Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME  sách   TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES


1_ Tạo t́nh huynh đệ đại đồng trong nhân loại không phân biệt ṇi giống, giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng và nam nữ.

2_ Khuyến khích nghiên cứu, đối chiếu khoa học, triết học, và tôn giáo.

3_ Nghiên cứu những luật tự nhiên chưa giải thích được và những quyền năng c̣n ẩn tàng nơi con người.

 

 



 


 



 


 


 
 

 

ĐẠO SƯ DYANAND SARASWATI

NÓI VỀ PHÁP MÔN YOGA

 

NGUYỄN HỮU KIỆT dịch

trích từ quyển Hồi Kư H. S. OLCOTT

 

Ngày 27 tháng 8 năm ấy, bà H. P. B. và tôi cùng với đứa hầu trai Babula lại đáp chuyến xe lửa đêm từ Bombay đi lên miền Bắc. Đến thị trấn Meerut, chúng tôi được toàn thể chi bộ của môn phái Arya Samaj tại địa phương đến tiếp đón ở nhà ga và đưa chúng tôi về trụ sở của họ. Tại đây, chúng tôi đă gặp lại đạo sư Dyanand Saraswati, nhà lănh đạo tinh thần của môn phái Arya Samaj đă nói ở trên.

Trước sự có mặt của các tín hữu trong môn phái ông, chúng tôi mở một cuộc thảo luận nhằm biết rơ quan điểm thật sự của ông về pháp môn Yoga và về những quyền năng tâm linh siêu đẳng của con người.

Chúng tôi được biết rằng những giáo lư của ông dạy các tín hữu khuyến cáo họ không nên thực hành pháp môn khổ hạnh, và thậm chí  c̣n gieo sự nghi ngờ về sự thật của các quyền năng thần bí; trái lại, trong những cuộc đàm thoại với chúng tôi trước đây ông lại có luận điệu khác hẳn. Cuộc phỏng vấn của tôi lần này đă được các tín hữu trong môn phái ghi chép lại đúng y nguyên văn mà tôi xin thuật lại như dưới đây:

. . . “Câu hỏi đầu tiên đưa ra cho Thầy (Swami) là: pháp môn Yoga phải chăng là một khoa học thực nghiệm, hay chỉ là một giả thuyết siêu h́nh, và đạo sư Patanjali có cho rằng người ta có thể đạt được những quyền năng thần bí hay không, và đă có ai đạt được những quyền năng ấy hay chưa?

Thầy đáp rằng pháp môn Yoga có thật và căn cứ trên sự hiểu biết những định luật Thiên nhiên.

Câu hỏi kế tiếp là những quyền năng siêu đẳng, ngày nay người ta c̣n có thể sở đắc được hay không, hay là thời kỳ ấy đă qua rồi?

Câu trả lời là những định luật Thiên nhiên vốn không dời đổi và không bị giới hạn trong thời gian và không gian; những ǵ người ta làm được trong quá khứ đương nhiên cũng vẫn áp dụng trong hiện tại. Không những ngày nay người ta có thể làm tất cả những ǵ đă được diễn tả trong các sách cổ xưa, mà chính Thầy (Swami) có thể truyền dạy các phương pháp ấy cho bất cứ người nào thật t́nh mong ước đi vào con đường ấy.

Có nhiều người đă đến xin thụ giáo Swami và quả quyết rằng họ có khả năng đạt tới sự thành công; Thầy đă thử hết ba người, nhưng tất cả đều thất bại. Lúc đầu họ tỏ ra có nhiều thiện chí, nhưng không bao lâu họ đâm ra chán nản và bỏ cuộc. Yoga là một khoa học khó khăn nhất, và ngày nay rất ít người có thể sở đắc được.

Câu hỏi tiếp theo là ngày nay c̣n có chăng những đạo sĩ Yoga chân chính, có thể làm những hiện tượng nhiệm mầu như đă diễn tả trong các sách cổ Ấn Độ.

Thầy đáp rằng những vị đạo sĩ ấy ngày nay vẫn c̣n, nhưng rất hiếm. Họ ẩn cư ở những nơi hẻo lánh, và ít khi, hay không bao giờ xuất hiện ở những nơi công cộng. Họ không bao giờ tiết lộ những bí quyết của họ cho kẻ thế nhân phàm tục, cũng không truyền dạy bí pháp của họ, trừ phi cho những người mà họ nhận thấy là xứng đáng sau nhiều cơn thử thách.

Đại tá Olcott hỏi rằng phải chăng những vị Chân sư luôn luôn khoác bộ áo vàng của nhà tu sĩ xuất gia như người ta thường thấy, hay cũng mặc y phục thường?

Thầy đáp rằng các ngài có thể mặc mọi thứ sắc phục thích nghi tùy nhu cầu của hoàn cảnh.

Đáp lời yêu cầu cho biết người đạo sĩ chân tu có những thứ quyền năng nào, Thầy nói rằng người Yogi chân chính có thể làm những việc mà người thế gian gọi là những phép lạ. Không cần phải nêu ra những loại quyền năng nào, v́ trên thực tế quyền năng của y chỉ bị giới hạn bởi ḷng mong muốn và sức mạnh của ư chí.

Chẳng hạn y có thể giao cảm bằng tư tưởng với những vị đạo sĩ khác dù họ ở cách nhau bao xa trong không gian, và không cần sử dụng những phương tiện viễn thông thường lệ như thư từ hay điện tín. Y có thể đọc tư tưởng của người khác. Y có thể di chuyển (trong Chân ngă của y) từ một nơi này đến một nơi khác, không cần sử dụng những phương tiện chuyên chở thông thường và với một tốc độ mau chóng hơn nhiều. Y có thể đi trên mặt nước hay trên không trung; vượt cao khỏi mặt đất. Y có thể xuất hồn ra khỏi xác và nhập vào thể xác một người khác trong một thời gian ngắn hay trong nhiều năm tùy ư muốn. Y có thể kéo dài sự sống của thể xác bằng cách xuất hồn trong giấc ngủ và do đó bằng cách tiết giảm những hoạt động của cơ thể đến mức tối thiểu, y tránh được một phần lớn sự già nua. Thời gian dùng trong việc ấy sẽ cộng vào và tăng thêm tổng số thời gian sinh tồn tự nhiên của thể xác trong kiếp sống hiện tại.

 

HỎI: Cho đến ngày giờ nào của cuộc đời y, người Yogi có thể sử dụng quyền năng chuyển di Linh hồn hay Chân ngă của y qua thể xác của một người khác.

 

ĐÁP: Cho đến giờ phút chót, chí đến từng giây phút cuối cùng. Người Yogi biết trước, chí đến từng giây đồng hồ, lúc nào y phải chết, và cho đến khi đó, y có thể xuất hồn để nhập vào thể xác của một người khác nếu có một thể xác sẵn sàng cho y chiếm đóng. Nhưng nếu y để cho cái giây phút ấy trôi qua th́ chừng đó y không thể làm ǵ được. Sợi dây bạc đă bị đứt đoạn vĩnh viễn, và nếu người Yogi chưa được tinh luyện đầy đủ đến mức toàn thiện để đạt tới sự Giải thoát, th́ y phải tái sinh trở lại theo định luật Luân hồi. Sự khác biệt duy nhất giữa trường hợp của y với trường hợp thông thường của mọi người là v́ y đă có công phu tu luyện trong kiếp này để trở nên tốt lành hơn, thông tuệ hơn và minh triết hơn người thường, nên y sẽ tái sinh trong hoàn cảnh thuận lợi hơn.

 

HỎI: Người Yogi có thể nào kéo dài sự sống của y tới mức độ này chăng: chẳng hạn kiếp sống hiện tại của y đă định là 70 tuổi; trước khi chết y có thể nào nhập xác một đứa trẻ lên 6 tuổi, sống trong cái thể xác đó một kỳ hạn 70 năm, rồi chuyển di từ cái thể xác đó qua thể xác một đứa trẻ khác, và sống trong đó thêm một kỳ hạn 70 năm nữa?

 

ĐÁP: Y có thể và bằng cách đó y có thể kéo dài sự sống của y trên thế gian đến một thời hạn độ chừng 400 năm.

 

HỎI: Người Yogi có thể nào chuyển di bằng cách đó từ thể xác của y qua thể xác của một người đàn bà?

 

ĐÁP: Cũng như người ta có thể khoác lấy y phục đàn bà một cách dễ dàng, người Yogi có thể nhập vào thể xác của một phụ nữ. Chừng đó xét về cử chỉ và h́nh dáng bên ngoài th́ y là một người nữ, nhưng xét về phần nội tàng bên trong, y vẫn là một nhà Yogi.

 

HỎI: Tôi đă gặp hai người như vậy, nghĩa là hai người nữ xét về h́nh dáng bên ngoài, nhưng hoàn toàn có tính chất đàn ông trong mọi sự trừ ra cái thể xác. Một trong hai người ấy ông có nhớ chăng, trước đây chúng ta đă có dịp cùng đi viếng thăm tại Ba Nại La, trong một đạo viện bên bờ sông Hằng.

ĐÁP: À, nữ tu sĩ Maji.

 

HỎI: Pháp môn Yoga có tất cả mấy thứ?

 

ĐÁP: Có hai loại pháp môn Yoga, luyện thể xác (Hatha Yoga) và luyện tinh thần (Raja Yoga). Trong pháp môn Hatha Yoga, người hành giả công phu luyện xác một cách rất khổ hạnh nhằm mục đích bắt thể xác phải tuân theo mệnh lệnh của Ư chí. C̣n Raja Yoga là một pháp môn tu luyện khiến cho Ư chí được phát triển mạnh mẽ đến mức làm chủ được tinh thần. Pháp môn Hatha Yoga đem lại những kết quả thể chất, c̣n Raja Yoga giúp hành giả phát triển những khả năng tâm linh. Người hành giả nào muốn được thành thục về pháp môn Raja Yoga, phải có trải qua công phu tu luyện Hatha Yoga.

 

HỎI: Phải chăng có những người đă sở đắc những quyền năng tâm linh siêu đẳng của pháp môn Raja Yoga mà không hề trải qua giai đoạn khổ luyện xác thân theo Hatha Yoga? Tôi đă gặp ba người như vậy ở Ấn Độ, và chính họ đă cho tôi biết rằng họ không hề khổ luyện xác thân.

 

ĐÁP: Nếu vậy th́ họ đă có tu luyện theo pháp môn Hatha Yoga trong kiếp trước.

 

HỎI: Xin ông vui ḷng giải thích làm sao người ta có thể phân biệt được những hiện tượng nào là thật hay giả khi được tạo nên bởi một người mệnh danh là Yogi?

 

ĐÁP: Những hiện tượng lạ gồm có ba loại: loại thấp nhất được tạo ra bởi sự lanh lẹ của bàn tay như ta thường thấy trong những màn tŕnh diễn ảo thuật hay trong các gánh xiếc; loại thứ nh́, bằng cách sử dụng hóa chất hay những máy móc dụng cụ; loại  thứ ba và cao nhất, bằng những quyền năng thần bí của con người.

Việc tạo nên những tṛ lạ mắt làm cho cử tọa ngạc nhiên do bởi hai phương pháp đầu tiên, và được tuyên bố giả dối như những hiện tượng siêu nhiên hay phép lạ, gọi  là tamasha, hay phỉnh gạt bất lương. Nhưng nếu những hiện tượng đó được người ta đưa ra một sự giải thích đúng đắn và chân thật th́ chừng đó chúng được coi như sự biểu diễn xảo thuật khoa học hay kỹ thuật. Chỉ có những hiện tượng tạo nên bởi việc sử dụng ư chí đă được tập luyện thành thục của con người, không tùy thuộc các đồ máy móc, dụng cụ, mới là thuộc pháp môn Yoga chân chính.

 

HỎI: Xin định nghĩa tính chất của Linh hồn con người.

 

ĐÁP: Linh hồn (Atma) con người gồm 24 thứ khả năng, trong đó có ư chí, hành động, kiến thức, kư ức sắc bén, v.v. . . Khi nào tất cả những khả năng đó được đem ra tác dụng ở ngoại giới, người chủ động tạo nên những hậu quả được xếp hạng dưới cái chủ đề là Khoa Học Vật Lư.

Khi người ấy đem áp dụng chúng vào nội tâm, hay thế giới nội tàng, th́ đó là Triết Học Tâm Linh, hay Yoga nội môn. Khi hai người nói chuyện với nhau từ hai nơi cách biệt với nhau rất xa bằng điện thoại, th́ đó là họ sử dụng kiến thức khoa học; khi nào họ giao tiếp với nhau không bằng máy móc dụng cụ mà bằng cách sử dụng kiến thức về những ḍng từ điện và sức mạnh thiên nhiên, th́ đó là kiến thức Yoga.

Cũng chính do kiến thức Yoga mà nhà thuật sĩ làm cho những đồ vật thuộc bất cứ loại nào được đem tới cho y từ một nơi cách xa và ngược lại, gửi những đồ vật ấy từ chỗ của y đi đến bất cứ nơi nào, trong cả hai trường hợp đều không dùng những phương tiện chuyên chở như xe, tàu v.v. . .

Người xưa vẫn từng biết rơ những định luật hấp dẫn và xô đẩy của tất cả mọi sự vật trong Thiên nhiên, tác động hỗ tương giữa chúng với nhau, và những hiện tượng thần thông mầu nhiệm trong pháp môn Yoga đều căn cứ trên sự hiểu biết đó. Người Yogi có thể thay đổi hay tăng cường những sức mạnh hấp dẫn và xô đẩy đó tùy theo ư muốn.

 

HỎI: Người hành giả muốn sở đắc những quyền năng đó phải có những điều kiện tiên quyết như thế nào?

 

ĐÁP: Đó là:

1- Sự ước muốn học hỏi. Ḷng ước vọng đó phải mănh liệt cũng giống như của người sắp chết đói mong thức ăn hay người khát thèm nước uống.

2- Hoàn toàn làm chủ mọi thứ đam mê và dục vọng.

3- Sự trinh khiết, giao du với những bạn bè tốt và có đức hạnh; ăn uống chay tịnh, chỉ dùng những đồ vật thực trong lành, tinh khiết; nơi ăn chốn ở phải thanh tịnh sạch sẽ, không bị ô nhiễm bởi những ảnh hưởng xấu xa ô trược bất cứ loại nào; không khí trong sạch; ở nơi vắng vẻ.

Hành giả phải có trí óc thông minh để có thể hiểu biết những định luật Thiên nhiên; phải biết tập trung tư tưởng, để cho khỏi bị lo ra và trí lực phân tán trong cơn thiền định; và phải biết tự chủ để kiềm chế mọi thứ đam mê, dục vọng. Y phải diệt trừ năm điều sau đây: Vô minh, Tự kiêu Ngă mạn, Dâm dục, Ích kỷ và Sợ Chết.

 

HỎI: Như vậy, phải chăng ông không tin rằng người Yogi hành động trái với những định luật tự nhiên?

 

ĐÁP: Không khi nào, bởi v́ không có ǵ xảy ra mà trái với những định luật Tự nhiên. Do pháp môn Hatha Yoga, người ta có thể thực hiện vài loại hiện tượng nhỏ, chẳng hạn như tập trung tất cả sinh lực của ḿnh vào trong một ngón tay, hoặc trong cơn thiền định, biết được những tư tưởng của người khác.

Bằng pháp môn Raja Yoga, hành giả trở nên có phép thần thông; y có thể làm bất cứ việc ǵ tùy ư muốn, và biết bất cứ điều ǵ y muốn biết, chí đến những ngôn ngữ mà y chưa bao giờ học. Nhưng tất cả những việc ấy đều hoàn toàn phù hợp với những định luật tự nhiên.

 

HỎI: Đôi khi tôi thấy những vật thể vô tri như thư từ, tiền đồng hay kim loại, bút ch́, đồ nữ trang v.v. . . được tạo ra thành những phó bổn thứ nh́ ngay trước mắt tôi. Làm sao giải thích điều đó?

 

ĐÁP: Trong không gian có chứa đựng những nguyên tử của mọi vật thể hữu h́nh trong một trạng thái vô cùng tế vi. Người Yogi biết tập trung những nguyên tử đó bằng cách sử dụng Ư chí, và tượng h́nh những vật thể đó theo kiểu mẫu mong muốn bằng trí óc sáng tạo của ḿnh.

Đến đây, Đại tá Olcott hỏi vị Swami có ư kiến ǵ về những hiện tượng thần thông mà bà Blavatsky làm từ trước đến nay trước sự có mặt của nhiều nhân chứng, chẳng hạn như bà làm hoa hường rơi xuống như mưa từ trên trần nhà trong một pḥng khách ở Bénarès hồi năm ngoái, gây tiếng chuông reo trong không khí, làm cho ngọn lửa trong một cây đèn lu mờ dần cho đến khi hầu như sắp tắt, rồi truyền lệnh cho nó bùng cháy lên cao vút mà không động đến cái bộ phận vặn bấc đèn, v.v. . .

Câu trả lời là: đó là những phép thuật thuộc lănh vực của pháp môn Yoga. Vài hiện tượng này, những người làm tṛ ảo thuật có thể bắt chước, nhưng những phép thuật của bà H. P. B. không phải thuộc về loại đó”.

Tôi nghĩ rằng đây là những quan điểm tóm lược đơn giản, rơ ràng, sáng sũa và gợi ư nhất về khoa pháp môn Yoga của Ấn Độ. Người đối thoại với tôi là một trong những nhân vật ưu tú nhất trong giới tu sĩ Bà la môn, một người học vấn uyên thâm, một nhà tu khổ hạnh đầy kinh nghiệm, một nhà biện thuyết hùng hồn và một người có tinh thần yêu nước cao độ.

Sau đó ít lâu chúng tôi đă trải qua một giai đoạn khó khăn trong vấn đề giao tế nhân sự với đạo sư Dyanand Saraswati. Không có một lư do nhỏ nhặt nào, tự nhiên y có thái độ thù nghịch đối với chúng tôi. Y viết cho chúng tôi những bức thư lời lẽ gay gắt, nặng nề, kế đó y đấu dịu lại đôi chút; rồi lần sau y lại đổi giọng, và như thế y đặt chúng tôi vào một t́nh trạng căng thẳng thường xuyên.

Sự thật là tờ tạp chí của chúng tôi không thể là một cơ quan ngôn luận đặc biệt của môn phái Arya Samaj, và chúng tôi cũng không chịu tách rời khỏi các nhóm tín đồ Phật giáo và Hỏa giáo, như điều y vẫn mong muốn. Hiển nhiên là y muốn bắt buộc chúng tôi phải chọn lựa một trong hai điều: hoặc là sự tiếp tục bảo trợ của môn phái y; hoặc là trung thành với lư tưởng không bè phái của chúng tôi. Và chúng tôi đă chọn lựa. V́ những lư tưởng và nguyên tắc của Hội, chúng tôi không chịu nhượng bộ bất cứ một áp lực nào từ bên ngoài.

Cũng xin nhắc lại rằng sau những lần tiếp xúc đầu tiên với chi phái Ấn giáo Arya Samaj, đạo sư Dyanand đă cùng tôi thảo luận về những Điều lệ mới của Hội Thông Thiên Học. Y đă nhận lănh một chân trong Hội Đồng Quản Trị của Hội, cho tôi có thẩm quyền thay mặt y trong những cuộc biểu quyết của Hội Đồng bằng một văn thư chính thức, và hoàn toàn phê chuẩn kế hoạch của chúng tôi là dung ḥa những phân chi gồm có những tín đồ các giáo phái khác nhau như Phật giáo, Hỏa giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, v.v. . .

Nhưng về sau, tinh thần khoan dung, không bè phái của y đă thay đổi trở thành óc bè phái, độc đoán và sự thiện chí tốt đẹp của y đối với chúng tôi trở thành đố kỵ và thù nghịch.

HẾT


 

Thông Thiên Học là Khoa Học của linh hồn.

Thông Thiên Học là Minh Triết Cổ Truyền được tŕnh bày lại theo thời đại hiện nay
 

Phương pháp có khác nhau, tư tưởng có khác nhau, cách thức có khác nhau, th́ việc làm của chúng ta mới linh động chớ không suy giảm, miễn hành vi ấy có t́nh thương dẩn dắt và ḷng nhân ái xét soi. (Annie  Besant)

xem tiếp
 

Hội Thông Thiên Học là một tổ chức quốc tế, với ư nghĩa rộng răi của từ, mà hội viên thuộc tất cả các giống dân, tín ngưỡng và ư kiến khác nhau nhưng họ hợp tác làm việc với nhau cùng chung một mục đích: sự tiến bộ của nhân loại - Nhưng với danh nghĩa là Hội, Hội hoàn toàn không thuộc về bất cứ quốc gia nào hoặc đảng phái chính trị nào.

Về phương diện Hội, họ chỉ có thể hành động tập thể cho các vấn đề chung có liên quan với Thông Thiên Học; về phương diện cá nhân, họ được hoàn toàn tự do để theo tư tưởng và hành động chính trị riêng biệt, miễn hành động đó đừng đi ngược lại nguyên lư của Thông Thiên Học và không có điều hại nào cho chính Hội Thông Thiên Học.
(Bí Quyết Thông Thiên Học, H. P. B
.)


Nếu mọi viên sỏi đều trở thành một viên hồng ngọc vô giá th́ viên sỏi và hồng ngọc ắt có giá trị giống như nhau.

Mọi người đều nghĩ rằng sự khôn ngoan của ḿnh là hoàn hảo, cũng như mọi bà mẹ đều cho rằng con của ḿnh là đẹp nhất.

“Con tôi là của tôi, tài sản này là của tôi”: một kẻ điên rồ bị giằn vật v́ những tư tưởng như thế. Bản thân y c̣n chưa thuộc về y chứ đừng nói tới con cái và của cải.

Bánh xe hi sinh có trục là T́nh Thương, lốp là Hành Động và căm là T́nh Huynh Đệ.

Thông Thiên Học không phải là việc thu tóm quyền lực dù là về mặt thông linh hay trí tuệ, mặc dù cả hai quyền năng đó đều phục vụ cho Thông Thiên Học.

Thông Thiên Học cũng theo đuổi hạnh phúc như người ta thường hiểu về từ ngữ này. Đó là v́ bước đầu tiên của nó là sự hi sinh, c̣n bước thứ nh́ là sự từ bỏ.

Thông Thiên Học là khoa học về sự sống, là nghệ thuật sống.

Thông Thiên Học là hiện thể của tinh thần mang lại sự sống; do đó không một điều ǵ mang tính giáo điều có thể thuộc về Thông Thiên Học.

Ngay cả trong rừng rậm cô liêu, tội lỗi vẫn chiến thắng kẻ không thánh thiện; kềm chế được giác quan ở ngay chính nhà ḿnh mới là tu khổ hạnh vậy.(CNPĐ) 
  
                

Xin dắt tôi từ cõi gỉa đến cõi CHƠN,
Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi SÁNG SUỐT,
Xin dắt tôi từ cửa tử đến cõi TRƯỜNG SANH BẤT TỬ.
(Dưới Chơn Thầy)


Cái Trí là tay đại phá hoại Sự Thật. (Tiếng Nói Vô Thinh)


Ngươi hãy tiêu diệt lòng tham vọng, nhưng hãy làm việc như những kẻ lòng đầy tham vọng.
Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham sống, nhưng hãy tôn trọng sự sống.
Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham muốn sự tiện nghi, nhưng hãy sung sướng như những kẻ chỉ sống để hưởng lạc thú.


5.- Hãy diệt mọi ý thức chia rẽ. (Kill out all sense of separateness)

Chú giải : Bạn chớ tưởng là bạn có thể sống riêng biệt với những kẻ hung dữ, hạng người điên dại. Họ chính là bạn đó, mặc dầu họ ở trình độ kém hơn người bạn hoặc vị Thầy của bạn. Nhưng nếu bạn để nảy sinh cái ý nghĩ bạn không liên đới với một điều nào hoặc một tội lỗi nào tức là bạn tạo ra một nghiệp quả, nó sẽ buộc bạn vào điều đó hoặc người đó, cho đến ngày nào tâm hồn bạn nhận thấy rằng nó không thể sống riêng rẽ được. Bạn hãy nhớ rằng tội lỗi và nhục nhã của đời là tội lỗi và nhục nhã của bạn, bởi vì bạn là một phần tử của thế gian; nghiệp quả của bạn dệt chung và không thể tách rời Đại Nghiệp Quả được. Trước khi bạn được giác ngộ, bạn phải trải qua mọi chỗ dơ cũng như chỗ sạch. Như thế bạn hăy nhớ rằng cái áo dơ mà bây giờ con nhờm gớm có thể là cái áo của bạn bữa qua hoặc bữa mai. Nếu bạn tỏ vẻ ghê sợ, th́ khi nó đặt lên vai bạn, nó sẽ càng bó chặt lấy bạn hơn. Kẻ nào có ḷng tự kiêu về đức hạnh của ḿnh tức là dọn cho ḿnh một chỗ trong vũng bùn nhơ. Bạn tránh, v́ đó là điều nên tránh chớ chẳng phải để giữ cho bạn được trong sạch.
(Ánh Sáng Trên Đường Đạo) xem tiếp


58. Bạn không thể nào đi trên đường Đạo, nếu chính bạn chưa trở nên con Đường đó (32).

59. Hãy để cho Hồn bạn lắng tai nghe mọi tiếng đau khổ, như bông sen nở lớn để hứng ánh sáng mặt trời buổi ban mai.

60. Bạn chớ để nắng gắt làm khô một giọt nước mắt đau khổ nào, trước khi bạn lau ráo lụy cho cặp mắt của người buồn khổ.

61. Bạn hãy để cho tất cả nước mắt của thế gian rơi vào lòng bạn, đọng lại ở tim bạn, chớ không khi nào chùi đi, trước khi nguyên nhân gây đau khổ tiêu tan.

62. Hỡi con người có tấm lòng từ bi, những giọt nước mắt đó là những suối nước tưới mát cánh đồng từ thiện bất diệt. “Chính nơi miếng đất đó trổ được bông nửa đêm của Phật (33), thứ bông này còn khó tìm, khó gặp hơn bông cây Vogay. Đó là hột giống để thoát ly đường sanh tử. Nó tách riêng vị La Hán ra ngoài vòng tranh đấu và tham vọng, nó dắt người băng ngang qua những cánh đồng của Thực Tại để đến nơi an lạc, chân phúc, chỉ thấy được nơi cõi Tịch Mịch, Hư Vô. (Tiếng Nói Vô Thinh)  xem tiếp

 

Bạn hãy nhớ rằng: mọi việc khổ não trên thế gian đều là tạm thời, bổn phận của bạn phải luôn luôn vui vẻ và giữ ḷng thanh tịnh.

Bởi vì chính bạn với Đường Đạo phải trở nên một. Đường Đạo tức là bạn. Bạn bước trên Đường Đạo mà không cần nghĩ tới nó, và bạn cũng không thể rời nó được nữa. Bạn là Chơn Thần, bạn đă quyết định như vậy. Nếu bạn lìa bỏ nó tức là bạn lìa bỏ chính bạn vậy.

Có minh triết bạn mới có thể giúp đời, c̣n ư chí để dắt dẫn sự minh triết, và từ ái lại gây ra ư chí. Ấy là những điều kiện mà bạn cần phải có. Ư chí, minh triết, từ ái là ba trạng thái của Đức Thượng Đế. Nếu bạn muốn hiến ḿnh phụng sự Ngài, th́ bạn phải biểu lộ ba trạng thái ấy trong thế gian này. (Dưới Chân Thầy)   xem tiếp


Để làm quen với  quan niệm của Thông Thiên Học  mời các bạn đọc những tác phẩm sau:
Thông Thiên Học Dẫn Giải

Thông Thiên Học Khái Lược
Thông Thiên Học Giảng Lược
Thông Thiên Học Là Ǵ

Chân Nhân Và  Các Hạ Thể  (đang soạn)


Những Tài Liệu Nghiên Cứu :

Dưới Chân Thầy
Bí Quyết Thông Thiên Học
Giáo Lư Bí Truyền    (đang soạn)
Nữ Thần Isis Lộ Diện    (đang soạn)
Books
Magazines

 



 






 

 








 

   
   
   
   
   
   
   
 


THÔNG THIÊN HỌC THẾ GIỚI
THÔNGTHIÊN HỌC HOA kỲ

 


Hội Thông Thiên Học Được Thành Lập 7-11-1875
Bởi Bà Helena Petrovna Blavatsky Và Ông Henry Steel Olcott
  
The Theosophical Society Adyar, Chennai 600020, India Phone: 91-44-4912815 


Bản quyền   Copyright  @
www.thongthienhoc.com  2001
Mọi bản sao hay trích dẫn kính xin quí vị đề rơ nơi xuất xứ chân thành cám ơn.
Xin giữ nguyên bản. Mọi sự liên hệ xin  liên lạc e-mail sau:  
nhusee@yahoo.com

 

 HOME  sách   TIỂU SỬ    BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN    BÀI VỞ   THƠ   gifts   TẾT 2006  BOOKS  MAGAZINES