Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

 

vô minh

bẠch liên 

Đánh Máy: Hoàng- Điểm Dung

vô minh

bẠch liên 

đôi lỜi phi lỘ

          Trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời. Vị Huynh Trưởng khả kính của chúng tôi là Huynh BẠch Liên đă hết sức cố gắng sưu tầm những tài liệu và những dữ kiện xác thực để soạn thảo một số tác phẩm với mục đích giúp đỡ các bạn thanh thiếu niên có tâm hồn mến mộ Đạo đức thấy được phần nào Ánh Sáng của Chân Lư. Nhưng tiếc thay, công việc chưa hoàn thành th́ Huynh Trưởng của chúng tôi đă từ giả cuộc đời thế tục mà bước vào bên kia cơi giới Tinh Thần.

          Các tác phẩm được soạn thảo nhưng chưa kịp sửa chữa xong gồm có:

      1 – Đâu là chân lư  (Quyển 1, 2 và 3).

      2 – ChuyỆn PhẬt đỘ các nhẠc sư.

      3 – vô minh

      4 – giác ngỘ.

      5 – NhỮng chỖ khó khăn trong khoa minh triẾt thiêng liêng gỌi là Thông Thiên HỌc.

      (Trọn bộ 11 tập)

          Do đó, thật khó tránh khỏi những lỗi lầm, sơ sót c̣n rải rác trong các bản thảo viết tay. Ở một vài chỗ khó đọc, chúng tôi đă mạn phép hiệu chính câu văn cho phù hợp với cú pháp hiện dùng, trong khi vẫn cố gắng tôn trọng nội dung của bản văn. Kỳ dư toàn bộ các tác phẩm trên đều do Huynh Trưởng của chúng tôi biên soạn cho đến giờ phút sau cùng của Người.

          V́ vậy kính xin Chư Huynh Tỷ và Quí vị Đạo hữu cao minh niệm t́nh bỏ qua cho những sự sai sót nếu có, và chúng tôi rất vui ḷng đón nhận mọi lời chỉ giáo, mọi phê b́nh từ khắp nơi với một tinh thần sẵn sàng học hỏi.

          Ngoài ra chúng tôi cũng mượn đôi ḍng chữ này để bày tỏ ḷng biết ơn sâu xa đến quí vị hảo tâm, đă nồng nhiệt đóng góp công của và mọi phương tiện để cùng chúng tôi thực hiện việc truyền bá Chân Lư, một công việc vô cùng cao quí và hữu ích cho tất cả mọi người.

          Với ḷng thật thà, khiêm tốn, chúng ta – trong đó có các bạn nữa – hăy cùng hướng tâm hồn ḿnh đến các Đấng Cao Cả, tạ ơn các Ngài đă âm thầm, d́u dắt và hướng dẫn cho đàn em nhỏ dại đang tập làm cái công việc mà các Ngài đă làm tự ngh́n xưa.

          Cầu xin Ân Huệ của các Ngài ban xuống cho tất cả mọi người.

 

chi bỘ an giang, ngày 20 tháng 9 năm 1980

 

lỜi nói đẦu

          Từ ngàn xưa, tại hai Châu Lémurie và Atlantide,[1] Ai Cập, Ấn Độ, Trung Hoa trong những Đạo viện lớn đều có dạy một cách kín đáo khoa Triết học bí truyền cho những tín đồ đă được chọn lựa gắt gao về Hạnh kiểm, để đào tạo những vị Thánh Nhân, Hiền Triết sau thành những Đấng Cứu Thế.

          Khoa này giải rành rẽ về vũ trụ nhân sinh, xin kể vài điểm chính như sau đây:

       1      Lư do sinh hóa Thái Dương Hệ này.

       2      Cội rễ con người. V́ lư do nào con người sinh ra tại cơi Trần?

       3      Mục đích định sẵn cho con người trong Thái Dương Hệ này.

       4      Phương pháp biến đổi con người thành một vị Siêu Phàm trước ngày giờ đă định sẵn.

          Những vị đầu tiên đem khoa này ra dạy là những Đấng Cao Cả đă dự phần vào việc thành lập Thái Dương Hệ này. V́ thế không bao giờ có sự sai lầm. Từ đó mối Đạo truyền bá từ thế hệ này qua thế hệ kia cho tới ngày nay và mai sau nữa. Dù cho tới một ngày kia, đúng ngày giờ Thái Dương Hệ này tan ră, mối Đạo vẫn c̣n tồn tại với thời gian.

          Ngày nay các tôn giáo lớn đă mất Khoa Bí Truyền này gọi là Khoa Mật, chỉ c̣n Khoa Công Truyền gọi là Hiển mà thôi. Nhưng nó lại nhuộm màu ích kỷ, chia rẽ. Ấy tại con người quá say mê vật chất, quí trọng quá mức danh vọng, tiền tài, quyền thế, quên mất phần tinh thần, không lo trau giồi tâm tánh cho thật tốt đặng thọ lănh Chơn truyền. Con người bằng ḷng với số phận kiếp này, chứ không màng tới kiếp sau do nhân quả định đoạt.

          Tuy nhiên, Cơ Trời đă đinh sẵn, qua năm 1975, một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên Tinh Thần gọi là kỷ nguyên Huyền bí học sẽ mở màn.

          V́ vậy gần cuối thế kỷ 19, năm 1875 Thiên Đ́nh mới cho phép đem vài Chương đầu của Khoa Triết Học Bí Truyền phổ biến khắp thế gian đặng thức tỉnh quần chúng.

          Một bức màn vô minh vén lên, thiên hạ sẽ thấy thêm một chút ánh sáng hơn trước.

          Con người phải tự biết ḿnh là ai? Tại sao sinh ra ở cơi Trần và phải làm những điều ǵ cho hợp với Cơ Tiến Hóa cứ thúc đẩy con người đi tới măi, chứ không bao giờ lùi lại được.

          Tất cả những quyển tôi viết ra đều theo Khoa Minh Triết Cổ Truyền này. Thiết tưởng trong kỷ nguyên mới này nên làm sống lại Tứ Diệu Đề và Đạo Bát Chánh[2] là căn bản của Phật Pháp cả ngàn năm nay đă bị lăng quên v́ nước xa nguồn càng ngày càng hóa ra đục không c̣n được trong trẻo như xưa.

          V́ lư do nào?

          Nên biết rằng: Phật bỏ xác chưa được một tuần (có chỗ nói khoảng mười ngày) th́ mười tám Phái đă nổi lên công kích lẫn nhau. Phái nào cũng nói rằng ḿnh đă thọ lănh được Chơn truyền.

          Thế nên mới có hai lần Phật Giáo Hội Nghị đầu tiên, cách nhau hai mươi năm. Tới kỳ Kết tập lần thứ nh́, các vị Đệ tử lớn đều từ trần hết.

          Từ lúc Đức Phật nhập Niết Bàn cho tới khoảng 240 năm sau, Phật giáo chỉ được truyền khẩu mà thôi. Cứ Thầy truyền tṛ nối, từ thế hệ này qua thế hệ kia.

          Măi tới đời Vua A Dục (Asoka), sau khi quy y rồi, vua mới cho lập Phật Giáo Hội Nghị lần thứ ba khoảng 244 hay 242 trước Tây lịch kỷ nguyên đặng thống nhất Phật giáo.

          Người ta duyệt lại ba Tạng Kinh, sửa đổi nhiều chỗ rồi mới viết ra thành sách.

          Từ đó Kinh sách Phật giáo mới phát triển và Phật giáo chia ra làm hai phái: Đại Thừa và Tiểu Thừa.

          Trong ṿng 240 năm có không biết bao nhiêu chuyện thần thoại hoang tưởng, những tín ngưỡng dị đoan pha lẫn vào Kinh sách Phật rồi truyền đến ngày nay và v́ thế mới có quyển Kinh này phản đối quyển Kinh kia. Nếu không được Chơn truyền, chưa mở được trực giác th́ không thể nào phân biện được cái nào đúng với Chân lư, c̣n cái nào phải loại ra ngoài.

          Chắc chắn trong quyển Đâu Là Chân Lư có nhiều đoạn, nếu không phải là hầu hết, không hợp với những bạn nào xưa nay đă quen thuộc với Kinh kệ Công truyền tụng niệm hàng ngày. Có lẽ chúng cũng c̣n làm phật ư quí bạn đó nữa. Nhưng không có chi khó khăn. Đoạn nào quí bạn chấp nhận được th́ cứ đọc, c̣n chỗ nào quí bạn cho là kỳ lạ th́ để qua một bên. Vài tháng hay vài năm sau, giở ra xem lại, coi có chút ánh sáng nào hiện ra không?

          Trước khi phê phán, quí bạn nên suy nghĩ kỹ lưỡng và sâu xa v́ trong mọi việc đều có lư cao và lư thấp.

          Luôn luôn Chân lư hiện ra nhiều mặt, ở mỗi thời đại, một mặt khác, tùy theo tŕnh độ tiến hóa của dân chúng.

          Chân lư giống như một ngọn đèn ở trong cái lồng đèn có bốn mặt và bốn tấm kính màu xanh, đỏ, vàng, tím. Ngọn đèn hiện ra với màu đỏ, hoặc tím, hoặc vàng, hoặc xanh, tùy theo vị trí của người xem.

          Người học Đạo là người t́m ngọn đèn chứ không phải đứng xem tấm kính của lồng đèn rồi cho bạn ḿnh thấy sai, c̣n ḿnh th́ thấy đúng sự thật.

          Ở cơi Trần, tất cả đều tương đối, tới cơi Niết Bàn mới là tuyệt đối, không c̣n đen, không c̣n trắng, không c̣n tối, không c̣n sáng, không dữ, không lành.

          Trong quyển này, tôi chỉ tŕnh bày ư kiến của tôi về vài câu chuyện ghi chép trong Kinh sách Phật phổ biến bấy lâu nay mà tôi cho rằng vốn của người đời sau bịa đặt chứ không có thật, chúng hạ danh giá Đấng Chí Tôn xuống thấp, thay v́ nâng nó lên cao, như ư họ lầm tưởng.

          Tôi thấy trong Kinh này nói: Đức Phật dạy như vầy. C̣n trong Kinh kia cho rằng: Ông Sư này, ông Sư kia làm những điều này, những việc nọ.

          Tôi xin thanh minh rằng: Tôi không tin rằng mấy điều đó có thật v́ tác giả mấy quyển Kinh đó không phải sinh  đồng thời với Đức Phật hay là mấy ông Sư đó nên biết Đức Phật hay mấy ông Sư đó có nói hay có làm như vậy. Họ chỉ nghe truyền thuyết rồi viết ra theo ư nghĩ của họ và thêm bớt rất nhiều.

          Nhưng trong khi nói cảm tưởng của tôi, tôi phải kể tên ông Sư X hay ông Sư Y. Đây là sự bất đắc dĩ, xin quí bạn hiểu cho.

          V́ lẽ tôi mới kể ra trước đây, tôi mới đề tên quyển tôi viết: Đâu Là Chân Lư.

          Trong quyển Vô Minh tôi đă lập lại một cách vắn tắt và rơ ràng những điều tôi đă viết trong mấy quyển trước, bởi v́ chúng vẫn liên quan với nhau và rất cần thiết cho sự hiểu biết của độc giả, nhất là cho bạn nào mới xem quyển này chứ chưa thấy mấy quyển đó.

          Trong quyển Giác Ngộ, dưới vài bài có những sự nhận xét trùng với nhau v́ lẽ mấy bài này liên quan với nhau và phải có những sự nhận xét như thế mới hiểu rơ.

          Xin quí bạn hăy lượng thứ.

          Người học Đạo phải có đức tin, nhưng đức tin này là đức tin sáng suốt chứ không phải là đức tin mù quáng.

          Phải phá tan những bức màn vô minh che lấp Chân lư. Những bức màn đó là sự mê tín dị đoan. Xin quí bạn đọc bài Phải suy nghĩ sâu xa khi đọc những Kinh sách Phật.

          Trong đó tôi có chép những lời của Phật dạy những  người Kalama và đoạn: Đặc sắc của Phật giáo của Tỳ Khưu Jagadish, nói về ba Tạng Kinh. Chúng ta nên nghĩ rằng dù cho ba Tạng Kinh đi nữa, chúng được chép ra khoảng 240 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn. Làm sao dám chắc chúng chứa toàn là Chân lư mà không có sự thêm bớt của đời sau.

          Ngoài ba Tạng Kinh, c̣n những Kinh của đời sau đặt ra. Phải đề pḥng v́ nhiều quyển chứa đựng nhiều chuyện hoang đường, dị đoan làm độc giả thành ra mê tín và tin theo. Câu nào cũng cho là Phật ngôn mà sự thật là của họ đặt ra hay là nghe theo truyền thuyết rồi viết lại.

          Họ không ngờ rằng: nếu họ thuật lại không đúng với sự thật th́ họ phạm hai tội: vu cáo Phật và vọng ngữ v́ nói sai ngoa hại nhiều thế hệ sau nhắm mắt tin theo, không phân biệt được vàng, thau, ngọc, đá, mà sự thật Kinh kệ không khác nào những tấm bảng dựng bên lề đường để chỉ cho khách lữ hành phải theo lối nào ngay thẳng đặng mau tới chỗ và tránh khỏi hầm hố, chông gai và những cạm bẫy dựng lên dọc đường.

          Không phải ngồi tụng kinh măi mà được Đắc Đạo  làm một vị Siêu Phàm. Nhưng phải tụng kinh đặng ghi nhớ vào Trí những việc phải làm bởi v́ c̣n không biết bao nhiêu điều cần phải học hỏi và thực hành. Trước khi và sau khi được bước vào Cửa Đạo, từ kiếp này qua kiếp kia.Tụng Kinh c̣n một sự lợi ích khác nữa là rải những tư tưởng tốt lành lên không gian đặng giúp ích cho những người ở chung quanh trước nhất. Tuy nhiên, phải được những Kinh do những vị đă vào hàng Tứ Thánh viết ra chứ không phải những Kinh tầm thường, tác giả chưa phải là một vị đệ tử của Chơn Sư.

          Tôi viết quyển Đâu Là Chân Lư với hai mục đích:

          Mục đích thứ nhất: nhắc nhở quí bạn đừng quên rằng: Thật con người là Chơn Thần hay nói một cách dễ hiểu: Con người là Linh Hồn ở trong xác thân. Xác thân không phải thật là con người. Nó là một con ngựa để cho con người cưỡi để đi qua một quăng đường đời. Tới một ngày kia ta sẽ bỏ nó, rồi kiếp sau ta có con ngựa mới khác. Tại con người ngỡ xác thân là ḿnh nên đồng hóa với nó. Muôn ngàn tội lỗi đều do sự lầm lạc này gây ra.

          Nên biết con người sinh ra ở cơi Trần đặng học hỏi Cơ Tiến Hóa hầu đi mau tới bậc Siêu Phàm là mục đích đă định sẵn cho con người trong Thái Dương Hệ này.

          Mục đích thứ nh́: giúp quí bạn thấy rơ rằng Đạo Bát Chánh là con đường Trung Đạo, nó ở chính giữa thói xa hoa phóng túng và sự tu khổ hạnh. Nó dắt hành giả đi tới cơi Niết Bàn thành một vị Siêu Phàm thoát đọa luân hồi. Ít ai biết được mục đích cao siêu của nó, cứ đinh ninh rằng nó chỉ để khuyên người ta làm những việc lành, bỏ những việc dữ, chứ không có cái ǵ mới lạ. Nếu mục đích rất tầm thường th́ tại sao Phật thuyết pháp lần đầu tiên tại Sarnath trong vườn Lộc Dă Viên mà được gọi là Phật Chuyển Pháp Luân?

          Quí bạn suy nghĩ th́ rơ. Phải sống với Đạo Bát Chánh th́ mới thấy giá trị của nó lớn lao là bực nào. V́ theo lời của các vị thành Chánh quả đă nói th́ cái hậu quả c̣n kéo dài tới kiếp sau. Đây có nghĩa là bất cứ là ai cố gắng thực hiện tám lẽ Chánh th́ kiếp sau đầu thai lại th́ có sẵn những mầm của chúng nó trong ḿnh, chúng nó sẽ phát triển thêm.

          Vậy th́ cầu xin những quyển của tôi soạn ra giúp được quí bạn có một quan niệm đúng đắn về những lời Phật dạy thuở xưa, và hiểu được đôi chút về sự liên quan mật thiết giữa con người và vũ trụ, tức là Vũ trụ và Nhân sinh.

Lành thay! Lành thay!

Tự giác nhi giác tha!

Tự do tín ngưỡng – Tự do tư tưởng.

Một người Phật tử,

bẠch liên  phẠm ngỌc đa

53 Nguyễn đ́nh Chiểu

cHÂU ĐỐC

 

chương thỨ nhẤt

vô minh là ǵ?

          Vô Minh là không sáng suốt, c̣n tối tăm, dốt nát, mê muội. Từ ngàn xưa, các Tôn giáo lớn đều dùng hai chữ Vô Minh. Như Ấn giáo, chữ Avidya, Pháp dịch là Ignorance. C̣n Ai Cập giáo có nói về Vô Minh như sau đây:

          Trong quyển Pimandre, Hermès là đệ tử, c̣n Pimandre  là Thầy. Sau Hermès Đắc Đạo, Ngài khuyên con người như sau đây:         

          “Hỡi những người say sưa! Các anh chạy đi đâu? Các anh đă uống rượu Vô Minh, các anh chịu không nổi nên hất đổ nó rồi. Bây giờ hăy có tiết độ và hăy mở Tâm các anh nếu không được tất cả th́ ít ra ai có thể làm  được th́ làm, bởi v́ cái tai hại của Vô Minh đă lan tràn khắp cả Địa Cầu, nó cám dỗ Linh Hồn ở trong xác thân không cho vào Bến Giác. Hăy kiếm một người hoa tiêu đặng dắt các anh vào Cửa Đạo, nơi đó ánh sáng chiếu ra rực rỡ, không chút tối tăm, nơi đó không có ai say sưa, tất cả đều có tiết độ và hướng tâm hồn về Đấng Cao Cả muốn con người chiêm ngưỡng, Ngài là Đấng Phi Thường, Đấng Chí Tôn, không có cây viết nào diễn tả nổi, không thấy được bằng con mắt, nhưng thấy được bằng Tâm và Trí.”

(Hermès Trismégiste)

          Thường thường Phật giáo gọi Vô Minh là không biết Tứ Diệu Đề và Bát Chánh Đạo.

          Nhưng thực sự, Vô Minh là không biết Cơ Tiến Hóa. Không biết con người là ai? Sinh ra ở cơi Trần để làm ǵ?

          Muôn vàn tội lỗi đều do điều này mà sinh ra, cho nên Phật giáo mới bảo: Tự giác nhi giác tha. Ḿnh phải tự khai sáng cho ḿnh rồi, ḿnh mới khai sáng cho người khác được.

mỘt sỰ vô minh

mà chúng ta thưỜng phẠm hàng ngày

          Có một sự Vô Minh mà mỗi ngày con người đều phạm là đồng hóa với Xác Thân chúng ta. Ta nói: Tôi ăn, tôi uống, tôi ngủ, tôi mệt mỏi, tôi đau, tôi mạnh. Nhưng thực sự là xác thân ta ăn, xác thân ta uống, xác thân ta ngủ, xác thân ta đau, xác thân ta mạnh. Chứ thực sự con người là Linh Hồn trong Xác Thân, Linh Hồn đâu có ngủ nghê hay đau ốm bệnh hoạn. Xác thân là một khí cụ Trời sinh để cho ta dùng tại cơi Trần. Nó là con thú để cho ta cưỡi đặng đi qua một khoảng đường đời.

     Nói bao nhiêu đây cũng đă thấy: Chúng ta chưa tự biết ḿnh. Chúng ta cứ đinh ninh xác thân là ḿnh. C̣n không biết bao nhiêu điều khác nữa mà chúng ta cần phải học hỏi. Chúng ta đâu có ngờ: Chung quanh chúng ta có không biết bao nhiêu Luật Trời ngày đêm đang Hành Động. Tỷ như những Luật sau đây:           

       1     Luật Tiến Hóa.

       2     Luật Rung Động.

       3     Luật Động và Phản Động gọi là Luật Nhân Quả.

       4     Luật Luân Hồi.

       5     Luật Tư Tưởng.

       6     Luật Tiết Điệu.

       7     Luật Thăng Bằng.

       8     Luật Tuần Hoàn.

       9     Luật Thay H́nh Đổi Dạng.

     10     Luật Hy Sinh.

     11    Luật Di Truyền.

          C̣n nhiều Luật khác nữa, phải học hỏi cho rành rẽ chúng nó rồi áp dụng chúng nó vào đời sống hàng ngày, nghĩa là chúng ta phải tuân theo chúng nó mà đi tới th́ sẽ tiến mau. Nếu làm nghịch lại th́ chúng ta sẽ thất bại và sẽ bị mấy Luật đó nghiền nát tức bỏ mạng. 

VÀi sỰ vÔ minh khÁc nỮa

          C̣n vài sự Vô Minh khác nữa là:

          Con người chưa tự biết ḿnh là ai?

          Sinh ra ở cơi Trần để làm ǵ?

          Đây là hai điều quan trọng hơn hết mà trừ ra những người học Đạo th́ không ai biết cả. V́ vậy, con người sinh ra lớn lên lo học tập, lập thân danh, có gia đ́nh, làm những công việc thường ngày rồi chờ tới một ngày kia, nắm hai bàn tay trắng mà xuống mồ.

          Nếu kiếp sống con người chỉ có bao nhiêu đó thôi th́ nó rất vô vị và cuộc đời không có mục đích ǵ cả.

          Xin hỏi: Sau khi chết rồi con người sẽ ra sao? C̣n hay mất? Nếu c̣n, ở tại đâu? Kiếp sau con người có đầu thai lại thế gian nữa không? Tại sao có những người thông minh, những người dốt nát, những người hiền lương, những người  hung dữ, tánh t́nh khác nhau rất xa?

          Tại sao có những vị Thánh Nhân, Hiền Triết và những vị gọi là Tiên là Phật?

          Mấy vị ấy tiến hóa cách nào mà bây giờ tới được bậc đó?

Ở ngoài đời về mấy câu hỏi này chưa có lời giải đáp nào đúng với sự thật.

*

*    *

 

chương thỨ nh́

diỆt vô minh cách nào?

          Có hai cách:

          – Một là: Về phương diện lư thuyết.

          – Hai là: Về phương diện thực hành.

*

*     *

vỀ phương diỆn lư thuyẾt

         

Về phương diện này chúng ta phải học rành rẽ Vũ Trụ và Nhân Sinh. Vũ Trụ đây là Thái Dương Hệ của chúng ta chứ không phải là Vũ Trụ Càn Khôn vô biên vô tận.

          Về Nhân Sinh th́ phải biết:

          Con người là ai? Từ đâu đến? Xuống cơi Trần làm chi?

          Nếu khởi đầu giải về Thái Dương Hệ th́ chắc chắn những người mới mộ Đạo không hiểu nổi nhiều chỗ khó khăn. Thế nên, trước hết phải học hỏi Nhân Sinh, v́ điều này có thể dễ hiểu hơn.

*

*     *

con ngưỜi là ai? tỪ đâu đẾn?

xuỐng cơi trẦn làm chi?

          Một khi con người tự biết ḿnh rồi th́ sẽ biết được Vũ Trụ và các Vị Thượng Đế.

          1 – Con người là ai?

          Ở đây tôi phải lập lại một lần nữa những điều tôi đă nói về cội rễ con người trong những quyển tôi đă viết trước đây.

          Thật con người là Chơn Thần, một Điểm Linh Quang của Đức Thái Dương Thượng Đế, có đủ những quyền năng như Ngài, song chúng c̣n tiềm tàng chứ chưa phát triển đầy đủ như Ngài vậy.

          2 – Con người từ đâu đến?

          Con người hay là Chơn Thần ở tại cơi Đại Niết Bàn (Paranirvana ou Anupadaka).

          3 – Con người xuống cơi Trần làm chi?

          Con người xuống cơi Trần đặng học hỏi Cơ Tiến Hóa.

          Mục đích đă định sẵn cho con người tại Thái Dương Hệ này là: Khi sự tiến hóa của Dăy Địa Cầu này chấm dứt th́ con người thành một vị Siêu Phàm, toàn năng toàn thiện, không có cái chi phải học hỏi nữa. Phật giáo gọi là A Sơ Ca (Asekha), Tàu dịch là Vô Học, chúng ta gọi là Chơn Tiên.

          Mà sự tiến hóa không chấm dứt ở đây. Vị Chơn Tiên càng ngày càng tiến lên nhiều cấp bậc cao hơn nữa.

          Rồi tới một ngày kia không biết đúng là bao nhiêu tỷ năm nữa, vị Chơn Tiên sẽ thành một vị Thái Dương Thượng Đế và sẽ tạo lập một Tiểu Vũ Trụ khác giống như Thái Dương Hệ này vậy, cũng có Mặt Trời, Mặt Trăng, các Dăy Hành Tinh, các Cơi Trời và nhân vật trên mấy cơi đó.

          Cơi Trần là cơi tạm mà cũng là một Trường học lớn. Mỗi kiếp ta có nhiều bài học khác nhau, phải học cho thật thuộc, đặng sau khỏi phải học lại. Chừng nào hết chương tŕnh th́ tới chừng đó mới thoát đọa Luân Hồi.

con ngưỜi tẠi cơi trẦn

có phẢi là Chơn ThẦn (Monade) không?

          Thế th́ con người sinh ra tại cơi Trần là Chơn Thần?

          Không. Không phải là Chơn Thần mà là Phàm Nhơn đại diện cho Chơn Thần. Điều này rất kỳ lạ, phải nói về Ba Ngôi của con người mới hiểu được.

sỰ sinh ra chơn nhơn

(ego – soi supérieur)

          Chơn Thần ở tại cơi Đại Niết Bàn, Chơn Thần không thể xuống thấp được, bởi v́ càng xuống thấp chất khí càng nặng nề, Chơn Thần khó hoạt động được dễ dàng. V́ thế, Chơn Thần mới sinh ra Chơn Nhơn để thay thế ḿnh đặng học hỏi ở Ba cơi kế dưới là:

          1 – Cơi Niết Bàn (Nirvana ou Plan Atmique).

          2 – Cơi Bồ Đề (Plan Bouddhique).

          3 – Cơi Thượng Thiên (Plan Mental supérieur ou Monde Céleste supérieur).

phàm nhơn

(soi inférieur – personnalité)

          Chơn Nhơn lại sinh ra Phàm Nhơn để đại diện cho ḿnh đặng hoạt động ở 3 cơi chót là:

          4 – Cơi Hạ Thiên (Plan Mental inférieur).

          5 – Cơi Trung Giới hay cơi Tinh Quang (Plan Astral).

          6 – Cơi Hạ Giới hay là cơi Hồng Trần (Plan Physique).

          Chơn Thần, Chơn Nhơn và Phàm Nhơn là Ba Ngôi của con người.

          Con người trên thế gian là Phàm Nhơn nhập vào Bốn Thể thường dùng hàng ngày là:

         1     Xác Thân để hoạt động.

        2    Cái Phách để chuyển di sinh lực Prana khắp châu thân đặng nuôi dưỡng các tế bào và làm chúng liền lại với nhau.

         3     Cái Vía để biểu hiện ư muốn và t́nh cảm.

         4     Hạ Trí để học hỏi, phân biện, xét đoán, ghi nhớ, tưởng tượng.

phàm nhơn Ở trong ḿnh tẠi chỖ nào?

          Tùy theo giống dân và Cung mạng, Ngôi sao này không phải ở tại Luân xa gần trái tim mà ở chỗ khác.

          Tỷ như: Người da trắng bây giờ thuộc về Nhánh thứ Tư và thứ Năm của Giống dân thứ Năm, th́ Ngôi sao này ở trong đầu, gần hạch mũi (Corps pituitaire).

          Muốn thấy được Chơn Nhơn th́ phải tu hành tới bậc La Hán và mở được Huệ Nhăn.

          Muốn thấy được Chơn Thần th́ phải là một vị Siêu Phàm dùng được Tối Thượng Huệ Nhăn.

*

*    *

  

chương thỨ ba

bỐn thỂ hư hoẠi

          Bốn Thể thường dùng hàng ngày là: Xác Thân, Phách, Vía, Hạ Trí.

          Sau khi con người chết rồi một ít lâu, th́ chúng nó tan ră lần lần ra những nguyên tử đă cấu tạo chúng nó.

          Kiếp sau khi đi đầu thai, con người sẽ có 4 Thể mới. Tuy mới mà cũ bởi v́ bản tánh của chúng nó là bản tánh của 4 Thể kiếp trước. Đây là do theo Luật Nhân Quả, chứ không có chi gọi là lạ. Kiếp này là kết quả của kiếp trước, c̣n kiếp sau là kết quả của kiếp này.

          Bởi v́ 4 Thể trên đây chỉ dùng được có một đời mà thôi, cho nên chúng nó là những Thể Hư Hoại.

ba thỂ trưỜng tỒn

          Ngoài 4 Thể này, con người có 3 Thể nữa là:

          5 –  Thượng Trí hay là Nhân Thể để sinh ra những tư tưởng trừu tượng, vô h́nh. Gọi nó là Nhân Thể là v́ nó chứa đựng những nguyên nhân ngày sau sinh ra những hậu quả.

          6 –  Kim Thân hay là Thể Bồ Đề là Thể Trực Giác.

          7 –  Tiên Thể hay là Thể Thiêng Liêng Đại Đồng.

          Ba Thể này theo con người từ kiếp này qua kiếp kia cho tới chừng nào con người thành một vị Siêu Phàm. V́ vậy con người gọi chúng nó là những Thể Trường Tồn. Nhưng tương đối trường tồn chứ không phải tuyệt đối, bởi v́ sau khi thành Chánh quả, vị Siêu Phàm có thể giữ chúng nó lại hay là bỏ chúng nó, tùy theo con đường Ngài theo đuổi.

ai niỆm PhẬt?

          Một nhà Sư niệm Phật rồi hỏi: “Ai niệm Phật? Ai niệm Phật?”

          Ấy là Phàm Nhơn niệm Phật, chứ không có ai vô đó cả. Nhà Sư hỏi như thế cũng khá lắm rồi.

 

*

*    * 

chương thỨ tư

tẠi sao con ngưỜi có nhiỀu thỂ?

          Tại sao con người có 7 Thể, nhiều quá vậy? Và điều này tưởng phải giải nghĩa cho rành rẽ mới được.

          Trước đây tôi có nói: Con người ngày sau sẽ thành một vị Thái Dương Thượng Đế và sẽ sinh hóa một Tiểu Vũ Trụ khác giống như Thái Dương Hệ này vậy, cũng có Mặt Trời, Mặt Trăng, 7 cơi, những Dăy Hành Tinh, con người và loài vật.

          7 Thể con người để dùng học hỏi 5 cơi Trời, từ cơi Trần cho tới cơi Niết Bàn:

          1 – 2 – Xác Thân và Cái Phách để học hỏi và hoạt động tại Cơi Trần.

          3 –   Cái Vía để học hỏi và hoạt động tại cơi Trung Giới.

          4 –   Hạ Trí để học hỏi và hoạt động tại cơi Hạ Thiên.

          5 –   Thượng Trí hay là Nhân Thể để học hỏi và hoạt động tại cơi Thượng Thiên.

          6 –  Kim Thân hay là Thể Bồ Đề để học hỏi và hoạt động tại cơi Bồ Đề.

          7 –   Tiên Thể để học hỏi và hoạt động tại cơi Niết Bàn.

 

tẠi sao 7 thỂ

chỈ dùng trong 5 cơi mà thôi?

          Bởi Cái Trí con người chia ra làm hai phần: Hạ Trí và Thượng Trí.

          C̣n cơi Thượng Giới hay là cơi Trí Tuệ (Plan Mental) vẫn chia ra làm hai:

          Cơi Thượng Thiên là 3 cảnh cao của cơi Trí Tuệ gồm: Cảnh  thứ Nhất, cảnh thứ Nh́ và cảnh thứ Ba.

          Cơi Thượng Thiên (Aroupa) là cơi vô h́nh bởi v́ tại đây tư tưởng xẹt ra từng làn chứ không có h́nh dạng như ở mấy cơi dưới.

          Phật giáo gọi cơi Thượng Thiên là: Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên. Cơi Hạ Thiên (Roupa) gồm 4 cảnh chót của cơi Trí Tuệ là cảnh thứ Tư, cảnh thứ Năm, cảnh thứ Sáu và cảnh thứ Bảy.

          Thế th́, hai cơi Thượng Thiên và Hạ Thiên nhập lại làm ra cơi Thượng Giới hay là cơi Trí Tuệ.

v́ lư do nào con ngưỜi

phẢi hỌc hỎi 5 cơi trỜi?

          Bây giờ ta nên biết: V́ lư do nào con người phải học hỏi 5 cơi Trời?

          Nếu con người không biết 5 cơi này ra thế nào th́ làm sao tạo lập chúng nó được khi thành một vị Thái Dương Thượng Đế. Thế nên sự học hỏi 5 cơi là điều cần thiết và rất quan trọng.

nhỜ cái ǵ mà con ngưỜi

hỌc hỎi đưỢc 5 cơi trỜi?

          Bây giờ, ta phải đề cập đến vấn đề: Nhờ cái ǵ mà con người học hỏi được 5 cơi Trời?

          Phải học hỏi rành rẽ phận sự mỗi thể của con người, chúng ta mới thấy Đấng Tạo Công chu đáo là dường nào! Ta hăy thử nghĩ điều này: Nếu sinh ra ở cơi Phàm, không có cặp mắt th́ ta là một người đui mù, ta không thấy những sự vật ở chung quanh ta, làm sao ta học hỏi chúng được v́ ta có biết chúng nó ra sao đâu.

          Thế nên, Đấng Tạo Hóa mới cho mỗi Thể của con người có một quan để thấy đặng học hỏi một cơi. Cơi nào con mắt nấy. Một quan đó là:

          Con mắt phàm – Nhăn quan của Cái Phách – Thần Nhăn – Thiên Nhăn – Huệ Nhăn – Tối Thượng Huệ Nhăn.

1 – cơi phàm và con mẮt phàm

          Cơi Phàm làm bằng một chất khí căn bản gọi là Hồng Trần (Matière physique). Chất Hồng Trần chia ra làm 7 chất nhỏ nữa, mỗi chất làm ra một cảnh (Sous plan). Thế nên cơi Trần có 7 cảnh (Xin nói tóm tắt là: 7 cơi Trời, cơi nào cũng chia ra làm 7 cảnh khác nhau).

             Cảnh thứ Nhất của cơi Hồng Trần làm bằng chất Dĩ Thái Hồng Trần thứ Nhất (Ether 1er).

            Cảnh thứ Nh́ của cơi Hồng Trần làm bằng chất Dĩ Thái Hồng Trần thứ Nh́ (Ether 2è).

            Cảnh thứ Ba của cơi Hồng Trần làm bằng chất Dĩ Thái Hồng Trần thứ Ba (Ether 3è).

            Cảnh thứ Tư của cơi Hồng Trần làm bằng chất Dĩ Thái Hồng Trần thứ Tư (Ether 4è).

            Cảnh thứ Năm là cảnh chất hơi (Không khí).

            Cảnh thứ Sáu là cảnh của chất lỏng (Nước).

            Cảnh thứ Bảy là cảnh của chất đặc (Đất cát).

          Xác phàm làm bằng 3 chất Hồng Trần chót là: Chất đặc, chất lỏng và chất hơi. Cho nên con mắt phàm chỉ để xem những việc xảy ra ở 3 cảnh này mà thôi.

2 – cái phách và nhăn quan cỦa cái phách

(clairvoyance éthérique)

          Cái Phách làm bằng 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần. Nên biết, chất Dĩ Thái mịn hơn chất đặc, chất lỏng và chất hơi, nó chun thấu qua ba chất này, nên con mắt phàm không thấy Cái Phách và 4 cảnh Dĩ Thái được.

          Tuy nhiên, Trời cho Cái Phách có một quan, khi luyện tập cho nó mở ra rồi th́ con người thấy được 4 cảnh Dĩ Thái và nhân vật 4 cảnh đó. Nói rằng một quan như một con mắt cho dễ hiểu, chứ kỳ thật nó giống h́nh một cái đĩa quay tṛn giữa hai chơn mày Tiếng Phạn gọi là Charka.

          Có nhăn quan của Cái Phách Th́ Thấy được:

          1     Bốn cảnh Dĩ Thái.

          2      Những vật để cách vách, dù cho vách đó làm bằng ván, bằng gạch, bằng đá háy bằng sắt.

          3     Những vật để dưới đất cái.

          4     Những Tinh Linh hay Ngũ Hành thân ḿnh làm bằng chất Dĩ Thái. Có nhiều loại mà người ta nói đến là những Fê (fées).[3]

          Những Tinh Linh ở trong đất gọi là Thổ Thần (Gnomes).

          Những Tinh Linh ở trong nước gọi là Thủy Thần (Ondines). Những Tinh Linh ở trong lửa gọi là Hỏa Thần (Salamandres).

          Họ ở trong đất, trong đá, trong nước, trong lửa, trong không khí. Họ có nhiệm vụ phải thi hành cho Thiên Cơ khác hơn con người.

3 – cái vía và thẦn nhăn

(clairvoyance astrale)

          Cái Vía làm bằng 7 chất của cơi Trung Giới gọi là chất Thanh Khí hay là chất Tinh Quang (Matière astrale).

          Cái Vía có một Luân Xa ở chính giữa hai chơn mày. Luân Xa này mở ra th́ con người có Thần Nhăn. Nhưng phải nói thêm rằng Hạch Mũi (Corps pituitaire) làm trung gian giữa Cái Vía và cái óc xác thịt. Khi Luân Xa mở ra rồi và Hạch Mũi phải hoạt động, con người mới dùng Thần Nhăn được. C̣n như Hạch Mũi nằm im ĺm, dù cho Luân Xa mở ra, con người vẫn chưa có Thần Nhăn.

          Người có Thần Nhăn thấy được:

          1 –   Cơi Trung Giới.

          2 –   Các Hạng Thiên Thần ở tại cơi đó gọi là Kama Dévas.

          3 –   Nhiều Phái Huyền bí học. Phái th́ theo Chánh Đạo, Phái th́ theo Tà Đạo và cũng có một Phái nửa Tà nửa Chánh, nghĩa là họ giúp người cũng được mà hại người th́ cũng không từ nan.

          4 – Những h́nh tư tưởng của ư muốn và t́nh cảm.

          5 –   Hồn người chết và Hồn người sống đang ngủ. Lúc Cái Vía xuất ra và qua cơi Trung Giới. Chừng về nhập xác, con người thức dậy.

          6 –   Những Tinh Linh thân h́nh làm bằng chất Tinh Quang.

          7     Những Tinh Chất thứ Ba (3è Essence élémen-tale), có tới 2.401 thứ Tinh Chất (Elémentals). Chúng thay h́nh đổi dạng liền liền, cũng chớ nên tưởng rằng hễ có Thần Nhăn th́ dùng được liền.

          Một trăm lần đầu tiên nói sai hết chín mươi chín lần. Phải nhờ một vị Đại Sư Huynh tới bậc La Hán chỉ bảo cặn kẽ mới hết sự lầm lạc.

          Ngày nay nhân loại tiến tới mức độ khá cao, nhiều người có Thần Nhăn song c̣n ở bậc thấp.

          Có nhiều cách luyện Thần Nhăn, duy có phương pháp mở luồng Hoả Hầu (Kundalini) là cao hơn hết mà cũng nguy hiểm hơn hết.

4 – hẠ trí và hẠ thiên nhăn

(clairvoyance mentale inférieure)

          Ngày nay, ngoại trừ các vị Cao đồ của Chơn Sư đă vào hàng Tứ Thánh, th́ ngoài đời, chưa có một ai có Thiên Nhăn.

          Từ Thiên Nhăn sắp lên, không có sự tiết lộ nhiều, chỉ nói tổng quát thôi.

          Hạ Trí cấu tạo bằng bốn chất Trí Tuệ (Matière mentale) thấp hơn hết là chất thứ Tư, chất thứ Năm, chất thứ Sáu và chất thứ Bảy. Chúng làm ra 4 cảnh chót của cơi Thượng Giới gọi là cơi Hạ Thiên (Plan inférieur ou Ciel inférieur). Cơi Hạ Thiên là cơi Thiên Đàng của người Trần thế.

          Hạ Trí có một Luân Xa, mở ra rồi th́ con người có Hạ Thiên Nhăn. Nhưng phải nói thêm rằng Hạch óc liên quan mật thiết với Luân Xa này và làm trung gian giữa Hạ Trí và bộ óc. Nó phải hoạt động, con người mới dùng được Ha Thiên Nhăn.

          Có Hạ Thiên Nhăn th́ thấy được:

     1     Cơi Hạ Thiên.

     2     Các Đại Thiên Thần thuộc về Hạng Sắc Giới (Roupa Dévas).

     3     Tiên Thánh và các Đệ tử.

     4     Tinh Chất thứ Nh́ (2è Essence élémentale).

     5     Hồn người chết khi bỏ cơi Trung Giới lên Thiên Đàng.

     6     Hồn thú vật sắp có cá tính.

     7     Những h́nh tư tưởng thuần tuư v.v. . . .

5 – thưỢng trí và thưỢng thiên nhăn

(clairvoyance mentale supérieure)

          Thượng Trí hay là Nhân Thể cấu tạo bằng 3 chất Trí Tuệ (cũng gọi là Thượng Thanh Khí) cao hơn hết của cơi Trí Tuệ là cơi Thượng Giới. Chúng làm ra cảnh thứ Nhất, cảnh thứ Nh́ và cảnh thứ Ba của cơi Thượng Giới. Ba cảnh này nhập chung gọi là cơi Thượng Thiên (Plan mental supérieur ou Monde Céleste supérieur). Cơi này là quê hương của Chơn Nhơn.

          Có Thượng Thiên Nhăn Th́ thấy được:

          1     Cơi Thượng Thiên.

          2 –   Các Đại Thiên Thần thuộc về Hạng Vô Sắc Giới (Aroupa Dévas).

          3 –   Tiên Thánh và các Đệ tử.

          4 –     Những vị Chơn Nhơn tức là 60 ngàn triệu Linh Hồn đều có mặt tại đây, v́ số dân chúng trên Dăy Địa Cầu là 60 tỷ. Họ xuống Trần từng đợt, hết đợi này đến đợt kia chứ không phải xuống một lượt.

          5 –   Tinh Chất thứ Nhất (1ere Essence élémentale).

6 – kim thân hay là thỂ bỒ đỀ và HuỆ nhăn

(claivoyance bouddhique)

          Kim Thân hay là Thể Bồ Đề cấu tạo bằng 7 chất khí làm ra cơi Bồ Đề cũng gọi là Thái Thanh Khí.

          Nhăn quan của Thể Bồ Đề gọi là Huệ Nhăn.

          Có Huệ Nhăn th́ thấy:

          1 –   Cơi Bồ Đề.

          2 –   Các Đại Thiên Thần.

          3 –   Tiên Thánh và các bậc Đệ tử tới bậc La Hán v.v. . . .

          Phải tu hành tới bậc La Hán mới sử dụng được Huệ Nhăn.

7 – tiên thỂ và tỐi thưỢng huỆ nhăn

(corps atmique et vision atmique)

          Tiên Thể hay là Thể Atma (Corps Atmique) làm bằng 7 chất khí đă cấu tạo ra cơi Niết Bàn (Nirvana).

          Phải tu hành tới bậc Siêu Phàm gọi là Chơn Tiên (Asekha) mới ở vĩnh viễn được tại cơi Niết Bàn và biết nó ra sao.

          Con người không có ngôn ngữ để diễn tả những điều đă thấy ở cơi Trung Giới, nói chi tới cơi Niết Bàn.

          Những vị La Hán sau nhiều năm luyện tập vào được cơi Niết Bàn đặng học hỏi. Các Ngài cũng không thể thuật lại rành rẽ những điều đă nhận xét.

con ngưỜi là tiỂu thiên địa

          Tới đây mới giải v́ sao kinh sách xưa gọi con người là Tiểu Thiên Địa.

ba ngôi cỦa ĐỨc ThưỢng ĐẾ

          Theo Ấn giáo th́ Đức Thượng Đế phân làm 3 Ngôi:

          1 –   Ngôi thứ Nhất là brahma – Phạm Vương –

          2 –   Ngôi thứ Nh́ là vishnou – Quích Nu –

          3 –   Ngôi thứ Ba là shiva – Si Hoa –

          Theo Thiên Chúa giáo:

          1 –   Ngôi thứ Nhất là ĐỨc Chúa Cha – Dieu, Le Père –

          2 –   Ngôi thứ Nh́ là ĐỨc Chúa Con – Dieu, Le   Fils –

          3 –   Ngôi thứ Ba là ĐỨc Chúa Thánh ThẦN – Dieu, Le Saint Esprit –

ba ngôi cỦa con ngưỜi

          Con người là một Tiểu Thượng Đế, nên cũng phân làm Ba Ngôi như Cha ḿnh:

          1     Ngôi thứ Nhất là Chơn Thần – Monade –

          2     Ngôi thứ Nh́ là Chơn Nhơn – Égo, Soi Supérieur –

          3     Ngôi thứ Ba là Phàm Nhơn – Personnalité, Soi inférieur –

          Con người có 7 Thể. Bảy Thể này do các chất khí đă tạo lập ra 5 cơi Trời, từ cơi Niết Bàn cho tới cơi Phàm cấu tạo nên.

          Bởi v́ con người là một vị Tiểu Thượng Đế và trong ḿnh có đủ các chất khí đă tạo lập Tiểu Vũ Trụ của chúng ta, cho nên người xưa nói: Con người là Tiểu Thiên Địa.

          Ngày nào con người tu hành và làm chủ được 7 Thể của ḿnh th́ con người làm chủ được từ cơi Trần cho tới cơi Niết Bàn. Con người sẽ thành một vị Siêu Phàm.

          Thế nên, hăy t́m Đạo trong ḿnh chúng ta, đừng t́m Đạo ở ngoài. Quả thật, ở khắp mọi nơi, từ trên Trời xuống tới dưới đất đều có Đạo, song nó đầy đủ hơn ở trong ḿnh con người, khỏi đi t́m đâu xa cho thất công. Câu châm ngôn:

“Khi thí sinh sẵn sàng,

  Chơn Sư sẽ hiện đến.”

          Nếu Ngài bận việc th́ Ngài bảo một vị Đệ tử lớn tới chỉ dạy cho ta.

          Ai có kinh nghiệm rồi th́ biết điều này không bao giờ sai. Chỉ e một điều là ta chưa hội đủ những điều kiện cần thiết mà thôi. Có một việc mà tất cả các hàng Phật tử nên làm là: Lấy Đạo Bát Chánh làm một cái gương để soi ḿnh hàng ngày. Nếu bền chí và cố gắng sống như lời Phật đă dạy th́  sẽ lần lần vén lên được những bức màn Vô Minh, từ cái này tới cái kia.

*

*    * 

chương thỨ năm

tâm thỨc bỒ ĐỀ và tâm thỨc NiẾt Bàn

          Nhưng thiết tưởng người học Đạo cũng nên biết chút ít về Tâm Thức Bồ Đề và Tâm Thức Niết Bàn.

tâm thỨc bỒ đỀ hay LÀ bỒ đỀ tâm

(conscience bouddhique)

          Vị La Hán mở được Huệ Nhăn và sử dụng được Tâm Thức Bồ Đề hay là Bồ Đề Tâm.

          Đức Leadbeater là một vị La Hán. Ngài đă lên tới cơi Bồ Đề quan sát và học hỏi. Ngài có thuật những sự kinh nghiệm của Ngài về Bồ Đề Tâm trong quyển Giảng Lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo, qui tắc 5 - 8 và 21. Tôi xin chép vài đoạn đó ra đây cho quí bạn xem.

– I –

qui tẮc 5 - 8

          “. . . . Không có sự chia rẽ trên cơi Bồ Đề, nơi đây ở cảnh thấp hơn hết, những Tâm Thức không cần phải ḥa hợp với nhau, nhưng lại mở rộng ra từng bậc. Khi tiến tới cảnh cao nhất của cơi Bồ Đề và sau khi chúng ta tự mở mang trọn vẹn trong tất cả 7 cảnh của cơi này th́ chúng ta mới nhận thấy ḿnh vẫn là một với nhân loại. Ấy vậy kể từ tŕnh độ này mà sự chia rẽ mới hoàn toàn không có thật, c̣n sự hợp nhất có ư thức với tất cả vạn vật th́ thuộc về cơi trên của cơi đó tức là cơi Niết Bàn.

          Huynh hăy tưởng tượng rằng tất cả chúng ta đều có thể tự ḿnh phát triển một lượt Tâm Thức Bồ Đề (Bồ Đề Tâm). Mỗi người sẽ nhận thấy rằng ḿnh tiến lên cao tới cơi đó và Tâm Thức của y chứa đựng tất cả Tâm Thức của những kẻ khác, nhưng y sẽ luôn luôn biết rằng Tâm Thức của kẻ khác cũng là Tâm Thức của y nữa. Mỗi người trong chúng ta không mất cái ư niệm về cá tính của ḿnh, trái lại, cá tính này sẽ bành trướng như chưa bao giờ có điều đó vậy. H́nh như mỗi người cũng biểu lộ ra ở những kẻ khác. Kỳ thật cái Tâm Thức mà chúng ta hiểu biết được là Tâm Thức duy nhất mà tất cả chúng ta là những thành phần trong đó. Nó chính là cái Tâm Thức của Đức Thượng Đế vậy.”

– II –

          “. . . . Khi Thể Bồ Đề phát triển trọn vẹn trên 7 cảnh rồi mà chỉ lúc đó, con người mới làm chủ được toàn cơi Bồ Đề và có năng lực đồng hóa một cách mỹ măn với toàn thể nhân loại. Cái năng lực này giúp cho y biết được tư tưởng và tánh ư của tất cả mọi người.

          Trước khi đạt được Tâm Thức Bồ Đề, chúng ta có thể gắng sức làm giảm bớt cái ư niệm chia rẽ và nói về mặt trí thức th́ sự thành công to tát lắm, tuy nhiên chúng ta c̣n đứng ở bên ngoài, đó có nghĩa là chúng ta chưa biết được đồng loại ḿnh. Đối với chúng ta họ cũng c̣n là một sự bí mật tuyệt đối, bởi v́ đối với con người th́ con người là một sự bí mật to lớn nhất. Chúng ta có thể giao thiệp mật thiết trong một thời gian khá lâu với nhiều người, nhưng mà chúng ta không am hiểu tường tận. Có thể trước khi tới cảnh Bồ Đề không ai biết rành rẽ một người nào cả, nhưng sau khi lên tới cơi Bồ Đề rồi y có thể ḥa ḿnh vào Tâm Thức của những kẻ khác và biết rơ những việc làm của họ và lư do nào họ hành động theo thế này hay theo thế khác. Tại đó, vạn vật đều ở trong Tâm y, chứ không phải ở bên ngoài và y quan sát vạn vật cũng như quan sát những bộ phận của chính ḿnh y vậy. Ở thế gian th́ không thể làm như vậy được, nhưng cảm giác được bấy nhiêu cũng là đủ lắm rồi. Tất cả niềm vui vẻ, tất cả nỗi đau khổ của nhân loại cũng chính là niềm vui vẻ và nỗi khổ đau của y.”

– III –

QUI TẮC 21

          “. . . . Đặc điểm lớn lao của cơi Bồ Đề là hoạt động từ trong Tâm phát ra ngoài (Ly tâm lực). Nếu ta muốn bày tỏ thiện chí với người nào đó và hiểu biết họ trọn vẹn hầu giúp đỡ họ có hiệu quả th́ ta hoạt động trong Thượng Trí (Nhân Thể). Ta phóng ra một tia sáng như tia sáng của một ngọn đèn khí đá vào Nhân Thể của y (đây là nói một cách bóng dáng) rồi ta học hỏi những đặc tính, những cái riêng biệt của chúng nó rất rơ ràng và rất dễ xem xét, nhưng luôn luôn chúng ta thấy từ bên ngoài. Nếu chúng ta có năng lực Bồ Đề và muốn đạt được sự hiểu biết này th́ ta nên đem Tâm Thức ta lên cơi Bồ Đề và tại đó ta nhận thấy Tâm Thức của người mà ta muốn học hỏi là một thành phần của chúng ta. Tại đây, ta gặp trong Tâm Thức của ta, một điểm, có thể nói là một kẽ hở hơn là một điểm, nó tiêu biểu cho Tâm Thức của y, đây là mức độ thấp mà ta đă chọn lựa. Ta thấy tất cả mọi vật đúng như y đă thấy. Ta thấy chúng nó bằng cách ta vào ở trong Tâm y, thay v́ từ bên ngoài nhắm vào.

          Người ta hiểu dễ dàng rằng phương pháp này giúp chúng ta hiểu biết và có thiện cảm một cách trọn vẹn.

          Khi tầm mắt ta mở rộng nhờ sự hiểu biết mới mẻ này th́ tất cả những vấn đề liên hệ đến chúng nó trở thành một thành phần của chúng ta. Chúng ta học hỏi chúng nó từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài, chúng ta có thể nhất định điều khiển tinh lực của chúng ta theo chiều hướng nào. Đây là sự lợi ích lớn lao và rất mới mẻ. Chúng ta biết phải bàn đến những vấn đề dưới thế gian cách nào.

          Như vậy, chúng ta mới sử dụng được Bồ Đề Tâm chứ không phải chỉ nghe nói mà thôi.”

quyỀn năng cỦa Chơn Tiên (ASEKHA)

*

*     *

tỐi thưỢng huỆ nhăn (vision atmique)

tâm thỨc NiẾt Bàn (conscience atmique)

          Nói cho đúng, chúng ta chưa sử dụng được Tâm Thức Cái Vía mà nói đến Tối Thượng Huệ Nhăn và Tâm Thức Niết Bàn th́ không khiêm tốn chút nào. Nhưng ở đây, tôi chỉ lập lại những điều mà các vị La Hán đă có kinh nghiệm tại cơi Niết Bàn nói cho các em nhỏ nghe, chứ một đứa học tṛ lớp Nh́, lớp Ba mà nói tới sự hiểu biết của một Thạc sĩ, Tiến sĩ th́ làm tṛ cười cho những vị Tú tài, Cử nhân và tỏ ra ḿnh c̣n dốt đặc mà khoe ḿnh thông minh tót chúng.

          Xin lập lại một lần nữa câu châm ngôn khắc trên ngạch cửa Thánh điện Delphes: “Ngươi hăy tự biết ngươi rồi ngươi sẽ biết Vũ Trụ và các Vị Thượng Đế.”

sau đây là nhỮng đoẠn nói vỀ tâm thỨc NiẾt Bàn

          a – Chính là ở trên cơi Niết Bàn, chúng ta mới lănh hội Chân lư này (Tâm Thức của Đức Thượng Đế mà chúng ta là những thành phần) một cách sâu xa hơn hết. Tất cả điều ǵ ta tưởng là Tâm Thức của chúng ta, T́nh Thương của chúng ta, Trí Tuệ của chúng ta, th́ thật ra, Tâm Thức của Ngài, Trí Tuệ của Ngài, Sùng Tín của Ngài do chúng ta biểu hiện chút ít ở bên ngoài như một luồng ánh sáng đi qua thấu kính. Đối với con người, sự hiểu biết này không được toàn diện trên cơi Bồ Đề, nhưng nó trở nên toàn diện trên cơi Niết Bàn.

*

*     *

          b – Người ta nói đến sự an nghỉ ở cơi Niết Bàn, nhưng đứng về phương diện thấp thỏi mà thôi. Sức mạnh của khí lực mới là đặc tính của đời sống cao siêu này, khí lực quá cao diệu cho đến đỗi không thể lấy một thứ vận động thông thường nào mà giải thích được. Chính nó là một triều lưu vô biên, không có chi chống lại nổi. Ở dưới nh́n lên th́ nó như là một sự yên lặng, nhưng nó có nghĩa là Tâm Thức của quyền lực tuyệt đối. Không có danh từ nào để tŕnh bày tất cả những điều này.

          Đi đến đó chúng ta mới thắng phục được cây cỏ dại to lớn. Kẻ thù nguy hiểm của chúng ta tức là ư niệm chia rẽ.

          Tóm lại, đó là phận sự khó khăn hơn hết đang chờ đợi chúng ta, bởi v́ nó bao hàm tất cả.

*

*     *

          c – Các nhà học giả Âu Châu dịch nghĩa Nirvana là tiêu hủy, theo nghĩa một ngọn đèn cầy bị thổi tắt. Điều này trái hẳn với Chân lư.

          Nói cho đúng ấy là sự tiêu hủy tất cả những cái chi tiêu biểu cho con người, bởi v́ không c̣n con người nữa mà chỉ c̣n Đức Thượng Đế trong con người, một vị Thượng Đế ở giữa những vị Thượng Đế lớn hơn Ngài.

          Hăy tưởng tượng một Đại dương ánh sáng rực rỡ, linh động và chuyển động như thủy triều dâng lên không có chi ngăn cản được. Ánh sáng này tiến tới trên một cơi, không có sự tương đối, nó có một mục đích nếu ta có thể hiểu được điều đó. Thật ra không có đủ lời để diễn tả. Trong ánh sáng này, lại có những điểm sáng rơ hơn nữa. Lần lần chúng ta biết được những Mặt Trời phụ thuộc này là những Đấng Cao Cả như những vị Đại Thiên Thần, những Đấng Nam Tào, Bắc Đẩu, những vị Phật, những vị Bồ Tát, các Chơn Sư và những vị khác mà chúng ta không biết tên. Ánh sáng và sự sống xuyên qua các vị ấy mà ban rải cho chúng ta.

          Vào cơi Niết Bàn, trước nhất ta cảm thấy một sự an lạc tuyệt vời, một hạnh phúc vô biên.

          Con người không mất cá tính của ḿnh, mà c̣n hưởng được một sự sống cao thượng mới mẻ và tin chắc rằng có sự trường tồn bất diệt. Ở vào mức độ này, Chơn Thần vẫn c̣n bao phủ ḿnh bằng một bức màn, khó mà diễn tả được.

*

*     *

          d – Tâm Thức Niết Bàn của Chơn Sư.

          Tâm Thức của Chơn Sư là một điểm, nhưng nó chứa đựng toàn cơi Niết Bàn, nghĩa là toàn cơi Niết Bàn ở trong Tâm Thức này, không khác nào mênh mông đại hải đều chun vào một giọt nước biển, chứ không phải giọt nước biển mất trong Đại dương.

          Đây là một việc kỳ lạ, mâu thuẫn với nhau. Ở dưới Trần không ai tin được, nếu chưa phải là Đệ tử Chơn Sư.

          Chơn Sư đem Tâm Thức của Ngài xuống cơi Thượng Thiên rồi làm cho nó lớn ra bao trùm Thượng Trí của những người mà Ngài muốn giúp đỡ.

          Những cái chi tốt đẹp trong Thượng Trí này càng ngày càng khai mở rộng ra, không khác nào tia sáng Mặt Trời làm nảy nở những bông hoa phô bày hương sắc.

 *

*    *

chương thỨ sáu

cách con ngưỜi sỬ dỤng

nhỮng thỂ cỦa ḿnh trong lúc ngỦ

          Ta cũng nên biết cách con người sử dụng những Thể của ḿnh trong lúc ngủ.

          Lúc ta c̣n thức ta dùng:

          1     Xác Thân để hoạt động.

          2     Cái Vía để biểu hiện t́nh cảm và ư muốn.

         3     Cái Trí để học hỏi, suy nghĩ, xét đoán, ghi nhớ, tưởng tượng  v.v. . . . như tôi đă nói trước đây.

          Lúc ta ngủ, Cái Vía xuất ra ngoài khỏi Xác Thân.[4] Ta bỏ Xác Thân và Cái Phách ở trên giường, ta ở trong Cái Vía qua cơi Trung Giới. Nếu ta chưa tiến hóa cao, ta chưa thức tỉnh, ta mơ mơ màng màng, ta không thấy rơ ràng và không biết những ǵ đă xảy ra tại cơi Trung Giới. Lúc thức dậy, ta không nhớ chi hết, hay là nhớ mơ hồ những người quen mà ta đă gặp, hoặc lúc họ c̣n sống mà đang ngủ, hoặc những người đă từ trần. Ta gọi là chiêm bao.

          Muốn hoàn toàn thức tỉnh tại cơi Trung Giới và khi trở về nhập xác nhớ những điều ḿnh đă thấy và đă làm th́ phải nhờ Chơn Sư hay một vị Cao đồ chỉ bảo những phương pháp luyện tập và bảo hộ, lúc ḿnh mới biết Xuất Vía mà không biết cách giữ ḿnh, lên Trung Giới sẽ bị bọn Ngũ Hành áp tới rượt chạy về nhập xác không kịp.

          Nếu tấm ḷng chưa trong sạch, chớ nên ham Xuất Vía. Lên Trung Giới không biết tại sao những hiện tượng này xảy đến rồi những hiện tượng khác lại tiếp theo. Không ai giải thích và chỉ bảo cặn kẽ th́ vô ích. Một nỗi khác, e bị mấy anh Tả Đạo khuấy rối và làm hại. Biết mấy điều này rồi mới ghê tởm. Chỉ khi nào làm được Đệ tử Chơn Sư rồi, mới khỏi sự nguy hiểm đến tánh mạng.

          Muốn lên cơi Hạ Thiên, con người phải bỏ Xác Thân, Cái Phách và Cái Vía trên giường rồi ở trong Cái Trí lên cơi Hạ Thiên.

          Muốn lên cơi Thượng Thiên, con người phải bỏ ra ngoài Hạ Trí rồi ở trong Thượng Trí mới lên cơi này được.

          Muốn lên cơi Bồ Đề, phải bỏ ra ngoài Thượng Trí và ở trong Kim Thân hay là Thể Bồ Đề.

          Muốn lên cơi Niết Bàn, con người phải bỏ ra ngoài Thể Bồ Đề, ở trong Tiên Thể.

          Chừng nào muốn trở về cơi Trần th́ phải nhập vào lại mấy Thể đă bỏ ra ngoài. Nói tóm lại: Cơi nào Thể nấy.

          Lên cơi Trung Giới, con người sử dụng Cái Vía như sử dụng Xác Thân tại cơi Trần.

          Lên cơi Hạ Thiên, con người sử dụng Hạ Trí. Lên cơi Thượng Thiên, con người sử dụng Thượng Trí. Lên cơi Bồ Đề, con người sử dụng Kim Thân. Lên cơi Niết Bàn, con người sử dụng Tiên Thể. Mấy Thể kia không cần thiết nữa.

          Chúng ta nên biết rằng: Không có Xác Thân, con người không thể sống ở cơi Trần được. Không có Cái Vía, con người không vào được cơi Trung Giới v.v. . . . Tỷ như, ngày đêm Hồn Ma đi ngang qua thân ḿnh ta, mà ta không hay biết chi cả, bởi v́ Hồn Ma ở trong Cái Vía mà Cái Vía đi ngang qua xác thân, không đụng chạm chi cả. Ta không thấy Hồn Ma v́ Hồn Ma không có xác thân như ta. Nếu Hồn Ma muốn tiếp xúc với người c̣n sống th́ Hồn Ma phải thực hành một trong hai cách này: hoặc làm cho Cái Vía đặc lại thành h́nh người hoặc lấy bốn chất Dĩ Thái Hồng Trần làm một cái xác giả, đi đứng tṛ chuyện được. Chừng trở về cơi Trung Giới th́ phải làm cho cái xác giả tan ră ra.

          Mà muốn làm một cái xác giả phải học với một nhà Huyền bí học ở cơi Trung Giới hay là nhờ Chơn Sư chỉ bảo.

          Nên biết, người Trần Thế lúc đang sống đây không thể nào lên cơi Trung Giới được, ngoại trừ những vị đă vào hàng Tứ Thánh, v́ đă hội đủ những điều kiện  cần thiết.

tẠi sao 7 thỂ cỦa con ngưỜi Ở chung

vỚi nhau trong ḿnh con ngưỜi đưỢc?

          Bây giờ phải giải thích tại sao 7 Thể của con người ở chung với nhau trong ḿnh con người được. Xin quí bạn nhớ nguyên tắc sau đây:

          Chất khí ở cơi cao th́ rung động mau lẹ, màu sắc tốt đẹp, rất mịn màn và chun thấu qua những chất khí làm ra những cơi ở phía dưới nó và thấp hơn nó.

          V́ thế những chất khí làm ra cơi Niết Bàn chun thấu qua chất khí làm ra cơi Bồ Đề.

          Chất khí làm ra cơi Bồ Đề chun thấu qua chất khí làm ra cơi Thượng Giới.

          Chất khí làm ra cơi Thượng Giới chun thấu qua chất khí làm ra cơi Trung Giới.

          Chất khí làm ra cơi Trung Giới chun thấu qua chất khí làm ra cơi Hạ Giới hay Hồng Trần.

          Trong ḿnh con người:

          Tiên Thể cấu tạo bằng chất khí làm ra cơi Niết Bàn, v́ thế nó chun thấu qua Kim Thân làm bằng chất Bồ Đề. Kim Thân làm bằng chất Bồ Đề chun thấu qua Thượng Trí làm bằng chất Trí Tuệ của 3 cảnh cao. Thượng Trí chun thấu qua Hạ Trí làm bằng 4 chất Trí Tuệ thấp. Hạ Trí làm bằng chất Trí Tuệ thấp chun thấu qua Cái Vía làm bằng chất Thanh Khí. Cái Vía làm chất Thanh Khí chun thấu qua Xác Thân làm bằng chất Hồng Trần. Cái Phách làm bằng 4 chất Dĩ Thái chun thấu qua Xác Thân làm bằng 3 chất Hồng Trần thấp hơn hết là chất đặc, chất lỏng và chất hơi.

          Khi mở được nhăn quan cao siêu th́ thấy:

          Cái Phách ở trong ḿnh con người ló ra ngoài khoảng 2 ly. Nhưng nó chiếu những làn sinh lực khỏi ḿnh khoảng 1 tấc rưỡi.

          Cái Vía ở trong ḿnh con người ló ra ngoài từ 2 tấc rưỡi tới 3 tấc       v.v. . . . [5]

          Con người càng tiến hoá cao th́ thấy mấy Thể cao như: Cái Vía, Hạ Trí, Thượng Trí càng ngày càng rộng lớn thêm ra.

          Tuy nhiên, phải mở Thần Nhăn, Thiên Nhăn, Huệ Nhăn mới chứng thật mấy điều này. Ở đây ta chỉ hiểu bằng Cái Trí chứ không thấy chúng nó ra sao.

          Tôi thường nói: Học Đạo không khác nào nói chuyện “mua trâu, vẽ bóng.” Ta chỉ thấy con trâu vẽ trên giấy chứ không phải con trâu thật. Ngày nào tâm tánh thật tốt và được vào hàng Tứ Thánh th́ ngày đó mới thực sự là được Giác Ngộ. 

*

*    * 

chương thỨ bẢy

7 cơi cỦa thái dương hỆ chúng ta

          Thái Dương Hệ của chúng ta là một Tiểu Vũ Trụ. Nó sinh ra cho các Chơn Thần tiến hoá.

          Nhưng ở đây tôi xin nói về 7 cơi của Thái Dương Hệ mà thôi.

          Ta đă biết, 7 Thể của con người cấu tạo bằng 5 chất khí của 5 cơi của Thái Dương Hệ từ dưới kể lên là:

          7     Cơi Hạ Giới hay cơi Hồng Trần (Plan physique).

     6     Cơi Trung Giới hay cơi Tinh Quang (Plan Astral).

     5     Cơi Thượng Giới hay cơi Trí Tuệ (Monde Céleste ou Plan Mental).

          4     Cơi Bồ Đề (Plan Bouddhique).

          3     Cơi Niết Bàn hay là cơi Tứ Tượng (Plan Atmique ou Nirvana).

          C̣n hai cơi nữa cao hơn cơi Niết Bàn ấy là:

          2     Cơi Đại Niết Bàn hay là cơi Lưỡng Nghi (Paranirvana Adi ou Plan Anupadaka).

     1     Cơi Tối Đại Niết Bàn hay là cơi Thái Cực (Plan Adi ou Mahaparanirvana).

          Mỗi cơi chia ra làm 7 cảnh (Sous plan) như đă nói trước đây.

          7 cơi này ở đâu?

          7 cơi này ở chung một chỗ với nhau tại Địa Cầu. Chúng ở trước mặt ta, sau lưng ta, trên đầu ta, dưới chân ta và cũng ở trong ḿnh ta nữa.

          Tại sao 7 cơi ở chung với nhau được và thâm nhập nhau?

          Xin nhắc lại, nguyên tắc nói ra trước đây là: Chất khí ở cảnh cao chun thấu qua chất khí ở cảnh thấp.

          V́ vậy:

          Cơi Trung Giới bắt đầu từ Trung Tâm Trái Đất lên tới gần mặt trăng. Cơi Thượng Giới bắt đầu từ Trung Tâm Trái Đất lên khỏi mặt trăng xa     lắm v.v. . . .

          Phải mở những nhăn quan cao siêu mới thấy được mấy cơi này. Ngày nay nhiều người đă có Thần Nhăn, thế nên nói đến Thần Nhăn, Thiên Nhăn, Huệ Nhăn th́ không c̣n ai cho là chuyện viễn vong, mơ hồ nữa.

          Nhưng chớ nên tưởng rằng: 7 cơi Trời chồng chất với nhau như 7 tầng lầu. Tầng thứ Bảy tầng chót ở trên mặt đất là cơi Trần.

          Tầng thứ Sáu là cơi Trung Giới.

          Tầng thứ Năm là cơi Thượng Giới.

          Tầng thứ Tư là cơi Bồ Đề.

          Tầng thứ Ba là cơi Niết Bàn.

          Tầng thứ Hai là cơi Đại Niết Bàn.

          Tầng thứ Nhất là cơi Tối Đại Niết Bàn.

          Đọc truyện Tây Du, ta thấy nói Tề Thiên Đại Thánh biết cân đấu vân nhảy một cái tới cửa Trời. Trên Trời là một thế giới riêng biệt có đất cát nên trồng đào được.

          Người chưa biết Đạo tin rằng:

          Trời là một cơi riêng gọi là cơi Trời.

          Phật ở một cơi riêng gọi là Tây Phương Cực Lạc.

          Tiên ở một cơi riêng gọi là Bồng Lai.

          Nhưng sự thật là dù Tiên hay Phật cũng ở trong Trời, không có cơi nào riêng biệt cả.

          Quả thật có Trần Huyền Trang đi thỉnh Kinh bên Tây Vức. Mà không có thật Tam Tạng, không có Tề Thiên Đại Thánh, không có Bát Giới, Sa Tăng.

          Truyện Tây Du nói bóng dáng về Phàm Nhơn và Ba Thể của con người là: Thân – Vía – Trí.

          Tôn Ngộ Không, Con Khỉ tượng trưng cho Cái Trí.

          Bát Giới là Con Heo tượng trưng cho Cái Vía.

          Sa Tăng ăn thịt người tượng trưng cho Xác Thân.

          Cũng không có thật Thái Thượng Lăo Quân, không có thật Nguơn Thỉ Thiên Tôn, Thông Thiên Giáo Chủ, Tiếp Dẫn và Chuẩn Đề.

          Tôi có tỏ ư kiến của tôi trong quyển nhỏ: Cảm tưởng của tôi về hai quyển: Tây Du Diễn Nghĩa và Phong Thần.

7 cơi hư không

          Trên không gian vô tận c̣n 7 cơi của Vũ Trụ, cao hơn 7 cơi của Thái Dương Hệ chúng ta nhiều lắm song tất cả đều liên lạc với nhau.

          Chúng đồng tên với 7 cơi của Thái Dương Hệ. Mỗi cơi cũng chia ra 7 cảnh, ấy là:

     1     Cơi Thái Cực hay là cơi Tối Đại Niết Bàn Hư Không (Plan Adi ou Mahanirvana Cosmique).

     2     Cơi Lưỡng Nghi hay cơi Đại Niết Bàn Hư Không (Plan Anupadaka ou Paranirvana Cosmique).

     3     Cơi Tứ Tượng hay là cơi Niết Bàn Hư Không (Plan Nirvana Cosmique).

     4     Cơi Bồ Đề Hư Không (Plan Bouddhique Cosmique).

     5     Cơi Thượng Giới Hư Không (Plan Mental Cosmique).

     6     Cơi Trung Giới Hư Không (Plan Astral Cosmique).

     7     Cơi Hạ Giới Hư Không (Plan Cosmo Prakritique).

      Tất cả những Thái Dương Hệ đều ở tại cơi Hạ Giới Hư Không.

*

*    *

chương thỨ tám

nhỮng sỰ thí nghiỆm chỨng chẮc

nhỮng sỰ cẢm xúc vỐn Ở trong cái vía

          Trước đây tôi có nói: Cái Vía để biểu hiện ư muốn và t́nh cảm. Bây giờ xin nói tóm tắt cho quí bạn xem những thí nghiệm của ông Hector Durville, trích trong quyển La Fantôme des vivantsHồn Ma của những người sống – từ trang 249 đến 309 để chứng chắc rằng những sự cảm xúc vốn ở trong Cái Vía chứ không phải ở trong xác thịt. Quí bạn nào thông thạo Pháp văn nên đọc quyển đó.

          Thường thường ông Hector Durville thâu thần người đồng tử, làm cho Cái Vía anh xuất ra rồi đặc lại thành h́nh người. Cái Vía lại ngồi trên ghế cách xa cái xác lối một thước.

1 – vỀ xúc giác

– I –

          Ông Hector lấy một h́nh nhân bằng sáp để trong Cái Vía đồng tử. Chất Thanh Khí làm Cái Vía đồng tử dính vào h́nh nhân.

          Nếu châm chích h́nh nhân bất cứ chỗ nào, tại cánh tay th́ đồng tử đau nhức tại chỗ đó ở cánh tay. Ngắt véo h́nh nhân ở bắp chân th́ có dấu vết ở bắp chân của đồng tử. C̣n châm chích hay ngắt véo nơi cánh tay hay bắp chân của xác thân đồng tử th́ anh không đau nhức chi cả.

          Nếu cất h́nh nhân vào tủ kính có hơi âm trong ṿng 20 hay 25 ngày rồi đem ra thí nghiệm th́ đồng tử c̣n biết cảm xúc. C̣n để h́nh nhân ra ngoài, chất Thanh  Khí bay đi lần lần, trong ṿng một tuần th́ không dùng được nữa.

          Có một lần anh thư kư của ông Hector Durville lấy h́nh nhân đem về nhà tính để học hỏi. Đêm đến, anh để h́nh nhân ngoài cửa sổ rồi quên mất, đóng cửa lại. Lúc đó nhằm mùa Đông, tiết trời lạnh lẽo. Anh đồng tử ở tại nhà anh, bỗng phát run cầm cập, anh uống rượu mạnh và đắp ba, bốn cái mền mà cũng không ấm áp chút nào. Trọn năm ngày, anh nằm trên giường rên siết. Qua ngày thứ sáu, anh bớt, mới đến ông Hector Durville hỏi thăm duyên cớ. Anh thư kư mới sực nhớ việc anh bỏ quên h́nh nhân ngoài cửa sổ. Ông Hector Duruville hối anh về lấy h́nh nhân đem lại. Đồng tử ôm h́nh nhân để trên ngực. Trong 10 phút sau hết lạnh, v́ anh rút hết Thanh Khí trong h́nh nhân rồi.

– II –

          Một lần khác, ông Hector Durville cầm h́nh nhân để cho mấy đứa học tṛ thử. Đứa th́ ngắt véo, đứa th́ quàu quấu h́nh nhân, đứa này tới đứa kia. Đồng tử ở trong pḥng kế bên đau quá, bèn tông cửa vẹt mấy người xem rồi chụp lấy h́nh nhân. Ông Hector giựt ḿnh tŕ lại, đồng tử bỗng ngắt đứt cái đầu của h́nh nhân. Tức th́ y nhào lăn xuống đất, rên la thảm thiết. Ông Hector Durville bỏ h́nh nhân vào túi rồi lại cứu cấp anh. Nửa giờ sau đồng tử mới tỉnh lại, cổ anh bầm tím và sưng vù lên. Ông Hector Durville chỉ làm cho anh bớt đau một chút mà thôi. Anh ra về trông rất thảm thương. Từ đó về sau, anh không hề chịu cho ai làm cho Cái Vía của anh xuất ra nữa.

– III –

          Tháng Octobre 1907, ông Hector Durville làm cho Cái Vía cô đồng Marthe xuất ra trong pḥng làm việc của ông. Từ thuở giờ, cô đồng Marthe không biết cảm hay sổ mũi ra sao. Ông Hector Durville sai Cái Vía cô đồng đi với Ninette và André qua một cái pḥng lạnh lẽo. Tức th́ cô đồng phát lạnh và run lập cập. Ông Hector Durville liền gọi Cái Vía cô đồng về, nhưng cô cũng không được ấm áp. Qua hôm sau, cô Marthe ăn không biết ngon, cô nghẹt mũi, nặng đầu, cô bị cảm thật.

2 – thỊ giác – sỰ thẤy

– I –

          Cuối tháng Octobre 1907, từ 5 giờ tới 6 giờ chiều,  có mặt bà Stahl, ông Bonnet, Grand Jean và Caston Durville, ông Hector Durville thí nghiệm hai cách sau đây:

          1     Ông bảo Gaston cầm cái đồng hồ để sau ót Cái Vía cô đồng Edmée. Cô đồng rùng ḿnh một cái rồi nói: Tôi thấy một vật trắng, tṛn, nó chạy như một cái máy, nó làm ra tiếng. Ấy là tiếng tích tắc của một cái đồng hồ.

          2 –   Ông đưa cho Gaston một cái bao thư dán kín, ông không nói cho Gaston biết trong đó có cái chi. Ông bảo Gaston để cái bao thư sau ót Cái Vía cô đồng. Cô đồng nói: Tôi thấy hai vật tṛn như đồng xu. Ông Hector Duurville hỏi: Phải tiền không? Cô đồng trả lời: Phải – Màu gỉ? – Màu vàng. Nhưng không phải. Ấy là màu vàng đỏ – Có phải đồng xu không? – Không phải. Ấy là vàng – Trong bao thư c̣n ǵ nữa? – C̣n bạc. Ấy là những giấy bạc.

          Măn cuộc rồi, người ta mới xé bao thư trước mặt những người chứng. Người ta thấy trong đó có hai tấm giấy bạc và hai đồng 20 quan.

– II –

          Ngày 2 Janvier 1908, lúc 5 giờ rưỡi chiều, có mặt những người chứng là quí ông Ed. Dubois, Dubet và J. Brieux trong pḥng thí nghiệm của ông Hector Durville, không thắp đèn, tối đen.

          Cô đồng tên Léontine, những người chứng cách cô đồng khoảng bốn thước. Ông Hector Durville bảo Cái Vía cô đồng lại gần ông Dubet rồi xin ông Dubet đưa cho Cái Vía cô đồng một vật theo ư ông muốn. Ông Dubet móc trong túi một cái dao xếp, ông nắm chặt trong tay rồi mới đưa cho Cái Vía cô đồng và hỏi thấy cái chi không. Cô đồng nói: Tôi thấy một vật nhỏ, ấy là một cây viết ch́ hay là một cái dao xếp.

          Ông Dubet cầm đèn pin rọi trên bàn viết của ông Durville lấy một cây viết máy rồi đưa cho Cái Vía cô đồng xem. Cô đồng nói: Ấy là cây viết nhưng không giống cây viết thường, cái ống có mực. Ông Dubois lấy một tờ giấy viết thư cầm trong tay. Cô đồng nói: Ấy là một tờ giấy trắng viết thư.

          Ông Hector Durville xin ông Brieux đứng dậy rồi cho Cái Vía cô đồng xem một vật ǵ tùy ư. Ông Brieux đưa phía sau cô đồng cho Cái Vía cô đồng xem. Cô đồng nói: Tôi thấy một vật cầm trong tay, nó đen, nó tṛn, ấy là cái đồng hồ. Ông Brieux lại đưa bề mặt đồng hồ. Cô đồng nói: Cũng là cái đồng hồ vừa rồi, nhưng lần này là bề mặt. Tôi thấy mấy cây kim, nhưng tôi không biết mấy giờ. Hỏi tại sao vậy? Th́ cô đồng nói: Tại Cái Vía rung động mạnh lắm. Hai con mắt xao xuyến và đổi chỗ măi. Trọn cái ḿnh của Cái Vía rung động luôn luôn không ngớt. Tại sự rung động đó mà tôi không thấy cho đúng cây kim ở chỗ nào.

3 – thính giác – sỰ nghe

          Có mặt ông André với ông Hector Durville. Cái Vía cô đồng Marthe xuất ra rồi lại ngồi trên ghế dựa cách cái xác cô đồng khoảng một thước.

          1 –   Ông Hector Durville để đồng hồ phía lỗ tai trái Cái Vía th́ cô đồng nghe rơ ràng tiếng tích tắc. Ông Durville để đồng hồ phía sau ót, phía trên bụng và phía dưới chân Cái Vía, cô đồng cũng nghe tiếng đồng hồ chạy.

          Ông Durville bèn đem đồng hồ để khít lỗ tai, phía sau ót, phía trên bụng và dưới chân cái xác th́ cô đồng không nghe ǵ hết.

          Ông lập lại sự thí nghiệm này với nhiều điều kiện khác nhau, th́ chỉ Cái Vía nghe.

          2 –   Ông Hector Durville làm cho Cái Vía cô Edmée xuất ra. Cái Vía cô này cũng nghe tiếng đồng hồ chạy như Cái Vía cô Marthe. Vía cô cũng nghe người ta làm cho tờ giấy bèo nhèo nữa.

          3 –   Cái Vía cô Léotine cũng nghe rơ ràng tiếng tích tắc  của đồng hồ. Cái xác của cô không nghe ǵ hết. Ông Hector Durville bảo nó nghe, nó cũng không nghe.

          Ông đưa đồng hồ cho Bác sĩ Pau de Saint Martin dặn ông đừng cho cô đồng biết, nhờ ông Saint Martin thí nghiệm xem xác thịt nghe hay Cái Vía nghe. Không nói ǵ hết Bác sĩ Saint Martin đi nhè nhẹ lại gần cái xác, úp đồng hồ vào lỗ tai bên này, rồi lỗ tai bên kia, cô cũng làm thinh. Ông bảo xác cô chú ư vào đồng hồ và nói với cô đồng: Cô phải nghe. Xác cô nói: Tôi không nghe ǵ hết. Ông lập lại một lần nữa, ông nói: Tiếng tích tắc của đồng hồ lớn lắm, cô phải nghe. Cô đồng đáp lại một cách nóng nảy: Tôi không nghe ǵ hết.

          Vài phút sau, Bác sĩ Saint Martin đi nhè nhẹ lại gần Cái Vía cô đồng đang ngồi trên ghế bành phía tay trái cái xác. Ông để đồng hồ phía trên Cái Vía. Cô đồng nói: Tôi nghe tiếng đồng hồ chạy. Ông Saint Martin để đồng hồ trên ghế bành rồi dưới gạch hơi xa xa chân Cái Vía. Cô đồng nói: Tôi biết người ta đem đồng hồ đi xa, nhưng tôi c̣n nghe tiếng tích tắc.

          Ông Durville biết rằng người điếc mà ngậm đồng hồ trong miệng cũng nghe được tiếng đồng hồ chạy. Ông nói với Bác sĩ Saint Martin trao đồng hồ cho ông. Ông bảo cô hả miệng ngậm đồng hồ và ông bảo cô đồng chú ư tới tiếng đồng hồ chạy. Xong rồi, ông bảo cô đồng hả miệng, ông lấy đồng hồ ra. Cô đồng không nghe tiếng ǵ hết.

4 – khỨu giác – sỰ ngỮi

– I –

          Cô đồng Edmée xuất Vía trong pḥng làm việc của ông Hector Durville. Cái Vía của cô ngồi trên ghế dựa cách cái xác một thước. Trong pḥng ánh sáng mờ mờ. Không cho cô đồng hay biết, Bác sĩ Pau de Saint Martin kê vào lỗ mũi cái xác một ve ammoniaque, tục gọi là nước đái quỉ, gần một phút. Cô đồng không ngửi mùi ǵ cả. Một chập sau, Bác sĩ làm thinh, đi nhè nhẹ lại gần Cái Vía rồi đưa cái ve dưới mũi Cái Vía. Cô đồng lấy tay bịt mũi, quay mặt chỗ khác rồi nói: Ấy là cái ve, nó hôi quá. Bác sĩ Martin lấy cái ve đó đi, ông thay cái ve khác. Ông cho Cái Vía ngửi dầu chanh (Bergamote). Cô đồng nói: Cái này mùi thơm. Bác sĩ Saint Martin kê ve dầu chanh vào lỗ mũi của cái xác th́ cô đồng không biết ǵ cả. Bác sĩ Saint Martin nói: Tôi cho cô ngửi  mùi  thơm, cô đă ngửi rồi mà. Cô đồng nói: Tôi không ngửi mùi ǵ cả.

– II –

          Lần này tới phiên cô Léotine. Bác sĩ Saint Martin để ve nước đái quỉ dưới lỗ mũi Cái Vía cô đồng th́ cô đồng lấy tay bịt mũi, cô quay mặt chỗ khác rồi nói: A! hôi quá. Ấy là thuốc làm cho bớt đau nhức. Rồi cô tiếp: Mà không phải, đây là nước đáy quỉ.

          Năm phút sau, Bác sĩ không để cho cô đồng nghi ngờ chi cả, ông kê vào lỗ mũi xác thịt ve nước đái quỉ mở nút ra. Cô đồng ngồi làm thinh, dường như không có ngửi mùi ǵ cả. Bác sĩ Saint Martin hỏi: Cô có ngửi mùi chi không? Cô đồng trả lời: Không. Bác sĩ Saint Martin nói: Tôi để ve nước đái quỉ dưới lỗ mũi của cô, chẳng những cô ngửi mà mùi đó lại hôi lắm. Cô đă ngửi, tôi thấy cô nhăn mặt. Cô đồng thấy người ta không tin ḿnh nên có ư phiền. Cô trả lời một cách mạnh bạo: Tôi nói với ông, tôi không ngửi mùi ǵ hết. Nếu ông không tin th́ mặc t́nh.

          Ve nước đái quỉ để dưới lỗ mũi cô ít nhất là hai phút, chẳng những cô không ngửi mùi chi mà tới chừng cô tỉnh lại cô cũng không có chi khó chịu.

          Bác sĩ Saint Martin về chỗ ngồi.

          Khoảng tám hay mười phút sau, ông đi nhè nhẹ lại gần Cái Vía, ông để ve dầu chanh trên đầu Cái Vía. Cô đồng nói: Tôi thấy ông để một cái ve phía lỗ tai tôi, ông muốn cho tôi ngửi cái ǵ đó? Rồi cô đồng nói một cách chế nhạo: Tôi không ngửi bằng lỗ tai đâu. Bác sĩ Saint Martin mới để cái ve dưới lỗ mũi Cái Vía, cô đồng liền nói: Mùi này thơm, ấy là dầu chanh, tôi thích nó hơn là nước đái quỉ.

– III –

          Cô đồng là Bà Vix (Madame Vix) xuất Vía trước những  người chứng là quí ông: Adatto, E. Dubois, Robert Hilde-brand, Bernard Porteret. Tất cả ở trong chỗ tối mờ mờ.

          Ông Hector Durville lần lượt để dưới lỗ mũi cái xác cô đồng nước đái quỉ, long năo, lá thơm Patchouli, dầu bông tím, dầu chanh, cô không ngửi mùi ǵ cả. Khi đưa các thứ này dưới lỗ mũi Cái Vía th́ cô đồng biết mấy mùi đó liền.

5 – Vị giác – sỰ nẾm

          Ngày 12 Décember 1907, có mặt quí ông: Combe, Ed. Dubois và Gaston Durville dưới ánh sáng mờ mờ.

          Cô đồng Léotine xuất Vía ra. Ông Hector Durville để trong tay cô đồng một miếng Lư hội. Ông bảo cô để vào miệng nhai rồi cho biết mùi vị. Cô đồng nhai rồi nói: Miếng này không có mùi vị ǵ cả. Ông Hector Durville bảo cô nhả ra đặng sau đó cô khỏi đau bụng.

          Ông Hector Duurville để trong tay cô một cục đường, ông bảo cô nhai rồi cho biết nó có ngon không. Cô đồng nói: Không có vị ǵ cả.

          Ông Hector Durville dùng kềm lấy một vị thuốc đắng tên Quassia. Ông bảo Cái Vía hả miệng, ông đút miếng thuốc đó vào miệng Cái Vía rồi bảo nó ngậm lại. Ông mới hỏi: Vị cô ngậm ra sao? Cô đồng nói: Nó không ngon, đắng quá. Ông lấy miếng thuốc đó ra rồi để miếng thuốc đó trong tay xác thịt. Ông bảo cô đồng đút vào miệng xem, nó có vị ǵ không. Cô đồng làm in như vậy rồi nói: Nó không có vị ǵ hết.

          Ông Hector Durville dùng kềm lấy một miếng Lư hội để vào miệng Cái Vía th́ cô đồng nói: Tôi biết rồi, nó đắng lắm. Ông mới lấy miếng Lư hội rồi để vào miệng cái xác cô đồng, cô đồng nếm rồi nói như trước: Không có vị ǵ cả. Ông bèn lấy vài giọt Kư ninh nước (quinine) để trong một cái muỗng rồi đưa vào miệng Cái Vía. Cô đồng nói: Không ngon, nó đắng lắm.

          Ông dùng kềm lấy lấy một múi cam để vào miệng Cái Vía. Cô đồng nói: Ngon thật, ấy là múi cam. Ông lấy một múi cam đút vào miệng cái xác rồi bảo cô đồng: Xem cái ǵ đó? Cô đồng nói: Tôi không biết ǵ cả. Vừa rồi ông cho tôi ăn cam, c̣n bây giờ tôi không biết cái này là cái ǵ.

          Ông Hector Durville lấy một nhúm Mă tiền bỏ vào muỗng chế vài giọt nước rồi để vào miệng Cái Vía, cô đồng nói: Hôi quá, nó đắng lắm, nó làm khô cả lưỡi.

          Ông Hector Durville lấy một nhúm muối để trong muỗng rồi đưa vào miệng Cái Vía. Cô đồng nói: Ấy là muối.

          Ông lấy kềm gắp một cục đường để vào miệng Cái Vía th́ cô đồng nói; Ấy là đường. Ông để cục đường trên bàn. Một chập sau, ông lấy cục đường bỏ vào miệng cái xác cô đồng cho cô nhai. Ông nói quả quyết với cô: Ấy là miếng Lư hội, chắc là cô cũng không chịu nỗi mùi đó rồi.

          Ông nói mặc ông, cô đồng cứ trả lời: Nó hôi mặc nó, tôi không có nếm mùi vị ǵ cả.

          Ông Hector Durville thí nghiệm với bốn, năm người khác th́ cái kết quả cũng in như vậy.

*

*     *

          Bàn qua những sự thí nghiệm:

          Có những sự thí nghiệm của ông Hector Durville ta mới tin chắc: Con người có nhiều Thể. Nếu có Cái Vía th́ tự nhiên có Cái Phách, Cái Trí và mấy Thể cao khác.

          Ông Hector Durville thí nghiệm, mỗi giác quan với nhiều cô đồng khác nhau th́ cái kết quả vẫn in như nhau tức là: Sự cảm xúc ở trong Cái Vía chứ không ở trong xác thịt.

          Bây giờ ta hăy nêu ra câu hỏi này: Ông Hector Durville bắt đầu thí nghiệm từ năm 1907, tới nay là năm 1979, 72 năm đă trôi qua, tại sao không có ai lập lại những thí nghiệm này đặng chứng chắc rằng Huyền bí học nói đúng với sự thật.

          Điều này rất dễ hiểu. Ông Hector Durville là một nhà Huyền bí học lăo luyện về phép thâu thần, trừ ra  hai người là ông Colonel de Roches và ông Charles Lancelin, th́ ngày nay không có nhà thôi miên nào sánh kịp với ông.

          Nên hiểu không phải dễ làm cho Cái Vía xuất ra khỏi xác. Nó xuất ra rồi phải làm cho nó đặc lại giống h́nh người. Cái Vía không đặc lại th́ không ai thấy nó được v́ con mắt phàm không thấy chất Thanh Khí. Phải mở Thần Nhăn mới thấy nó. Hơn nữa, phải biết phương pháp Huyền bí học bảo vệ nó. Khi xuất ra khỏi xác trong lúc thí nghiệm th́ có một sợi dây từ khí cột dính với Xác Thân. Nhờ dây này mà sinh lực đi từ Cái Vía qua Cái Phách đặng nuôi Xác Thân.

          Nếu trong lúc thí nghiệm mà sợi dây này đứt ngang th́ đồng tử chết luôn, không phương cứu chữa.

          C̣n tại sao trong pḥng thí nghiệm ánh sáng không được rực rỡ? Ấy là Cái Vía khi đặc lại không chịu nỗi sự rung động của ánh sáng Mặt Trời hay là ánh sáng của đèn điện, đèn khí đá.

          V́ vậy, Hồn Ma thường hiện ra ban đêm chứ ít khi hiện ra ban ngày. Trừ ra vài trường hợp đặc biệt, Hồn Ma lên cơi Trung Giới học cách hiện h́nh với một nhà Huyền bí học th́ mới hiện ra ban ngày được. Ma hiện h́nh tức là làm cho Cái Vía đặc lại thành người, ít khi họ biết lấy 4 chất Dĩ Thái Hồng Trần làm ra h́nh giả. (Xin xem chuyện: Hồn Ma Cô Katie King và nhà Bác học William Crookes, quyển nhất của Bộ Tủ Sách Tâm Linh Thanh Niên).

          Trong Trời Đất c̣n không biết bao nhiêu sự bí mật mà con người cần phải học hỏi từ kiếp này qua kiếp kia cho đến khi trở nên trọn sáng trọn lành làm một Vị Siêu Phàm th́ mới hiểu biết những việc đă xảy ra, đang xảy ra và sẽ xảy ra tại Dăy Địa Cầu. Rồi từ chừng đó mới học hỏi thêm ở mấy cơi cao hơn nữa. Biển Giác mênh mông không biết đâu là bờ bến.

*

*    * 

chương thỨ chín

thân thỂ con ngưỜi là mỘt ḷ tẠo hóA

          Tôi tưởng cũng nên nói vài lời về những sự bí mật trong ḿnh con người.

          Thân Thể con người là một ḷ Tạo Hóa chứa đựng không biết bao nhiêu sự bí mật mà con người mới khám phá ra một chút ít thôi.

          Quả thật ngày nay người ta học rành rẽ những cơ quan trong ḿnh con người, nhưng đây về phương diện hữu h́nh, c̣n về phương diện vô h́nh là Sự Sống làm cho chúng nó hoạt động chưa ai biết ra sao. Không phải vật chất sinh ra sự sống, mà trái ngược lại, sự sống sinh ra vật chất.

          Trong bài diễn văn khai mạc Đại Hội Phát Triển Khoa Học mở tại Bristol (Anh Quốc) năm 1898, ông William Crookes có nói câu này (đại ư):

          “Tôi rất thích đảo ngược câu châm ngôn của Cổ nhân và nói: Trong sự sống tôi thấy quyền năng sinh hóa những h́nh dạng của vật chất và chắc chắn rằng quyền năng đó đă thực hiện rồi.”

          Hồi thời cổ Ai Cập, tại ngạch đền thờ Nữ Thần Isis có khắc câu này: “Ta là cái ǵ đă có ở trong thời dĩ văng, đang có ở thời hiện tại và sẽ có ở thời tương lai. Chưa có một phàm phu tục tử nào vén được bức màn của Ta.”

          Thật đúng vậy. Bức màn này tiếng Pháp là: Le Voile d’Isis.

          Ai có suy nghĩ đều thắc mắc về những điều sau đây:

          Một là: Tại sao trong một bộ máy không người điều khiển như xác thân ta đây mà các cơ quan riêng biệt đều làm việc bổn phận ḿnh một cách chu đáo, không xao lăng chút nào, ngoại trừ lúc bệnh hoạn, chúng yếu sức.

          Hai là: Tại sao trái tim cứ nhảy, con người cứ thở. Tại sao Bộ tiêu hoá biến đổi thực vật ra máu huyết, xương thịt. Làm cách nào mà máu lại đỏ, sữa lại trắng. Tại sao nó biết giữ ǵn những chất bổ dưỡng để nuôi xác thân, c̣n những chất dơ bẩn lại tống khứ ra ngoài.

          Ba là: Một Tinh trùng, một Noăn châu nhập lại thành ra một người. Xin hỏi: Có Tinh trùng đực, Tinh trùng cái, Noăn châu đực, Noăn châu cái không? Tinh trùng nào hợp với Noăn châu nào sinh ra con trai, Tinh trùng nào hợp với Noăn châu nào mà thành ra con gái?

          Chỉ có ba yếu tố: Tinh trùng, Noăn châu và Máu huyết người mẹ th́ cái ǵ tạo ra da thịt, xương cốt và cơ quan như: mặt mũi, tay chân, gan ruột, tim phổi và nhất là hai bộ phận sinh dục của Nam và Nữ khác nhau. Tại sao đàn ông có râu, đàn bà không có râu mà lại có kinh nguyệt.

          Tại sao khi sinh đẻ rồi th́ đàn bà lại có sữa để cho con bú? Có bàn tay vô h́nh nào nhúng vào việc này không? Bởi v́ ba yếu tố: Noăn châu, Máu huyết và Tinh trùng không có đủ trí khôn để tạo được một h́nh hài Nam hay Nữ, từ vóc vạc cho đến tánh t́nh và giọng nói không ai giống ai.

          Bốn là: Trong gia đ́nh có năm người con, ba trai, hai gái, một cha, một mẹ, nghĩa là chỉ có một thứ Tinh trùng và một thứ Noăn châu mà thôi. Nói theo nghĩa vật chất, nếu sinh ra con trai th́ phải con trai hết, nếu sinh ra con gái th́ phải con gái hết, vóc vạc bằng nhau và giống cha hay giống mẹ như khuôn đúc.

          Nhưng sự thật không phải vậy. V́ lẽ nào mà có ba Nam, hai Nữ, có đứa cao, có đưa thấp khác nhau và chỉ hơi giống cha hay giống mẹ mà thôi.[6]

          Về sự thông minh và tánh nết không ai giống ai.V́ lẽ nào?

          Năm là: Tại sao có giống da đen, giống da vàng, da đỏ, da trắng. Cái ǵ làm ra màu da này? Tại sao ngôn ngữ lại bất đồng?

          Sáu là: Về các loại máu. Theo phép, một giống dân th́ chỉ có một loại máu mà thôi. Nếu A th́ A hết, nếu B th́ B hết. Tại sao trong một giống dân hay bất cứ trong giống dân tộc nào, người th́ có máu A, người th́ có máu B. Phải có những lư do và chắc chắn chúng không phải ở tại cơi Trần này đâu.

          Bảy là: Về vóc vạc con người. Quả thật nhờ đồ ăn, đứa nhỏ mới mau lớn và mau cao. Theo phương diện này th́ đáng lẽ đứa nhỏ phải cao lớn măi, cho tới khi nó già yếu rồi th́ mới hết cao lớn.

          Nhưng thật sự, tới một ngày kia, con người không cao lớn nữa. Như vậy, mới có người cao, người thấp, người lùn.

          Nói th́ rất dễ, mà giải thích cho đúng lư là cực kỳ khó khăn. Ở cơi Trần, ta thường thấy những hậu quả, c̣n những nguyên nhân sinh ra những hậu quả thuộc về cơi vô h́nh khác mà ta không biết.

          Ở đây, tôi không nói tới những Huyệt trong ḿnh con người. Những Huyệt này liên quan mật thiết với Cái Phách  tức là có ảnh hưởng lớn lao đối với sức khoẻ con người. Khi quí bạn thấy Huyệt đó rồi th́ sẽ vô cùng ngạc nhiên. Người tŕnh bày ra Huyệt đó là một nhà Đạo học uyên thâm.

          Muốn châm cứu cho có kết quả mau lẹ th́ phải mở Nhăn quan Cái Phách, thấy rơ ràng những Huyệt đó mới không có sự lầm lạc. Điều này khó thực hiện được, bởi v́ Hành giả phải tŕ trai, giữ giới, phải ra công luyện tập và nhất là phải học hỏi với một vị Cao đồ của Chơn Sư.

          Người thường không hội đủ những điều kiện này, dù có học châm cứu th́ cũng không đi đến chỗ thâm sâu được.

          Tôi cũng không bàn đến những quyền năng của những Tu sĩ gọi là Dô ghi (Yogi) bên Ấn Độ. Họ ra vào rừng sâu Tham Thiền Nhập Định rồi th́ hùm beo, tây tượng, lang sói, các thú dữ, rắn độc không hề phạm đến được. Trái lại chúng dường như rất kính trọng họ. Không ai giải thích được tại sao, nắng lửa, sương tuyết, không xâm phạm thân ḿnh họ được. Họ không ăn, không uống, không thở mà họ không bệnh hoạn và vẫn sống.

          Thân thể họ như thân thể chúng ta, chứ không có cái chi khác lạ. Tại sao nó tránh được sự tàn phá của thời gian rất lâu. Hoàn toàn bí mật.

          (Xin xem Ba chuyện Đại Định phi thường trong bài Vài lời nói về Thiền Ấn Độ và Thiền Trung Hoa.

          C̣n nhiều bí mật khác nữa.

          Như một cái trứng gà, ta cầm trong tay. Ta không biết nữa đây nó sẽ sinh ra gà Trống hay gà Mái.

          Trong trứng chỉ có tṛng đỏ, tṛng trắng và cái ng̣i. Vậy th́ cái chi trong trứng hợp lại làm ra thân h́nh gà trống hay gà mái, có đủ máu huyết, xương thịt, mỏ mồng, bầu diều, mề, gan, ruột, tim, phổi v. v. . . .

          Gà trống có cựa lại biết gáy và ham đá lộn. Gà mái không có cựa, không biết gáy lại đẻ trứng.

          Dù cho rằng có bàn tay vô h́nh làm ra mấy điều này th́ bàn tay đó phải biết áp dụng Luật Di Truyền trong mỗi trường hợp. Thường thường bàn tay vô h́nh đó là những Tinh Linh gọi là Sylphes. Phải mở Thần Nhăn và Huệ Nhăn mới thấy rơ ràng công việc tạo ra h́nh thể. Thấy th́ rất dễ mà giải thích ra không đúng với sự thật v́ không biết được cách làm việc của các Tinh Linh.

          Bây giờ xin nói về chuyện Vô h́nh.

thay hỒn đỔi xác

          Thay Hồn đổi Xác là Xác của người này mà Hồn của người kia.

          Một cô gái chết lúc sớm mai, tới chiều th́ sống lại. Cô ngơ ngác nh́n quanh rồi nói: Nhà này không phải là nhà của tôi. Tôi con của ông . . . . . . và bà . . . . . . ở tại . . . . . . Tôi có mấy anh em tên . . . . . .         Cô xin người ta đưa cô về gia đ́nh của cô. Điều tra ra quả thật cô gái đó đă chết mấy tháng trước, nay Hồn cô nhập vào cô gái này.

          Tôi không nói về việc hai gia đ́nh khó xử trí về việc này, tôi muốn nhấn mạnh chỗ sau đây:

          Người chết v́ bệnh hoạn, cơ thể hư hoại. Tại sao Hồn Ma nhập vào xác th́ cơ thể lại lành mạnh liền trong nháy mắt, nhờ vậy cái xác mới sống lại được.

          Quyền năng làm cho cái xác chết rồi sống lại vốn ở đâu? Dám chắc Hồn Ma không có quyền năng này. Phải có sự giúp đỡ bên ngoài. Nhưng tại sao cô gái này lại được giúp đỡ, c̣n cả muôn, cả ngàn người khác không được hân hạnh đó?

          Hoàn toàn bí mật.

          Mấy chục năm trước, tôi có nghe một chuyện thay Hồn đổi Xác ở Bạc Liêu.

          Tại Châu Đốc cũng có một chuyện thay Hồn đổi Xác giữa hai người đàn bà đẻ rồi chết một lượt, hai người trùng tên trùng họ. Vài giờ sau một người sống lại, nhưng không nh́n nhận chồng và các con. Ấy là trường hợp chung của những người thay Hồn đổi Xác. Không biết làm sao mà giải thích.

          Việc này xảy ra hơn nửa thế kỷ. Hiện nay tôi không c̣n gặp lại người thuật chuyện này và những nhân chứng, cho nên chỉ nói phớt qua thôi.

          Bây giờ xin nói vài lời về Ba vật báu trong ḿnh con người là: tinh – Khí – thẦn.

*

*    *

chương thỨ mưỜi

1 – ba vẬt báu trong ḿnh con ngưỜi:

tinh – khí – thẦn

          Ngoại trừ các nhà luyện Đạo th́ ngoài đời không một ai biết rằng: Tinh – Khí – Thần là Ba vật báu trong ḿnh con người mà nhất là Tinh của người đàn ông.

          Nếu dùng Tinh vào việc tạo ra ṇi giống th́ nó biến thành một thứ lực gọi là Ojas và đem cho con người ba điều lợi:

          Một là: Trí óc sáng suốt.

          Hai là: Thân thể tráng kiện.

          Ba là: tăng thêm tuổi thọ.

          Trái lại, nếu không biết tiết dục cứ đắm mê nữ sắc th́ thân thể hao ṃn, tiều tụy, tóc mau bạc, tai mau điếc, mắt  mau mờ, thường đau ốm bệnh hoạn v́ không đủ sức chịu đựng với phong sương, nỗi e phải bỏ ḿnh trước ngày giờ đă định. Từ ngàn xưa, những vị Vua Chúa trong Cung viện có cả trăm, cả ngàn mỹ nữ th́ không thể sống lâu được. V́ lẽ nào? Quí bạn cũng thừa hiểu, khỏi phải nói trắng ra. Dù cho uống Tiên đơn cũng không công hiệu.

2 – mỤc đích cỦa sỰ giao hỢp

          Mục đích của sự giao hợp là tạo ra một Xác Thân để cho Linh Hồn nhập vào đặng tiếp tục sự tiến hóa đă ngưng lại hồi kiếp trước khi đă từ trần.

          Mục đích này rất cao thượng, thanh bai và sự giao hợp chỉ là một phương tiện thôi.

          V́ Vô Minh, con người lạm dụng phương tiện và biến đổi nó thành một việc thấp hèn nhơ nhớp, xấu hổ và đầy tội lỗi.

3 – sỰ giao hỢp phát sinh tỪ hỒi nào?

          Muốn biết sự giao hợp phát sinh từ hồi nào th́ phải biết cách sinh hóa các giống dân trên Địa Cầu. Đây là một trong những bí mật của Tạo Công, không có người phàm phu nào khám phá ra được.

7 giỐng dân trên đỊa cẦu

          Tại quả Địa Cầu phải có 7 Giống dân Chánh (Race Mère). Mỗi Giống dân Chánh chia ra 7 Giống dân Phụ hay 7 Nhánh lớn (Sous Race). Mỗi Nhánh c̣n chia ra 7 Chi, chưa kể những giống lai.

          Vấn đề này cực kỳ khó khăn, xin nói một cách tổng quát mà thôi:

          1 –  2 – Giống dân thứ Nhất và Giống dân thứ Nh́ đă tàn lâu rồi.

          3 –  Giống dân thứ Ba là Giống Lémurien. Giống dân da đen ngày nay là cháu chích của Giống Lémurien.

          4 –  Giống dân thứ Tư là Giống Atlante. Giống da vàng, da đỏ là cháu chích của Giống Atlante.

          5 –  Giống dân thứ Năm là Giống Aryen. Giống da trắng là cháu chích của nhánh thứ Tư và nhánh thứ Năm của Giống Aryen.

          Nhánh thứ Sáu (6è Sous Race) đă sinh ra song chưa đủ số để lập một quốc gia.

          6 –  Giống dân Chánh thứ Sáu (6è Race Mère) sẽ ra đời khoảng 6 hay 700 năm nữa tại California.

          7    Giống dân Chánh thứ Bảy sẽ sinh ra tại Úc Châu.

cách sinh sẢn cỦa

3 giỐng dân đẦu tiên

*

*     *

vỀ giỐng thỨ nhẤt

          Chưa có da thịt, chưa có Nam Nữ. Thân h́nh giống như xưng xa gọi là Nguyên Sinh Chất, có ṭng có tụi. Ấy là những Cái Phách do những vị Đại Thiên Thần tham thiền mà sinh ra. Có một quan gọi là thính giác ứng đáp với những ấn tượng là lửa. Đi đứng, chạy, bay, nhảy nhót đều được. Huyền bí học gọi là chhâyas, những h́nh bóng.

cách sinh sẢn

          Khi sinh sản th́ như các tế bào, nứt ra làm hai phần hay là mọc những mầm. Ban đầu th́ hai phần bằng nhau. Sau một phần lớn, một phần nhỏ tức là những con cháu, thân h́nh nhỏ hơn ông, cha.

          Cũng có 7 nhánh vậy, song khó phân biệt.

vỀ giỐng dân thỨ nh́

          Đúng ngày giờ th́ các Tinh Linh hay Ngũ Hành lấy một chất đắp vào thân ḿnh của Giống dân thứ Nhất. Chất này làm ra h́nh hài của Giống dân thứ Nh́. C̣n thân h́nh của Giống dân thứ Nhất th́ biến thành Cái Phách của Giống dân thứ Nh́.

          Một giác quan thêm vào là Xúc giác. Ứng đáp được với những ấn tượng lửa và nước (Hoả và Thủy).

cách sinh sẢn

          Có hai cách:

          Một là: V́ thân ḿnh càng ngày càng cứng không thể mọc mầm nữa. Từ đó lỗ chân lông tiết ra những cục nhỏ màu trắng đục, sền sệt giống như giọt mồ hôi, càng ngày càng lớn. Mỗi cục rớt ra thành một người.

          Người ta gọi Giống dân này là Giống dân do mồ hôi sinh ra (Nés de la sueur).

          Có hai bộ phận sinh dục âm và dương mới tượng.

vỀ giỐng dân thỨ ba

          Nói một cách tổng quát, thân h́nh cao lớn, vạm vỡ, nhưng nửa người nửa thú.

          Có ba cơ quan: Thính giác, Xúc giác và Thị giác. Nhưng bắt đầu từ nhánh thứ Ba, con người mới có một con mắt ở chính giữa trán. Người đời sau gọi là Giống dân Cyclope.

cách sinh sẢn

          Có ba cách:

          1 – Cách thứ nhất: Nhánh thứ Nhất và Nhánh thứ Nh́ cũng do giọt mồ hôi sinh ra.

          Nhưng qua Nhánh thứ Nh́ th́ những giọt mồ hôi càng ngày càng thêm cứng và tṛn giống như trứng gà. Đứa nhỏ sinh ra th́ có đủ hai bộ phận sinh dục âm và dương rơ rệt. Đời nay gọi là lại cái.

          Từ đây con người ở trong trứng sinh ra.

          2 – Cách thứ nh́: Con cháu nhánh thứ Ba thành h́nh nguyên vẹn trong trứng. Trứng nở ra, đứa nhỏ ra ngoài, đi đứng hoạt động được, không khác nào những gà con sau khi trứng khảy mỏ rồi th́ nhảy xuống đất.

          Có hai bộ phân sinh dục âm và dương rơ rệt, nhưng một cái lớn một cái nhỏ.

sỰ phân chia nam nỮ

          Tới nhánh thứ Tư, khi đứa nhỏ sinh ra th́ có một bộ phận sinh dục âm hoặc dương mà thôi. Con trai và con gái h́nh dạng khác nhau. Nhưng người Nam vẫn c̣n giữ một phần nhỏ nhít cơ quan sinh dục của người Nữ và người Nữ cũng c̣n giữ một phần nhỏ nhít cơ quan sinh dục của người Nam.

          V́ vậy, ngày nay mới có việc trái hóa gái, gái hóa trai, đàn ông biến thành đàn bà, đàn bà biến thành đàn ông được.

          Sự phân chia Nam Nữ đă xảy ra 18 triệu năm rồi. Sau khi phân chia một ít lâu th́ bản năng sinh hóa phát khởi. Từ đó mới có sự giao hợp như ngày nay.

          Khi Nhánh thứ Tư gần tàn, đứa nhỏ sinh ra yếu đuối không đi đứng được nữa.

          3 – Cách thứ Ba: Qua nhánh thứ năm, đưa nhỏ cũng ở trong trứng, nhưng trứng ở trong ḷng người mẹ. Đứa nhỏ sinh ra th́ yếu đuối.

          Tới nhánh thứ Sáu và nhánh thứ Bảy, sự sinh hóa như ngày nay (Thai sinh).

con mẮt mỌc ra Ở hai bên

          Bắt đầu từ Nhánh thứ Ba con người mới có một con mắt ở chính giữa trán. Nhờ con mắt này, con người cũng thấy cơi Trung Giới, nhưng không rơ rệt.

          Lần lần hai con mắt mọc ra hai bên.

          Nhưng qua nhánh thứ Bảy, con người mới tập sử dụng hai con mắt, con mắt ở giữa trán vẫn c̣n hoạt động, song nó lần lần thụt vô trong đầu và thành ra con mắt thứ Ba, ngày nay gọi là Hạch Óc (Tùng quả tuyến: Glande pinéale).

          Từ Giống dân thứ Tư sắp về sau, con người mới dùng hai con mắt để xem coi.

tiẾng nói

          Nhánh thứ Nhất và nhánh thứ Nh́ của Giống dân thứ Ba chưa có tiếng nói như bây giờ. Chỉ biết la hét khi vui vẻ, buồn bực, đau thương hay yêu mến.

          Qua nhánh thứ Ba tiếng nói mới biến thành độc âm.

giác quan thỨ tư

và giác quan thỨ năm

          Giống dân thứ Tư mới thật là giống con người ở Thế gian. Thêm một giác quan là Vị giác.

          Qua Giống dân thứ Năm, Khứu giác bắt đầu hoạt động, con người mới biết mùi.

          Hiện giờ con người có đủ Ngũ quan.

*

*    * 

chương thỨ mưỜi mỘt

ba tai hẠi lỚn lao cỦa sỰ

đẮm mê sẮc dỤc

          Hiện giờ người ta rất sợ những chứng bệnh Hoa liễu, Phong t́nh, v́ nọc độc của chúng nó c̣n di truyền tới con cái đời sau. Nhưng, sau khi phân chia Nam Nữ, sự đắm mê sắc dục gây ra Ba tai hại cực kỳ lớn lao ít ai biết và c̣n kéo dài tới ngày nay.

          Tôi xin tóm tắt câu chuyện đó cho quí bạn nghe.

1 – Tai hẠi thỨ nhẤt

          Sự phân chia Chánh Đạo và Tà Đạo:

          Sau khi phân chia Nam Nữ rồi, có một nhóm người tiến hóa khá cao nên chăm lo học Đạo.[7]

          Trong nhóm này có một số Huynh Đệ bị sắc đẹp của phụ nữ thuộc về hạng thấp thỏi quyến rũ nên sa ngă. Sự đắm mê sắc dục làm họ quên mất bản tính thiêng liêng không c̣n tŕ trai, giữ giới như trước nữa.

          Một số Huynh Đệ khác vâng lời Tiên Thánh nên không ngớt lo tu tâm, luyện tánh. Khi thấy các bạn ḿnh sắp bỏ Đường Đạo th́ khuyên can, nhưng hoài công.

          Những kẻ bị ái t́nh làm cho mù quáng th́ có bao giờ nghe theo lẽ phải.

          Ban đầu hai bên c̣n căi vă nhau, rồi cuối cùng họ đánh nhau những trận long trời lỡ đất.

          Sau đó, những đệ tử trung thành với Tiên Thánh bỏ lên miền Bắc, c̣n những người trụy lạc đi xuống miền Nam, miền Đông và miền Tây. Họ kết liên với bọn Tà Quái (Élementals) và thành ra những người thờ phụng vật chất thay v́ phải tôn kính Tinh Thần.

          Sự phân chia Chánh Đạo và Tà Đạo bắt đầu từ đây.

2 – tai hẠi thỨ nh́

          Khi Giống dân thứ Ba gần tàn rồi th́ có một nhóm mới thoát kiếp thú đi đầu thai làm người. Họ chia ra làm hai phái: Nam và Nữ. Trong Đạo đức gọi là “Những người đầu hẹp” (“Têtes étroites”) bởi v́ họ chưa có trí khôn.

          Những người đàn ông trong nhóm này thấy con khỉ cái h́nh thù đẹp đẽ, tưởng là con người đồng loại với họ nên lấy làm vợ.

          Sự kết hôn này sinh ra một loài nửa người, nửa thú, ḿnh mẩy lông lá đỏ ḷm, nhưng câm. Ấy là loại giả nhơn, loài khỉ mặt người (Signes anthropodes).

          Darwin cho rằng: Khỉ là tổ tiên loài người, nhưng Huyền bí học nói ngược lại: Chính con người là Tổ tiên loài khỉ.

3 – tai hẠi thỨ ba: giẢm thỌ

          Nói cho đúng, tới 25 tuổi, những cơ quan trong ḿnh mới phát triển đầy đủ. Con người bậc trung phải sống 5 lần 25 tuổi tức là 125 tuổi.

          Tại sao trong cả triệu người chưa ắt thấy được một người sống tới trăm tuổi. Theo Luật Di Truyền, Tổ tiên yếu đuối th́ con cháu sinh ra phải bạc nhược.

          Nguyên nhân sâu xa của sự bạc nhược này là sự không biết tiết dục.

          Sự giao hợp tự do và vô độ làm cho tinh thần suy nhược và sức lực tiêu hao. V́ thế mà tuổi thọ giảm đi.

          Hăy xem những con thú sống gần thiên nhiên như thú rừng và chó nhà chẳng hạn: chúng giao hợp có mùa tiết cho nên chúng rất khoẻ mạnh và không có thường đau ốm, bệnh hoạn như con người.

          Chúng ta phải nh́n nhận rằng chúng ta c̣n Vô Minh và chưa tự chủ được, chúng ta c̣n bị vật chất chi phối. Từ xác thân cho tới y phục, miếng ăn, đất ở, chỗ đứng, nơi ngồi, chúng ta c̣n mắc kẹt trong khuôn khổ, chưa thoát ra ngoài được, trừ khi nào chúng ta đi gần tới bậc Siêu Phàm.

*

*    * 

chương thỨ mưỜi hai

 

sỰ tiẾn hÓA cỦa

nhân loẠi theo đưỜng ṿng cung

          Thiết tưởng cũng nên nói đôi lời về sự tiến hóa của nhân loại.

          Sự tiến hóa của nhân loại không phải đi theo đường thẳng mà đi theo đường Ṿng Cung. Muốn giải thích điều này phải nói về Dăy Địa Cầu (Chaine de la Terre) của chúng ta. (Theo Huyền bí học chứ không phải theoThiên văn học hiện đại. Xin quí bạn lượng thứ).

dăy đỊa cẦu cỦa chúng ta

          Dăy Địa Cầu của chúng ta gồm 7 Bầu Hành Tinh.

          Trong số này có 4 Bầu vô h́nh không có tên và 3 Bầu hữu h́nh có tên.

          4 Bầu vô h́nh là Bầu thứ Nhất, Bầu thứ Nh́, Bầu thứ Sáu và Bầu thứ Bảy.

          Ba Bầu hữu h́nh là:

          – Bầu thứ ba là Hoả Tinh.

          – Bầu thứ Tư là Trái Đất.

          – Bầu thứ Năm là Thủy Tinh.

          Xin gọi 7 Bầu với mẫu tự: A, B, C, D, E, F, G.

          Bầu thứ Nhất là A.

          Bầu thứ Nh́ là B.

          Bầu thứ Ba Hoả Tinh là Bầu C.

          Bầu thứ Tư Địa Cầu của chúng ta là D.

          Bầu thứ năm Thủy Tinh là Bầu E.

          Bầu thứ Sáu là Bầu F.

          Bầu thứ Bảy là Bầu G.

nhân vẬt trên dăy đỊa cầu

          Trước hết xin kể 7 loại thường nghe nói tới. Ấy là:

          1     Loài Tinh Chất thứ Nhất: 1ere Essence élé-mentale.

          2 –   Loài Tinh Chất thứ Nh́: 2è Essence élémentale.

          3 –   Loài Tinh Chất thứ Ba: 3è Essence élémentale.

          4 –   Loài Kim Thạch.

          5 –   Loài Thảo mộc.

          6 –   Loài Cầm thú.

          7 –   Loài Người.

          Ngoài ra c̣n những loài Tinh Linh Ngũ Hành (Esprits de la Nature) và các Hạng Thiên Thần (Anges – Dévas). Cũng có những loài khác mà con người không thể tiếp xúc được, không biết phải gọi làm sao.

sỰ hỌc hỎi Ở 7 bẦu hành tinh

          Trên mỗi Bầu Hành Tinh đều có những bài học riêng biệt cho mỗi loài, từ loài Tinh Chất cho tới Thiên Thần.

          Mỗi loài phải học cho thuộc bài học của ḿnh, học hỏi và kinh nghiệm một lượt.

nhỮng cuỘc tuẦn hoàn

          Trước nhất là những loài sinh ra ở Bầu Hành Tinh thứ Nhất. Học hết chương tŕnh ở Bầu thứ Nhất th́ bỏ Bầu thứ Nhất qua Bầu Hành Tinh thứ Nh́. Tại đây có những bài học khác càng ngày càng khó khăn hơn trước. Rồi cứ tiếp tục như thế từ Bầu thứ Ba cho tới Bầu thứ Bảy.

          Các loài vật đi giáp một ṿng 7 Bầu th́ gọi là hết một cuộc Tuần Hoàn (Une Ronde). Tất cả đều tiến lên một bậc.

          Các loài phải đi 7 ṿng như vậy tức là 7 cuộc Tuần Hoàn. Hết cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy th́ sự tiến hóa trên Dăy Địa Cầu mới chấm dứt. Tới chừng đó sẽ có sự thay đổi h́nh dạng.

sỰ thay đỔi h́nh dẠng

          Hết cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy th́:

          1 –   Tinh Chất thứ Nhất đầu thai làm Tinh Chất thứ Nh́.

          2 –   Tinh Chất thứ Nh́ đầu thai làm Tinh Chất thứ Ba.

          3 –   Tinh Chất thứ Ba đầu thai làm Kim Thạch.

          4 –   Kim Thạch đầu thai làm Thảo Mộc.

          5 –   Thảo Mộc đầu thai làm Thú Vật.

          6 –   Thú Vật đầu thai làm Con Người.

          7 –   Con Người thành Tiên Thánh.

          Đây là nói tổng quát mà thôi. C̣n nhiều chi tiết khác cực kỳ khó khăn. Tỷ như: Hết lúc học hỏi th́ tới thời kỳ nghỉ ngơi. Thời kỳ nghỉ ngơi dài bằng thời kỳ  học hỏi.

          Nói rằng: Thú vật đầu thai làm Người, song sự thật chỉ có 7 loài đầu thai làm người. Hiện giờ mới có 5 loài: Khỉ – Voi Tượng – Ngựa – Chó – Mèo. C̣n hai loài kia chưa biết.

          Những loài khác th́ đầu thai qua loài Tinh Linh hay Ngũ Hành. Loài Ngũ Hành sau đầu thai qua loài Thiên Thần. C̣n các Thiên Thần thành những vị Đại Thiên Thần.

mỤc đích đă đỊnh sẴn

cho con ngưỜi tẠi dăy đỊa cẦu

          V́ mấy lẽ trên đây, tôi mới thường nói:

          Mục đích định sẵn cho con người trên Dăy Địa Cầu là thành một vị Siêu Phàm.

          Nhưng sự thật, không phải tất cả Nhân loại đều được thành Tiên Thánh, bởi v́ sẽ có một số người bị bỏ lại trong cuộc Phán Xét Cuối Cùng của cuộc Tuần Hoàn thứ Năm.

cuỘc tuẦn hoàn thỨ năm

          Hiện giờ Nhân loại đă trải qua 3 cuộc Tuần Hoàn rồi, nghĩa là đă đi hết 3 ṿng, mỗi ṿng 7 Bầu Hành Tinh.

          Qua lần thứ tư này là cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, Nhân loại mới qua khỏi Bầu thứ Nhất A, Bầu thứ Nh́ B và Bầu thứ Ba là Hoả Tinh (Mars) và ngày nay ở tại Bầu Trái Đất là Bầu thứ Tư.

          V́ thế mới gọi: Nhân loại mới trải qua Phân nửa cuộc Tuần Hoàn thứ Tư. Nhân loại c̣n phải trải qua 3 Bầu nữa sau khi bỏ Bầu Trái Đất, ấy là Bầu thứ Năm Thủy Tinh (Mercure), Bầu thứ Sáu F, Bầu thứ Bảy G, mới hết cuộc Tuần Hoàn thứ Tư.

          Qua cuộc Tuần Hoàn sau là cuộc Tuần Hoàn thứ Năm, Nhân loại phải qua ở Bầu thứ Nhất, rồi Bầu thứ Nh́ và Bầu thứ Ba là Hoả Tinh. Khi Nhân loại trở lại Bầu Trái Đất này một lần nữa th́ tức là tới phân nửa cuộc Tuần Hoàn thứ Năm.

          Tới chừng đó sẽ có sự Phán Xét Cuối Cùng (Juge-ment dernier). Những Linh Hồn nào Hạnh kiểm tốt, biết tu nhân tích đức và sống đúng với Đạo Bát Chánh hay là lời dạy trong mấy quyển như: Dưới Chơn Thầy, Trước Thềm Thánh ĐiệnCon Đường của Người Đệ Tử th́ sẽ được đi tiếp tục đầu thai. C̣n bao nhiêu, v́ sự tiến hóa chậm chạp nên bị bỏ lại. Họ phải chờ cho Dăy Hành Tinh thứ Năm sinh ra, họ mới qua Dăy đó tiếp tục đầu thai cho tới khi thành những vị Siêu Phàm. Nên biết Dăy Địa Cầu của chúng ta là Dăy thứ Tư. Ba Dăy trước đă tan ră rồi, nhưng Dăy thứ Ba c̣n để lại một di tích là Mặt Trăng bây giờ đây. Mặt Trăng là Bầu Trái Đất của Dăy thứ Ba.

          Sau khi cuộc tiến hóa của cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy chấm dứt, sáu Bầu Hành Tinh từ Bầu thứ Nhất, Bầu thứ Nh́, Bầu thứ Ba, Bầu thứ Năm, Bầu thứ Sáu và Bầu thứ Bảy, Bầu này rồi tới Bầu kia đều tan ră. Chỉ c̣n lại Bầu thứ Tư là Trái Đất của chúng ta. Nó sẽ thành ra Mặt Trăng của Dăy thứ Năm.

          Dăy Địa Cầu phải chịu chung số phận như 3 Dăy trước nghĩa là nó không c̣n nữa.

dân sỐ trên dăy địa cẦu

          Dân số trên Dăy Địa Cầu là 60 ngàn triệu hay là 60 tỷ. Họ đi xuống trần đầu thai từng đợt, đợt này bỏ xác phàm th́ đợt kia xuống.

          Theo đà tiến hóa hiện thời th́ trên Thiên Đ́nh phỏng định rằng:

          Tới cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy có khoảng:

          a –    12 ngàn triệu thành Tiên Thánh.

          b     12 ngàn triệu thành những vị La Hán.

          c –   12 ngàn triệu được Điểm Đạo lần thứ Nhất cho tới lần thứ Ba.

          Có tất cả 36 ngàn triệu.

          C̣n 24 ngàn triệu bị loại ra trong sự Phán Xét Cuối Cùng của cuộc Tuần Hoàn thứ Năm.

          Nếu từ nay cho tới phân nửa cuộc Tuần Hoàn thứ Năm mà có được nhiều người tu hành đúng công quả th́ lẽ tự nhiên số người bị bỏ lại sẽ giảm xuống. Cầu xin việc này được thực hiện.

*

*     *

chương thỨ mưỜi ba

hai con đưỜng tiẾn hÓA

          Quí bạn đă biết sự Tiến hóa đi theo con đường ṿng cung chứ không phải đi thẳng tới. Thiết tưởng cũng nên biết nó đi theo hai con đường khác nhau:

          Một là: Con đường Đời.

          Hai là: Con Đường Đạo.

I – con đưỜng đỜi

          Con đường Đời là con đường tiến hóa b́nh thường. Nó dài thăm thẳm như chạy đến tận chân Trời, xuyên qua 7 Bầu Hành Tinh. Tất cả Nhân loại đều theo con đường này.

          Nó rất êm đềm, bằng phẳng, rộng thênh thang và đẹp đẽ vô cùng. Hai bên đường, cỏ hoa tươi tốt, tùng bá sum sê. Khách lữ hành muốn đi th́ đi, muốn nghỉ th́ nghỉ, không bị ai câu thúc, ràng buộc.

          Nhưng con người phải trải qua không biết mấy muôn kiếp Luân Hồi, mỗi kiếp đều phải chịu bốn cái khổ: Sinh, Lăo, Bệnh, Tử mới mong đi tới mục đích đă định sẵn cho ḿnh thành một vị Siêu Phàm.

          Con người tiến rất chậm là tại con người chưa biết thật sự ḿnh là ai? Tại sao phải xuống cơi Trần và phải làm những điều ǵ?

          Con người bị vật chất chi phối và kiềm hăm nặng nề, cho nên say mê với những cuộc Vinh hoa, Phú quí và không đánh đúng giá trị của chúng nó. Con người bỏ ngoài tai những lời chỉ dạy của những vị Giáo Chủ, những vị Thánh Nhân, Hiền Triết, cứ làm những chuyện bất nhân, thất đức cho nên mới mang tai hoạ vào thân, và Nhân nào Quả nấy.

          Tới chừng nào con người chịu không nỗi sự đau khổ nữa th́ mới bắt đầu thức tỉnh và t́m kiếm con đường giải thoát là Con Đường Đạo.

II – con đưỜng đẠo

          Con Đường Đạo là con đường tiến hóa vắn tắt, song nó chật hẹp và dốc đứng. Nó dắt đến chót núi cao, trên đó có một Toà Thánh Điện, ai bước vào đó rồi th́ không trở ra ngoài nữa.

tẠi sao phẢi vào đưỜng ĐẠo?

          Tại sao phải vào Đường Đạo? Phải vào Đường Đạo mới tiến mau, bởi v́ trong Cửa Đạo mới có việc dạy dỗ đúng với sự thật lư do sinh hóa Thái Dương Hệ này, và trở nên trọn sáng, trọn lành trước ngày giờ đă đinh sẵn cho Nhân loại.

          Những vị ra dạy Đạo đầu tiên là những Đấng Cao Cả đă dự phần vào việc Tạo lập Tiểu Vũ Trụ này, rồi từ đó truyền tới đời nay và mai sau nữa. Dù cho tới một ngày kia, Thái Dương Hệ này tan ră, mối Đạo cũng vẫn c̣n, không bao giờ dứt.

          Thế nên không hề có sự lầm lạc.

hai sỰ hỌc hỎi:

hỌc hỎi gián tiẾp và hỌc hỎi trỰc tiẾp

          Sự học hỏi ngoài đời và sự học hỏi trong Cửa Đạo chỉ khác có một điều là: Ngoài đời, sự học hỏi vẫn gián tiếp, c̣n trong Cửa Đạo th́ sự học hỏi vẫn trực tiếp.

hỌc gián tiẾp

          Ngoài đời chúng ta học hỏi sự vật một cách gián tiếp. Chúng ta quan sát rồi dùng trí khôn suy nghĩ và thí nghiệm, chúng ta kinh nghiệm rồi kết luận.

          Chúng ta chỉ thấy một phần bề ngoài mà thôi, c̣n bên trong, chúng ta không biết, chúng ta cũng không hiểu v́ lư do nào mà chúng nó có ra đây. Nói cho đúng, thường thường chúng ta học hỏi những hậu quả chứ không biết nguyên nhân sinh ra chúng. Bởi vậy chúng ta thường lầm lạc trong việc xét đoán.

hỌc trỰc tiẾp

          Trái lại, những vị đă bước vào Cửa Đạo, từ bậc Tu Đà Huờn sắp lên, đă luyện tập mở được Thần Nhăn, th́ học hỏi một cách trực tiếp. Các Ngài thấy rơ những điều đang học từ ngoài vào trong, trọn vẹn, không có chỗ nào không biết và về sau cấu tạo được vật đă học nữa, tức là sinh hóa trở lại.

          Tôi xin kể một chuyện ra đây để chứng minh.

          Ngày kia, một vị Đệ tử Chơn Sư gặp một vị Thiên Thần đi tới. Anh vái chào và nói: Thưa Sư Huynh! Tôi không biết tại sao những bông hoa đều có màu sắc khác nhau, cái th́ trắng, cái th́ vàng, cái th́ đỏ, cái th́ tím . . ., xin Sư Huynh chỉ dạy. Vị Thiên Thần ngừng lại rồi gọi Hoa Thần làm vài thứ bông cho anh xem. Gọi là Hoa Thần cho dễ hiểu, chứ họ là những Tinh Linh Fê (fées) có phận sự làm những bông hoa.

          Hoa Thần lấy những Sinh khí cầu (Globules de la vitalité) phối hợp cách nào mà chúng nó thành ra những bông màu trắng, những bông màu đỏ, những bông màu tím, những bông màu vàng. Màu này khác hơn màu kia là do sự kết hợp của các tế bào.

          Xong rồi, Thiên Thần mới hỏi: Bây giờ em có thấy chưa? Vị Đệ tử bèn đáp: Thưa Sư Huynh, em đă thấy rồi. Xin cám ơn Sư Huynh. Vị Thiên Thần từ giả ra đi.

          Nhờ thấy cách cấu tạo thân h́nh vạn vật cho nên sau khi được 5 lần Điểm Đạo làm một vị Siêu Phàm, Chơn Tiên, mới có thể dự vào sự tạo lập một Dăy Hành Tinh.

          Quí bạn muốn thấy Sinh khí cầu th́ buổi sớm mai khoảng 8, 9 giờ nắng tốt, quí bạn quay lưng về phía mặt trời mọc, quí bạn chăm chỉ nh́n lên không, quí bạn sẽ thấy những điểm trắng nhỏ xíu, xẹt qua, xẹt lại. Ấy là những Sinh khí cầu. Mỗi Sinh khí cầu gồm 7 nguyên tử kết hợp lại với nhau.

*

*    *

chương thỨ mưỜi bỐn

phương pháp thỰc hành

*

*     *

tỰ chỦ

          Dù cho ở ngoài đời hay là ở trong Đường Đạo, muốn thành công mau lẹ, con người phải Tự chủ.

          Tự chủ đây có nghĩa là: Ḿnh phải làm chủ lấy ḿnh.

          Nói vậy th́ ḿnh không làm chủ lấy ḿnh sao? Thật sự chưa có điều đó đâu.

          Ta thường nghe nói: Thật nó mạnh hơn tôi. Vậy nó là ai? Tôi là ai?

          Cũng có người thốt ra câu này: Tại tánh tôi như vậy.

          Vậy th́ tánh nết con người ở đâu mà ra?

          Nói cho đúng, tánh nết con người là tánh nết của 3 Thể: Thân – Vía – Trí mà con người thường dùng hàng ngày.

          Tại sao có việc kỳ lạ này? Muốn hiểu biết, chúng ta nên xét kỹ lưỡng những điều sau đây:

          Quí bạn ngồi không, đừng tưởng cái chi hết. Vài giây trôi qua th́ quí bạn sẽ nghe trong ḷng tiếng nhắc nhở quí bạn nhớ tới những chuyện đă qua rồi, hết việc này tới việc khác. Vậy th́ hỏi cái chi giục quí bạn nhớ tới mấy điều đó? Trong khi quí bạn không chú ư tới cái chi cả.

          Tiếng nói đó là tiếng nói của Cái Trí.

          Thật sự bấy lâu nay, chúng ta chưa phân biệt được cái nào thật là điều chúng ta muốn, c̣n cái nào vốn của 3 Thể muốn.

          Chúng ta cứ tưởng những điều chúng nó muốn là những điều chúng ta muốn, cho nên chúng ta đồng hóa với chúng  nó. V́ thế, tánh nết của chúng nó làm ra tánh nết của con người.

          Các vị Thánh Nhân hoàn toàn sáng suốt, biết rơ điều này nên dạy cho chúng ta biết tánh nết của 3 Thể. Biết được rồi mới sửa trị chúng nó được.

 

tẠi sao 3 thỂ có nhỮng tánh nẾt?

          Ta biết rằng: Xác Thân, Cái Vía và Cái Trí do những nguyên tử khác nhau cấu thành. Đứng riêng rẽ một ḿnh, mỗi nguyên tử chỉ có sự sống mà thôi. Nhưng khi hợp lại làm một Thể, một thân h́nh, chúng nó có một ư thức riêng biệt làm ra tánh nết chúng.

          Đây là một bí mật của Tạo Công, tới bậc Siêu Phàm mới hiểu được chứ sự hiểu biết của chúng ta c̣n cạn hẹp lắm.

          Xin tóm tắt tánh nết của 3 Thể như sau đây:

tánh nẾt cỦa xác thân

          Xác Thân thích món ngon, vật lạ, thích ngủ nghê và chơi bời. Nó rất biếng nhác, không muốn làm việc, dù là công việc của bổn phận. Nó hay sanh nạnh, tức là giao cho kẻ khác những chuyện mà nó phải làm.

tánh nẾt cỦa cái vía

          Cái Vía thích những sự rung động dữ dội. Nó muốn cho con người nóng nảy, giận hờn, nói những tiếng nặng nề, mắng nhiếc, rủa sả, nói láo, nói xược, đắm mê tửu sắc, tham lam, khát vọng, toan chiếm đoạt của thiên hạ. Nói tóm lại, là những thói hư tật xấu.

tánh nẾt cỦa cái trí

          Cái Trí tánh rất lao chao, không chịu định vào một chỗ cho lâu. Nó tưởng cái này rồi bắt qua cái kia liền liền không ngớt. Nó không khác nào con khỉ nhảy nhót trên cành, và tượng trưng Tề Thiên trong Truyện Tây Du. Nó rất kiêu căng, tự phụ, khoe ḿnh, chê người, nhất là nó thích chia rẽ. Nó nói: Tôi khác hơn anh.

tẠi sao cái vía và cái trí

gẠt con ngưỜi đưỢc?

          Bây giờ ta nên t́m hiểu, tại sao Cái Vía và Cái Trí gạt con người được?

          Nên biết Cái Vía có kinh nghiệm, nó biết rằng nếu nó cấu kết với Cái Trí đặng thuyết phục con người làm những điều chúng nó ham muốn th́ những lạc thú của nó sẽ tăng lên thập bội. Con người tưởng là ḿnh muốn nên thực hành. Thường thường những sự ham muốn này xấu xa và thấp hèn. Con người phạm rồi phải đầu thai nhiều kiếp để trả quả.

phẢi thẮng phỤc cái trí trưỚc nhẤt

          Nói cho đúng muốn sửa trị 3 Thể, trước nhất phải làm chủ Cái Trí rồi th́ sai khiến hai Thể: Cái Vía và Xác Thân dễ dàng.

          Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh (La Voix du Silence), phần thứ nhất, năm câu đầu là:

          1 –   Những lời này để dành cho những kẻ chưa biết những mối nguy hiểm của những Iddhi bậc thấp.

          2 –   Ai muốn nghe và hiểu được tiếng Năda “Tiếng Vô Thinh” th́ phải học cho biết bản chất của Dhărană.

          3 –   Khi đă trở nên lănh đạm đối với những đối tượng của giác quan, đệ tử phải t́m kiếm của Ngũ quan, kẻ sản xuất tư tưởng, kẻ gây ảo mộng.

          4 –   Cái Trí là kẻ đại phá hoại Sự Thật.

          5 –   Đệ tử phải diệt trừ kẻ phá hoại.

          Iddhi (Nam Phạn) đồng nghĩa với Siddhi (Bắc Phạn) có nghĩa là những quyền năng siêu việt, những phép Thần thông. Có hai thứ: Cao và Thấp.

          Dhărană, theo lối giải của quyển Tiếng Nói Vô Thinh là sự tập trung trọn vẹn Cái Trí vào một đối tượng nội tâm, đồng thời không chú ư đến những ǵ thuộc về Vũ Trụ bên ngoài tùy cảnh giới của giác quan.

          Nhưng đây là những lời dạy các đệ tử, những kẻ chí nguyện là đệ tử, chứ người mới học Đạo chưa có thể thực hành được.

tam đỘc: tham – sân – si

          Phật giáo nói: Tham – Sân – Si là Tam độc hay Tam chướng gây ra tội lỗi và cản trở đường tiến hóa của con người, nhưng không giải thích chúng từ đâu sinh ra.

          Thiết tưởng, t́m cội rễ chúng nó cũng là điều cần thiết vậy.

cỘi rỄ cỦa tam đỘc: tham – sân - si

          Tham – Sân – Si vốn dịch ba chữ: RagaDosaMohar của Phạn ngữ.

          Raga: Pháp dịch là Désir, sự ham muốn, Tàu dịch   là Tham.

          Dosa: Pháp dịch là Colère – Haine: giận dữ, oán hận. Tàu dịch là Sân, đáng lẽ phải thêm chữ Hận nữa.

          Mohar: Pháp dịch là Erreur – Illusion: sự lầm lạc, ảo mộng, Tàu dịch là Si.

          Tham – Sân – Si tức là các tật xấu của Thân, Vía, Trí. Xem xét lại: Tánh nết của Xác Thân, ta thấy nó Tham và Si, c̣n Cái Vía và Cái Trí th́ Tham, Sân, Si đủ hết. Nhưng nên hiểu không phải chúng nó muốn hại ta, mà chỉ tại những Tinh Chất (Essence élémentale) làm Cái Trí và Cái Vía càng ngày càng đi xuống cho nên chúng nó cần những sự rung động dữ dội trái ngược với sự tiến hóa của chúng ta.

          Ngày sau, khi chúng ta tinh luyện chúng và tinh thần hóa chúng rồi th́ chúng sẽ kết thành một chiếc bè đưa chúng ta qua Bờ Giác.

          Điều quan trọng là ngay bây giờ chúng ta lo sửa đổi mục đích, chúng ta biến cái dở thành cái hay, cái dữ thành cái lành, cái quấy thành cái phải th́ mọi việc sẽ trở nên tốt đẹp.

sỬa trỊ xác thân

          Muốn sửa trị Xác Thân, chúng ta phải giữ ǵn đúng phép vệ sinh. Trong mọi việc phải có tiết độ và giữ mức trung b́nh. Hầu hết chúng ta đều biết phép vệ sinh thường thức, nhưng ít ai tuân theo, cho nên mới mang nhiều chứng bệnh hiểm nghèo nguy hại đến tánh mạng.

          Thịt thật bổ dưỡng song chúng chứa nhiều chất độc, nếu lạm dụng th́ sẽ đau dạ dày, đau ruột, kiết lỵ v.v. . . . Xét về hàm răng và khúc ruột th́ con người thuộc về loài thú ăn cỏ chứ không phải loài thú ăn thịt như cọp, beo.

          Có một điều ta nên nhớ măi là, nếu ta ăn thịt heo th́ thịt con heo hóa ra máu huyết xương thịt của ta, từ điển của nó pha lẫn với từ điển của ta. V́ thế, muốn cho máu huyết trong sạch th́ người tu hành phải trường chay. Tuy nhiên, đối với những người có căn lành kiếp trước th́ kiếp này ăn chay dễ dàng. C̣n những người mới tu hành nên tập ăn chay. Mỗi ngày, sớm mai ăn mặn, chiều ăn chay, trọn hai năm như vậy. Qua năm thứ ba có thể trường chay được. Nếu đang ăn mặn mà bắt qua ăn chay liền, e cho cơ thể không quen với rau trái th́ sẽ phát bệnh, hành giả sẽ bỏ ăn chay, ăn mặn lại như cũ. Nói cho đúng phép, khi vào hàng tu tŕ, ẩn ḿnh vào chốn thiền môn th́ phải trường chay, tuyệt dục.

          C̣n các cư sĩ nên tập trường chay và có tiết độ trong sự giao hợp. Một giọt rượu không uống, bất câu thứ rượu ǵ, không hút thuốc điếu, nói chi đến thuốc phiện và các chất ma tuư.

          Phải sạch sẽ từ trong thân ḿnh cho tới y phục bên ngoài. Hàng ngày tắm gội, tập thể dục, lựa những tư thế hợp với tuổi tác và sức khoẻ, hoặc đi bộ hay cưỡi xe đạp.

          Những điều nói trên đây, từ miếng ăn, giấc ngủ, cho đến việc giải trí, nếu giữ đúng phép sệ sinh th́ sẽ ít bệnh hoạn, ngoại trừ những trường hợp bất khả kháng là Nhân Quả.

sỬa trỊ cái vía

          Cái Vía con người có màu sắc, thường thường là không được đẹp lắm v́ tánh t́nh con người không được tốt.

          Muốn tinh luyện Cái Vía th́ t́nh cảm và ư muốn phải từ bi, bác ái, cao thượng, vị tha, khoan dung, đại độ. Không ngần ngại ra tay giúp kẻ khác, tùy khả năng, tùy phương tiện, tùy hoàn cảnh mà vô cầu tức là không mưu lợi lộc cho ḿnh hay là sự ban thưởng kiếp sau.

          Nên biết Cái Vía, liên kết chặt chẽ với Cái Trí, trong Đạo đức gọi hai Thể nhập chung là Kama – Manas.

          Cái Trí ảnh hưởng rất nhiều với Cái Vía. Nếu tư tưởng cao thượng th́ T́nh cảm sẽ trở nên tốt đẹp.

          Nhưng muốn sửa trị và tinh luyện Cái Vía th́ mỗi tháng phải tập cho một đức tánh.

          Sau đây là 12 đức tánh để tập trong một năm:

          1     Từ bi Bác ái.                        7     Khôn khéo

          2 –   Bố thí.                                  8 –   Thanh khiết

          3 –   Chơn thật.                             9 –   Tự tín.

          4 –   Can đảm                              10 –   Phụng sự.

          5 –   Khoan dung.                         11 –  Hy sinh.

          6 –   Thăng bằng.                          12 Mặc mặc (Nín thinh)

          Trong 12 đức tánh này, ba đức tánh đầu tiên: Từ bi Bác ái, Bố thí và Chơn thật phải tập trước nhất; c̣n ba đức tánh chót: Phụng sự, Hy sinh, Mặc mặc (Nín thinh) cũng không được bỏ qua. C̣n sáu đức tánh kia tự ư muốn thay thế tánh nào cũng được.

          Phải biết nếu không có ḷng Từ bi Bác ái th́ các tánh tốt khác, giống như nước đổ xuống cát bị rút đi mất hết. C̣n có ḷng Từ bi Bác ái th́ những tánh tốt khác sẽ lần lượt sinh ra.

phẢi tẬp bao nhiêu năm?

          Khi tập xong đức tánh thứ 12 rồi th́ lại tập lại tánh thứ nhất.

          Phải tập 14, 15 năm như vậy và hăy nhớ nguyên tắc này:

          “Khi tập trung tư tưởng vào một đức tánh nào trong nhiều năm như vậy th́ đức tánh đó sẽ thành ra một thành phần của chúng ta, nghĩa là tự nhiên chúng ta có đức tánh đó mà ta không ngờ.”

          Qua năm thứ 15, ta khỏi cần phải tập từ tháng nữa. Mỗi ngày ta cứ nhớ tới 12 đức tánh đó một hai lần đủ rồi và cứ lo làm việc bổn phận hàng ngày.

          Ta chớ quên rằng: Trọn đời, nếu không biết phương pháp luyện tập th́ chưa ắt con người trừ được một tật xấu và tập được một tánh tốt.

          Quả thật là:

Giang sơn dễ đổi,

Tánh người khó thay.

          Tuy nhiên, nếu bền chí th́ thành công. Mau hay chậm tùy theo sự cố gắng nhiều hay ít. Ta phải tập rèn tánh tốt chẳng những từ kiếp này mà luôn tới những kiếp sau liên tiếp cho tới chừng nào ta thành một vị Siêu Phàm mới bắt qua đường khác.

          Những kiếp con người giống như một xâu chuỗi dài, hột này liền với hột kia. Thế nên kiếp này là kết quả của kiếp trước, kiếp sau là kết quả của kiếp này. Nếu kiếp này không gieo trồng giống tốt th́ kiếp sau có chi mà gặt hái. Luật Nhân Quả vốn bất di bất dịch.

          Chúng ta nên suy hai câu này, khi nghe có người nói: Tới già tôi sẽ tu.

  Mạc đăi lăo lai phương niệm Phật,

  Cổ phần đa thị thiếu niên nhơn.

  (Đừng đợi tới già mới niệm Phật,

  Thiếu chi mồ trẻ đă qua đời.)

sỬa trỊ cái trí

          Muốn sửa trị Cái Trí, ta phải làm chủ nó. Thắng phục rồi mới điều khiển nó được.

          Cái Trí không khác nào con ngựa chứng, nếu không tra hàm thiếc và dây cương vào miệng nó th́ chớ trông nó tuân theo ư muốn của ḿnh. Hàm thiếc, dây cương là Định Trí.

          Phải tập trung tư tưởng vào việc đang làm, dù cho Cái Trí giục ḿnh nhớ tới chuyện này chuyện kia cũng đừng nghe theo nó, cứ kéo nó lại vấn đề đang lo.

nhiỀu cách tẬp luyỆn

          Có nhiều cách tập luyện nhưng tất cả phải tuân theo nguyên tắc là: Hết sức chú ư hay chăm chỉ vào việc đang lo lắng, đang suy nghĩ. Sau khi làm công việc xong, Cái Trí ở không th́ nhớ tới một câu Chơn ngôn hay là một tư tưởng cao thượng nào đó, hoặc thấy ḿnh quỳ dưới chân Sư Phụ ḿnh, hay là quỳ dưới chân Đức Bồ Tát, Đức Phật tùy ư.

          Có người thường niệm một câu như:

          “Gate, gate, paragate, parasamgate, Bodhi Svaha.” hoặc tập theo phương pháp sau này:

mỘt phương pháp luyỆn tẬp rẤt có

hiỆu nghiỆm tỪ xưa

          Phương pháp luyện tập dưới đây rất có hiệu nghiệm.

          Mỗi ngày công phu bốn lần:

          1 – Sớm mai sau khi thức dậy.

          2 – Trưa 12 giờ.

          3 – Chiều 6 giờ.

          4 – Tối trước khi đi ngủ.

          Niệm trong ḷng câu này:

          “AUM (hay OM) – Tôi là Atman (Ắt-măn) – Chơn Linh cao cả, toàn năng, toàn thiện. Ḷng Từ bi Bác ái của tôi bao trùm Vũ Trụ Càn Khôn.

          Tôi là MỘT nới vạn vật – Tôi thương yêu tất cả.

          Tư tưởng của tôi – Ư muốn của tôi – Lời nói của tôi – Việc làm của tôi hoàn toàn trong sạch.”

          Mỗi lần niệm 7 câu. Lúc nào không làm chi hết cứ niệm càng nhiều càng tốt.

          Thực hành trong sáu tháng liên tục không gián đoạn th́  sẽ thấy tánh t́nh bắt đầu trở nên dịu hiền hơn trước. Được nhiều năm như vậy th́ thành ra một người mới, ḷng nhân mở rộng đại độ khoan dung, tâm trí sáng suốt hơn trước, không bao giờ sai.

          Xin nhắc là nhờ tập trung tư tưởng vào một vấn đề ngày này qua ngày kia, và năm này qua năm nọ cho nên các nhà Bác học, các nhà Khoa học mới sáng chế ra nhiều thứ thuốc hay để chữa lành nhiều chứng bệnh xưa kia dường như nan y, những máy móc và những vũ khí tối tân như: Phi cơ, tiềm thủy đỉnh, Radar, tia sáng Laser, những phi thuyền không gian và những vệ tinh nhân tạo v.v. . . . (Kể ra là thừa v́ quí bạn đă thấy sách báo nói tới rồi).

          Ở đây tôi không dùng hai chứ Tham Thiền v́ Tham Thiền là danh từ chuyên môn của Đạo đức thuộc về phần Tinh Thần. Hơn nữa chỉ có Chơn Sư A Sơ Ca (Asekha) mới dạy Tham Thiền mà thôi. Bởi v́ tham Thiền là vấn đề riêng của mỗi người. Khi Chơn Sư chỉ dạy th́ Ngài mở Huệ Nhăn xem coi Đệ tử có làm đúng phép hay không. (Xin xem bài “Thiền Ấn Độ và Thiền Trung Hoa” trong quyển Giác Ngộ).

phẢi cỐ gẮng măi

          Nói rất dễ, hành rất khó. Cả ngàn kiếp rồi ta để cho 3 Thể: Thân – Vía – Trí điều khiển ta. Bây giờ muốn sai khiến chúng nó lại th́ đâu phải là chuyện dễ dàng như ta tưởng.

          Ba Thể này rất ương ngạnh, đâu có nghe theo liền mệnh lệnh của ta. Một trăm lần đầu tiên, chắc chắn ta thất bại hết một trăm lần. Nhưng hăy bền chí. Sức chúng nó có hạn, c̣n chúng ta là Chơn Thần, sức mạnh của chúng ta là sức mạnh của Thượng Đế vốn vô biên. Mỗi lần ta chống cự lại chúng nó th́ sức mạnh của chúng nó giảm đi lần lần, chúng nó sẽ trở nên yếu đuối và sẽ ngoan ngoăn vâng lời. Mặc dù vậy, ta cũng phải đề pḥng, con ngựa lâu lâu cũng có khi nổi chứng, nhưng không lâu. Thế nên mặc dù tới bậc La Hán cũng c̣n phải giữ ǵn từ chút, nói chi là chúng ta đây. Trên Đường Đạo, các Ngài là những vị đă trưởng thành, c̣n chúng ta là những trẻ nít mới tập đi, c̣n té lên té xuống. Nếu hiu hiu tự đắc là điều đáng tiếc lắm vậy.

          Phải tập luyện từ kiếp này qua kiếp kia, dù vấp té cũng đứng dậy, phủi quần áo rồi cứ đi tới măi.

          Sự thành công là vấn đề thời gian.

*

*    *

chương thỨ mưỜi lăm

chuẨn bỊ đẶng bưỚc vào đưỜng ĐẠo

          Một khi tự chủ được rồi, th́ sinh viên mới có thể thực hành đúng theo Đạo Bát Chánh hay là những lời dạy trong quyển Dưới Chơn Thầy. Ấy là chuẩn bị bước vào Đường Đạo.

          Sinh viên nào có ḷng vị tha, lo trau giồi hạnh kiểm và giữ được mỗi đức tánh trên mức trung b́nh một chút th́ sẽ được một vị Chơn Sư A Sơ Ca thâu nhận làm đệ tử.

bưỚc vào cỬa đẠo

đưỢc điỂm đẠo lẦn thỨ nhẤt

          Khi Chơn Sư thấy vị đệ tử hội đủ điều kiện do Luật Trời qui định hầu được Điểm Đạo lần thứ Nhất th́ Ngài dắt anh đến tŕnh diện với Quần Tiên Hội xin được Điểm Đạo cho anh.

          Sinh viên được Điểm Đạo lần thứ Nhất, Ấn giáo gọi anh là Pavrijataka, có nghĩa là “Vô Trú.” Sư Phụ bảo anh đi tới đâu th́ anh đi tới đó. Phật giáo gọi anh là Sowani hay là Sotâpanna, có nghĩa là bước vào đường tiến hóa của những bậc Siêu Phàm, gọi là Nhập Lưu. Tàu dịch là Tu Đà Huờn.

          Anh phải chặt đứt mười chướng ngại buộc trói con người vào bánh xe Luân Hồi từ đời này qua đời kia. Phật giáo gọi là Samyojana. Ấy là:

          Một là: Không thấy được Phàm Nhơn là mộng ảo.

Hai là: Sự hoài nghi hay là không chắc ư có Nhân Quả, Luân Hồi và Cơ Tiến Hoá.

          Ba là: Tin tưởng dị đoan.

          Bốn là: Say đắm dục t́nh.

          Năm là: Giận hờn hay oán hận.

          Sáu là: Muốn sống trong cơi hữu h́nh.

          Bảy là: Muốn sống trong cơi vô h́nh.

          Tám là: Kiêu căng.

          Chín là: Tâm c̣n xao động.

          Mười là: Vô Minh.

đưỢc điỂm đẠo lẦn thỨ nh́

          Khi vị Tu Đà Huờn diệt được ba chướng ngại đầu tiên th́ được Điểm Đạo lần thứ Nh́.

          Ấn giáo gọi anh là Koutichaka có nghĩa là người đă được một túp lều.

          Phật giáo gọi anh là Sakadagamin, có nghĩa là trở lại một lần nữa mà thôi: Nhất Lai – Tàu dịch là Tư Đà Hàm.

đưỢc điỂm đẠo lẦn thỨ ba

          Giữa hai lần Điểm Đạo lần thứ Nh́ và lần thứ Ba không có chướng ngại nào phải chặt đứt. Nhưng sinh viên phải lo mở mang Thượng Trí đặng nó phản chiếu ánh sáng của Trực Giác.

          Ấn giáo gọi sinh viên được Điểm Đạo lần thứ Ba là Hamsa, có nghĩa là Con Hạc. Tục truyền rằng: Con Hạc đứng trước một chậu sữa có pha nước th́ phân biệt được cái nào là sữa, cái nào là nước. Đây là nói bóng dáng. Bậc Hiền Triết phân biệt được cái nào lành, cái nào dữ, cái nào hư, cái nào thật, tức là đánh đúng giá trị của mọi vật.

          Phật giáo gọi anh là Anagami, có nghĩa là Bất Lai, không trở lại nữa. Tàu dịch là A Na Hàn.[8]

đưỢc điỂm đẠo lẦn thỨ tư

          Vị A Na Hàm chặt đứt chướng ngại thứ Tư và thứ Năm th́ được Điểm Đạo lần thứ Tư.

          Ấn giáo gọi Ngài là Parahamsa có nghĩa là Đại Thiên Hạc.

          Phật giáo gọi Ngài là Arhat hoặc Arahat, có nghĩa là Đại Đức, Tôn Giả, xứng đáng được thọ lănh những vật người ta cúng dường.

          Vị La Hán phải lo diệt trừ năm chướng ngại chót. Phải sợ chướng ngại thứ Sáu là kiêu căng.

          Ngài vào cơi Niết Bàn học hỏi song chưa được ở luôn tại đó.

đưỢc điỂm đẠo lẦn thỨ năm

          Khi bức màn chót là Vô Minh rớt xuống th́ vị La Hán trở nên hoàn toàn sáng suốt. Ngài không c̣n cái chi học hỏi tại Dăy Địa Cầu này nữa. Ngài thành một vị Siêu Phàm, chúng ta gọi Chơn Tiên, Phật giáo gọi là A Sơ Ca (Asekha), nghĩa là không c̣n làm đệ tử. Ngài được Năm lần Điểm Đạo.

          Ngài nhập vào cơi Niết Bàn và được phép ở vĩnh viễn tại đó.

          Trước mặt Vị Chơn Tiên có Bảy đường tiến hoá khác nhau. Ngài có quyền chọn lựa con đường nào Ngài muốn theo đuổi.

          Ấn giáo gọi Ngài là Atita, có nghĩa là đă vượt qua hay là Jivanmukta, tức là Linh Hồn đă được giải thoát.

          Trong Bảy đường tiến hoá có một đường là ở lại Trần thế, giữ xác phàm đặng độ đời.

          Tất cả những Vị Phật, những Vị Bồ Tát, những Đấng Cao Cả hiện giờ c̣n ở lại cơi Trần vốn theo con đường này.

          Tới bậc Siêu Phàm mới được phép thâu nhận đệ tử, các vị La Hán chỉ được phép làm Sư Huynh thôi.

sỰ tiẾn hoá thỰc sỰ cỦa con ngưỜi

          Tới đây tôi chắc quí bạn thấy rơ sự tiến hóa thực sự của con người là sự tiến hóa của tánh t́nh.

          Dù cho có tài lấp biển dời non, chỉ đá hoá vàng, kêu mưa hú gió, khiến Quỷ sai Thần mà không có đủ đức tánh do Thiên Đ́nh qui định th́ cũng không được dành đề Tiên Tịch.

          Phải phát triển những tánh tốt cho tới mức tuyệt đỉnh tại cơi Trần th́ mới được thành Chánh quả làm một vị Siêu Phàm.

          Mới xem qua 10 chướng ngại gọi là Samyojana th́ thấy chúng nó tầm thường quá, nhưng chúng ta lầm vậy. Chúng nó là những tường đồng vách sắt, con người đụng tới th́ té nhào. Phải có thần lực mới xoi thủng chúng nó được.

          Càng lên cao, chúng nó càng tế nhị, thoạt ẩn, thoạt hiện. Người học Đạo phải giữ ḿnh như đứng trên vực sâu hố thẳm, trật chân th́ sẽ rớt xuống đáy sâu.

          Nếu Quả vị Chơn Tiên đạt được dễ như trở bàn tay th́ nó không có giá trị chi cả.

          Tiếc thay! Có nhiều người học Đạo khinh thường việc tu tâm, luyện tánh, đinh ninh rằng việc đó c̣n thấp thỏi lắm. Phải t́m cái chi cao siêu hơn, tức là những phép Thần thông rộng lớn như các Tiên trong những chuyện Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu, Đông Du Bát Tiên. Mấy chục năm trước có một ông bạn hỏi tôi: Có quyển nào cao hơn quyển Dưới Chơn Thầy không? Tôi trả lời: Không có. Mặc dù biết rằng quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo c̣n cao hơn quyển Dưới Chơn Thầy. Trong khi tṛ chuyện, tôi thấy ông muốn có những quyền năng siêu việt mà quên phứt những lời Phật dạy là: Lánh dữ – Làm lành – Rửa ḷng trong sạch.

          Thiết tưởng cũng nên biết rằng, các vị Tiên trên Thiên Đ́nh không phải là các vị Tiên mà Truyện Tàu đă diễn tả.

          Các Ngài ngày đêm không ngớt chăm nom sự tiến hóa của các loài vật trên Địa Cầu từ ba loài Tinh Chất, Kim Thạch, Thảo Mộc cho tới Cầm Thú, Con Người, các hạng Tinh Linh và Thiên Thần cho đúng với Cơ Trời. Các Ngài có th́ giờ đâu mà sớm chơi Bắc Hải tối về Thượng Ngô hay là xuống Trần lập trận khoe tài, đấu phép đặng tranh đua cao thấp, cho đến đỗi phải bỏ mạng nới chốn chiến trường.

          Đó là hậu quả của cái hư danh và tánh kiêu căng tự phụ, chưa tự biết ḿnh.

          Ấy cũng là một cái gương thiên cổ để cho những người học Đạo đời sau soi chung.

*

*    *

chương thỨ mưỜi sáu

phẢi tu hành trong bao nhiêu kiẾp

mỚi lên tỚi bẬc siêu phàm?

          Lấy bậc trung, khi được Điểm Đạo lần thứ Nhất, vị Tu Đà Huờn phải tu hành thêm 7 kiếp nữa mới lên tới bậc La Hán. C̣n vị La Hán cũng phải tu hành 7 kiếp nữa mới thành một vị Siêu Phàm A Sơ Ca. Tất cả là 14 kiếp. Tuy nhiên, có thể thu ngắn thời gian này tuỳ theo công phu luyện tập.

          C̣n khi khởi đầu tu hành cho tới lúc được Chơn Sư thu nhận làm Đệ tử, không biết phải bao nhiêu kiếp.

          Nếu đă xuất gia, tu tŕ, trường chay, tuyệt dục th́ có thể trong năm, sáu kiếp, sẽ có kết quả tốt đẹp. C̣n làm Cư sĩ, mỗi kiếp đều có gia đ́nh th́ chưa ắt trong ba, bốn chục kiếp sẽ gặp đặng Chơn Sư, bởi v́ con người đă để chín phần mười ngày giờ để lo cho tṛn bổn phận làm vợ chồng, làm cha mẹ, không làm sao có th́ giờ để tu tâm luyện tánh.

          Nhưng mà chớ nên v́ lẽ đó mà ngă ḷng, mỗi ngày cứ nhớ tới một tánh tốt nào đó và nói trong ḷng: Tôi sẽ có tánh đó.

          Lâu năm, chầy tháng, quí bạn sẽ có dịp làm được một vài việc lành.

v́ lư do nào Chơn Sư biẾt ta có

nhỮng tánh tỐt cẦn thiẾt đẶng 

thu nhẬn làm đỆ tỬ?

          Có bạn thắc mắc hỏi: Chơn Sư ở Trung Hoa, Tây Tạng, Ấn Độ, Âu Châu, Ai Cập, cách xa ta muôn vạn dậm, làm sao các Ngài biết ta có những đức tánh cần thiết để thu nhận làm đệ tử?

          Để trả lời câu hỏi này, tôi xin thuật tóm tắt sự kinh nghiệm của Đức Leadbeater cho quí bạn xem:

sỰ kinh nghiỆm cỦa ĐỨc Leadbeater

          Ngài nói:

          “Tôi được vào hàng đệ tử cách đây hai mươi lăm năm. Tôi có quen biết một người rất nhiệt thành, rất tin tưởng về sự hiện diện của Chơn Sư và mục đích đời sống của anh là dọn ḿnh để phụng sự Ngài. Về tất cả những phương diện, anh hơn tôi nhiều lắm, nhưng tôi không biết tại sao anh chưa được Chơn Sư thu nhận làm đệ tử.

          Vẫn c̣n mới và chưa biết phương pháp làm việc của Huyền bí học, cho nên một ngày kia, khi Chơn Sư rảnh việc, tôi mới kính cẩn đem tên anh tŕnh với Ngài và nói rằng có lẽ anh sẽ là một người đệ tử tốt.

          Chơn Sư mỉm cười vui vẻ và nói với tôi: “Con đừng lo người bạn của con bị bỏ quên, không có một người nào bị bỏ quên đâu. Nhưng trong trường hợp người bạn của con, y c̣n một Nhân Quả phải trả nên chưa có thể thu nhận y được. Chẳng bao lâu y sẽ từ giả cơi Trần, rồi không bao lâu y sẽ đầu thai lại. Tới chừng đó, nợ đă trả xong, những điều con muốn cho y sẽ được thành tựu.”

          Nói rồi với ḷng Từ bi luôn luôn sẵn sàng biểu lộ, Ngài cho Tâm tôi nhập vào Tâm Ngài thân mật hơn trước rồi đem tôi lên một cảnh cao mà tôi chưa từng lên tới. Nơi đó Ngài chỉ cho tôi xem cách các Đấng Chơn Sư chăm lo cơi Trần.

          Quả Địa Cầu trải ra trước mắt chúng tôi với cả trăm triệu Linh Hồn phần đông chưa tiến hóa cho nên lúc bấy giờ chưa có thể dùng được. Nếu trong đám đông này có một Linh Hồn đi gần đến điểm có thể hữu dụng cho các vị Chơn Sư th́ y khác biệt với những người kia như ánh sáng đèn pha trong đêm tăm tối.

          Chơn Sư mới nói: “Đó, con có thấy chưa? Làm sao Thầy quên được một người nào dù c̣n lâu lắm y mới được thu nhận vào hàng đệ tử Nhập môn.”

          Bao nhiêu đây cũng đủ chứng tỏ rằng: Chơn Sư biết rơ chúng ta trước khi chúng ta biết Ngài. Chỉ lo một điều là chúng ta chưa đủ đức hạnh để xứng đáng làm đệ tử của Ngài mà thôi.

          Tưởng cũng phải nói trắng ra, quả Địa Cầu chia ra nhiều khu vực gồm không biết chắc là bao nhiêu triệu người. Mỗi khu vực đều có hai vị quản trị. Một vị là Đại Thiên Thần, một vị là nhân viên cao cấp của Quần Tiên Hội. Hai Ngài chịu trách nhiệm về sự tiến hoá trong địa phận của hai Ngài, từ ba loài Tinh Chất cho đến Kim Thạch, Thảo Mộc, Cầm Thú, Con Người, các Tinh Linh và các Thiên Thần.

          Hai Ngài đọc trong ḷng chúng ta như xem một quyển sách giở trước mắt. Hai Ngài biết rơ chúng ta tiến hóa đến bậc nào và làm những ǵ. Các Ngài không can thiệp vào những hành động của chúng ta v́ để cho Nhân Quả định đoạt.

          Tuy nhiên, các Ngài sẵn sàng ra tay cứu giúp những người Đạo đức mắc phải hàm oan bị người ta vu cáo.

          Lời xưa nói: Chớ lấy vải thưa che mắt Thánh. Rất đúng vậy.

điỂm đẠo là ǵ?

          Tất cả những người học Đạo đều muốn biết Điểm Đạo là ǵ? Điểm Đạo tại đâu? Và ai Điểm Đạo? Tôi xin nói vắn tắt thôi.

          Điểm Đạo là ǵ?

          Điểm Đạo là chỉ phương pháp khai mở Tâm Thức và phát triển nó đặng học hỏi và làm việc ở mấy cơi cao. Nói bóng dáng là giao ch́a khoá mở cửa cơi Trời.

          Người đă được Điểm Đạo, vào cơi nào th́ phải tỉnh táo và lo thi hành phận sự như lúc c̣n thức tại cơi Trần đây, chứ không c̣n mê muội như trước nữa.

          Trước khi được Điểm Đạo phải qua một cuộc thi gồm đủ tài đủ đức. Thi đậu mới được Điểm Đạo.

điỂm đẠo là ǵ?

          Điểm Đạo lần thứ Nhất tại cơi Trung Giới, thí sinh ở trong Cái Vía, và dùng Cái Vía như dùng Xác Thân.

          Điểm Đạo lần thứ Nh́ tại cơi Hạ Thiên, thí sinh ở trong Hạ Trí.

          Điểm Đạo lần thứ Ba ở tại cơi Thượng Thiên, thí sinh ở trong Thượng Trí.

          Điểm Đạo lần thứ Tư tại cơi Bồ Đề, vị A Na Hàm ở trong Thể Bồ Đề.

          Điểm Đạo lần thứ Năm tại cơi Niết Bàn, vị La Hán ở trong Tiên Thể.

ai điỂm đẠo ?

          Tại quả Địa Cầu, chỉ có một Đấng Chí Tôn được phép Điểm Đạo mà thôi: ấy là Đức Ngọc Đế.

          Ngài thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế cai trị và chăm nom sự tiến hoá của muôn loài vạn vật trên quả Địa Cầu này. Không có sự ưng thuận của Ngài th́ không ai được thu nhận vào Quần Tiên Hội tức là Thiên Đ́nh.

          Hào quang của Ngài bao trùm Trái Đất, không có một con kiến nào chết hay một sự bất công nào xảy ra mà Ngài không hay, không biết. Trong hai kỳ Điểm Đạo đầu tiên, lần thứ Nhất và lần thứ Nh́ th́ thường thường Ngài nhờ Đức Bồ Tát thay mặt Ngài và nhân danh Ngài đặng Điểm Đạo.

          Qua lần thứ Ba, thứ Tư, th́ Ngài điểm, hoặc Ngài bảo một vị Độc Giác Phật (Bích Chi Phật) đệ tử của Ngài từ Kim Tinh xuống thay mặt Ngài và nhân danh Ngài.

          Về việc thân thế của nhiều vị Chơn Sư, cách Ngài thu nhận đệ tử và những cuộc Điểm Đạo, xin quí bạn  đọc quyển Chơn Sư và Thánh Đạo. Bản chánh là tiếng Anh, dịch ra tiếng Pháp là Les Maitres et le Sentier của Đức Leadbeater. Tôi có nói sơ lược trong quyển Đâu Là Chân Lư.

sỰ tiẾn hoá trên đưỜng đẠo

          Chúng ta nên biết sự tiến hoá trên Đường Đạo khác xa sự tiến hoá b́nh thường của con người.

          Sau khi được Điểm Đạo lần thứ Nhất rồi th́ sự tiến hóa không thể chỉ định bằng cấp số nhân: 2 – 4 – 8 – 16 mà tính phải tính bằng lũy thừa (exposant) như: 2 – 4 – 16 – 256 – 65.536 – 4.294.967.296.

          Ban đầu chỉ có 2 và 4 bậc, sau lên tới 4.294.967.296, không biết sao mà lường được.

          Một thí dụ để chứng minh:

          Xin đem ra đây một thí dụ để chứng minh: Một ấm nước đầy để ngoài trời. Nước bị nắng gió làm biến thành hơi rồi bay đi, nhưng không biết tới bao lâu nó mới cạn khô, một tháng hay hai tháng.

          Bây giờ ta đem ấm nước đun sôi, nước thành hơi bay đi; từ nửa giờ hay 15 phút nước sẽ cạn khô. Thời gian này lâu hay mau tùy theo nhiên liệu của ta dùng. Dùng than th́ nước mau sôi hơn dùng củi, dùng điện năng th́ mau hơn than, c̣n dùng nguyên tử th́ c̣n mau hơn nữa.

          Ta hăy suy nghĩ về điều này.

          Nước tiêu biểu cho người thường, hơi nước là vị Siêu Phàm, sức nóng mặt trời và gió là sự tiến hóa b́nh thường, c̣n than, củi, điện, nguyên tử lực là phương pháp ta dùng để biến đổi con người th́ ta thấy: Nếu biết cách luyện tập th́ ta có thể tiến mau đến địa vị Siêu Phàm.

          Nh́n lại ngoài đời, ta thấy lúa Thần Nông trồng ba tháng th́ có ăn. Ấy là nhờ sự học hỏi và kinh nghiệm nhiều năm mới được kết quả đó. Nếu có lúa ba tháng th́ một ngày kia có thể t́m được thứ lúa trồng hai tháng hay một tháng rưỡi sẽ trổ bông sinh trái.

          Trong mọi việc, nếu biết th́ làm được và sự thành công không phải tức khắc mà trong một thời gian sau.

          Hiểu mấy lẽ trên đây th́ thấy con người có bổn phận học hỏi những Luật Trời c̣n ẩn tàng cho rộng sâu rồi nương theo đó mà đi tới măi. Nếu làm ngược lại th́ sẽ thất bại và cái hậu quả c̣n kéo dài tới nhiều kiếp sau.

          Câu “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong” không bao giờ sai chạy.

          Điều cần thiết là chúng ta nên biết: Sự hiểu biết của đầu óc khác hẳn sự sáng suốt của Tâm hồn.

          Ngày nào chúng ta chưa phân biệt được rơ ràng hai điều này th́ ngày đó chưa có thể tiến xa.

*

*    *

chương thỨ mưỜi bẢy

          Bây giờ xin đề cập đến một vấn đề hết sức khó khăn mà từ xưa đến nay, ngoài đời chưa biết rơ. Ấy là: Tâm Thức là ǵ?

tâm thỨc là ǵ?

          Người học Đạo thường nghe nói đến Tâm Thức (Cons-cience). Nhưng nếu hỏi: Tâm Thức là ǵ? Th́ trong chúng ta không một ai trả lời nổi ngoại trừ từ bậc La Hán sắp lên mở được Huệ Nhăn và Tối Thượng Huệ Nhăn.

          Vật Chất, Sự Sống và Tâm Thức là Ba vấn đề khó khăn nhất trong Huyền bí học.

          Nếu con người thật hiểu Tâm Thức là ǵ, th́ sẽ cầm được trong tay bí quyết của tất cả những vấn đề của Cơ Tiến Hoá. Bởi v́ Tâm Thức là sự Biểu hiện của một Đấng Duy Nhất. Ngài vừa là sức mạnh và vật chất và vừa là h́nh dạng và sự sống một lượt.

          Làm sao hiểu nổi một định nghĩa như thế.

          Trong quyển Ánh Sáng Phương Đông (La Lumière de L'Asie) có câu này cho là Phật nói:

          “Om! Amitaya!

          Chớ nên dùng lời nói mà đo cơi vô biên.

          Chớ nên quăng dây tư tưởng vào cơi vô tận.

          Người hỏi cũng lầm, mà người trả lời cũng lầm vậy.

          Đừng nói chi hết.”

          Mặc dù biết vậy, nhưng chúng ta phải t́m hiểu nguyên do của mọi việc, đặng nhận định cái nào là phù du, mộng ảo, c̣n cái nào vĩnh cửu, trường tồn.

          Ở vào tŕnh độ tiến hóa của chúng ta hiện thời, chúng ta không hiểu rơ Tâm Thức tiến hóa bằng cách nào, chỉ nghe nói rằng: Việc đầu tiên trong Tâm Thức là tất cả ở trong một thành phần và toàn diện ở trong một đơn vị.

          Mặc dù Tâm Thức ở trong điện tử nhỏ bằng mũi kim (của Tâm Thức), đơn vị nhỏ nhất này vẫn liên lạc với Tâm Thức của Đức Thượng Đế và chứa đựng trọn vẹn Tâm Thức này.

          Người ta có thể so sánh sự tiến hóa của Tâm Thức với việc đă xảy ra khi người ta vén một bức màn che đậy một nguồn ánh sáng. Việc vén bức màn không thêm cái chi cho ánh sáng cả. Ánh sáng không được lợi ích nào, nhưng nó xua đuổi được sự tối tăm. Ngày nào ta chưa đồng hóa với ánh sáng này th́ ngày đó người ta chưa biết nó muốn cái chi? Sự hành động của nó là sự hy sinh và thú vui một lượt. Hy sinh v́ nó bị hạn chế, thú vui v́ nó cho ra.

          Ở nơi con người, sự tiến hoá vốn do sự cho ra. C̣n nguyên tắc chi phối sự phát triển loài thú vật và thảo mộc là sự cạnh tranh, sự đối địch, sự t́m thêm những lợi ích riêng tư.

          Về con người, nguyên tắc chi phối sự phát triển là sự hợp tác, sự từ bỏ và sự hy sinh Phàm Nhơn.

          Đức Thượng Đế đời đời kiếp kiếp hy sinh trên Thập tự giá của đời sống vật chất. Con người phải bắt chước Ngài mới giống như Ngài được.

          Mà muốn tiến hóa, Tâm Thức phải nhập thế và phải trải qua từ giai đoạn này tới giai đoạn khác, từ h́nh thể này tới h́nh thể kia, khi hết ở trong Tinh Chất th́ qua Kim Thạch, Thảo Mộc, Cầm Thú, Con Người và các hạng Tinh Linh và Thiên Thần.

          Trường tiến hóa của Tâm Thức là Thái Dương Hệ chứ không phải chỉ trong thân h́nh nhỏ bé của chúng ta mà thôi đâu. Đây là một vấn đề dài ḍng và cực kỳ khó khăn, đâu phải diễn tả trong vài trăm trang giấy là đủ.

          Tôi xin tóm tắt là: Không có Sự Sống nào mà không có Tâm Thức, mà cũng không có Tâm Thức nào mà không có Sự Sống.

          Sự Sống và Tâm Thức đồng nghĩa với nhau và liên quan mật thiết với nhau.

 

hẾt


            [1] Châu Lémurie là châu thứ ba, châu Atlantide là châu thứ tư. Hai châu này ngày nay đă trầm xuống biển. Ngày sau sẽ nổi lên lại.

                  [2] Năm 1929-1930 tôi đă cho xuất bản quyển nhỏ: Phật Giáo Yếu Lư và kế đó là quyển Luân Lư Đạo Phật.

                  [3] Xin xem quyển Các Hạng Thiên Thần của tôi. Các bạn thông thạo Pháp văn nên đọc quyển Les Fées au travail et au jeu của Huynh Goeffrey Hodson. Bác sĩ Crouzet đă dịch ra tiếng Pháp và Le côté caché des choses của Đức Leadbeater.

                  [4] Chất Thanh Khí ở ngoài lại bao bọc Xác Thân làm ra một Cái Vía giả. Chừng nào con người về nhập xác, Cái Vía giả này tan mất.

                  [5] Xin quí vị đọc quyển: Con người vô h́nh và hữu h́nh (L’homme visible et invisible) của Đức Leadbeater.

                  [6] Loài thú chưa có cá tính chưa có Linh Hồn th́ sự sinh sản rặt ṇi giống.

Chó mực nhảy cái th́ sinh ra chó mực, chó vàng th́ sinh ra chó vàng.

            Về loài chim chóc, gà vịt, heo cúi cũng vẫn in như vậy.

            Trái lại, con người là Linh Hồn, khi đi đầu thai th́ bị Luật Nhân Quả chi phối.

            Thân h́nh đứa nhỏ tùy thuộc Cái Phách, do H́nh Tư Tưởng của Tứ Đại Thiên Vương (Maharajada) làm ra. Nó cũng chịu ảnh hưởng của hột Nguyên tử trường tồn của xác thịt kiếp trước (Atome permanent du Corps physiques) cũng gọi là Lưu tánh nguyên tử của Xác Thân. Phải mở từ Thần Nhăn tới Thiên Nhăn, Huệ Nhăn mới hiểu biết giai đoạn này.

            Hiện tượng này cực kỳ khó khăn, dù giải thích ra cũng không ai hiểu, v́ không thấy trước mắt những sự biến chuyển kỳ lạ phi thường.

            Về những điều mới kể trên đây, người ta đưa ra nhiều giả thuyết, nghe th́ hữu lư song không hoàn toàn đúng với sự thật.

            [7] Xin đọc mấy quyển tôi viết:

            1 – Thái Dương Hệ của chúng ta

            2 – Dăy Địa Cầu

            3 – Sự sinh hóa các Giống dân trên Dăy Địa Cầu mới biết biết được tại sao sự tiến hóa của Nhân loại không đồng bậc với nhau.

            [8] Nhất Lai có nghĩa là chỉ đầu thai có một kiếp th́ lên tới bậc La Hán.

            C̣n Bất Lai th́ không trở lại cơi Trần nữa. Nó có nghĩa là vị La Hán có quyền ở lại cơi Bồ Đề tu hành cho đến khi thành Chánh Quả làm một vị Siêu Phàm khỏi bị bắt buộc đi đầu thai tại cơi Trần nữa.

            Tuy nhiên, Chơn Sư cho các vị La Hán đi đầu thai như thường đặng độ đời.

 

 HOME HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS