|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES
|
NHỮNG PHÉP LẠ H. S. OLCOTT
|
|
Ngay ngày đó, bà Blavatsky nhờ Mooljee kêu một chiếc xe ngựa và cùng đi với anh. Bà không nói đi đâu và chỉ bảo anh đánh xe ngựa quẹo trái hay quẹo mặt mà thôi. Chiều về, Mooljee thuật cho chúng tôi biết những việc xảy ra. Anh nói bà bảo đi quanh co rất lâu cho đến ngoại ô thành Bombay trong một khu rừng thông. Tôi không có ghi trong tập nhựt kư tôi tên của vùng nầy, nhưng nếu tôi không lầm ấy là vùng Parel. Mooljee biết rơ nơi nầy v́ anh đă hỏa táng mẹ anh ở đó. Trong đám rừng nầy, đường qua nẻo lại rất nhiều, nhưng bà chỉ đường một cách chắc chắn, không ngần ngại cho đến bờ biển. Bà bảo xe ngừng trước mặt một tư gia rộng răi, có một vườn hoa hồng rất đẹp phía trước. Bà xuống xe và căn dặn Mooljee đợi bà ngoài cổng. Anh chàng đợi bên ngoài, ḷng ngạc nhiên khôn xiết v́ anh không biết biệt thự nầy mặc dầu anh sanh trưởng tại Bombay. Anh gọi người làm vườn để hỏi biệt thự nầy của ai, cất hồi nào và do ai ở, nhưng anh làm vườn không đáp. Khi bà Blavatsky bước vào th́ một người Ấn cao lớn, phong nhă mặc toàn lụa trắng tiếp bà nồng hậu và dẫn bà vào nhà. Một lúc sau, hai người trở ra và người Ấn lúc từ giả bà, trao cho bà một bó hoa. Mooljee hỏi bà Blavatsky th́ chỉ được trả lời người Ấn Độ đó là một tu sĩ, có thế thôi. Bà nói thêm bó hoa được tặng cho tôi. Điều làm cho tất cả chúng tôi ngạc nhiên là bà Blavatsky làm sao biết đường đến biệt thự nầy v́ bà mới đến Bombay. Khi Mooljee thuật chuyện nầy cho các bạn anh nghe, th́ một người nói quả quyết ở đó không có một biệt thự nào gần bờ biển cả. Anh chàng c̣n cá 100 roupies nếu Mooljee t́m được biệt thự đó. Bà Blavatsky khuyên Mooljee đừng nhận, nhưng anh nói chắc anh có thể đi đến đó. Thế là anh kêu một chiếc xe và ba chúng tôi cùng đi. Sau khi đi quanh co một hồi lâu, chúng tôi đến khu rừng gần biển. Đất toàn là cát và lá thông rụng đầy đường. Đường sá chằng chịt và tôi khuyên Mooljee hăy cẩn thận kẻo lạc đường. Anh ta tin ở anh nhưng suốt một giờ, anh không t́m ra ngôi nhà. Rốt cuộc anh chịu thua 100 roupies. Bà Blavatsky giải thích rằng Moolje có thể t́m được ngôi nhà nếu anh không bị mà mắt. Ngôi nhà ấy có thật nhưng nó được bao quanh bởi một ṿng hư ảo để người lạ không thể vào. Nó c̣n được ǵn giữ bởi các tinh linh dũng mănh và dùng làm nhà văng lai cho các Chơn Sư. Ngoài ra c̣n có nhiều thư viện và nhiều bảo vật khác cũng được ǵn giữ như vậy bằng những cảnh vật hư ảo như núi cao, hố rộng v.v. . . Các điều nầy có vẻ lạ nhưng tôi tin có thật v́ khi chúng tôi ở tại Girgaum, nhiều bậc Chơn Tiên có đến viếng chúng tôi trong thể xác của các Ngài. Ngày 4 tháng 4 năm 1879, bà Blavatsky đi viếng động Karli với Mooljee và tôi. Chúng tôi đi bằng xe lửa với Baboula, người giúp việc chúng tôi. Từ nhà ga Narel, người ta dùng kiệu để rước chúng tôi đến Matéran, một trung tâm dưỡng bịnh quan trọng nhất của thành phố Bombay. Người ta nói với chúng tôi rằng một vị Chơn Tiên muốn gặp chúng tôi và đă ra lịnh tiếp đón chúng tôi trọng hậu. V́ vậy, tôi không ngạc nhiên được một người Ấn Độ tao nhă đến chào mừng ở Narel và cho biết có ngựa và kiệu sẵn sàng tùy chúng tôi chọn. Bà Blavatsky và tôi chọn kiệu, c̣n Mooljee và Baboula th́ đi ngựa. Thế là chúng tôi đi. Mấy người khiêng kiệu vừa chạy vừa hát nghe rất êm tai. Tôi chưa bao giờ được ngắm xem một cành trí thi vị như vậy, ấy là một đêm trăng miền nhiệt đới đầy sao lóng lánh trên ṿm trời; côn trùng kêu gọi nhau không dứt cùng với chim ăn đêm, c̣n dơi th́ bay lượn liên tiếp chung quanh. Chúng tôi đến khách sạn Alexandra rồi ngủ nơi đây một đêm và sáng hôm sau chúng tôi đi Khandalla. Vừa đến, Mooljee liền ra ga xe lửa để thăm ông xếp ga là một người bạn của anh. Lúc đó, một đoàn xe lửa đến từ Bombay và anh nghe có người gọi anh. Nh́n lên toa xe, anh thấy một người Ấn vẫy tay và người ấy chính lá người mà bà Blavatsky đă đến thăm ở ngoại ô Bombay. Ông cũng trao cho anh một bó hoa hồng rất đẹp bảo trao lại cho tôi. Cũng thứ hoa ở vườn huyền bí của Ông. Khi tôi nhận được hoa, tôi nói với bà Blavatsky rằng tôi muốn viết thư cám ơn vị Chơn Tiên đă tặng hoa cho tôi và nhờ bà chuyển thư dùm. Khi tôi viết thư xong, bà lấy thư đưa cho Mooljee, bảo anh đi trao thư ấy. Anh hỏi: - Nhưng trao cho ai ? Không có tên họ và địa chỉ ở bao thơ. - Không cần, anh Mooljee. Anh cầm thơ ra đường th́ có người lấy. Anh vâng lời cầm thơ ra đi. Mười phút sau anh trở lại, thở hào hễn với vẻ mặt hơ hăi. Anh vừa nói vừa thở: - Tôi đă trao thơ, - Trao cho ai ? - Tôi cũng không biết. Đây có lẽ một vị thần từ dưới đất chun lên, tôi nghĩ thế. Tôi đang đi chẫm răi, ngó bên nầy và bên kia, để t́m người trao thơ. Chung quanh tôi, là một cánh đồng trống, không cây lớn bụi nhỏ nào có thể ẩn núp cả. Thế mà bỗng nhiên như từ dưới đất chun lên, một người hiện ra cách tôi vài thước. Ấy là người Ấn ở Biệt Thự Hoa Hồng, người đă biếu hoa cho ông và tôi đă gặp ở xe lửa. - Anh nói chuyện như mơ ngủ. - Không, tôi đâu có mơ. Tôi tỉnh như lúc bây giờ. Ông nói: “Anh có một bức thơ để trao cho tôi, thơ anh cầm ở tay”. Lúc đầu tôi không nói ǵ được, sau cùng tôi mới nói: “Thưa Ngài, thơ không có địa chỉ”. - Thơ gởi cho tôi, anh hăy trao cho tôi. Được rồi, bây giờ anh hăy về đi. Tôi quay lưng và đi vài bước th́ quay lại xem ông c̣n ở đó không th́ ông đă biến mất. Tôi sợ quá và đâm đầu chạy. Tôi chạy lối 50 thước th́ nghe có tiếng nói bên tai “Đừng dại như vậy, có ǵ mà sợ. Hăy thủng thẳng đi”. Tôi ngó quanh không thấy ai, lại càng sợ và chạy mau về nhà. Đó là chuyện xảy ra cho Mooljee mà tôi cố thuật lại cho đúng. Dáng bộ của anh xác nhận chuyện xảy ra là có thật. Dù sao, trong thơ của tôi, tôi có nêu một vài vấn đề hỏi vị Chơn Tiên ấy, và về sau được Ngài trả lời ở một nơi cách chỗ Mooljee gặp Ngài lối 1.600 cây số. Đêm ấy trăng rất đẹp. Ba chúng tôi ngồi ở băi cỏ rất khuya định ngày mai sẽ đi viếng động Karli. Có một lúc, bà Blavatsky ngồi yên vài phút trong trạng thái đại định rồi nói với tôi rằng ngày mai lối năm giờ chiều có một ông sải đến thăm chúng tôi ở động. Tôi ghi rơ lời nầy ở quyển sổ tay trước khi đi ngủ. Vào bốn giờ sáng, Baboula, người của vị Chơn Tiên sai đến chăm nom chúng tôi, vào pḥng của tôi và Mooljee. Ông đánh thức tôi dậy nói nhỏ ở tai tôi tên của vị Chơn Tiên và trao cho tôi một hộp nhỏ đựng một lá trầu và vài món gia vị. Món quà nầy rất quí và nó là dấu hiệu chấp nhận một đệ tử mới. Năm giờ, chúng tôi đi Karli bằng xe ḅ và mười giờ chúng tôi đến nơi. Ngôi chùa xây trong hang động quả thật là hùng vĩ với nhiều pḥng bao quanh. Khi đến giờ ăn trưa, chúng tôi ngồi lại ăn nhưng thấy xấu hổ phải thỏa măn nhu cầu tầm thường của dạ dày ở một nơi mà mấy trăm năm trước kỷ nguyên chúng ta, cả ngàn tu sĩ đến đó cầu nguyện tụng niệm trong mục đích chủ trị các thú tánh và phát triển các quyền năng tâm linh. Sau đó, chúng tôi thảo luận về văn hóa Ấn Độ đă suy tàn. Đến năm giờ chiều, Mooljee và tôi ra cửa đợi vị sải mà bà Blavatsky đă nói sẽ đến vào giờ đó. Chúng tôi đợi mười phút và vị tu sĩ đến, tay dẫn một con ḅ năm chơn, một chơn treo lủng lẳng ở cục u trên cổ. Ông mặc áo dà, gương mặt hiền lành và dễ mến. Chúng tôi tưởng ông biết chúng tôi nhưng ông nói ông đang đi Hardwar th́ có tiếng Thầy của ông ra lịnh bảo đến động Karli đúng năm giờ v́ có người đợi. Ngoài ra ông không biết ǵ hết. Chúng tôi thảo luận về nhiều vấn đề tâm linh và trong lúc nói chuyện, có lúc ông lặng thinh như lắng nghe một người vô h́nh nói kề tai ông. Sau đó ông ra đi và ngày mai ông trở lại gặp tôi, để tỏ ḷng kính mến Hội Thông Thiên Học. Đêm đó, chúng tôi ngủ trên đồi, ở một cái động lớn gần chùa. Động nầy có sáu pḥng, trổ ra một pḥng họp rộng răi. Bà Blavatsky cho chúng tôi biết một pḥng ngủ có một cửa bí mật ăn thông với nhiều động khác trong ḷng núi, nơi ẩn dật của nhiều đại đức chơn sư. Trời đă về chiều, Mooljee và Baboula đi xuống làng t́m thức ăn, c̣n bà Blavatsky và tôi ngồi tṛ chuyện ở ngoài cửa động. Tôi ngồi nh́n cảnh vật phô bày trước mặt như một bức địa đồ bỗng tôi nghe tiếng cửa động rất mạnh với một tiếng cười. Tôi quay lại th́ không thấy bà Blavatsky. Tôi đi vào các pḥng nhưng chỉ thấy toàn là vách đá. Tôi đă quen với nhiều chuyện lạ nên không ngạc nhiên và ra ngoài ngồi chờ. Nửa giờ sau, bà Blavatsky gọi tôi và khi tôi hỏi bà đi đâu th́ bà nói bà được lịnh đến gặp hai vị Chơn Tiên (bà nói tên) trong động của Ngài. Sáng hôm sau, chúng tôi đi viếng các động từ cái một và bốn giờ chiều th́ chúng tôi xuống núi đến khách sạn dành cho du khách ở Khandalla. Nhưng trước khi đi, bà Blavatsky cho biết vị Chơn Tiên đă ra lịnh cho chúng tôi phải đi Radjpontana. Sau khi ăn tối xong, chúng tôi dạo chơi trước khách sạn. Có một lúc, Mooljee và bà Blavatsky cùng đi riêng. Th́nh ĺnh Mooljee chạy vào hơ hăi, nói lúc anh đang nói chuyện với bà Blavatsky dưới ánh trăng th́ bỗng nhiên bà biến mất. Anh vừa nói vừa run. Nhưng trong chốc lát, bà trở lại tṛ chuyện với chúng tôi. Trong lúc đó, có hai người mặc áo trắng đi ngang qua, cách chúng tôi lối 50 thước. Khi họ đến trước chúng tôi th́ họ dừng lại và bà Blavatsky bảo Mooljee ra gặp họ. Trong lúc Mooljee nói chuyện với họ th́ bà Blavatsky nói liền cho tôi biết họ đang nói ǵ. Kế đó, Mooljee trở lại xác nhận những lời bà nói: vị Chơn Tiên cho biết Ngài sẽ trả lời cho thơ của tôi ở Radjpontana. Trong lúc nghe Mooljee nói, tôi vẫn nh́n hai người mặc áo trắng. Họ ra đi và khi đến sau một bụi cây nhỏ thưa th́ biến mất. Nên nói rơ đây là một cánh đồng trống, nếu họ có đi đâu th́ tôi phải thấy rơ. Tôi chạy ra bụi cây xem có hang hố ǵ không th́ không thấy ǵ cả. Hôm sau, chúng tôi trở về Bombay. Đến Khandalla th́ Baboula từ giả chúng tôi. Chúng tôi lên xe lửa, Mooljee nằm ngủ ngon lành c̣n chúng tôi th́ bàn về chuyện đạo. Bỗng bà Blavatsky nói: - Thầy bảo ḿnh đi Radjpontana. Phải chi Ngài viết giấy cho ḿnh thay v́ bảo miệng. - Tại sao thế ? Tôi tin bà mà. - Ông tin, nhưng Wimbridge và cô Bates sẽ không tin và nói ḿnh kiếm chuyện đi hoài. - Nhưng làm sao có thơ bây giờ. Chúng ta gần đến nhà rồi. - Tôi thử xem. Có thể nhờ một người khác viết. Đoạn bà viết vài hàng trên một tập nhỏ bằng chữ senjar, thứ chữ mà thường dùng với các thiên thần, c̣n ở dưới bằng chữ Anh để tôi có thể đọc. “Hăy nhờ Singh đánh điện cho Olcott về lịnh của Đức Thầy truyền cho tôi hôm qua ở động”. Kế bà xếp miếng giấy lại thành h́nh tam giác, viết ở trên vài biểu tượng (bà nói để sai khiến tinh linh), rồi ném qua cửa sổ. Lúc đó xe lửa chạy trong một cánh đồng hiu quạnh, không nhà và xơ rơ đây đó một vài cây cằn cỗi. Mooljee lúc đó đă thức và cũng chứng kiến sự việc như tôi. Anh làm chứng chuyện nầy. Về đến nhà, tôi phải đi ra ngoài v́ chút việc lối một giờ. Khi tôi trở về th́ cô Bates đưa cho tôi một điện tín của người đi thơ mang đến và cô đă kư nhận thay tôi. Điện tín như sau: “Ngày 8-4-1879, hai giờ chiều. Đă được thơ. Sẽ trả lời tại Radjpontana. Hăy lên đường ngay”. Những chuyện kể trên chứng minh rằng bà Blavatsky luôn luôn tiếp xúc một cách huyền bí với các nhân vật vô h́nh. HƯƠNG VÂN dịch (Trích ở quyển LỊCH SỬ HỘI THÔNG THIÊN HỌC) Sưu tầm trong Tạp chí Ánh Đạo Số 20 năm 1971
Thông Thiên Học là Khoa Học của linh hồn.
Thông Thiên Học là Minh Triết Cổ Truyền được tŕnh bày lại theo thời
đại hiện nay Phương pháp có khác nhau, tư tưởng có khác nhau, cách thức có khác nhau, th́ việc làm của chúng ta mới linh động chớ không suy giảm, miễn hành vi ấy có t́nh thương dẩn dắt và ḷng nhân ái xét soi. (Annie Besant)
Hội Thông Thiên Học là một tổ chức quốc
tế, với ư nghĩa rộng răi của từ, mà hội viên thuộc tất cả các giống
dân, tín ngưỡng và ư kiến khác nhau nhưng họ hợp tác làm việc với
nhau cùng chung một mục đích:
sự tiến bộ của nhân loại -
Nhưng với danh nghĩa
là Hội, Hội
hoàn toàn không thuộc
về
bất cứ
quốc gia nào hoặc
đảng phái chính trị nào.
Nếu mọi viên sỏi đều trở thành một viên hồng
ngọc vô giá th́ viên sỏi và hồng ngọc ắt có giá trị giống như nhau.
Xin dắt tôi từ cõi
gỉa đến cõi CHƠN, Cái Trí là tay đại phá hoại Sự Thật. (Tiếng Nói Vô Thinh)
Bạn hãy nhớ rằng: mọi việc khổ não trên thế gian đều là tạm thời, bổn phận của bạn phải luôn luôn vui vẻ và giữ ḷng thanh tịnh. Bởi vì chính bạn với Đường Đạo phải trở nên một. Đường Đạo tức là bạn. Bạn bước trên Đường Đạo mà không cần nghĩ tới nó, và bạn cũng không thể rời nó được nữa. Bạn là Chơn Thần, bạn đă quyết định như vậy. Nếu bạn lìa bỏ nó tức là bạn lìa bỏ chính bạn vậy. Có minh triết bạn mới có thể giúp đời, c̣n ư chí để dắt dẫn sự minh triết, và từ ái lại gây ra ư chí. Ấy là những điều kiện mà bạn cần phải có. Ư chí, minh triết, từ ái là ba trạng thái của Đức Thượng Đế. Nếu bạn muốn hiến ḿnh phụng sự Ngài, th́ bạn phải biểu lộ ba trạng thái ấy trong thế gian này. (Dưới Chân Thầy) xem tiếp
Để làm quen với quan niệm của
Thông Thiên Học mời các bạn đọc những tác phẩm sau:
Thông
Thiên Học Khái Lược Chân Nhân Và Các Hạ Thể (đang soạn)
Dưới Chân Thầy
THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI
Hội Thông Thiên Học Được Thành Lập 7-11-1875
Bản quyền Copyright @
www.thongthienhoc.com 2001
|
HOME sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 BOOKS MAGAZINES