|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
CHƯƠNG XVII Phân chủng thứ nh́, người Ả Rập
Trích CON NGƯỜI từ đâu tới, Sinh hoạt ra sao và Rồi sẽ đi về đâu
Tác giả Annie Besant
và C. L. Leadbeater |
|
Phân chủng thứ nh́, người Ả Rập
Ta nên nhớ rằng khi Đức Bàn Cổ đi tới
Shamballa – sau khi đă hướng dẫn đoàn thể nhỏ bé của ḿnh đi từ Ả
Rập tới nơi tạm cư ở phương Bắc và sau khi đại thảm họa năm 75,025
trước Công nguyên đưa họ tới Bạch đảo – th́ Ngài được đức Thủ lănh
Quần tiên hội trao cho kế hoạch phải tuân theo để định h́nh Giống
dân của ḿnh
[[1]].
Bốn thung lũng dài, - chạy ngược trở lại qua các dăy núi ở cách bờ
biển Gobi 20 dặm, ngăn cách với nhau qua những ngọn đồi chen vào
giữa – được Ngài sử dụng để phân ly và rèn luyện bốn phân chủng khác
nhau. Công việc này bây giờ mới bắt đầu.
Đức Bàn Cổ khởi sự bằng cách chọn lựa ra
từ đoàn thể lớn những người phụng sự - họ đă phát triển trong nền
văn minh cao cả Aryen – một vài gia đ́nh sẵn sàng đóng vai tṛ tiên
phong rời bỏ Kiều thành vinh quang để đi đến vùng hoang vu thành lập
vùng đất kiều dân mới của Ngài. Một nhóm lớn những người hầu hết đă
và đang là hội viên Thông Thiên Học hiện nay được Ngài tuyển lựa đi
tiên phong
[[2]]
và một số ít gia đ́nh này được biệt phái dẫn đường. Trong thế hệ thứ
ba này, Mars và Mercury sinh ra trong đám hậu duệ của những vị ấy,
thế rồi Đức Bàn Cổ và một số dân cao cả nhập thể trong đó để chuyên
biệt hóa loại h́nh Đức Bàn Cổ chuẩn bị một h́nh thể đặc biệt, một
loại h́nh mà Ngài nhắm tới rồi nhập thể trong đó khi Ngài đưa nó tới
mục tiêu như mong muốn.
Nhóm nhân vật tiến hóa cao này nêu gương bất cứ khi nào lập nên một
phân chủng mới th́ loại ấy được coi là tốt nhất: đó là Thời đại
Hoàng kim mà mỗi quốc gia sau này đều ngoái lại nuối tiếc. Thế rồi
những Chơn ngă trẻ trung hơn xuất hiện để tiến hành tiếp công việc,
dĩ nhiên họ không có khả năng duy tŕ mức đă đạt được. Trong mỗi
trường hợp th́ một nhóm Chơn ngă trẻ trung hơn lại được biệt phái để
dọn đường, rồi tới một số Chơn ngă già hơn thuộc hàng ngũ hiện nay
bao gồm cả các Chơn sư; những người cao cả khoác lấy thể xác trong
nhóm này để lập nên một loại h́nh mới. Thế rồi nhóm trẻ trung hơn
lại ùa vào làm hết sức ḿnh, thoạt tiên theo sự chỉ đạo của một số
bậc trưởng thượng để rồi sau này bị bỏ mặc cho học những bài học của
ḿnh bằng kinh nghiệm.
Trong số đám trẻ trung được chọn lựa để
tạo thành những gia đ́nh tiên phong đầu tiên chúng tôi lưu ư thấy
Herakles - con trai của Corona và Theodoros – có vợ là Sirius;
Sirius là phụ nữ cao lớn lực lưỡng, một bà nội trợ đáng chú ư, rất
tử tế với đại gia đ́nh của ḿnh, trong nhóm đó chúng tôi quan sát
thấy có Alcyone, Miza, Uranus, Selene và Neptune
[[3]].
Herakles mang về một số người quí tộc Tlavatli bị bắt làm tù binh
trong một cuộc bố ráp, con trai của một trong các tù binh là Apis,
cưới cháu gái của Herakles là Gemini, khiến cho gia đ́nh Aryen danh
giá rất phẩn nộ, họ coi cuộc hôn nhân này là một
giao ước tồi tệ, một sự
pha trộn ḍng máu thuần khiết không xứng đáng; nhưng chắc chắn điều
này đă được Đức Bàn Cổ bí mật dàn xếp để cho có thể trộn lẫn ḍng
máu Tlavatli. Họ sinh đôi ra Spica và
Fides, là một cặp đứa trẻ quái dị. Hector và Aurora là một
cặp khác do kết hôn với gia đ́nh di cư, con gái của họ là Albireo
được gả cho Selene, sinh ra con là Mercury. Uranus cưới Andromeda
sinh ra Mars và Venus, c̣n Vulcan xuất hiện là con của Alcyone.
Ở đây ta ắt lưu ư thấy rằng hai đấng hiện nay là Chơn sư, Uranus và
Neptune, sinh ra trong thế hệ thứ hai; Mars và Venus hiện nay đều là
Chơn sư, sinh ra trong gia đ́nh những người này ở thế hệ thứ ba;
Mercury nay là một Chơn sư, cũng sinh ra trong thế hệ thứ ba là con
của Selene; và Vulcan nay cũng là một Chơn sư sinh ra trong thế hệ
thứ ba; là con của Alcyone. Đức Bàn Cổ xuất hiện trong thế hệ thứ tư
là con của Mars và Mercury.
Vào thời đó th́ một số bạn của chúng tôi đang sống ở Kiều thành,
trong đám đó có Castor vốn cưới Rhea. Họ nghĩ rằng đám người đi ra
vùng thung lũng ứng xử thật điên rồ v́ nền văn minh hiện hữu đang
rất tốt, cho nên chẳng ai có ư hướng đi xây dựng vùng kinh tế mới
trồng củ cải ở một thung lũng chưa được khai khẩn,
thay
v́ sống trong trật tự văn hóa ở Kiều thành. Hơn nữa những tôn giáo
mới mà những người cư ngụ ở thung lũng đang theo đuổi hoàn toàn
không cần thiết v́ tôn giáo cũ tốt hơn nhiều. Có một người bạn khác
vốn cặp kè với Castor trải qua nhiều thời đại là Lachesis, đây là
một thương gia mực thước, có con trai là Velleda, một kẻ sốc nổi
nóng tính, nó bất lịch sự với khách hàng khiến cho ông bố nhă nhặn
rất bực ḿnh. Lachesis đă cưới Amalthea, thế mà bà lại bỏ nhà đi
theo Calypso, vụ việc này bị coi là rất không thích đáng. V́ bà và
t́nh nhân không được Kiều thành chấp nhận, cho nên họ bỏ đi sang
vùng thung lũng, nhưng ở đây cũng chẳng hoan nghênh họ.
Việc ông Hoàng Toltec từ Poseidonis tới viếng thăm Kiều thành cho
thấy có một người bạn già là Crux trong đám tùy tùng, c̣n một người
bạn già khác nữa là Phocea.
Trong ṿng vài thế kỷ th́ cư dân ở vùng thung lũng đă gia tăng và
nhân lên gấp bội; sự chuyên biệt hóa cẩn thận tiếp diễn măi cho tới
năm 40.000 trước Công nguyên th́ Đức Bàn Cổ nghĩ rằng họ đă đông đúc
đúng mức rồi và đă được chuẩn bị đúng mức để được biệt phái đi khắp
thế giới. Ngài biệt phái họ dưới quyền lănh đạo của Mars, do Corona
và Theodoros hỗ trợ truy nguyên trở lại con đường mà cách đây nhiều
ngàn năm họ đă đi theo đó, ra sức Aryen hóa đám con cháu của người Ả
Rập đă bị họ bỏ lại v́ những người này toàn là người Atlante vốn có
nhiều thuộc tính nhất, gần gũi với những đặc tính mới. Những người Ả
Rập này vẫn c̣n ở nơi mà Ngài đă định cư – một số các bộ tộc bán văn
minh cư ngụ ở trong cả bán đảo Ả Rập cùng với một vài người định cư
trên bờ biển Somali. Một cường quốc mạnh mẽ và thân thiện tồn tại
vào lúc ấy ở vùng nay gọi là Ba Tư và Lưỡng hà; Đức Bàn cổ - sau này
Ngài cũng gia nhập nhóm di dân và lănh đạo các lực lượng ấy – chẳng
khó khăn ǵ cũng được phép để cho đoàn lữ khách của ḿnh đi qua vùng
lănh thổ ấy theo một lộ tŕnh được vạch ra và canh gác cẩn mật. Thật
đáng lưu ư khi thấy đoàn di dân này có tính chất khác nhóm di dân
sau này. Trong nhóm di dân xuống Ấn Độ th́ toàn thể bộ tộc đều di
chuyển, nam phụ lăo ấu đều có mặt; nhưng trong trường hợp di dân
hiện nay th́ những người già và nhiều trẻ con được khuyên là hăy ở
lại; đoàn di dân được giới hạn trong đám người đàn ông trong tuổi
chiến đấu, vợ họ và tương đối là một số ít trẻ con. Nhiều người di
dân là các thanh niên chưa kết hôn. Số chiến sĩ vào khoảng 150.000
người, c̣n đàn bà con nít thêm 100.000 người nữa.
Hai năm trước đó, Đức Bàn Cổ đă biệt phái các sứ giả đi tới các bộ
tộc Ả Rập để chuẩn bị cho Ngài đến nơi, nhưng tin t́nh báo không
được tiếp nhận thuận lợi hoàn toàn cho nên Ngài tuyệt nhiên cũng
chẳng chắc chắn ǵ sẽ được hoan nghênh. Khi Ngài băng qua vành đai
sa mạc, lúc bấy giờ (cũng như hiện nay) ngăn cách xứ Ả Rập với phần
c̣n lại của thế giới và trông thấy vùng định cư đầu tiên của người Ả
Rập th́ một đoàn kỵ binh xuất hiện trước mặt Ngài, lập tức tấn công
quân tiền trạm của Ngài. Ngài dễ dàng đẩy lùi được chúng, lại bắt
được một số làm tù binh và cố gắng thuyết phục chúng hiểu rằng sứ
mệnh của Ngài mang tính ḥa b́nh. Người ta lời qua tiếng lại khá
nhiều mà vẫn không hiểu nhau bao nhiêu, nhưng Ngài ra sức trấn an
đám tù binh, biệt phái chúng đi dàn xếp cho Ngài được tiếp kiến thủ
lĩnh của chúng. Sau một số rắc rối và phải trao đổi nhiều thông điệp
thêm nữa, th́ viên Thủ lĩnh cũng tới nơi, ḷng đầy nghi ngờ chẳng
muốn ḥa giải; nhưng cuộc nói chuyện lâu dài và giải thích đầy đủ đă
khiến y thay đổi thái độ khá nhiều v́ y chợt hiểu rằng ḿnh có thể
lợi dụng đám người xâm nhập bất thường này phục vụ cho mục đích của
riêng ḿnh. Y là kẻ thù bất cộng đái thiên với một bộ tộc lân cận và
trong khi y không có đủ lực lượng thích hợp để đương đầu với đạo
quân có vẻ hùng hậu của Đức Bàn Cổ th́ y cảm thấy rằng nếu ḿnh
chiêu mộ được đám người lạ mặt này về phe với ḿnh th́ việc thanh
toán kẻ thù truyền kiếp ắt dễ như trở bàn tay. Thế là y bèn câu giờ,
đồng ư để cho những người khách viếng thăm được định cư ở một thung
lũng lớn hoang vu trên vùng biên giới của lănh thổ.
Đám di dân chấp nhận lời đề nghị này một cách đầy cảm kích và chẳng
bao lâu sau đă làm biến đổi trọn cả bộ mặt thung lũng ấy. V́ xuất
phát từ một quốc gia đă đạt tŕnh độ văn minh cao cho nên họ biết
hết khoa học đào giếng và bây giờ họ đă dẫn nước tưới cho toàn thể
thung lũng hữu hiệu với một ḍng nước lớn chảy xuống vào giữa thung
lũng. Chỉ nội trong ṿng một năm th́ toàn thể dải đất này đă được
trồng trọt kỹ lưỡng và người ta đă thu hoạch được một vụ mùa bội
thu; trong ṿng ba năm th́ họ đă định cư hoàn toàn ở đó thành ra một
cộng đồng thịnh vượng tự cấp, tự túc.
Tuy nhiên, viên Thủ lĩnh đón tiếp họ tuyệt nhiên không thỏa măn, y
liếc mắt ganh tị những sự cải tiến mà họ thực hiện được và cảm thấy
v́ đó là một phần lănh thổ của ḿnh cho nên nhân dân của y lẽ ra
phải gặt hái được những lợi ích ấy chứ đâu phải đám đông người ngoại
lai. Vả lại khi y yêu cầu Đức Bàn Cổ tham gia vào cuộc viễn chinh đi
cướp bóc th́ Ngài lại nói huỵch toẹt ra rằng mặc dù Ngài biết ơn y
do đă hiếu khách cho nên bất cứ lúc nào cũng sẵn ḷng bảo vệ y chống
quân xâm lược, nhưng Ngài không về phe với kẻ tấn công một dân tộc
hiếu ḥa khi không bị khiêu khích. Điều này khiến cho viên Thủ lĩnh
rất tức giận – y càng tức tối khi thấy ḿnh không cưỡng chế được phe
kia theo lệnh của ḿnh. Rốt cuộc th́ y lại giải ḥa với kẻ thù
truyền kiếp để dụ dỗ kẻ thù truyền kiếp liên minh với ḿnh nhằm cố
gắng tiêu diệt những người mới đến.
Tuy nhiên kế hoạch nhỏ nhen này đă thảm bại một cách tuyệt vọng. Đức
Bàn Cổ đánh bại và giết chết cả hai Thủ lĩnh, tự lên ngôi trở thành
Đấng cai trị các nhà nước phối hợp của chúng. Một khi cuộc chiến đă
qua rồi, thần dân của chúng đă ngoan ngoăn chấp nhận một nhà lănh
đạo mới, và chẳng bao lâu thấy rằng dưới chế độ được cải thiện này
ḿnh được thịnh vượng và hạnh phúc hơn nhiều, cho dù ít phải chinh
chiến nhưng lại phải làm việc đều đặn hơn. Vậy là Đức Bàn Cổ đă đặt
nền móng vững chắc nơi xứ Ả Rập và nhanh chóng tiến hành Aryen hóa
đám thần dân mới của ḿnh càng nhanh càng tốt. Thỉnh thoảng những bộ
tộc khác cũng tấn công Ngài, nhưng chúng luôn luôn bị đánh bại và bị
tổn thất nặng nề đến nỗi giờ đây chúng biết khôn là bỏ mặc Ngài.
Theo năm tháng, vương quốc của Ngài thịnh vượng và càng ngày càng
hùng mạnh trong khi những cuộc chiến nồi da xáo thịt thường xuyên
làm suy yếu và nghèo nàn nhưng bộ tộc khác. Kết quả tự nhiên là như
sau, từng bước khi có dịp Ngài lại hấp thu hết bộ tộc này tới bộ tộc
khác, thường thường là không phải đổ máu và được đa số hoàn toàn tán
thành. Trước khi Ngài qua đời vào 40 năm sau th́ nửa phần trên của
xứ Ả Rập đă thuộc quyền chi phối của Ngài và có thể được coi là dứt
khoát mang ḍng máu Aryen, Ngài cũng có thể có chủ quyền đối với
miền Nam nữa, nhưng có một kẻ cuồng tín tôn giáo xuất hiện nhắc nhở
nhân dân rằng họ là một dân tộc được tuyển chọn. Người này – v́ sau
này y c̣n xuất hiện trở lại và do đó cần có một tên gọi để phân biệt
cho nên chúng ta sẽ gọi y là Alastor – lên địa vị này theo mệnh lệnh
của Đức Bàn Cổ đưa ra vào thời xưa chủ trương cấm dân chúng kết hôn
với người ngoại lai. Do đó họ tuyệt nhiên không được pha trộn ḍng
máu với người ngoại đạo mà chẳng ai biết từ đâu tới với một nền văn
minh tự xưng tự học và sự chuyên chế đáng ghét, chối bỏ việc con
người có quyền bất di bất dịch là tự do giết đồng loại bất cứ khi
nào ḿnh thích. Điều này đă hiệu triệu được sự nóng ḷng muốn kiểm
soát vốn là đặc điểm nổi bật của tính t́nh người Ả Rập; thế là các
bộ tộc phương Nam vốn căi cọ với nhau một cách độc hại trong nhiều
thế kỷ bây giờ thực sự đoàn kết lại để chống đối vị lănh tụ của ḿnh
tái sinh. Họ chống đối Ngài nhân danh Ngài, dùng chính cái mệnh lệnh
nguyên thủy của Ngài nhằm giữ cho giống dân được thuần khiết biến
thành lời kêu gọi liên minh chống lại Ngài.
Thật kỳ quặc khi người ta dùng lệnh của Bàn Cổ Vaivasvata để chống
lại chính Ngài, nhưng Alastor thật ra chỉ là một kẻ vô chính phủ bị
lọt vào cái rănh mà y không thể cựa quậy vào đâu được. Khi Đức Bàn
Cổ cần có một dân tộc riêng biệt th́ Ngài cấm kết hôn với người
ngoại lai, nhưng khi Ngài muốn Aryen đám con cháu những người xưa
kia theo Ngài th́ việc kết hôn ngoại tộc lại trở nên cốt yếu. Nhưng
đối với Alastor, cũng như đối với nhiều người cùng loại với y;
sự tăng trưởng và thích ứng là dị giáo và y tác động vào ḷng
cuồng tín của đám tín đồ.
Trong khi cuộc đấu tranh lâu dài c̣n tiếp diễn th́ Đức Bàn Cổ rất
vui mừng trong một thời khoảng tương đối thanh b́nh được tiếp đón
Huynh trưởng đại hùng của ḿnh đến viếng thăm; đó là Đức Maha Guru,
Đức Phật vị lai -, Ngài đến với phân chủng thứ nh́ trước khi nó bắt
đầu đời sinh hoạt dài dằng dặc của cuộc trường chinh; Ngài khiến cho
nó minh tâm khắc cốt tôn giáo mới mà Ngài đă giảng dạy ở Ai Cập để
cải cách tín ngưỡng cổ truyền đang thịnh hành ở đó.
Đế quốc Atlante vĩ đại ở Ai Cập – vốn đă căi lộn với Đức Bàn Cổ
Vaivasvata khi Ngài dẫn dân tộc ḿnh lánh xa thảm họa năm 75.025
trước Công nguyên để đi định cư ở Ả Rập – đă bị tiêu diệt trong thảm
họa ấy vào lúc Ai Cập ch́m xuống nước. Khi những vùng đầm lầy sau
này không có người ở th́ một dân tộc giống người da đen đă chiếm hữu
vùng đất ấy trong một thời gian và bỏ lại những loại đá lửa cọc cạch
cùng với những di tích dă man khác ghi dấu sự chiếm cư của ḿnh. Sau
đó là tới Đế quốc Atlante thứ nh́ với triều đại lớn gồm các Thánh
vương cùng với nhiều vị anh hùng mà người Hy Lạp sau này coi là bán
thần linh, chẳng hạn như Herakles với 12 chiến công và truyền thuyết
ấy đă được Hy Lạp kế thừa. Đế quốc Atlante này kéo dài măi cho tới
khoảng năm 13.500 trước Công nguyên khi người Aryen từ miền Nam Ấn
Độ tràn sang biến nơi đó thành một Đế quốc của ḍng dơi Aryen, v́
vậy Đế quốc Atlante này đang trị v́ vào năm 40.000 trước Công nguyên
khi Đức Bàn Cổ lại ở xứ Ả Rập và đă đạt tới một t́nh trạng văn minh
rất cao, uy nghi và rực rỡ; nó có những Đền thờ bao la, chẳng hạn
như đền thờ Karnac với những hành lang dài rất âm u và một nghi thức
rất ḷe loẹt cùng với giáo huấn tôn giáo cầu kỳ.
Người Ai Cập là một dân tộc mộ đạo sâu sắc, họ sống với những câu
chuyện thuộc về đức tin của ḿnh qua một thực tại mănh liệt mà hiện
nay ta chỉ thấy được phản ánh chút ít nơi người La Mă và Giáo hội
Công giáo Anh quốc vào những ngày như Thứ sáu Tốt lành. Họ là những
người có năng khiếu tâm linh, cảm nhận được tác động của các cơi
siêu hồng trần, v́ thế họ chẳng bao giờ nghi ngờ sự tồn tại của các
Đấng cao cả và các cơi cao siêu; tôn giáo của họ là chính cuộc sống
của họ. Họ xây dựng những Đền thờ rộng lớn để tạo ra ấn tượng mênh
mang, gieo rắc sự tôn kính vào tâm trí của tầng lớp hạ lưu. Mọi màu
sắc và sự rực rỡ của sinh hoạt đều vây phủ tôn giáo của họ. Nhân dân
thường ngày mặc đồ trắng, nhưng những đám rước tôn giáo là những
đoàn người sặc sỡ với màu sắc lộng lẫy, đeo vàng bạc đá quí chói ḷa
mắt. Các nghi lễ kèm theo việc cử hành lễ kỷ niệm ngày Osiris từ
trần thật sống động như thật, tang lễ của vị thần linh bị tử nạn là
tang lễ thật sự, người ta khóc lóc than thở lớn tiếng, trọn cả đám
đông đều bị xúc động cuồng nhiệt kêu gọi Osiris hăy trở lại.
Đức Mahaguru đến với dân tộc này dưới dạng Tehuti tức Thoth mà sau
này người Hi Lạp gọi là Hermes. Ngài giáng lâm để dạy giáo lư vĩ đại
về “Ánh sáng Nội tâm” cho các tu sĩ trong Đền thờ, cho huyền giai
giáo sĩ đầy quyền lực ở Ai Cập mà đứng đầu là vua Pharaon. Trong nội
điện của Đền thờ, chính Ngài dạy cho họ “ánh sáng vốn soi sáng cho
mọi người đă đến với thế giới này” – đây là một cụm từ mà Ngài đă
truyền thừa trải qua bao thời đại, vốn được vang vọng trong Phúc âm
thứ tư với những lời lẽ thời sơ khai đượm màu Ai Cập. Ngài dạy họ
rằng Ánh sáng vốn mang tính đại đồng thế giới, Ánh sáng vốn là
Thượng Đế ngự trong tâm mỗi người. Ngài bảo họ lập lại: “Tôi là Ánh
sáng ấy, Ánh sáng ấy chính là tôi”. Ngài dạy rằng: “Ánh sáng ấy là
Chơn nhơn, mặc dù con người có thể không nhận ra được nó, mặc dù y
bỏ lở nó. Osiris là Ánh sáng; Ngài từ Ánh sáng ấy mà ra; Ngài ngự
nơi Ánh sáng; Ngài chính là Ánh sáng; Ánh sáng vốn ẩn tàng khắp mọi
nơi; nó ở trong mọi tảng đá và mọi ḥn đá. Khi một người hiệp nhất
với Ánh sáng Osiris th́ y cũng hiệp nhất với tổng thể mà y chỉ là
một bộ phận, bây giờ y có thể thấy được Ánh sáng nơi mọi người, cho
dù nó bị che khuất dày đặc, bị ức chế và bưng bít. Mọi thứ khác đều
phi hữu; chỉ có Ánh sáng là hằng hữu. Ánh sáng là sự sống của con
người. Mặc dù có những nghi thức vinh quang, mặc dù có nhiều bổn
phận mà vị tu sĩ phải thực hiện và mặc dù y có nhiều cách để giúp đỡ
người khác th́ đối với mọi người Ánh sáng ấy vẫn gần gũi hơn bất cứ
thứ nào khác và ở bên trong tâm hồn chính y. Đối với mọi người th́
Thực tại gần gũi hơn bất kỳ nghi lễ nào khác, v́ y chỉ cần xoay
chuyển vào bên trong th́ y sẽ thấy được Ánh sáng. Đó là mục tiêu của
mọi nghi lễ và người ta không nên bỏ đi các nghi lễ v́ ta đến đây
không phải để tiêu diệt mà để bổ sung. Khi một người đă hiểu biết
rồi th́ y vượt qua được Nghi lễ, y đến với Osiris, y đến với Ánh
sáng, Ánh sáng Amun Ra là cội nguồn của tất cả, vốn từ đó mà ra rồi
lại trở về đó”.
Ngài c̣n dạy rằng: “Osiris ở trên trời nhưng Osiris cũng ở nơi chính
tâm hồn con người. Khi Osiris nội tâm biết được Osiris nơi thiên
giới th́ con người trở thành Thượng Đế và Osiris từng một lần chiết
thân ra thành các mảnh nhỏ, lại hiệp nhất. Nhưng xem này! Osiris là
Tinh thần thiêng liêng, Isis là Mẹ Vĩnh hằng ban cấp sự sống cho
Horus, vốn là Con người; Con người sinh ra từ cả hai vị phụ mẫu, thế
nhưng lại hiệp nhất với Osiris. Horus ḥa lẫn với Osiris, c̣n Isis
vốn đă là Vật chất thông qua Horus mà trở thành Nữ vương của Sự sống
và Minh triết. Thế mà Osiris, Isis và Horus đều sinh ra từ Ánh sáng”
.
“Cả hai đều sinh ra Horus. Horus do Isis sinh ra, là Thần linh sinh
ra trong đám Nhân loại, mượn xác thịt của Mẹ Vĩnh hằng là Vật chất,
Trinh nữ Hằng tinh khiết. Ngài lại sinh ra thành Osiris, cứu chuộc
Mẹ ḿnh trong cuộc t́m kiếm lâu dài những mảnh vụn của chồng rải rác
trên trần thế. Ngài sinh ra thành Osiris khi Osiris nội tâm thấy
được Osiris nơi thiên giới và biết rằng cặp sinh đôi này chỉ là
một”.
Ngài dạy như thế và đám tu sĩ minh triết rất hân hoan.
Ngài đưa ra khẩu hiệu cho vị Pharaon, là quốc vương; “Hăy mưu t́m
Ánh sáng” v́ Ngài dạy rằng chỉ khi nào vị Vua thấy được Ánh sáng
trong tâm hồn mỗi người th́ y mới có thể trị v́ tốt đẹp. Và Ngài đưa
ra khẩu hiệu sau đây cho nhân dân: “Ngươi là Ánh sáng, Cầu xin Ánh
sáng hăy soi chiếu”. Và Ngài để châm ngôn ấy xung quanh tháp môn ở
Đền thờ lớn, leo lên cây cột trụ và băng ngang qua xà ngang rồi chạy
xuống một cột trụ khác. Châm ngôn này c̣n được khắc trên cửa nhà và
người ta làm những mô h́nh nhỏ tháp môn mà Ngài khắc châm ngôn trên
đó, các mô h́nh này làm bằng kim loại quí cũng như bằng đất sét nung
để cho người nghèo nhất cũng có thể mua được mô h́nh nhỏ làm bằng
đất sét màu xanh lơ có những vạch màu nâu chạy ngang qua đó để chăm
chú nh́n cho dễ. Có một châm ngôn khác cũng được ưa dùng. “Hăy tuân
theo Ánh sáng”, câu này về sau trở thành: “Hăy tuân theo Đức Vua” và
câu ấy được truyền bá sang phương Tây để trở thành châm ngôn của
hiệp sĩ Bàn Tṛn. Và thiên hạ học cách nói về người chết: “Người ấy
đă đi về Ánh sáng rồi”.
Nền văn minh vui tươi của Ai Cập lại càng hoan hỉ hơn bởi v́ Ngài đă
ngự giữa nhân quần, Ngài là hiện thân của Ánh sáng. Các tu sĩ được
Ngài dạy dỗ đă trao truyền giáo huấn của Ngài cùng với những huấn
thị bí mật được thể hiện trong các Bí pháp; thế là học viên từ mọi
xứ ùn ùn kéo tới thụ giáo “Minh triết của người Ai Cập” và Trường
phái Ai Cập lừng danh ở mọi xứ nước ngoài.
Vào lúc ấy Ngài đi sang Ấ Rập để dạy dỗ cho các thủ lĩnh phân chủng
đang định cư ở đó. Mỗi người cảm thấy niềm vui sâu sắc khi các Huynh
đệ đầy quyền lực chấp tay mỉm cười nh́n vào mắt nhau và nghĩ tới quê
nhà ở xa xa nơi Kiều thành và Bạch ngọc kinh Shamballa. Ngay cả các
Đấng Cao cả, đôi khi cũng cảm thấy mệt mỏi khi sống giữa sự nhỏ nhoi
của đám người vô minh.
Thế là bậc Vô Thượng Sư đă đến với phân chủng thứ nh́ mang theo giáo
lư về Ánh sáng Nội tâm tới cho họ.
Ta hăy trở lại với lịch sử về sự tăng trưởng của giống dân này ở Ả
Rập. Do hậu quả của việc Alastor nơi phương Nam nổi lên chống lại
Đức Bàn Cổ, bán đảo Ả Rập được chia thành hai phần và trong nhiều
thế hệ những người kế vị Đức Bàn Cổ bằng ḷng với việc duy tŕ vương
quốc của ḿnh mà không t́m cách bành trướng biên giới. Sau một vài
thế kỷ th́ một nhà cai trị nhiều tham vọng hơn lên nối ngôi; lợi
dụng tới tảo thanh vùng bờ biển rồi tự xưng là hoàng đế Ả Rập. Y cho
phép đám thần dân mới duy tŕ ư niệm tôn giáo của chính ḿnh và bởi
v́ xét về nhiều mặt Chính quyền mới vốn cải tiến hơn chính quyền cũ
cho nên kẻ đi chinh phục không vấp phải sự chống đối lâu dài.
Tuy nhiên một bộ phận cuồng tín nào đó của người phương Nam cảm thấy
ḿnh có bổn phận chống lại điều bị coi là sự chiến thắng của điều
ác, và dưới quyền một vị đạo sư có tài hùng biện thô lỗ nhưng tính
t́nh nóng nảy, họ từ bỏ vùng đất quê cha đất tổ bị ngoại lai xâm
lược để đi định cư thành lập một cộng đồng nơi bờ biển xứ Somali đối
diện.
Ở đây dưới quyền lănh đạo của vị đạo sư và những người thừa kế, họ
sinh sống được vài thế kỷ, gia tăng số lượng rất nhiều cho đến khi
một biến cố xảy ra gây nên một sự đoạn tuyệt nghiêm trọng. Người ta
phát hiện ra rằng vị đạo sư đang cầm quyền vào thời đó, trong khi
rao giảng sự thuần khiết đầy cuồng tín của dân tộc th́ bản thân lại
luyến ái một cô gái da đen dân bản xứ. Khi điều này bị bại lộ th́
thiên hạ xôn xao bàn tán, nhưng vị đạo sư đủ sức đối phó phổ biến
một điều khải huyền mới với ư tưởng cho rằng việc nghiêm cấm kết hôn
với ngoại tộc chỉ mục đích để ngăn ngừa họ không phối giống với
những người mới tới từ phương Bắc chứ tuyệt nhiên không áp dụng cho
người da đen mà thật ra gọi là nô lệ, là hàng hóa, là tài sản hơn là
vợ. Lời tuyên cáo táo bạo này đă chia rẽ cộng đồng; đa số chấp nhận
nó thoạt đầu cũng có phân vân nhưng rồi cũng rất nhiệt thành ham hố
mua bán nô lệ da đen. Nhưng một thiểu số khá đông nổi loạn chống lại
điều khải huyền, tố cáo nó chỉ là một thủ đoạn vụng về nhằm bao che
cho vị tu sĩ dâm ô (quả thật đúng vậy); khi họ thấy ḿnh là thiểu số
th́ họ bèn sợ hăi ly khai và tuyên bố rằng ḿnh không c̣n có thể
đồng cư với những kẻ dị giáo đă từ bỏ mọi nguyên tắc. Một nhà truyền
giáo đầy tham vọng luôn luôn mong ước trở thành lănh tụ đă nhảy ra
cầm đầu họ rồi trở thành đoàn lữ hành khổng lồ bỏ đi trong sự công
phẩn đầy đức hạnh. Họ lang thang quanh vùng bờ biển vịnh Aden lên
măi tới bờ biển Hồng Hải rồi rốt cuộc t́m đường đi vào lănh thổ Ai
Cập. Câu chuyện ly kỳ của họ đâm ra làm đẹp ḷng vua Pharaon vào
thời đó và nhà vua cấp cho họ một khoảnh đất ngoại biên vương quốc
của ḿnh nếu họ muốn định cư ở đó. Họ chấp nhận và sống an b́nh ở đó
cũng được tới mấy thế kỷ, thịnh vượng nhờ được chính quyền Ai Cập ưu
đăi nhưng tuyệt nhiên không phối giống với dân Ai Cập.
Cuối cùng th́ vị Pharaon nào đó lại yêu cầu họ phải đóng thêm thuế
và lao động khổ sai thêm nữa, cho nên họ coi đó là việc vi phạm đặc
quyền đặc lợi của ḿnh; thế là một lần nữa họ lại lũ lượt kéo nhau
di cư, lần này định cư ở xứ Palestine, nơi ta gọi họ là dân Do Thái
v́ họ vẫn c̣n chủ trương mạnh mẽ hơn bao giờ hết các thuyết cho rằng
họ là một dân tộc được tuyển lựa.
Nhưng đa số bị bỏ mặc ở lại xứ Somali cũng có những cuộc phiêu lưu.
Giờ đây do việc mua bán nô lệ, các bộ tộc dân bản xứ đâm ra biết họ
nhiều hơn, trước kia người ta luôn luôn giữ cho họ ở bên ngoài biên
cương của ḿnh th́ người dă man ngộ ra được rằng có thể đoạt được
của cải bằng cách cướp bóc dân bán văn minh; thế là các bộ tộc bắt
đầu một loạt đợt tràn xuống vùng đất kiều dân, quấy nhiễu các kiều
dân đến nỗi sau khi chiến đấu nhiều năm tổn thất hàng ngàn sinh mạng
th́ họ thấy hết thập kỷ này sang thập kỷ khác lănh thổ của ḿnh càng
lúc càng teo tóp lại, cho nên họ quyết định bỏ xứ di cư một lần nữa
băng ngang qua vùng Vịnh để hồi cư về nơi quê cha đất tổ. Họ được
tiếp đăi một cách thân hữu và chẳng bao lâu sau đă hội nhập vào đại
khối dân chúng. Họ tự xưng là những ‘người Ả Rập chân chính’ mặc dù
họ ít xứng đáng với tước hiệu này hơn ai hết. Măi cho tới ngày nay
vẫn có truyền thuyết cho rằng những người Ả Rập chân chính đổ bộ lên
Aden rồi từ từ lan tràn về phương Bắc; măi cho tới ngày nay, trong
đám người Ả Rập Hamyaritic ở bộ phận phía Nam xứ này ta vẫn có thể
thấy được những dự tính không phai nḥa của sự pha trộn ḍng máu da
đen cách đây nhiều ngàn năm; măi cho tới ngày nay, ta vẫn có thể
nghe thấy huyền thoại về người Mostareb tức là người Ả Rập tự phát ở
nửa vùng đất phương Bắc bỏ xứ đi biệt trong một thời gian dài xâm
nhập vào Á châu đă vượt qua Ba Tư xa thăm thẳm, rồi trở lại mang
theo ḿnh nhiều dấu tích của việc kiều ngụ nơi xứ ngoại lai.
Phân chủng thứ nh́ tăng trưởng và gia tăng dân số cực kỳ thịnh vượng
trong nhiều ngàn năm, mở rộng quyền cai trị trên hầu khắp lănh thổ
Phi châu ngoại trừ bộ phận nằm trong tay người Ai Cập. Măi về sau
này họ mới xâm lược Ai Cập một lần nữa và trong một thời gian ngắn
cai trị dưới dạng các vị vua Hyksos, nhưng họ đạt được thời oanh
liệt là khi cai trị đảo lớn Algeria, tiện đường đi xuống bờ biển
phía Đông tới tận chính mũi Hăo vọng và lập nên vương quốc bao gồm
tất cả quận Matabeleland, Transvaal và Lorenzo Marques.
Đoàn người tiên phong của chúng ta sau khi sinh nở nhiều lần nơi xứ
Ả Rập cũng tham gia vào việc xây dựng Đế quốc Nam phi này, và chúng
tôi thấy Mars làm vua ở đó cùng với Herakles trung thành cai trị
tỉnh dưới quyền Mars. Sirius cũng sinh ra ở Mashonaland nơi ông cưới
Alcyone và trong đám những người nô bộc da đen ta thấy có cô gái
nàng hầu trung thành trong nhiều kiếp là Boreas. Phong cảnh ở
Matabelaland rất đẹp, có những thung lũng đầy kỳ hoa dị thảo và rải
rác những đoàn linh dương. Các đô thị lớn đều xây dựng theo loại
h́nh khổng lồ được ưa chuộng với những Đền thờ khổng lồ và nền văn
minh được từ từ kiến tạo tuyệt nhiên không phải là vô giá trị. Nhưng
vực sâu ngăn cách giữa hai dân tộc người Phi châu bản xứ và người Ả
Rập đi chinh phục thật là một trời một vực, cho nên không thể bắc
cầu vượt qua được; thế là người Phi châu vẫn cày ruộng và làm gia
nhân, hoàn toàn phải phục tùng. Người Ả Rập cũng định cư ở bờ biển
phía Tây của Phi châu, nhưng ở đó họ đâm ra đụng độ với những người
gốc ở đảo Poseidonis và rổt cuộc bị đẩy lùi hoàn toàn. Madagascar bị
xâm lược, Đế quốc phương Nam ra sức chiếm đóng Madagascar, nhưng chỉ
thành công duy tŕ được một thời gian việc định cư ở những bộ phận
khác nhau trên bờ biển.
Khi Đế quốc vĩ đại Sumero Akkad ở Ba Tư, Mesopotamia và Turkestan
cuối cùng phân ly thành ra các quốc gia nhỏ rồi loạn lạc th́ một vị
vua Ả Rập bạo dạng nảy ra ư tái thống nhất nó dưới quyền lănh đạo
của chính ḿnh. Y cầm quân đi chinh chiến và sau 20 năm chiến đấu
gian khổ đă làm chủ được vùng đồng bằng Mesopotamia và hầu khắp xứ
Ba Tư măi tới vùng hồ muối lớn ở Khorasan, nơi hiện nay là sa mạc.
Nhưng y không thể chinh phục được xứ Kurdistan và cũng không thể
chinh phục được các bộ lạc vùng sơn cước vốn quấy nhiễu quân đội của
y dọc đường. Thế rồi y cũng từ trần và con y lên nối ngôi đă khôn
ngoan quyết định nên củng cố Đế quốc hơn là bành trướng lănh thổ. Đế
quốc thống nhất được vài thế kỷ và có thể trường tồn lâu hơn, nhưng
do sự kiện triều đ́nh bị loạn lạc bùng nổ trong chính xứ Ả Rập, cho
nên vị Thống đốc ở Ba Tư vốn là cháu của vua Ả Rập bèn chớp lấy thời
cơ tuyên bố độc lập. Thế là triều đại Ả Rập mà y lập nên chỉ kéo dài
được 200 năm trong bối cảnh chiến tranh triền miên; rồi lại tới thời
kỳ nổi loạn của các bộ tộc nhỏ, những cuộc bố ráp thường xuyên của
đám dân du mục dă man vùng Trung Á vốn đóng một vai tṛ nổi bật xiết
bao trong lịch sử vùng ấy. Một vị vua Ả Rập nghe lời dụ dỗ của những
bản phúc tŕnh nói về sự giàu có hoang đường của xứ Ấn Độ, đă phái
một hạm đội băng ngang qua biển để tấn công Ấn Độ, nhưng y đă thảm
bại v́ hạm đội bị nhanh chóng tiêu diệt, quân lính bị giết chết hoặc
bắt làm tù binh.
Sau khi Đế quốc Ả Rập ở Ba Tư và Chaldea cuối cùng bị sụp đổ th́ có
những thế kỷ vô chính quyền gây đổ máu và các xứ sở này đâm ra hầu
như không có dân ở, thế là Đức Bàn Cổ cuối cùng quyết tâm đến cứu họ
và biệt phái đến cho họ phân chủng thứ ba của ḿnh để lập nên đại Đế
quốc Ba Tư.
[[2]]
Họ đang thực hiện đi thực hiện lại điều họ đă từng làm nhiều
lần trước kia mở đường cho một loại h́nh mới, giống dân và
nền văn minh. Họ là những người tiên phong, lính công binh,
thợ đào mỏ và là một đạo quân tiên tiến do họ đă khai hoang
rừng rú, làm đường, bắc cầu vượt sông. Công việc này có thể
là bạc bẽo nhưng thật là cần thiết và thích hợp với nhiều
người.
HOME HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS