Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

TỪ BI LÀ LÀ NỀN TẢNG CỦA CUỘC SỐNG

(Compassion as Radical Living)

Tác giả Linda Oliveira

Tạp chí Nhà Thông Thiên Học, Số 4, tháng giêng năm 2016

Bản dịch www.thongthienhoc.com

Tết Đinh Dậu 2017

Bà Linda Oliveira là Hội trưởng Xứ bộ Úc, Nguyên là Phó Hội trưởng Quốc tế của Hội Thông Thiên Học.

Bài thuyết tŕnh này được tŕnh bày ở Nghị hội Quốc tế Adyar, tháng 12 năm 2015.

 

Cách đây không lâu, ở Trung Quốc có một người lặn tự do tên là Yang Yun cố gắng trở về từ đáy của một cái hồ băng giá. Tuy nhiên, cô thấy rằng chân ḿnh bị vọp bẻ rất nặng và cô không thể cử động được. Cô b́nh luận, “tôi bắt đầu bị nghẹt thở và thậm chí ch́m sâu hơn, tôi nghĩ như vậy - thế là tôi đă chết rồi; cho đến khi tôi cảm thấy một cái lực không tin được ở bên dưới ḿnh đẩy tôi lên mặt nước”. Điều ǵ đă xảy ra vậy? Một con cá voi trắng tên là Mila đă nh́n thấy điều xảy ra và xông vào hành động, hướng dẫn cô Yun an toàn trở lại trên mặt hồ. Câu chuyện làm ấm ḷng này dường như là phần dẫn nhập thích hợp cho đề tài mà ta đang xét tới.

Cấp tiến (radical) nghĩa là ǵ? Từ này thường được liên tưởng tới bất cứ điều ǵ “nghịch văn hóa”, bất cứ điều ǵ đi ngược lại khuynh hướng ḍng chính xă hội. Chẳng hạn như, một số người có thể ăn mặc bất b́nh thường, hoặc người ta có thể gắn nhăn hiệu cho họ là “không giống ai”, bởi v́ họ có những thái độ ngược lại với những người thuộc đa số trong xă hội. Họ có khuynh hướng đi ngược lại truyền thống hoặc chuẩn mực tổng quát. Thế rồi lại có những đảng chính trị cấp tiến vốn ủng hộ sự thay đổi triệt để. Một vài thái độ cấp tiến có hậu quả là bạo động cực đoan mà chúng ta chứng kiến trong những hành vi khủng bố ngày nay. Thế nhưng, có những người khác có vẻ cấp tiến thực ra lại rất đức hạnh, chỉ có một điều là họ không theo những ǵ mang nghĩa chung chung, thường t́nh.

Tuy nhiên, có hai nghĩa khác của thuật ngữ radical đặc biệt thích hợp với sự khảo sát này: (1) nền tảng là một phần cố hữu hoặc căn bản thuộc bản chất của một người nào đó hoặc một điều ǵ đó. (2) thuật ngữ này nhằm nói tới điều rốt ráo với mục đích chữa trị hoàn toàn. Theo nghĩa này th́ người ta thường dùng liên quan tới y học, chẳng hạn như việc giải phẫu triệt để hay tới cùng.

Bây giờ có hai vấn đề quan trọng nổi lên; (1) với vai tṛ là con người, đâu là bản chất nền tảng hoặc căn bản của ta?; (2) có chăng khả năng tâm thức con người theo ư nghĩa thường nhật thật sự cần được giải phẫu triệt để. Đây là những thắc mắc không thể được giải quyết bởi một kỹ sư, một nhà toán học hoặc một chuyên gia công nghệ thông tin. Các học viên Thông Thiên Học tức Minh triết Thiêng liêng và đủ thứ thi sĩ, thần bí gia và triết gia thường nói tới các thắc mắc này. Nói cách khác, chúng được dành cho những ai thật sự quan tâm tới những vấn đề sâu sắc hơn của cuộc sống và ư nghĩa căn bản của thuật ngữ nhân bản. Sau này ta sẽ trở lại cả hai thắc mắc này khi ta đă xét tới  ba điều sau đây:

1.- Tính đơn nhất ràng buộc tất cả chúng ta

2.- Lối sống tầm thường hoặc b́nh thường và

3.-Lối sống cấp tiến.

 

Tính Đơn nhất sâu sắc và không thể lay chuyển.

Ta sẽ bắt đầu bằng một tiên đề: tất cả chúng ta đều liên kết với nhau một cách suôn sẻ. Chúng ta ở trong một vũ trụ tương quan. Không một điều ǵ tồn tại biệt lập cho dẫu đôi khi nó có vẻ như vậy. Cho dù ta có thừa nhận điều này hay chăng và cho dù ta có thích nó hay chăng vào một lúc đặc thù nào đó, th́ chúng ta vẫn bị đan kết không thể tách rời được với mọi h́nh thức sự sống khác trong tất cả môi trường tâm thức.

Tính Đơn nhất sâu sắc và bất biến ràng buộc chúng ta lại -  đó là cái tâm thức bản thể vốn thấm nhuần và nuôi dưỡng mỗi một và tất cả chúng ta. Có những lúc nó xuất lộ một cách hữu thức hơn - có lẽ dưới dạng cảm nhận về tính nhất như với một tảng đá, một đóa hoa, một con côn trùng, một động vật, đại dương hoặc một người nào khác. Có biết bao nhiêu ví dụ như thế.

Tính Đơn nhất có nghĩa là - tận cùng của một sự duy nhất. Ta không được chuyển dịch nó thành ra một phương tŕnh toán học chẳng hạn như: vũ trụ = tôi + mọi thứ khác. Theo truyền thống Vedānta, th́ phương tŕnh này là: Ātman = Brahman. Nói cách khác, khía cạnh cao nhất hoặc tinh vi nhất của một con người cũng bắt rễ một cách bí nhiệm và đồng nghĩa với Brahman tức Tinh thần  vũ trụ.

Ở đây ta đang xét tới sự tồn tại của một Thực thể nhất như mà mỗi chúng ta chỉ là một khía cạnh có liên kết sâu sắc và không thể tháo gỡ được với mọi khía cạnh khác.

Trong Giáo Lư Bí Truyền, bà Blavatsky có tŕnh bày điều này như sau:

 

Tính đơn nhất triệt để của bản thể tối hậu của mỗi thành phần cấu tạo của các phức thể trong thiên nhiên - từ ngôi sao tới nguyên tử khoáng chất . . . và bất kể nó áp dụng cho thế giới tinh thần, thế giới tri thức hoặc thế giới vật chất - tính đơn nhất này là định luật căn bản duy nhất trong Khoa học Huyền bí (Hoskins, trang13).

 

Thật vậy, đây là căn bản của Triết lư Bí truyền: khẳng định rằng bên dưới thế giới trải nghiệm của ta có ẩn tàng “một Thực tại đơn nhất vốn vừa là cội nguồn vừa là nguyên nhân của mọi thứ đă tồn tại, đang tồn tại và ắt phải tồn tại”. (Như trên, trang 12).

Ta có một cảm nhận về Thực tại đơn nhất này ẩn sâu bên trong ta. Nhu cầu trải nghiệm nó thể hiện bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như con người khao khát có một cảm nhận liên kết. Ví dụ như ta có cảm nhận liên kết khi ta trải nghiệm việc ḿnh là một bộ phận của một gia đ́nh. Tốt nhất th́ một gia đ́nh có thể cung ứng cho ta một cảm nhận phúc lạc, khích lệ và nâng đỡ, cũng như là nền tảng của những giá trị tinh thần giữ cho một con người đứng đắn, thông minh và viên măn tiến lên tới mức trưởng thành. Ta cũng có cảm nhận liên kết với nền văn hóa và quốc gia của ḿnh. Xét v́ trong thời đại gần đây có biết bao nhiêu người tị nạn phải trải qua cảnh ngộ ngặt nghèo, cho nên ta quả thật là may mắn nếu ta có trải nghiệm một sự liên kết như thế.

 

Lối sống b́nh thường hoặc tầm thường.

 Tuy nhiên, hầu như ta không thấy được cảm nhận Nhất như trong cuộc đời của nhiều người. Đây là kết quả của cái loại liên kết mà chúng ta muốn chọn lựa. Nhà vi sinh học Charles Birch có viết về những mối quan hệ. Đối với ông liên hệ chỉ bao gồm tạo ra những liên kết mà ông mô tả có hai loại cốt yếu:

 

1.- Khi những toa xe lửa liên kết với nhau th́ mối liên kết ấy chỉ có sự khác nhau duy nhất đó là khiến cho toa xe này kéo toa xe kia đi theo nó. Đây là một loại liên kết máy móc, có lẽ là liên hệ thuận tiện khi một toa xe có khả năng xác định chính xác toa xe kia phải di chuyển đến đâu. V́ vậy toa xe bị kéo đi không có năng lực.

2.- Ông miêu tả loại h́nh chính yếu thứ nh́ liên kết mà chỉ dùng một từ duy nhất thôi đó là: từ bi. Đây là một liên hệ nội tại, tương phản rơ rệt với phương thức bên ngoài khiến cho hai toa xe lửa liên hệ với nhau. V́ vậy từ bi cấu thành một cấp độ liên kết khác hẳn. (Birch, trang 11)

 

Birch viết tiếp: “Khi chúng ta không thể tạo ra những liên kết mang tính sống c̣n đối với sinh mạng của ta và sinh mạng của thế giới th́ ta trôi dật dờ giống như một cái bè nhỏ trên đại dương. Ta có thể nghĩ tới trạng thái bèo dạt mây trôi này là lối sống thường t́nh, lối sống có tính tầm thường cố hữu. Tại sao lại như vậy? Bởi v́ nếu ta bị kéo đi giống như một toa xe lửa, nhắm mắt chạy theo cái ḍng mang khuynh hướng chi phối của xă hội toàn cầu, th́ ta quả thật đang bèo dạt mây trôi, không có một tay lái dẫn dắt và chẳng tự ḿnh quyết định. Ta mắc vào tính qui ngă độc tôn, không có thói quen chiêm nghiệm tại sao ta lại suy nghĩ, cảm nhận và hành động theo những phương cách nào đấy. Hầu hết mọi lúc th́ điều này tạo ra hành động hời hợt dường như thể ta đang tách rời khỏi phần c̣n lại của cuộc sống. Nói tóm lại, ở trạng thái vong thân, ghẻ lạnh đối với gốc rễ tinh thần của ḿnh. Đơn giản là một cảm nhận liên kết sâu sắc hơn không hề tồn tại.

Charles Birch đưa ra một b́nh luận thích đáng đối với việc thảo luận này khi ông phát biểu rằng: “Điều tồi tệ nhất mà chúng ta có thể thực hiện đối với những đồng loại con người của ḿnh, đó là coi họ chỉ là những phương tiện chứ tự thân họ không phải là cứu cánh. (Birch, trang 75). Tiếc thay, nhiều người đă sử dụng người khác v́ những động cơ đen tối để tranh danh đoạt lợi, leo cao lên nấc thang chính trị, thành công trong nghề nghiệp v.v. . . Những người thành công rất nhiều về mặt vật chất, có thể v́ vậy mà sống những cuộc sống rất tầm thường trong thực tại dù cho có những dấu hiệu thành công bên ngoài. Điều này c̣n xa mới tới thành công theo ư nghĩa sâu sắc hơn; nên đó là sự tầm thường đáng buồn.

Hàng ngày, nỗi đau của nhân loại vẫn lù lù hiện ra qua tin tức của những phương tiện truyền thông xă hội và báo chí. Bạo lực đối với phụ nữ đang tràn lan. Mới đây ḍng người tị nạn đang tuôn đổ vào Âu châu. Ngày nào cũng có việc giết người hàng loạt. Có một điều ǵ đó đang sai lầm khủng khiếp. Trong những trường hợp này, cái mối liên kết tạo thành liên hệ đều có tính máy móc và tàn nhẫn; thế giới xa ĺa cái mối liên kết nội tâm đó chính là ḷng từ bi.

 

Lối sống cấp tiến

V́ vậy, ta rất cần nghiêm túc để ư tới một lối sống hoàn toàn khác hẳn. Tốt hơn hẳn việc coi con người là phương tiện để phục vụ cho cứu cánh của riêng ḿnh, đó là đức tính đánh giá người khác cao quí, trân trọng họ theo tự thân họ. Hiểu được rằng mọi chúng sinh đều có giá trị nội tại mới giúp cho ta nảy sinh ḷng khoan dung, chấp nhận, tôn trọng và cuối cùng là cảm nhận tôn kính. Ấy là v́ mỗi một chúng ta đều có giá trị thiết yếu. Điều này chẳng dính dáng ǵ tới cái mà chúng ta kiếm được, như diện mạo tổng quát của ta, thành công trong nghề nghiệp của ta, tôn giáo của ta, nơi chôn nhau cắt rốn của ta hoặc địa vị của ta trong xă hội. Sâu thẳm trong sự thực chứng này đó là T́nh Huynh Đệ Đại Đồng

Sống từ bi là mối quan hệ nội tại.

Charles Birch viết tiếp: “Nếu chúng ta thành công trong việc tạo ra những liên kết thích hợp th́ ta ắt t́m thấy sự viên măn trong cuộc sống”. (Birch, trang 11). Trong phần dẫn nhập tác phẩm Đạt trở lại ḷng Từ bi đối với Nhân loại và Thiên nhiên, ông viết rằng “Quyển sách này xin đưa ra một đề nghị, đó là sự gặp gỡ tối hậu nhất chính là sự trải nghiệm nhất như. Điều này ngược lại với t́nh trạng bèo dạt mây trôi và riêng rẽ với phần c̣n lại của kiếp sinh tồn”. Cái sự gặp gỡ tối hậu ấy, cái việc trải nghiệm tính nhất như ấy mang tính nền tảng. Tại sao vậy? Bởi v́ đó là sự tao ngộ với bản chất thiết yếu của ḿnh.

Ta cũng nên nhớ lại rằng ḷng từ bi được miêu tả là một liên hệ nội tại, ngược với cái loại h́nh liên hệ máy móc bên ngoài giữa hai toa xe lửa. Sống từ bi đ̣i hỏi ta phải có một sự nhạy cảm sâu sắc đối với những chúng sinh khác và một cảm nhận luôn tôn kính đối với sự sống. Đây không phải là sự thách đố nhỏ. Có lẽ hầu hết chúng ta đều có thể nghĩ tới ít ra là một người ḿnh quen biết, thật khó ḷng (nếu chẳng phải là không thể) nhận ra được điều Linh thiêng ở trong y.

 

Ḷng Từ bi theo truyền thống Phật giáo

Chuyển sang truyền thống Phật giáo ta thấy thực tại của nó được miêu tả là mang tính sinh thái sâu sắc. Vạn vật, kể cả loài người đều tồn tại bằng cách tham dự vào mọi thứ khác. Việc chiêm nghiệm cái mạng lưới tương thông này ắt khiến cho ta tràn ngập ḷng biết ơn có được cơ hội của kiếp sống này. Chủ đề từ bi đă được nhấn mạnh trong truyền thống Phật giáo và Kỳ na giáo. Nó là đặc điểm của cả Trường phái Nam tông lẫn Bắc tông của Phật giáo. Trong Trường phái Nam tông th́ đó là một trong tứ vô lượng tâm bao gồm từ (karunā), bi (mettā), hỉ (mudita), xả (upekkha). Khi phát triển được cả bốn tâm này, th́ người ta đă theo lời khuyên của Đức Phật là tỏa chiếu chúng ra mọi phương. Sau đây là sự mô tả ḷng từ (karunā) ṭa chiếu ra theo bốn hướng trong kinh Kālāma:

 

“Hỡi các Kalamas, là đệ tử của Đấng Cao Quí, hăy sống và được thấm nhuần tư tưởng từ bi ở một phương. Cũng vậy, ở phương thế nh́; cũng vậy, ở phương thứ ba; cũng vậy, ở phương thứ tư; trên sao dưới vậy, tả sao hữu vậy, ngài ngự rồi được thấm nhuần, bởi v́ trong sự tồn tại ấy có đủ mọi sinh linh, ở khắp nơi, ở toàn bộ thế gian với cái tư tưởng từ bi vĩ đại cao tột, vô biên, không hận thù hoặc ác ư. (Kālāma Sutta, trang 7).

 

Ở đây hàm ư rằng một vài trạng thái của cái trí có ích lợi lớn lao cho cả thế giới. Ta có thể khai thác mănh lực của tư tưởng từ bi rồi hướng nó ra bên ngoài. Đường đi của chúng  nhanh ngay tức khắc. Ta có thể chẳng bao giờ biết được hiệu quả chính xác của chúng, nhưng mọi nghiệp báo - cho dù trong địa hạt tư tưởng, xúc cảm hay thể chất đều có một quả báo nhất định. Nghiệp từ bi không chỉ giới hạn vào ḷng vị tha trong thế giới vật chất mà c̣n có biểu lộ rơ rệt trong thế giới trí tuệ.

Trong Phật giáo Bắc tông th́ từ bi cũng là một trong hai phẩm tính mà người ta phải trau dồi trên Bồ Tát Đạo, cùng với Minh Triết giác ngộ (Trí Huệ Bát Nhă, Prajña). Shantideva là một bậc thầy Phật giáo thuộc Đại học Nalanda ở Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên, ông đă soạn ra quyển Chỉ nam Bồ Tát Đạo. Truyền thống Phật giáo Bắc tông biết rất rơ lư tưởng của một vị Bồ Tát. Ta hăy thử xét một vài câu kinh trong tác phẩm này. Trước hết là về Cái Trí Thức Tỉnh:

 

Tóm lại, Cái Trí Thức Tỉnh

Nên được hiểu là có hai loại;

Cái trí có hoài băo thức tỉnh

Và cái trí dám làm như thế.

Ở đây ta phải phân biệt rơ rệt giữa hoài băo làm thức tỉnh cái Trí và việc can đảm dám đánh thức nó dậy. (I.25)

 

Sau đó một chút, bản văn phát biểu rằng ngay cả tư tưởng khiến cho các sinh linh thoát khỏi chỉ là một cơn nhức đầu thôi cũng là một ư định có ích, được phú cho việc thiện lành vô hại:

 

Cái ư định cứu độ chúng sinh,

không nảy sinh ra nơi những người khác ngay dù cho chính họ,

Là một viên ngọc quí phi thường của cái trí

Và việc nảy sinh ra nó là một sự nhiệm mầu vô tiền khoáng hậu. (I.25)

 

Ở đây, động cơ thúc đẩy muốn làm lợi cho người khác là một kho báu; nó rất quan trọng. Sau đó một chút nữa ta lại đọc thấy rằng:

 

. . . Tôi lấy làm sung sướng làm vui ḷng người khác

Trong cái đại dương đức hạnh v́ ḿnh đă phát triển được một Cái Trí Thức Tỉnh.

Nó ước mong cho mọi chúng sinh đều được hạnh phúc,

Cũng như những hành vi mang lại lợi ích cho chúng sinh. (III.4)

 

Người ta miêu tả Cái Trí Thức Tỉnh là “nước cam lộ tối cao” khắc phục được quyền tối thượng của sự chết và là “cái kho báu không thể cạn kiệt” loại bỏ mọi sự đói nghèo trên thế giới. Quyền tối thượng của sự chết nhằm nói tới cái ǵ vậy? Có lẽ nó nói tới trạng thái cái trí thông thường hoặc tầm thường vốn chưa thức tỉnh. Và sự đói nghèo trên thế giới có thể biểu thị sự nghèo nàn của cái trí. Ngược lại, Cái Trí Thức Tỉnh có kết quả là một phẩm tính tâm thức khác, và một tinh thần hào sản vô biên. Thế th́ người ta thực sự thực hành ḷng từ bi trên thế giới như thế nào? Ḷng từ bi chỉ hiện hữu ở trạng thái thuần khiết khi có một sự đáp ứng tường tận với sự đau khổ  ngay tức khắc và tự nhiên, không nghĩ ǵ tới lợi ích cá nhân ḿnh.

 

Shantideva

Bây giờ ta quay sang Shantideva, ông cứ khuyên răn măi về việc thực hành ḷng từ bi. Lời khuyên này hoàn toàn đơn giản - nhưng không nhất thiết là dễ làm. Ta hăy cứu xét những tư tưởng này:

 

Hăy xem chừng sự Cảnh giác

Nếu tôi ngẫu nhiên có mặt

Trong khi một cuộc ­­­­­tṛ chuyện vô vị đang diễn ra,

Hoặc nếu tôi ngẫu nhiên nh́n thấy một loại tŕnh diễn ngoạn mục nào đấy,

Th́ tôi nên đừng quyến luyến với nó. (V:45)

 

Một người nào đó sống cuộc đời b́nh thường có thể dễ dàng tham dự vào việc tṛ chuyện mang tính nói hành, sự ngồi lê đôi mách đầy ác ư. Nhưng ở đây, lời khuyên nên tránh xa những chuyện như vậy. Cái Trí Thức Tỉnh thấy được Minh Triết trong điều này. Thế c̣n nói năng giận dữ th́ sao? Shantideva bảo rằng:

 

Bất cứ khi nào trong trí tôi có ràng buộc, hậu ư

Và bất cứ khi nào có sự ham muốn giận dữ,

Th́ tôi không nên làm bất cứ điều ǵ hoặc nói bất cứ điều ǵ,

giữ ḿnh như khúc gỗ. (V:48)

 

Diễn tả một cách đơn giản th́: có những lúc mà nói càng ít càng tốt. Thế rồi lại phải xem xét tới người khác:

 

Tôi nên dứt bỏ việc cứ chạy ḷng ṿng ồn ào, huyên náo, không suy tính...v...v...

Tôi cũng không mở cửa một cách ồn ào, huyên náo:

Mà luôn lấy làm vui vẻ trong sự khiêm cung (V:72)

 

Quyển kinh này tự nó đă nói lên hết rồi

 

Ḷng Từ bi trong Kỳ na giáo

Bây giờ ta hăy xét tới truyền thống Kỳ na giáo với đặc điểm chủ yếu là bất bạo động (ahimsa), bắt nguồn từ việc tôn trọng mọi thứ có sự sống. Nghe đâu một số người thực hành truyền thống Kỳ na giáo khi đi dạo cũng phải quét dưới đất hoặc bước lên những nơi đă được che kín v́ sợ hít phải vi sinh vật c̣n sống. Một số người có thể coi điều này là cực đoan, nhưng đó là v́ người ta biết qua quan điểm từ bi đối với những chúng sinh khác và mong ước bảo tồn chúng sinh. Trong truyền thống Kỳ na giáo có 9 phương cách để đạt được công đức (punya). Chúng bao gồm việc cấp thực phẩm cho người xứng đáng, cho người khát uống, cho người nghèo quần áo, cho tu sĩ chỗ nghỉ ngơi v.v.. .  Mặt khác, gây đau khổ được coi là trọng tội.

Đức hạnh trong Kỳ na giáo cốt ở cách hành xử gồm 5 phần đối với người có trí thức và đức tin: (1) ngây thơ vô tội tức bất bạo động, không chỉ nhằm nói tới việc kiêng cử tiêu cực mà là tích cực tử tế với mọi tạo vật; (2) từ thiện và nói sự thật; (3) hành vi đáng tôn kính, chẳng hạn như không ăn cắp; (4) trong sạch về tư tưởng, lời nói và hành vi; (5) xả bỏ quyền lợi trần tục. Sợi chỉ vàng từ bi xuyên suốt qua ngũ giới cấm này. Cực kỳ hiếm khi người ta cảm nhận và suy nghĩ tử tế đối với những người khác một cách bền vững dựa trên cuộc đời có nền tảng là bất bạo động.

 

H. P. Blavatsky

Tác phẩm văn học cuối cùng của H. P. B. dành cho thế gian trước khi bà từ trần là quyển Tiếng Nói Vô Thinh. Đây là sự nhắc nhở thâm thúy dưới h́nh thức thi ca về lư tưởng Bồ Tát, gồm hai phẩm tính sinh đôi là Minh Triết và Từ Bi. Mỗi đức tính này đều cần thiết để cho đức tính kia nở rộ trọn vẹn. Ta hăy nhớ lại rằng Shantideva có nhắc tới hoài băo làm cho Cái Trí Thức Tỉnh so với việc thực sự dám đánh thức nó dậy. Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh cũng có một sự tương phản tương tự được phát biểu rằng:

 

Mong sao linh hồn con hăy lắng nghe mọi tiếng kêu than đau khổ giống như đóa hoa sen trải ḷng uống cạn ánh nắng mặt trời buổi sáng.

Mong sao mặt trời chói lọi đừng làm khô đi một giọt nước mắt đau khổ trước khi chính con đă chùi giọt nước mắt ấy trên mắt của kẻ đau khổ. (I:59-60).

 

Có nghe rồi th́ mới có làm. Nếu ta nghe thấy nỗi đau của thế gian thực sự, kết quả tự nhiên của việc này là hành động từ bi

 

J. Krishmurti

Triết gia J. Krishnamurti có phát biểu rằng chừng nào mỗi một người trong chúng ta c̣n chưa có được một cảm nhận sâu sắc về ḷng từ bi th́ ta ắt sẽ trở nên “càng ngày càng tàn bạo, vô nhân đạo đối với lẫn nhau”. Ta sẽ có “đầu óc máy móc giống như máy điện toán . . . và ta sẽ bỏ lỡ thấy cái chiều sâu và vẻ đẹp phi thường vốn là trọn vẹn ư nghĩa của cuộc sống”. Phát biểu này cũng tương tự như sự phân biệt do Charles Birch đă nêu ra trước kia, nó đối chiếu tương phản những mối liên kết mang tính máy móc và bề ngoài (chẳng hạn như liên kết của một toa xe lửa với toa xe ở phía trước nó) so với những liên kết mang tính nội tại tức từ bi.

 

Kết luận

Ta bắt đầu bằng hai thắc mắc:

(1) Đâu là bản chất nền tảng (nghĩa là căn bản) của ta trên cương vị là con người? Một số mô tả nó là Ātman; một số có thể nghĩ rằng đó là ḷng Từ bi dung hợp với Minh triết. Thế nhưng ngôn từ không thể miêu tả được cái điều có bản chất cốt lơi là một trải nghiệm thâm thúy và sâu sắc.

(2) Liệu có chăng một ư nghĩa trong đó tâm thức con người - với nghĩa thường nhật - thật sự cần được giải phẫu triệt để. Thế giới loài người đều cũng hay nhuốm màu tầm thường. Đúng vậy, cần phải giải phẫu triệt để. Nhưng có một khó khăn: chính chúng ta phải tiến hành cuộc phẫu thuật ấy.

Điều được nói tới ở đây chẳng có ǵ mới mẻ; đó chỉ là việc gói ghém, vun vén lại, xem xét thân phận con người qua một vài lăng kính khác nhau.

Krishnamurti miêu tả ḷng từ bi là tích cực trong hiện tại, đó là “động từ chứ không phải từ ngữ, tên gọi hoặc danh từ”. Đây là một sự phân biệt quan trọng. Một danh từ chỉ là một tên gọi. Ta có thể coi ḷng từ bi là một danh từ, nhưng để được hoàn chỉnh, nó phải là một hành động ngay lúc ấy. Đó là một trạng thái tâm thức mà theo Krishnamurti chỉ xuất lộ “khi tư tưởng đă ngưng bặt tại chính gốc rễ của ḿnh. Nếu đúng là như vậy, th́ tư tưởng không tạo ra ḷng từ bi, nói cho đúng hơn th́ trạng thái từ bi là thức tỉnh từ một trạng thái tri giác tột độ.

Rơ rệt là chúng ta cần “thực hành” ḷng từ bi hơn là chỉ nói suông tới nó; nói cách khác là phải hành động theo bản chất sâu thẳm của ḿnh. Xuyên suốt  lịch sử của truyền thống Minh triết Ngàn đời qua đủ thứ cách biểu diễn, cái cảm nhận tổng quát này đă được tŕnh bày theo nhiều cách hơi khác nhau. Thật cấp thiết khi ta cần phải sống từ bi, thực hành từ bi chứ không chỉ nói suông về nó. Nếu dùng từ ngữ này dưới dạng động từ th́ ta cần học cách thực hành “từ bi”.

Khi ta thấy thực chất của tính tầm thường th́ có một khả năng mới để đạt được sự tinh vi và tuyệt diệu trong thuật làm người. Đây là một thuật mà ta cần thường xuyên thực hành. Nó có tiềm năng nâng cao phẩm chất của cuộc sống tất cả mọi người xung quanh chúng ta và chuyển hóa sự tương quan của ta từ tính cách công cụ, phương tiện thành những mối tương quan đầy tri thức do thực sự đáp ứng từ bi trong mọi bước ngoặt của cuộc đời đối với gia đ́nh, nơi làm việc, cộng đồng, quốc gia, môi trường xung quanh v.v. . . Chẳng lẽ đó không phải là một điều cực kỳ tuyệt hảo mà chúng ta nên theo đuổi hơn là cứ chịu cảnh bèo dạt mây trôi như một chiếc bè lênh đênh trên đại dương? Có đấy. Thật vậy, chẳng lẽ đó không phải là trách nhiệm tập thể cố hữu của nhân loại, thiên chức tập thể của ta hay sao?

Charles Birch có phát biểu rằng: “Để hưởng ứng với Thần Thức của vũ trụ, cái được gọi là Thượng Đế,  th́ phải từ bỏ cái sự an toàn của những hành động theo tập quán được xă hội tán thành và sống theo kiểu một tương lai cởi mở và mới mẻ triệt để”.(trang 23). Nhu cầu của con người cần phải được cấp tiến hóa theo nghĩa cao nhất của từ ngữ này, không phải theo nghĩa mà ngày nay đang thịnh hành. Người  cấp tiến  như thế là sống và hít thở trong bầu không khí nhất như. Liệu chúng ta có đáp ứng được sự thách đố này chăng? 

 

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS