
danh nhất, xin tố cáo với các Đức Cha theo đúng lương tâm và mệnh
lệnh của giáo sĩ nghe tôi xưng tội, tôi có nghe Giordino Bruno nói
nhiều lần khi ông đàm đạo với tôi ở nhà của tôi, theo đó trong Công
giáo thật là điều phạm thượng lớn khi bảo rằng bánh mì biến thể
thành thịt Chúa; ông chống đối lại lễ Misa; chẳng tôn giáo nào
làm ông vừa ư; đấng Ki Tô là một kẻ khốn khổ và nếu ngài đã làm
những chuyện ác độc để dụ dỗ nhân dân thì việc tiên đoán ngài bị
đóng cọc xuyên qua người cũng dễ thôi; ba Ngôi của Thượng Đế chẳng
phân biệt gì với nhau và Thượng Đế vốn bất toàn; thế giới vốn
vĩnh hằng và có vô vàn thế giới, Thượng Đế khiến cho các thế giới
cứ liên tục mãi vì theo Bruno ngài muốn mọi điều mà ngài có thể
làm được; đấng Ki Tô đã làm nên các phép lạ theo biểu kiến và là
một pháp sư, các thánh tông
đồ cũng như vậy và Bruno có nghĩ đến việc làm được như vậy và làm
nhiều hơn mức đó nữa; đấng Ki Tô tỏ ra không sẵn lòng chịu chết
và hết sức né tránh sự chết; không có việc trừng phạt tội lỗi,
các linh hồn do tác động của thiên nhiên sáng tạo ra chuyển từ con
thú này sang con thú khác và cũng như những con thú dã man sinh ra
từ sự thoái hóa, cũng vậy sau khi xác thân tan biến con người lại
tái sinh”.
Cho dù thật là phản trắc thì những lời lẽ nêu trên biểu thị rõ
ràng rằng Bruno tin vào sự chuyển kiếp theo Pythagoras, nếu bị hiểu
lầm thì nó vẫn còn chứng tỏ rằng ông có tin vào
sự sống còn của con người
dưới dạng này hay dạng khác. Người buộc tội còn kể tội thêm
rằng:
“Ông đã tỏ dấu muốn mình trở thành người lập nên một giáo phái
mới với tên gọi là Triết Lý
Mới. Ông bảo rằng Đức Mẹ Đồng Trinh không thể sinh sản và đức
tin của Công giáo đều là những điều phạm thượng chống lại sự tôn
nghiêm của Đức Chúa Trời, các tu sĩ phải bị tước mất quyền tranh
cãi và bị lột sạch mọi thu nhập vì họ làm ô uế thế gian, các tu
sĩ đều là những con lừa và các ý kiến của ta đều là học thuyết
của những con lừa; chúng ta không có bằng chứng là đức tin của
mình xứng đáng với công trạng của Thượng Đế vì chúng ta chẳng làm
được gì cho người khác có một cuộc sống tốt lành bởi vì ta có
làm được gì cho bản thân đâu nên ông mới chế nhạo mọi tội lỗi khác
và thắc mắc chẳng biết bằng cách nào mà Thượng Đế có thể chịu
đựng nổi biết bao nhiêu điều dị giáo trong Công giáo. Ông bảo rằng
ông có ý định chuyên tâm vào thuật bói toán khiến cho trọn cả thế
giới phải theo đuôi ông; ông cho rằng thánh Thomas và mọi nhà Thông
thái trong giáo hội đều chẳng biết gì khi sánh với ông và ông có
thể nêu ra những nghi vấn mà mọi nhà thần học hàng đầu trên thế
giới đều chẳng thể trả lời nổi”.
Vị triết gia bị buộc tội đã đáp trả lời kết án bằng tuyên ngôn
tín ngưỡng sau đây giống như mọi môn đồ thuộc các bậc thầy thời
xưa:
“Tóm lại, tôi cho rằng có một vũ trụ vô biên là hậu quả của các
quyền năng vô biên của Thượng Đế, vì tôi cho rằng có một điều không
xứng đáng với sự thánh thiện và quyền năng của Thượng Đế khi ngài
vốn có thể tạo ra các thế giới khác vô biên ngoài thế giới này mà
lại phải tạo ra các thế giới hữu hạn. Do đó tôi xin tuyên bố rằng
có vô số thế giới đặc thù giống như thế giới của trái đất này mà
tôi hiểu giống như Pythagoras, rằng đó là một tinh cầu có bản chất
giống như mặt trăng cùng với các hành tinh khác và các ngôi sao
khác vốn vô tận; tất cả các thiên thể này đều là các thế giới,
vô số chúng cấu tạo thành vũ trụ vô biên trong một không gian vô
tận và đây chính là vũ trụ vô hạn trong đó có vô số thế giới sao
cho có một loại lưỡng tính là vũ trụ có độ lớn vô biên bao gồm vô
số thế giới. Xét theo gián tiếp thì ta có thể hiểu điều này là
xa lạ đối với sự thật xét theo đức tin chân chính.
Hơn nữa tôi đặt vào vũ trụ này một sự Thiên hựu trong vũ trụ nhờ
đó vạn vật đều sinh trưởng, sinh sôi nảy nở và vận động đạt đến
mức hoàn hảo theo hai cách thức mà tôi hiểu: một là theo cách thức
mà trọn cả linh hồn đều hiện diện trong toàn thể và mọi bộ phận
của cơ thể, tôi gọi đó là thiên nhiên, là hình bóng và vết chân
của thiên tính; hai là cách thức khôn tả theo đó Thượng Đế do bản
thể của ngài vẫn hiện diện đầy quyền năng trong vạn vật và vượt
trên vạn vật, không phải là một bộ phận, không phài là linh hồn mà
là theo một cách khôn tả.
“Vả lại tôi hiểu rằng mọi thuộc tính của đấng thiêng liêng đều như
nhau. Khi đồng ý với các nhà thần học và các triết gia vĩ đại,
tôi cũng lĩnh hội được ba thuộc tính của thiên nhiên là: quyền năng,
minh triết và thiện hảo; hoặc nói cho đúng hơn là trí tuệ, trí năng
và tình thương; nhờ có nó mà các sự vật trước hết tồn tại thông
qua trí tuệ; kế đó tồn tại một cách có trật tự và riêng biệt
thông qua trí năng và ba là tồn tại hài hòa và cân xứng thông qua
tình thương. Tôi hiểu sự tự tại nơi vạn vật và vượt trên vạn vật
là như thế đó, không có điều gì mà tự
tại không tham dự vào, không có được tự tại nếu không có yếu
tính, cũng như chẳng có gì là đẹp nếu sự mỹ lệ không có mặt; như
vậy chẳng có điều gì mà không có sự hiện diện của đấng thiêng
liêng và tôi hiểu đức phân biện nơi thiên tính dựa vào lý trí như
thế chứ không theo đó là một sự thật bản thể.
“Khi gả sử rằng thế gian đã được sáng tạo và có nguyên nhân như thế
thì tôi hiểu rằng xét theo mọi khía cạnh tồn tại thì nó đều tùy
thuộc vào nguyên nhân bản sơ sao cho nó không thể bác bỏ cái tên
gọi sáng tạo mà tôi hiểu rằng Aristotle cũng diễn tả như vậy khi
nói rằng ‘Thượng Đế là điều mà thế giới và trọn cả thiên nhiên đều
tùy thuộc vào đó’; điều này khiến cho theo lời giải thích của
thánh Thomas th́ cho dù thế giới là vĩnh hẳng hay tồn tại trong
thời gian thì xét theo sự tự tại của nó, thế giới đều tùy thuộc
vào nguyên nhân bản sơ và chẳng điều ǵ trên thế giới là độc lập.
“Kế đó, khi xét tới điều thuộc về đức tin chân chính chứ không kể
tới triết lý, khi xét tới cá tính của các ngôi Thượng Đế, minh
triết và ngôi con của trí tuệ mà các triết gia gọi là trí năng,
còn các nhà thần học gọi là Ngôi Lời, thì ta phải tin rằng Ngôi
Lời đã được nhập thế bằng xương bằng thịt. Nhưng bản thân tôi trung
thành với câu chữ của triết học vẫn không hiểu được điều đó cho
nên mới nghi ngờ và lúc thì tin lúc thì không tin; tôi cũng chẳng
nhớ mình có tỏ ra bất tín trong khi viết lách hoặc nói năng hay
chăng, ngoại trừ chứng tỏ gián tiếp qua những điều khác là một thứ
mà ta có thể thu lượm được một cách khéo léo và chuyên nghiệp so
với những gì có thể được lý trí chứng tỏ và ánh sáng tự nhiên
kết luận. Do đó xét về Chúa Thánh Thần thuộc Ngôi Ba, tôi chẳng
tài nào hiểu nổi cũng như tin nổi, nhưng theo cách thức của
Pythagoras phù hợp với phương thức của Solomon, tôi hiểu Ngôi Ba là
linh hồn của vũ trụ hoặc cặp kè với vũ trụ theo lời nói minh
triết của Solomon: ‘Thần khí của Thượng Đế tràn đầy trần thế và
chứa đựng vạn vật’, mọi điều này cũng đều phù hợp với học
thuyết của Pythagoras mà Virgil giải thích trong bản văn
Æneid:
Nguyên thể hư không có đặc trưng là đất trên cái nền chất lỏng,
Bầu mặt trăng soi sáng cho nó đó là Chơn linh của tinh cầu vĩ đại
chói sáng bên trong thấm nhuần tất cả qua những khớp nối bằng trí
tuệ làm cho toàn khối đều vận động;
và những dòng chữ sau đây.
“Vậy là tôi hiểu theo triết lý của tôi rằng từ tinh thần vốn được
gọi là sự sống của vũ trụ mới nảy sinh ra sự sống và linh hồn
của vạn vật vốn có sự sống và linh hồn; hơn nữa tôi hiểu rằng
nó vốn bất tử xét cả về mặt vật thể cũng như về mặt bản thể,
tất cả đều bất tử vì chẳng có sự chết nào khác hơn là sự tan
rồi hợp; học thuyết này dường như được diễn tả trong
Tuyên ngôn của Giáo sĩ đoàn
có nói rằng ‘chẳng có ǵ mới dưới ánh mặt trời; điều đang tồn tại
thì đã có sẵn rồi’.”
Hơn nữa, Bruno thú nhận rằng ông không thể hiểu nổi giáo lý về ba
Ngôi của Thiên Chúa và ông nghi ngờ việc Thiên Chúa nhập thế nơi
Chúa Giê su, nhưng ông lại tin chắc rằng đấng Ki Tô có làm
phép lạ. Vốn là một triết
gia theo phái Pythagoras, làm thế nào mà ông lại không tin vào điều
đó được? Nếu do sự cưỡng chế tàn nhẫn của Tòa án Tôn giáo mà
cũng như Galileo, sau này ông phải chịu thề bỏ và hạ mình xin xỏ
sự khoan hồng của giới giáo sĩ hành hạ ông, th́ chúng ta nên nhớ
rằng ông tuyên bố với tư cách một người chịu cảnh trên đe dưới búa
giữa cái dụng cụ tra tấn và bó que sắt; bản chất con người đâu
phải lúc nào cũng anh hùng khi cái xác phàm bị suy yếu do tra tấn
và tù đày.
Nhưng nhờ có sự xuất hiện đúng lúc tác phẩm đầy thẩm quyền của
Berti, chúng ta lại tiếp tục tôn sùng Bruno là một thánh tử vì
đạo, tượng bán thân của ông xứng đáng được đặt cao trong đền thờ
Chư thần của Khoa học Chính xác mà bàn tay của Draper đã làm đăng
quang chiến thắng. Nhưng giờ đây ta thấy vị anh hùng một thời oanh
liệt ấy đâu phải là một kẻ vô thần, một kẻ duy vật hoặc một nhà
thực chứng, mà chỉ là môn đồ Pythagoras dạy dỗ triết lý của vùng
Thượng Á và tự cho rằng có quyền năng của bậc pháp sư mà chính
trường phái của Draper rất khinh thường! Chẳng có gì khôi hài hơn
cái vụ trắc trở ấy lại xảy
ra từ khi pho tượng giả định của thánh Peter lại được các nhà
khảo cổ bất kính phát hiện ra là chẳng có ǵ khác hơn tượng thần
Jupiter trong đền thờ thần Jupiter và người ta đã chứng minh thỏa
đáng rằng Đức Phật đồng nhất với thánh Josaphat của Công giáo.
Thế là ta có lục tìm qua mọi tài liệu lưu trữ của lịch sử thì ta
cũng thấy rằng chẳng có mảnh vụn nào của triết học hiện đại – cho
dù Newton, của Descartes, của Huxley hoặc của bất kỳ ai khác – đều
không được đào lên từ những mỏ ở Đông phương. Ngay cả thuyết Thực
chứng và thuyết Hư vô cũng đều có nguyên mẫu nơi phần công truyền
của triết lý Kapila (Max Müller đã nhận xét chính xác như thế).
Chính sự linh hứng của các bậc hiền triết Ấn Độ đã thâm nhập
vào các bí nhiệm của Bát
nhã ba la mật đa (minh triết tuyệt hảo); bàn tay của các ngài đã
làm đu đưa cái nôi của bậc tổ tiên sơ khai của đứa con nít yếu
đuối nhưng mồm năm miệng mười mà chúng ta đặt tên là khoa học hiện
đại.
-----------------------
C̣n tiếp
[1]
(*) Hồi Kư Olcott - ISIS UNVILED: Bộ sách đầu tiên của bà HPB, đă
được trích dịch một vài đoạn nhan đề “Thiên Nhiên Huyền Bí”.
[2]
Với Chân Sư bên xứ Tây Tạng.
[3]
Hamsa: danh từ ẩn dụ của Huyền Học Ấn Độ, ngụ ư Tinh Thần hay Tiểu
Linh Quang. Huyền thoại Ấn Độ cho rằng con hạc có khả năng gạn lọc
sữa với nước, ngụ ư Tinh Thần con người vốn Toàn Năng, biết phân
biệt Thực Hư, Chân Giả
[4]
(*) Các nhà Đông Phương học
ưu tú nhất
đều
coi bộ
sách này như một
ngụy
thư thời
cổ.
Tôi chú thích sách
ấy
ở đây chỉ
với
ư định
diễn
tả
phương pháp nhập
xác mà thôi.
[5]
(*)
Mật
hiệu
của
Tập
Đoàn Tiên Thánh phân bộ
Á Châu.
[[6]]
Lightfoot quả quyết với chúng ta rằng Diệu Âm ấy đã được
sử dụng từ thời xưa để làm bằng chứng cho cõi trời . “nó
quả thật do pháp thuật thực hiện” (quyển ii, trang 128).
Người ta thường dùng thuật ngữ pháp thuật để diễn tả theo
kiểu ngạo mạn chỉ vì người ta đă và vẫn còn chưa hiểu
được nó. Mục đích của tác phẩm này là điều chỉnh lại
những ý kiến sai lầm về “pháp thuật”.
[[9]]
Xin cáo lỗi. Vì tác phẩm dày trên 1200 trang, để tranh thủ
có được cái thoáng nhìn toàn cảnh tác phẩm đồ sộ này,
mỗi chương, chúng tôi chỉ trích tuyển một số đề mục. Sau
này chúng tôi sẽ trở lại để hoàn thiện tác phẩm.
[[15]]
“Sự
buộc tội vô thần, du nhập những thần linh ngoại lai và làm
thoái hóa giới thanh niên thành Athens đã được đưa ra chống
lại Socrates cũng được biện minh phổ biến cho Plato nhằm che
giấu cách thuyết pháp bí hiểm trong học thuyết của ông.
Chắc chắn là ngôn ngữ kỳ cục hoặc ‘tiếng lóng’ của các
nhà luyện kim đan cũng được dùng với mục đích như thế.
Ngục tù, ghế tra tấn và bó roi được Ki Tô hữu sử dụng mà
không áy náy lương tâm, nhất là tín đồ Công giáo La Mã chống
lại tất cả những người nào thậm chí chỉ giảng dạy khoa
học thiên nhiên trái ngược với những thuyết mà Giáo hội chủ
trương. Giáo hoàng Gregory vĩ đại thậm chí còn cấm dùng
ngữ pháp La tinh v́ coi đó là ngoại đạo. Sự xúc phạm của
Socrates bao gồm việc khai thị cho các môn đồ giáo lý bí ẩn
liên quan tới chư thần linh vốn được dạy trong các Bí pháp và
là một tội lỗi chính yếu. Ông cũng bị Aristophanes tố cáo
là đã du nhập vị thần linh mới Dinos vào nước Cộng hòa
với vai trò là hóa công và đấng Chúa tể của vũ trụ thái
dương. Hệ thống Nhật tâm cũng là một học thuyết của các
Bí pháp; do đó khi môn đồ phái Pythagoras là Aristarchus công
khai dạy nó thì Cleanthes tuyên bố rằng người Hi Lạp phải
yêu cầu ông ấy giải thích và đã kết án ông vì tội chống
lại chư thần linh”. (“Plutarch”). Nhưng Socrates chưa bao giờ
được điểm đạo vì thế cho nên ông chẳng tiết lộ điều gì
vốn đã từng được truyền thụ cho ông.
[[16]]
Xem Thomas Taylor: “Các Bí pháp ở Eleusis và Tửu thần”, trang
47. New York: J.W. Bouton, 1875.
[[36]]
Các truyền thuyết của môn đồ Kinh Kabala Đông phương cho rằng
khoa học của mình xưa hơn khoa học đó. Các nhà khoa học
thời nay có thể nghi ngờ và bác bỏ điều khẳng định ấy
nhưng họ không thể
chứng minh được là nó sai.
[[37]]
Clement ở Alexandria khẳng định rằng vào thời mình các lễ
sư Ai Cập có 42 quyển Sách Giáo Luật.
[[39]]
Ở một chỗ khác chúng tôi sẽ giải thích khá tỉ mỉ triết
lý của Hermes về sự tiến hóa của các tinh cầu và nhiều
giống dân trên đó.
[[41]]
Rút ra từ bản văn tiếng Bắc phạn của
Aitareya Brahmanam, trong
bộ Rig Phệ đà, V, chương ii, câu thơ 23.
[[58]]
Nhưng trường hợp đó không phải luôn luôn như vậy, vì một số
trong đám ăn mày thường xuyên buôn bán có lời về chuyện
này.
[[63]]
Trong quyển “Hóa Học Vô Cơ”, Kemshead có nói rằng vào thế
kỷ thứ 16, Paracelsus lần đầu tiên nhắc tới nguyên tố
hydro, nhưng người ta
biết rất ít về nó” (trang 66). Và tại sao lại không thẳng
thắn thú nhận ngay rằng Paracelsus là người
tái phát hiện ra hydro
cũng như ông là người tái
phát hiện ra những tính chất ẩn tàng của nam châm và từ
khí động vật. Ta
cũng dễ dàng chứng tỏ được rằng tuân theo những lời thệ
nguyện giữ bí mật mà mọi môn đồ Hoa hồng Thập tự, (đặc
biệt là nhà luyện kim đan) đều trung thành tuân thủ. Ông đã
giữ kín kiến thức của mình. Có lẽ bất kỳ nhà hóa học
nào am tường về các tác phẩm của Paracelsus đều tỏ ra
chẳng khó khăn gì khi chứng tỏ được rằng khí oxy (người ta
tin rằng Priestley đã phát hiện ra nó) đã được các nhà
luyện kim đan Hoa hồng Thập tự biết rõ giống như khí hydro.
[[64]]
“Thư gửi J. Glanvil, cha tuyên úy của quốc vương và hội viên
Hội Hoàng Gia”. Glanvil là tác giả của tác phẩm nổi tiếng
về Ma hiện hình và Ma quỉ học tựa đề là “Chiến thắng loài
phù thủy, tức là bằng chứng trọn vẹn và rành rành về các
phù thủy và thuật hiện hình”, bao gồm hai phần, “một phần
được chứng tỏ bằng Thánh kinh còn một phần bằng sự tuyển
lựa những mối quan hệ hiện đại về sự tồn tại có thật của
các sự kiện ma hiện hình, vong linh và phù thủy”, năm 1700.
[[84]] Xem “Những bài giảng về chứng Trung cuồng và Bệnh điên rồ” của Bác sĩ F. R. Marvin.
[[85]]
Vapereau: “Tiểu sử Đương đại”, mục Littré; và Des
Mousseaux: “Các Hiện tượng nổi bật của Pháp thuật”.
[[94]] “Tạp chí các cuộc Tranh luận”, năm 1864. Xem thêm “Các Hiện tượng Nổi bật của Pháp thuật” của Des Mousseaux.
[[99]] Người ta có ý đề cập tới một thông cáo xuất hiện một thời gian nào đó trong một tờ báo ở New York do ba người ký tên với danh tính như nêu trên và giả sử đó là một ủy ban khoa học được bổ nhiệm hai năm trước để khảo cứu về các hiện tượng tâm linh. Lời phê bình về bộ ba này xuất hiện trong tạp chí “Kỷ nguyên mới”.
[[100]] Tác phẩm “Bài giảng về chứng Điên rồ” của Bác sĩ Marvin, xuất bản ở New York, năm 1875.
[[107]] Có 7 đấng Rishis sống vào thời trước thời kỳ kinh Phệ đà. Người ta biết ngài là các bậc hiền triết và tôn sùng các ngài như các vị bán thần linh. Haug chứng tỏ rằng trong Bà la môn giáo các ngài có địa vị tương ứng với địa vị của 12 con trai của Jacob trong thánh kinh Do Thái giáo. Người Bà la môn tự cho mình là dòng dõi trực hệ của các Rishis này.
[[110]] Chúng tôi không ngụ ý nói tới Kinh thánh được chấp nhận cũng như hiện hành, mà là Kinh thánh thật sự của Do Thái giáo được giải thích theo kinh Kabala.
[[113]] Brahma không sáng tạo ra trái đất tức Mirtlok, cũng như phần còn lại của vũ trụ. Vì đã được tiến hóa ra từ linh hồn của thế giới, đã từng một lần tách rời khỏi nguyên nhân bản sơ cho đến lượt ngài lại phân thân ra thành trọn cả thiên nhiên. Ngài không vượt trên nó mà hòa nhập vào nó; Brahma và vũ trụ tạo thành một hữu thể duy nhất, mỗi hạt của vũ trụ có bản thể chính là Brahma, ngài tự mình phân thân ra nó. [Burnouf: “Phần dẫn nhập”, trang 118].
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS