|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
Tủ sách Adyar
Tập
sách số 32
THÔNG THIÊN HỌC VÀ BẰNG CHỨNG CỦA NÓ
Tác giả Annie Besant
|
|
THÔNG THIÊN HỌC VÀ BẰNG CHỨNG CỦA NÓ
Nhà Xuất bản Thông Thiên Học, Adyar, Chennai [Madras], Ấn Độ
Ấn bản lần thứ nhất, tháng 10, năm 1913
Ấn bản lần thứ hai, tháng 5, năm 1930
Có lẽ, không một công tŕnh nào khó khăn hơn có thể được đề nghị cho bất cứ
đoàn thể người ta nào hơn là việc t́m hiểu Thông Thiên Học và việc thật sự
tiến hành chuyện tuyên truyền cho nó. Triết lư của nó vốn bí hiểm hơn cả
triết lư của Hegel, trong khi nó cũng tinh tế hơn hẳn và nhiều bằng chứng
của nó đ̣i hỏi phải được nghiên cứu và xả thân xiết bao trước khi ta có thể
thẩm định được chúng, và chúng chắc chắn vẫn c̣n ẩn tàng đối với đa số chẳng
phải v́ tự thân chúng là không thể hiểu được mà c̣n v́ những người phàm phu
dễ dăi ắt không có năng lực triển khai chúng ra. Thế nhưng những giáo huấn
luân lư rốt cuộc vẫn dựa trên triết lư, và những ai không thể hoặc ắt không,
nghiên cứu triết lư đều bị rút gọn về việc chấp nhận luân lư tự thân ḿnh;
thật vậy chúng có thể được chứng minh là hữu ích bởi những lập luận đầy sức
thuyết phục nhất, lập luận do trải nghiệm; đó là v́ chúng hữu hiệu nhất
trong việc xúc tiến đạo đức nghĩa là mang lại hạnh phúc cho xă hội. Dựa trên
cái nền tảng thực dụng này th́ chúng có thể được dạy dỗ và có thể bén đất đó
chống lại bất cứ kẻ cạnh tranh nào trong cùng lănh vực. Ở đó chúng có thể
dùng điều kiện cách, nhưng không phải là cách thức quyết đoán. Mệnh lệnh
cách; sự quyết đoán mệnh lệnh vẫn c̣n bị che giấu, uy quyền cuối cùng chỉ có
thể t́m được trên những đỉnh cao siêu h́nh học, và ta chỉ có thể leo lên
những đỉnh cao này bằng những nỗ lực kiên tŕ của một học viên kiên nhẫn và
không nao núng. Thật vậy, mỗi học viên như thế có thể làm chứng cho điều mà
ḿnh đă nh́n thấy và đă biết, nhưng đối với tất cả ngoại trừ đối với bản
thân th́ bằng chứng của y vẫn chỉ là gián tiếp. Mặc dù đă được thủ đắc do cá
nhân nhưng nó vẫn c̣n là một tài sản của cá nhân, thật là vô giá đối với y
nhưng có giá trị thay đổi với những kẻ nào nghe y nói. Thông Thiên Học không
thể dựa trên bằng chứng như vậy trong việc hiệu triệu trí thông minh đă được
trau dồi của phương Tây, trí thông minh được rèn luyện theo thói quen đa
nghi và cứ thận trọng ngăn ngừa những giả định chưa được chứng minh. Ta cũng
không được quên rằng dưới con mắt của chính nó th́ Tây phương đă có sự biện
minh này: nó đă giải thoát ḿnh khỏi sự ràng buộc của mê tín dị đoan và đă
có được những thắng lợi về mặt trí thức bằng cách sử dụng khôn ngoan óc đa
nghi và việc thận trọng ngưng phán đoán cho đến khi sự kiện đă chứng minh là
khẳng định.
Thế th́ nếu Thông Thiên Học muốn t́m đường đi tới phương Tây th́ nó cần phải
tạo cho ḿnh cái cơ sở rất cần thiết là mang tính khoa học về tinh thần, th́
các nhà Thông Thiên Học nên tŕnh bày cho người điều tra cũng như là những
người thờ ơ có đủ bằng chứng sơ bộ
rằng nó có một điều ǵ đó có giá trị để truyền đạt cái bằng chứng sẽ khơi
dậy sự chú ư của một lớp người và thu hút lớp người khác đi vào việc khảo
cứu những điều khẳng định của nó. Bằng chứng ấy phải sao cho bất cứ người
nào có trí thông minh b́nh thường cũng có thể khảo sát nó một cách trực tiếp
và không cần phải t́m cách xác lập bất cứ điều ǵ khác hơn là Thông Thiên
Học đáng được nghiên cứu. Để cho việc nghiên cứu được khởi sự tốt đẹp và học
viên có thể quán triệt được những khó khăn ban đầu của nó và việc chấp nhận
nó là chắc chắn, mặc dù cái thời kỳ chấp nhận hoàn toàn c̣n tùy thuộc vào
những đặc trưng tâm trí của học viên và loại h́nh trí thông minh của y. Bà
Blavatsky có bảo rằng:
Một khi mà bạn đọc đă có được sự hiểu biết rơ rệt về chúng [nghĩa là những
quan niệm căn bản mà Giáo lư Bí truyền dựa trên đó] và ngộ ra được cái ánh
sáng mà chúng soi chiếu lên mọi vấn đề của cuộc sống th́ họ ắt không cần
được biện minh thêm nữa dưới mắt ḿnh, bởi v́ sự thật của chúng ắt đối với y
cũng hiển nhiên như mặt trời trên bầu trời. [Giáo
lư Bí truyền, quyển I, trang 20].
Tuy nhiên để có thể bắt đầu việc nghiên cứu ấy th́ ta phải đưa ra bằng chứng
sơ bộ này và những quan niệm căn
bản của Thông Thiên Học phải đươc phác họa sơ khởi. Chỉ khi ta làm được điều
đó th́ bất cứ ai mới có thể quyết định xem liệu có đáng mất thời giờ để bước
vào nghiên cứu và có được những bằng chứng sâu sắc hơn về Thông Thiên Học
hay chăng.
“Giá trị của bằng chứng này là một điều cần phải được quyết định trước khi
nghiên cứu nghiêm túc bắt đầu”. Thường thường th́ trong các Chi bộ khi các
hội viên dấn thân vào một khóa học liên tiếp th́ có một người tham quan ngẫu
nhiên được lịch sự nhận vào ắt đứng lên và đột ngột hỏi: “Đâu là bằng chứng
mà Thông Thiên Học dựa trên đó và nó có công dụng ǵ?” dường như thể một
người đi ngang qua, ghé vào rồi lắng nghe một thầy giáo dạy một lớp toán về
lư thuyết phương tŕnh, ắt đột nhiên thách đố thầy giáo hăy chứng minh công
dụng của những con số và cơ sở lư luận của các kư hiệu đại số. Trong bất cứ
khoa học nào ngoại trừ Thông Thiên Học, th́ một người mà trông mong có một
lớp học viên dừng lại trong khi những lư do nghiên cứu chúng được giải thích
cho một người xa lạ không biết ǵ về các đề tài này ắt được coi là một kẻ
điên và có lập trường phi lư; nhưng trong Thông Thiên Học chúng tôi luôn
luôn trông mong là sẽ bị cắt đứt công việc của ḿnh để chứng minh rằng chúng
tôi không điên rồ khi làm như vậy. Và nếu chúng tôi tỏ ra không sẵn ḷng làm
như thế th́ ngay tức khắc người ta coi như đương nhiên là lập trường của
chúng tôi không lành mạnh và chúng tôi sợ bị điều tra. Thật ra th́ chúng tôi
không có thời giờ để biện minh cho bản thân đối với bất kỳ khách tham quan
liên tiếp nào có thể bị óc ṭ ṃ đưa tới việc thu thập từ một thành viên một
việc dẫn nhập vào trong buổi họp của Chi bộ của chúng tôi; và chính mục đích
của tài liệu này là tŕnh bày một lần cho dứt khoát, một số những bằng chứng
đă được quyết định để cho chúng tôi mưu cầu trong Thông Thiên Học cái ánh
sáng mà ở đâu đó chúng tôi đă không thể t́m thấy được.
Tên gọi Thông Thiên Học không
phải là xưa cũ, nó chỉ mới được bắt đầu từ thế kỷ thứ 3, lần đầu tiên được
Ammonius Saccas và trường phái của ông sử dụng. Nhưng bản thân giáo huấn này
đă có ngày tháng cách đây nhiều ngàn năm mà không bị thay đổi về những đặc
điểm chính yếu của nó, ngày nay được dạy ở Anh cho những học viên đang mưu
cầu sự thật cũng giống như nó đă được giảng dạy khi Đức Phật đi lang thang
khắp vùng đồng bằng Ấn Độ, hoặc c̣n sớm hơn nữa khi các bậc Rishis thời xưa
dẫn dắt các đệ tử đi theo con đường đưa tới Minh triết.
Giáo huấn này là ǵ th́ ta có thể phác họa ngắn gọn như sau.
Thông Thiên Học coi Vũ trụ là một biểu lộ tạm thời của Tự tại Vĩnh hằng, là
đóa hoa vào buổi mùa hè của một cái Cội rễ Vĩnh hằng. Cội rễ ấy là Thực tại
Nhất như, là cái duy nhất Thường trụ trong hằng hà sa số hiện tượng vô
thường vây quanh ta ở mọi phía, và trong số đó bản thân chúng ta cũng được
kể vào. Từ cái Nhất nguyên ấy phát sinh ra mọi thứ đa dạng; mọi sự đa dạng
lại trở về cái Nhất nguyên ấy. Nó được biểu lộ trong nguyên tử cũng như ở
con người, nơi cái được gọi là vô sinh cũng như là hữu sinh.
Cái Nguyên nhân vô hạn và vĩnh hằng ấy được triết học Âu Tây hiện hành gọi
một cách mơ hồ là Vô thức và
Không thể biết được chính là cội
rễ không có cội rễ của “mọi thứ đă là, đang là hoặc sẽ là”. [Giáo
lư Bí truyền, quyển I, trang 14]
Định kỳ th́ khía cạnh Tự tại Vĩnh hằng mà ta gọi là Sự sống ấy tỏa chiếu ra
thành nguồn cội của Vũ trụ biểu lộ, Vũ trụ chẳng qua chỉ là “đủ thứ khía
cạnh đă biến dị” của Sự sống Nhất như. Vậy là đối với các nhà Thông Thiên
Học, các h́nh tướng biến dị nhất th́ có bản thể là
một;
tinh thần và
vật chất chẳng qua chỉ là hai cực
của một nam châm duy nhất, không thể tách rời ra được, không thể nghĩ là tồn
tại tách rời khỏi nhau. Khi dùng một thuật ngữ vụng về th́ tinh thần là Sự
sống Nhất như ở những biểu lộ sơ khai c̣n vật chất là Sự sống Nhất như đă
được rắn đặc lại: Vũ trụ khách quan “có thể nói là được giữ cho được tan
chảy trong không gian, để biến dị trở lại và lại kết tinh nữa” trong một
thời kỳ biểu lộ.
Tinh thần
tức hồn thiêng nơi con người là
một điểm linh quang của Sự sống Nhất như không bị biến dị đối với Lửa cha mẹ
của ḿnh, và do đó giống nhau đối với mọi người; chính số phận của cái
điểm linh quang này là phải có
được tự ư thức bằng cách đi ṿng ṿng qua chu kỳ các h́nh tướng và nơi con
người đạt tới rồi cuối cùng hoàn thiện cái tự ư thức ấy; giai đoạn con người
đầy đủ một khi đă đạt được th́ mọi sự tiến bộ thêm nữa chỉ là vấn đề nỗ lực
của cá nhân, là sự hợp tác hữu thức với các lực tinh thần trong thiên nhiên.
Giáo lư trung tâm của Triết lư Bí truyền thừa nhận không có đặc quyền hoặc
những thiên phú đặc biệt nào nơi con người, ngoại trừ những thứ do chính
Chơn ngă của y trải qua những nỗ lực cá nhân và những công trạng xuyên suốt
một loạt lâu dài những kiếp chuyển kiếp và luân hồi. [Giáo
lư Bí truyền, quyển I, trang 14].
Cuộc ‘hành hương này của Chơn ngă’ có thể nói là ư niệm trung tâm của Thông
Thiên Học: việc có được tự ư thức là chính mục tiêu và thành quả của Vũ trụ,
bởi v́ chính nó được bộc lộ ra, nó tồn tại cũng v́ điều ấy, nó rên rỉ và lao
động khổ cực để được toàn bích và đưa cái tinh thần có tự ư thức ấy sinh ra.
Cái phát biểu trần trụi này ắt đủ về mặt giáo huấn của Thông Thiên Học bởi
v́ tài liệu này không có mục đích xiển dương những ư niệm của Thông Thiên
Học, mà chỉ đưa ra bằng chứng mang tính
sơ bộ rằng Thông Thiên Học đáng
được chú ư. Thế th́ ta hăy quay sang bằng chứng và trước khi bàn về nó tỉ mỉ
th́ ta hăy xét tới bản chất tổng quát của bằng chứng mà bất cứ ai sẵn ḷng
nghiên cứu Thông Thiên Học đều có thể đ̣i hỏi một cách ṣng phẳng, nếu người
ta có thể chứng minh cho y thấy rằng việc nghiên cứu ấy rất có thể là có kết
quả.
Nói chung th́ bằng chứng phải phù hợp với lập trường mà nó t́m cách chứng
minh. Khía cạnh của đề tài mà ta đang xét ắt phải chi phối bản chất của bằng
chứng được đưa ra. Những vấn đề của cuộc sống vật lư phải được chứng minh
bởi bằng chứng vật lư: những vấn đề của sinh hoạt trí thức phải được chứng
minh bằng bằng chứng trí thức; và nếu có sự sống tinh thần mà Thông Thiên
Học nêu thành định đề th́ nó ắt phải được chứng minh bằng bằng chứng tinh
thần. Việc bằng chứng phải thích hợp với đề tài được coi là đương nhiên
ngoại trừ xét về bằng chứng tinh thần: t́m cách chứng minh cho một người mù
sự tồn tại của màu sắc bằng cách đưa ra những vật có màu sắc trước đôi mắt
không nh́n thấy được của y ắt được coi là phi lư; nhưng bất cứ gợi ư nào cho
rằng có thể có những mắt tinh thần vốn bị mù ḷa đi ở một số người, và có
thể cần phải dùng những mắt tinh thần ấy để phân biệt được một vài lớp thực
tại th́ lại bị người ta coi là mê tín dị đoan hoặc lừa bịp. Mọi nhà tâm lư
học đều công nhận sự khác nhau giữa Thế giới Nội tại và Thế giới Ngoại lai,
và khi nghiên cứu phần chủ thể nội giới th́ y biết rằng thật vô ích mà đ̣i
hỏi có bằng chứng khách quan ngoại giới. Các phương pháp thích hợp với thế
giới khoáng trương không thích hợp với thế giới không khoáng trương, và một
bằng chứng được dành hoàn toàn cho lư trí th́ tuy nhiên lại cũng thích hợp
bởi v́ nó không có h́nh dáng cũng như màu sắc. Và thật vậy, đối với trí năng
lăo luyện th́ bằng chứng thuần túy trí thức có một tính chắc chắn cao hơn
bằng chứng của bất cứ thứ ǵ khêu gợi các giác quan, bởi v́ các giác quan dễ
bị đánh lừa hơn trí năng, khi trí năng đă được rèn luyện nghiêm xác và có kỷ
luật: như vậy ở đâu mà trí tuệ tâm linh đă được tiến hóa đúng mức và được
rèn luyện th́ nó nói chắc chắn về nhiều cái vượt trên mức của trí năng, cũng
như trí năng có thể nói chắc chắn vượt trên mức của các giác quan: nó thẩm
định những kết luận của trí năng cũng như trí năng phán đoán những kết luận
của các giác quan, và đưa ra phán quyết cuối cùng về mọi vấn đề được tŕnh
bày lên để được phê chuẩn.
Kẻ phàm phu thường coi bằng chứng
trên cơi trần là thuyết phục nhất mà ḿnh có thể đưa ra: nó khêu gợi các
giác quan và “tôi phải tin vào bằng chứng các giác quan của ḿnh” là một cụm
từ thường thốt ra trên đầu môi chót lưỡi của một người không được học nhiều.
Một trong những bài học sơ khởi mà học viên sinh lư học đă học được là các
giác quan rất dễ bị lừa và phải chịu đủ thứ hăo huyền và ảo giác. Thế nhưng
để chứng minh những sự kiện trên cơi trần th́ những thí nghiệm trên cơi trần
là thỏa đáng nhất, và ngoại trừ một vài điều dè dặt th́ ta có thể nói là đó
là bằng chứng đáng tin cậy.
Nhưng các hiện tượng trên cơi trần không thích hợp dùng làm bằng chứng cho
các sự thật về trí thức và tinh thần.
Phép lạ trên cơi trần cũng không thể chứng minh được một châm ngôn về
đạo đức. Giáo lư “Hăy yêu thương kẻ thù của ḿnh, hăy đối xử tốt với họ, với
những kẻ nào thù ghét con” ít nhiều không đúng hơn, bởi v́ Đức Phật và Chúa
Giê su có thể hay không có thể chữa được một vài bệnh bằng vào những phương
pháp mà các tín đồ không hiểu nổi.
Việc chứng minh một bài toán của Euclid tuyệt nhiên không được trợ giúp bởi
vị thầy giáo nào có thể khinh thân hoặc thu hút vượt qua cái bàn đến tay
ḿnh mà không cần phải chạm vào một cái hộp trong đó chứa những dụng cụ toán
học. Y có thể hoàn thành những chiến công này, thế nhưng nếu phạm sai lầm
trong việc triển khai việc chứng minh th́ y có thể hoàn toàn không tạo được
những thành tích ấy, thế nhưng là một thầy giáo toán học có năng lực những
bằng chứng về toán học và luận lư không cần những hiện tượng lạ trên cơi
trần để cho người ta phải tin chúng: chúng dựa trên nền tảng của chính ḿnh
được thử thách bởi những sự kiểm định thích hợp. Nhiều người không thể theo
dơi được việc chứng minh toán học; y không thích hợp để bị chóa mắt đi đến
mức phải mặc nhận bằng cách phô bày một năng lực thể chất không b́nh thường;
nếu họ không thể thẩm định được sức mạnh của sự chứng minh th́ hoặc là họ
phải tạm ngưng phán đoán về kết luận, hoặc là họ phải chấp nhận nó theo kiểu
gián tiếp, nghĩa là dựa trên một người có thẩm quyền. Họ ắt sẽ điên rồ nếu
chối bỏ kết luận bởi v́ bằng
chứng của nó vốn vượt ngoài tầm hiểu biết của ḿnh; nhưng họ hoàn toàn được
biện minh khi không vội tin cái ǵ mà ḿnh không hiểu được. Nếu một đường
lối quan trọng nào đó để hành động mà tùy thuộc vào việc họ chấp nhận hay
bác bỏ kết luận th́ họ ắt phải tự ḿnh chọn lựa giữa việc hành động dựa trên
một người có thẩm quyền hoặc là tạm ngưng hành động cho đến khi ḿnh có thể
hiểu được: trách nhiệm là của họ và sự mất mát nếu không hành động, nếu sau
này có mất mát, th́ cũng là của họ thôi. Người phát biểu xiển dương mệnh đề
có thể nói rất hay rằng: “Điều này đúng: tôi không thể chứng minh dễ hơn cho
bạn theo như tôi đă làm. Nếu bạn không thể hiểu được th́ bạn chỉ có thể
quyết định liệu bạn có hành động theo việc tôi đoan quyết về sự thật của nó
hay chăng. Những hậu quả như vậy ắt tùy theo việc bạn bác bỏ kết luận, nhưng
tôi không có quyền mà cũng không có đủ sức để áp đặt lên bạn vài hành động
được dựa trên điều mà cá nhân tôi biết là đúng, nhưng bạn lại không hiểu”.
Trong Thông Thiên Học học viên thường thấy ḿnh ở t́nh trạng tiến thoái
lưỡng nan: y ắt được để cho tự do hoặc là tiến tới chấp nhận những kết luận
tạm thời dựa trên ai đó có thẩm quyền hoặc trọn vẹn làm điều dẫn dắt hành
động của ḿnh, hay là từ chối tiến lên nữa cho đến khi cái bước đó cũng như
kết luận đó đă ở sờ sờ trước mắt ḿnh. Y ắt chẳng bao giờ thấy ḿnh bị thúc
đẩy, nhưng nếu y luôn luôn dừng lại cho đến khi cá nhân ḿnh đă chứng tỏ
được một kết luận th́ y ắt thường thấy ḿnh đă bị mất điều mà ḿnh có thể đă
đạt được bằng cách vô úy tin tưởng vào những người thầy dạy mà thời gian đă
chứng minh.
Đó là v́ xét cho cùng th́ học viên Thông Thiên Học chỉ được khuyên hăy chọn
theo những phương pháp mà các học tṛ ở mọi khoa học khác đều chọn theo. Đó
không phải là niềm tin mù quáng của nhà tôn giáo vào những mệnh đề không thể
kiểm chứng được đem yêu cầu đối với học viên Thông Thiên Học: đó là niềm tin
cậy hợp lư của một học viên đối với thầy của ḿnh, việc tạm thời chấp nhận
những kết luận, mỗi kết luận đó phải được chứng minh vào lúc sự tiến bộ của
học viên khiến cho sự chứng minh ấy có thể hiểu được. Việc nghiên cứu đưa
học viên vào các thế giới vật lư, trí thức, tinh thần và trong mỗi thế giới
ấy những sự kiểm định và bằng chứng thích hợp ắt sẽ xuất lộ cũng giống như
bằng chứng vật lư là không hợp lệ trong thế giới trí thức; cũng giống như
vậy, bằng chứng vật lư và trí thức ắt không sẵn có trong thế giới tinh thần.
Nhưng ở đây Thông Thiên Học lại đ̣i hỏi không có điều ǵ khác hơn với điều
đă được thoải mái cung cấp cho những nhà lư luận và những nhà toán học bởi
các nhà vật lư; cũng giống như các nhà vật lư và toán học không thể chứng
minh cho nhà vật lư những bằng chứng thực nghiệm về vật lư, cũng giống như
vậy bậc cao đồ về tinh thần không thể chứng tỏ cho nhà luận lư và nhà toán
học những bằng chứng bao trùm trong những dạng thức trí thức đặc biệt nào
đấy. Do đó khoa học của ngài ắt không phải mê tín dị đoan, kiến thức của
ngài cũng không phải điên rồ; ngài ở trong địa hạt Tinh thần cũng vững vàng,
thậm chí c̣n vững vàng hơn những kẻ nào ở trong địa hạt Lư trí và Vật chất.
Ngài có thể tự biện minh ḿnh cho những thứ ấy trong thế giới của riêng
chúng bằng cách chứng minh trong cơi Vật chất rằng ḿnh biết nhiều hơn các
nhà vật lư về những quyền năng ẩn tàng trong vật chất và trong thế giới
Thuần lư bằng cách chứng minh rằng ḿnh biết nhiều hơn những nhà khổng lồ
trí thức về sự vận hành và năng lực của Lư trí; nhưng trong địa hạt của
riêng ḿnh th́ ngài không bị phán đoán ǵ hết; ngài chỉ đáp ứng với Lương
tâm và Số phận của ḿnh.
Những từ ngữ Đạo sư, Chơn sư, Cao đồ, hàm ư rằng Thông Thiên Học cũng giống
như mọi triết lư và khoa học nào khác đều có những người tiêu biểu hoặc thẩm
quyền; những đấng này tạo thành một Hội đoàn Huynh đệ, bao gồm những người
nam và nữ của đủ thứ quốc gia nhờ kiên tŕ nghiên cứu và sinh hoạt thanh
khiết đă có được những quyền năng và tri thức ngoại lệ nhưng hoàn toàn tự
nhiên. Người Ấn Độ gọi các ngài là Mahatmas nghĩa đen là
Linh hồn Cao cả - cao cả về minh
triết, cao cả về quyền năng, cao cả về sự xả thân. Các ngài nắm giữ một loạt
những giáo lư được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, được gia tăng
bởi công tŕnh của một số người. Không một phát biểu mới nào được phép nhập
vào cái đoàn thể giáo huấn này gồm một tập hợp rộng lớn những sự kiện lịch
sử và vũ trụ học nếu nó không được kiểm chứng bởi những sự khảo cứu lặp đi
lặp lại, những cuộc thực nghiệm được lặp đi lặp lại bởi nhiều người khác
nhau. Cái dạng điều này tạo thành Giáo lư Bí Nhiệm tức Tôn giáo-Minh triết,
và một phần của nó thỉnh thoảng đă được đưa ra, và đă trở thành nền tảng của
các triết lư vĩ đại, những tôn giáo vĩ đại trên thế giới. Nhờ vào những thứ
đó chúng ta có thể thử bước đi trên con đường của ḿnh qua lịch sử và khi ta
đi như vậy có được bằng chứng về sự tồn tại của cái khối giáo lư này từ xưa
măi cho xuống tới thời nay. Chúng ta ắt mưu t́m (a) bằng chứng của lịch sử;
(b) bằng chứng của các tôn giáo trên thế giới; thế rồi chúng ta sẽ liếc
ngang qua; (c) bằng chứng của thực nghiệm; và (d) bằng chứng tự các lập luận
tương tự. Vậy là ta có thể hi vọng chứng minh rằng Thông Thiên Học đáng được
chú ư đối với những người biết suy tư và như vậy đă hoàn thành nhiệm vụ được
đặt vào trong tay của ḿnh.
(a) Xét về bằng chứng của một Giáo Lư Bí Nhiệm như thế, chắc chắn là ta có
thấy trong thế giới thời xưa. Liệu những
Bí pháp nổi tiếng dù là ở Ấn Độ,
ở Ai Cập, ở Hi Lạp hay ở đâu đó là ǵ nếu không phải là việc vén lên bức màn
đối với một vài người đă được tuyển trạch về những giáo lư đă được cẩn thận
giữ kín đối với thế giới bên ngoài?
Voltaire có nói như sau:
Trong cái sự hỗn mang của những điều mê tín dị đoan thông tục th́ có tồn tại
một định chế vốn đă từng ngăn ngừa con người khỏi rớt vào sự hoàn toàn dă
man: đó chính là các Bí pháp.
Tiến sĩ Warburton cũng nói như sau:
Những người minh triết nhất và tốt nhất trong đám Ngoại đạo đều nhất tề về
phương diện này, đó là các Bí pháp là những định chế thuần khiết, và đề nghị
những cứu cánh cao thượng nhất bằng những phương tiện đáng giá nhất.
Chúng ta học biết từ Cicero rằng những Bí pháp này chỉ mở ra cho kẻ công
chính và người tốt đẹp:
Một điểm đạo đồ phải thực hành mọi đức tính trong phạm vi của ḿnh: đó là
công bằng, trung thành, tự do, khiêm tốn và điều độ.
Bắt nguồn từ Ấn Độ vào thời tiền Phệ đà, các Bí pháp đă có ở đó cũng như măi
sau này ở các vùng đất miền Tây phương, được dành làm phần thưởng cho đức
hạnh và minh triết.
Biết điều độ;tức là hành vi dĩ đức báo oán; tiết độ; ngay thẳng; trinh
khiết; ức chế những giác quan của
thể chất; hiểu biết về các Thánh kinh; hiểu biết về linh hồn cao siêu tức
tinh thần; tôn thờ sự thật; không giận dữ; đó là những đức tính mà mọi ứng
viên điểm đạo đều phải có. Đây là mười đức tính được qui định sau này trong
Định chế của Đức Bàn Cổ.
Trong trọn cả cuộc đời của ḿnh không ai không thực hành mười đức tính mà
Đức Bàn Cổ đă qui định là bổn phận, mà có thể được điểm đạo vào các Bí pháp
của Hội đồng.
Ở Ai Cập người ta cũng nhồi sọ chính những qui tắc hành xử nghiêm khắc ấy.
Trước khi kẻ sơ cơ có thể trở thành một ‘Khristophoros’
và nhận được cái thập giá linh thiêng, chữ Tau, th́ y phải biết và tuân thủ
những qui tắc:
Không bao giờ muốn hoặc t́m cách trả thù; luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ một
huynh đệ đang gặp nguy hiểm, ngay cả khi có nguy cơ phải mất mạng; hăy chôn
vùi mọi xác chết; tôn trọng những bậc cha ông trên hết; tôn trọng những
người già cả và bảo vệ những người yếu hơn ḿnh; bao giờ cũng nhớ kỹ giờ
chết và giờ phục sinh nơi một thể xác mới bất tử.
Chính tên gọi của các bậc đại Điểm đạo đồ ở Hi Lạp là hùng hồn xét về những
đỉnh cao trí năng và đạo đức mà những con người dũng mănh ấy đă đạt được vào
thời xưa: Pythagoras, Thales, Democritus, Euclid, Solon, Plato, Archytas -
những người này cùng với những người khác chẳng hạn như Apollonius ở Tyana,
Iamblichus, Porphyry, cho chúng ta một ư niệm nào đấy về địa vị của bậc Điểm
đạo đồ thời xưa.
Thế mà chắc chắn rằng thời xưa sự phân biệt giữa giáo huấn ngoại môn và nội
môn đă được tuân thủ nghiêm xác. Trong Phật giáo ta thấy có
Nhăn pháp và
Tâm pháp, và ta đọc thấy chính
Đức Phật Thích Ca đă trao truyền giáo lư bí nhiệm cho môn đồ là Ca Diếp, và
chính ông A nan đă giảng dạy ra ngoài Nhăn pháp, trong khi Tâm pháp được
dành cho các bậc La hán sở hữu - đó là các bậc Thầy về Minh triết Ẩn tàng.
Pythagoras phân chia học viên của ḿnh ra thành hai lớp để tiếp nhận các
giáo lư công truyền và bí truyền. Ammonius Saccas có
những giáo lư cao siêu và những
người tiếp nhận giáo lư cao siêu bị bắt buộc phải thề không được truyền bá
chúng ra cho thế giới bên ngoài.
Thánh thư Thoth được duy tŕ bởi các Điểm đạo đồ ở Memphis, là kho tàng
mà Pythagoras và Plato đă thu thập từ đó những tài nguyên trí thức của ḿnh,
c̣n Thales và Democritus đă thu thập được kiến thức của ḿnh từ đấy. Ở Sais,
Lycurgus và Solon được rèn luyện theo những nguyên lư lập pháp, trở lại với
vùng đất của ḿnh để trở thành trên cương vị là Điểm đạo đồ, đặt nền móng
lập pháp cho Hi lạp cổ truyền. Ở các quốc gia cổ Do thái th́ có vô vàn vết
tích của cùng một minh triết ẩn tàng theo truyền thống; Abraham là người
sáng lập ra nó, là một nhà thiên văn học và số học vĩ đại, theo Josephus,
ông cũng tuyên bố là tham chiếu cái đoạn trong Berosus về một người Chaldea
“có tài về khoa học thiên thể” và nhà nghiên cứu kinh Kabala vĩ đại theo Do
Thái giáo là Maimonides tuyên bố rằng ư nghĩa chân thực của Thánh kinh cổ Do
Thái là bí truyền.
Bất cứ ai t́m ra được ư nghĩa chân thực của
Sáng thế kư phải cẩn thận không
được truyền bá nó. Đây là một châm ngôn mà mọi vị thánh hiền đều lặp lại với
chúng ta và nhất là tôn trọng công tŕnh của sáu ngày. Nếu một người phát
hiện ra được ư nghĩa chân thực của nó tự thân ḿnh, hoặc là nhờ vào một
người khác th́ y cần phải im lặng; hoặc nếu y nói ra th́ y nên nói ra một
cách lờ mờ theo một cách thức thách đố, như chính tôi vậy, để phần c̣n lại
cho những người có thể hiểu đoán ra.
Origen nói tới kinh Cựu Ước một
cách tương tự:
Nếu chúng ta bám theo nghĩa đen từng chữ một, và phải hiểu điều được viết ra
trong định luật theo cái cách thức của tín đồ Do Thái giáo và người thường,
th́ tôi ắt đỏ mặt mà xin lớn tiếng thú nhận rằng chính Thượng Đế đă ban ra
những luật lệ này; thế th́ những luật lệ của con người có vẻ c̣n tuyệt hảo
và hợp lư hơn.
Và lại nữa:
Bất cứ người nào có lư trí đều đồng ư với phát biểu rằng những ngày thứ
nhất, thứ nh́ và thứ ba, trong đó có định danh buổi chiều và buổi sáng, đều
không có mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, c̣n ngày thứ nhất lại không có
cả bầu trời nữa. Cái mà con người thấy đó là một kẻ ngớ ngẩn giả định rằng
Thượng Đế đă trồng cây trong vườn Địa đàng giống như một người trồng trọt. .
. tôi tin rằng mọi người phải coi những điều đó là những ảnh tượng mà đằng
sau đó có một ư nghĩa ẩn tàng.
Thánh Phao lô cũng nói tương tự như vậy khi nói tới hai con của Abraham:
“những sự vật này đều là ẩn dụ: v́ đây là hai giao ước”; rồi tiếp tục cho
thấy rằng Hagar là núi Sinai c̣n Sarah là “Jerusalem vốn ở phía bên trên”.
Kinh Zohar tố cáo những người nào
đọc thánh kinh theo nghĩa đen:
Khốn nạn thay cho người nào bảo rằng Giáo lư trao truyền những câu chuyện
tầm thường và những lời nói thường ngày. . .
Do đó chúng ta phải tin rằng mọi lời của Giáo lư đều chứa đựng bên
trong nó một ư nghĩa cao cả hơn và một ư nghĩa cao siêu hơn. Những câu
chuyện kể trong Giáo lư đều là những lớp vỏ ngoài của nó. Kẻ chất phác chỉ
nh́n vào lớp vỏ ngoài nghĩa là vào câu chuyện kể của Giáo lư; họ không biết
ǵ hơn nữa. Tuy nhiên kẻ có giáo dục không chỉ thấy lớp vỏ ngoài mà c̣n thấy
điều mà lớp vỏ đó che giấu.
Người Essenes vốn được phân chia thành các
huynh đệ và những người
toàn bích chỉ thừa nhận các ứng
viên vào ḍng tu của ḿnh sau khi đă có một việc tập sự lâu dài, chúng ta
biết theo Josephus, rằng bấy giờ họ sẽ ràng buộc kẻ sơ cơ thành công bằng
“những lời thề ghê gớm” mà (trong số những điều khác):
Y ắt không khám phá ra bất cứ điều ǵ tiết lộ Giáo lư của ḿnh cho những
người khác, không đâu, không phải mặc dù bất cứ ai có thể cưỡng chế y làm
như vậy mà phương hại tới mạng sống của y.
Nghe nói Chúa Giê su đă dành giáo huấn đặc biệt của ḿnh cho những đệ tử đă
được tinh tuyển.
Ta dành cho các con biết được bí nhiệm về nước Thiên Chúa: nhưng đối với
những người ở bên ngoài th́ tất cả những điều này đều được thực hiện bằng
các dụ ngôn.
Thánh Phao lô dùng một ẩn dụ nổi tiếng đă tự xưng là “một bậc thầy xây dựng
minh triết” bảo rằng ông và các đồng loại “nói minh triết trong nội bộ vốn
toàn bích”, nghĩa là những người đă được điểm đạo đầy đủ và miêu tả minh
triết này là “minh triết của Thiên Chúa trong một điều bí nhiệm, ngay cả đó
là minh triết ẩn tàng”. Clement ở Alexandria bảo rằng “các bí pháp của đức
tin không được phổ biến cho tất cả” và nói tới việc che giấu “minh triết
được nói ra trong bí pháp mà Con của Thiên Chúa, là bậc Điểm đạo đồ, đă
giảng dạy”. Trong quyển Vén màn Bí
mật nữ thần Isis, bà Blavatsky có nói:
Trong đám giáo phái khả kính của những người Tanaim hoặc đúng hơn là
Tananim, những người minh triết
th́ có những người dạy những điều bí nhiệm thực tế và được điểm đạo cho một
số môn đồ vào bí pháp cao cả và tối hậu. Nhưng tiết thứ nh́ là
Mishna Kagiga có nói rằng bảng
mục lục của kinh Mercaba ắt “chỉ được trao truyền cho những người minh triết
thời xưa”. Gemara th́ vẫn c̣n
mang tính nhấn mạnh nhiều hơn: “Những bí mật của các Bí pháp càng quan trọng
thậm chí ắt không được tiết lộ cho mọi tu sĩ. Chỉ có các bậc Điểm đạo đồ mới
được trao truyền chúng”.
Thật dễ mà nhân bội lên những chứng cớ về sự tồn tại của tập hợp giáo lư
này, ít ra xuống măi tới thế kỷ thứ tư sau Công nguyên. Sự chiến thắng của
khía cạnh ngoại môn thất học của Ki Tô giáo bấy giờ đè ch́m nó xuống nước,
đến nỗi mà xét về mặt Âu châu, th́ chúng ta chỉ có được những thoáng nh́n về
sự truyền thụ liên tiếp của nó bởi việc trao truyền đôi khi năm th́ mười họa
các bí mật của thiên nhiên - đó là những khám phá vĩ đại - của những người
có học và minh triết, do bị các Giáo hội hành hạ tàn nhẫn, đă bắt buộc phải
che giấu cẩn thận ánh sáng của chúng. Nhưng ở bất cứ nơi đâu vào thời Trung
cổ ta cũng nghe nói tới các nhà luyện
kim đan, những kẻ vô thần là pháp
sư, những kẻ ngoại đạo có học
mà từ những xung lực của họ đă có được học vấn thuần lư, đối với việc khảo
sát thiên nhiên, chúng ta thường thấy khi điều tra biết rằng họ đă có một
mối liên hệ nào đấy với phương Đông, đă triệt thoái ra từ đó để được an toàn
nhờ việc cai trị khoan hồng của Phật giáo, là những người đă nắm giữ Minh
triết Ẩn tàng, để được an toàn cho đến khi cơn băo hành hạ của Ki Tô giáo đă
tự trút ra thành cơn nổi giận của chính ḿnh.
Thật vậy kiến thức về thiên nhiên vật lư là một bộ phận của những giảng huấn
được tiếp nhận trong khi chuẩn bị cho những cuộc điểm đạo cao. Những tính
toán thiên văn học kỳ diệu của người Ấn Độ, hoàng đạo, các chu kỳ của chúng,
là những vấn đề ai cũng biết. Ở bậc thứ năm của kẻ sơ cơ trong Ai Cập giáo,
y được giáo huấn về hóa học bao gồm cả thuật luyện kim đan; ở bậc thứ sáu y
được dạy về thiên văn học. Kiến thức của Pythagoras về dạng h́nh cầu của
trái đất và về hệ thống nhật tâm được truyền thừa cho ngài trong khi ngài
được chuẩn bị để điểm đạo đầy đủ. Cũng vậy đối với những bí mật của thuật
luyện kim đan dành cho Democritus ở Abdera. Thế là Xenophantes đă học biết
rằng mặt trăng không có bầu khí quyển ngoại trừ ở những thung lũng sâu. Cuộc
sống phi thường của Apollonius ở Tyana - ông đă thường được gọi là kẻ Ngoại
đạo mang tính đấng Ki Tô - rất quen thuộc với mọi học viên. Ông cũng trải
qua giới luật là các Bí pháp được “giả sử là đă đi hành hương sang Ấn Độ”,
theo lời tường thuật của Philostratus, ông vốn chỉ là một lời tường thuật ẩn
dụ về cuộc trải nghiệm của kẻ sơ cơ khi bước trên
Thánh đạo. Với vai tṛ là một
Chơn sư, ngài tức khắc vừa là đạo sư vừa là người chữa trị, giống như những
vị khác trong Hội đoàn Huynh đệ, và thật kỳ diệu mà thấy Thánh tử v́ đạo
Justin vào thế kỷ thứ hai có thắc mắc:
Làm thế nào mà những lá bùa của Apollonius lại có quyền năng trong một vài
thành viên sáng tạo? Đó là v́ theo như chúng tôi thấy, chúng ngăn cản được
cơn giận dữ của các đợt sóng và bạo lực của gió, và sự tấn công của loài thú
hoang; và trong khi những phép lạ của Chúa chỉ được truyền thuyết bảo tồn
thôi, th́ những phép lạ của Apollonius hầu như rất nhiều và thực tế biểu lộ
thành những sự kiện hiện nay, làm cho những người chứng kiến phải đi lạc
đường mê mẩn.
Một sự chứng nhận kỳ lạ từ một kẻ đối địch, mặc dù Apollonius không làm nên
phép lạ, nhưng chỉ sử dụng những
quyền năng thuần túy thiên nhiên mà ông hiểu nhưng những người xung quanh
ông không biết. Phải chăng không có ư nghĩa nào khi sự biến mất của các Bí
pháp lại trùng với sự bắt đầu của đêm đen trí thức vốn lan tràn khắp Âu châu
và lại khắc sâu vào đêm đen vô minh của những thế kỷ thứ 8, thứ 9 và thứ 10?
Phải chăng không có ǵ là kỳ lạ trong sự tương phản giữa sự nổi bật mang
tính triết lư, khoa học và văn chương ở vùng Hindustan, Ba Tư, Chaldea, Ai
Cập, Hi Lạp với lại cái sự hoang tàn khô cằn của thời Trung cổ lúc sơ khai?
Nghĩa đen theo đúng chữ đă chiến thắng đối với tinh thần linh động; cái lớp
vỏ tôn giáo giáo điều đă cứng rắn lại trùm lên triết học và khoa học; biểu
tượng công truyền đă thay thế cho chân lư bí truyền, và chân lư bí truyền
mặc dầu bị ẩn tàng chẳng ai thèm ngó ngàng ǵ nữa, coi đó là h́nh ảnh của
nó, là trái tim trong cơ thể con người - th́ nó chính là Tâm của nền văn
minh và tri thức mà nhịp đập không ai cảm nhận được của nó cũng đủ để làm
cho ḍng máu sự sống tuần hoàn trong tĩnh mạch của xă hội loài người, Trái
tim ấy bị tê liệt ở Âu châu, và sự tê liệt ấy lan tràn ra mọi tay chân trong
cơ thể chính trị và xă hội. Thế nhưng thỉnh thoảng người ta lại cảm nhận
được một sự xao xuyến: Roger Bacon, là người tu sĩ huyền thoại đă quán triệt
được toán học và làm cho cả Âu châu sửng sốt bởi những khám phá hóa học của
ḿnh. Ông đă làm ra thuốc súng và tiên đoán được công dụng của hơi nước để
chạy động cơ. Ông đă rút kiến thức của ḿnh ra từ việc nghiên cứu cổ nhân.
Paracelsus trở lại từ việc bị giam cầm ở Tartary trở thành một y sĩ có học
và một pháp sư đă chữa trị, chẳng
hạn như ở Nuremberg, những bệnh án
không thể chữa được, bệnh chân voi, đă đặt nền móng cho công dụng thực
tiễn của từ khí trong việc chữa trị bệnh tật ở Âu châu, đă viết sách về y
học, thực vật học, giải phẫu học, hóa học, thiên văn học cũng như về các học
thuyết triết học và pháp thuật. Ở
Âu châu ông là người khám phá ra
khí Hydro và người ta khẳng định rằng kiến thức về khí Oxy cũng có trong
những tác phẩm của ông. Van Helmont là tín đồ và đệ tử của ông, được Deleuze
miêu tả là sáng tạo ra “những thời kỳ trong lịch sử y khoa và sinh lư học”,
thật vậy từ Paracelsus mới có cái sức thôi thúc mạnh mẽ khởi sự y khoa, hóa
học và nghiên cứu điện và từ theo những đường lối mà những thành công như
thế đă chiến thắng được trong thời hiện đại. Đan xen mật thiết với những
thuyết gợi ư tuyệt vời của ông về các khoa học này là những giáo huấn triết
học của ông - những giáo huấn căn bản là đồng nhất với giáo huấn của Thông
Thiên Học. Ngôn ngữ và thuật ngữ của ông phỏng theo những t́nh huống vào
thời ông, thường có thể tỏ ra là gây hiểu lầm và làm sửng sốt; nhưng nếu ta
nghiên cứu các ư tưởng của ông
hơn là cái khẩu ngữ mà ông khoác lấy chúng, th́ ta ắt phát hiện ra rằng ông
đă có được kiến thức chân chính và đă được giáo huấn bởi bậc minh triết mà
bà Blavatsky nói trong quyển Vén màn
Bí mật Nữ thần Isis, là “đă trải qua cuộc điểm đạo thật sự”.
Ta có thể nói rằng bằng chứng về sự
tồn tại của một tập hợp lớn các giáo lư về triết học và khoa học trong quá
khứ không chứng minh điều ǵ về sự tồn tại của nó trong hiện tại. Đúng là
như vậy, nhưng nếu người ta công nhận rằng nó đă từng một thời tồn tại; nếu
nó đă được dạy trong các trường học, đă được duy tŕ trong các đền thờ và
được trao truyền trong hàng ngàn năm từ thế hệ này sang thế hệ khác các bậc
Đạo trưởng; nếu việc thoáng thấy nó tiếp tục tồn tại có thể có được ở Âu
châu thời Trung cổ; th́ rất có thể thậm chí thật là hợp lư mà giả định rằng
liệu nó có thể biến mất trong ḍng một vài thế kỷ sau khi đă trường tồn qua
hàng ngàn năm chăng; rằng sự nối tiếp lâu dài của những con người đầy đức
tin đột nhiên lại chấm dứt mà không để lại một kẻ thừa kế nào; phải chăng
cái khối rộng lớn những tri thức tích lũy được ấy đă được bảo tồn trung
thành như thế, đă được ấp ủ cẩn thận như thế, đột nhiên lại trở lại thành
không, mọi trải nghiệm đă được tích lũy của nhân loại mà lại biến mất đi
giống như cái “lớp cấu trúc không có nền tảng của một giấc mơ”?
Phải chăng cái tập hợp giáo lư mà chúng ta khẳng định nằm trong tay của các
Chơn sư Minh triết là những bậc kế thừa các vị Đạo trưởng cao cả trong Quá
khứ, và chúng tôi giả định là vẫn c̣n đạt được bởi những người đă đủ dũng
mănh để khoác lấy những nghĩa vụ cổ xưa của người Sơ cơ:
BIẾT, DÁM, MUỐN VÀ IM LẶNG.
(b) Việc nghiên cứu thần thoại học đối chiếu đă thực hiện được nhiều điều
chứng minh sự khẳng định của nhà Thông Thiên Học, theo đó nền tảng của các
tôn giáo lớn trên thế giới có cùng một chân lư huyền bí. Tam vị Nhất thể
trong Vũ trụ là ‘Ngôi Cha, Ngôi Mẹ và Ngôi Con’ với sự tương ứng của nó, là
tam vị nhất thể nơi con người, Atma-Buddhi –Manas, là “nền tảng duy nhất của
Giáo hội”, cho dù ta có thể gọi Giáo
hội bằng danh xưng nào đi chăng nữa. Tiến sĩ Hartmann có tŕnh bày điều
này như sau:
Giáo lư về Tam vị Nhất thể có trong mọi hệ thống tôn giáo chính yếu: trong
Ki Tô giáo đó là Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh thần; trong Ấn giáo đó là
Ngôi Brahma, Vishnu và Shiva; những người Phật tử [Chú thích là thuộc phái
Vedanta] gọi nó là Mulaprakriti, Prakriti và Purusha; người Ba Tư dạy rằng
Ormuzd tạo ra ánh sáng từ chính ḿnh bởi quyền năng của linh từ của ḿnh.
Người Ai Cập gọi đấng nguyên nhân bản sơ là Ammon, từ đó vạn vật được sáng
tạo ra bởi quyền năng ư chí của chính ngài. Ở Trung quốc, Quan Thế Âm là
Ngôi Lời biểu lộ ra ở khắp vũ trụ, xuất phát từ Đấng Tuyệt Đối không biểu lộ
bởi quyền năng ư chí của chính ḿnh và đồng nhất với Quan Thế Âm và đồng
nhất với Ngôi Lời đó. Người Hi Lạp gọi nó là Zeus (tức là Quyền năng),
Minerva (tức là Minh triết) và Apollo (tức là Mỹ lệ). Người
Đức gọi nó là Wodan (tức là Nguyên
nhân Tối cao), Thor (tức là Quyền năng) và Freia (tức là Mỹ lệ). Jehovah và
Allah tức là Tam vị Nhất thể của Ư
chí, Kiến thức và Quyền năng; và ngay cả nhà duy vật cũng tin vào Nhân quả,
Vật chất và Năng lượng.
Đề tài này quá quen thuộc cho nên ta không thể mở rộng thêm nữa; chúng là
kho chứa hàng, là hằng hà sa số các bộ ba đối với mọi học viên về tôn giáo.
Ta hăy lưu ư thêm nữa làm thế nào mà các bộ ba này luôn luôn xuất phát từ
NHẤT NHƯ, và xét về mặt thần bí là nối tiếp Nhất như. Tam vị Nhất thể của Ba
Tư có trước nó là Thời gian và Không gian Vô biên. Ấn Độ th́ chẳng qua chỉ
là những khía cạnh của Brahma tối cao. Người Vedanta có Đấng Parabrahm, Đấng
Tuyệt đối, từ đó Mulaprakriti chỉ là một bức màn che. Người Hi lạp có
Kronos, cao cả hơn Zeus. Tam vị nhất thể bao giờ cũng là khía cạnh sáng tạo
của NHẤT NHƯ. Ngay cả trong Ki Tô giáo, với thuyết nhân h́nh không thỏa hiệp
th́ Ngôi Con do Cha sinh ra,
Thánh thần cũng xuất phát từ Ngôi
Cha, mặc dù có những mối quan hệ ngoài thời gian và không gian; thế nhưng đó
vẫn là một tia sáng le lói về cái ư niệm Nhất như nguyên thủy không biến dị.
Lại nữa, trong mọi tôn giáo th́
Thượng Đế đều nhập thể. Thông Thiên Học dạy về
kẻ hành hương nhập thể qua vô số
chu kỳ, thực thể thiêng liêng vốn là Chơn ngă của con người học hỏi những
bài học trải nghiệm của ḿnh trong trường vũ trụ. Chơn ngă này chính là
Khristos, bị đóng đinh trong vật chất, và do sự hi sinh tự nguyện của ḿnh
để cứu chuộc lại phàm ngă khỏi thú tính, để cứu chuộc cái bộ phận của phàm
ngă có thể đồng nhất hóa ḿnh với nó, rồi dệt những thứ này thành ra tính
bất tử của riêng ḿnh. Trong các Bí pháp th́ cuộc hành hương này được tŕnh
bày đầy kịch tính nơi con người của kẻ sơ cơ trải qua những cuộc điểm đạo,
cho đến khi rốt cuộc trải dài ra giống như h́nh chữ thập trên sàn nhà hay
trên bàn thờ làm bằng đá, y nằm im như chết rồi đứng dậy thành bậc Đạo
trưởng, vị Điểm đạo đồ Thái dương, là Đấng
Khristos đă phục sinh, tức đấng
Ki Tô. Dưới nhiều dạng th́ câu chuyện này đă được tường thuật làm một giáo
điều của tôn giáo, nhưng cho dù là Mithra, Krishna, Baccchus, Osiris hay Ki
Tô th́ đủ thứ danh xưng đă chẳng qua chỉ là một nhăn hiệu mới cho chân lư
xưa cũ. “Là Đấng mà họ tôn thờ một cách vô minh th́ chúng tôi tuyên cáo
Ngài”.
Những biểu tượng của các tín điều chẳng qua chỉ là những chữ bí truyền được
dùng vào thời nay mà chẳng ai hiểu được. Chữ Tau tức là Thập giá; là nước
rửa tội; là ánh sáng h́nh vành xung quanh đầu của bậc thánh; là con rắn cho
dù là bóng tối hay ánh sáng, đều là h́nh ảnh của Thiên Chúa hay Ma quỉ; Đức
Mẹ đồng trinh khoác lấy mặt trời và mặt trăng xung quanh đôi bàn chân của
bà; các vị tổng thiên thần và thiên thần; các vị thiên thần ghi chép và
quyển sổ bộ đời. Tất cả những điều đó xuất phát từ Minh triết Ẩn tàng của
Trường Thánh linh đều chỉ có thể đọc được toàn bộ với đôi mắt lăo luyện của
bậc Thấu thị.
Từ đâu ra có mọi sự tương tự ấy nếu không có nguồn gốc đồng nhất? Clement ở
Alexandria rất thành thật nói tới các Bí pháp Eleusinia:
Các giáo lư được dạy ở đó chứa đựng trong nó cái tột cùng của mọi giáo huấn,
v́ chúng được rút ra từ thánh Moses và các bậc Đạo sư.
Điều này mang thông tin rất nhiều v́ chứng minh sự đồng nhất của các Bí pháp
Do Thái giáo, Ngoại đạo và Ki Tô
giáo, mặc dù các nhà Đông phương học ắt không dành ưu tiên cho giáo huấn của
Do Thái giáo. Khi nhà Thông Thiên Học t́m ra những biểu tượng cổ truyền để
tô điểm cho những nơi chốn linh thiêng của các tín điều hiện đại mâu thuẫn
với nhau th́ mỗi phe đều tuyên bố ḿnh là độc quyền; thật kỳ diệu thay khi y
thấy trong mọi tín điều ấy là những nhánh nhóc từ một cành cây chung và cái
cành đó là những chân lư được dạy trong các Bí pháp, được biết đă từng một
lần được xác lập và được tôn kính trong mọi xứ sở mà ngày nay đă có những
tín điều tranh chấp với nhau.
(c) Bằng chứng về thực nghiệm th́
chủ yếu là có giá trị đối với những người nào đă tiến hành hoặc nh́n thấy
những cuộc thí nghiệm đó nhưng có một khối tích lũy lại bằng chứng này có
sẵn mang tính gián tiếp đối với những người không có cơ hội tiến hành những
cuộc khảo cứu trực tiếp cá nhân. Khả năng chuyển di tư tưởng từ bộ óc này
sang bộ óc khác ở cách xa mà không có một phương tiện giao tiếp thông thường
nào; việc có được kiến thức bằng thần nhăn hoặc thần nhĩ mà kiến thức này
sau đó có thể kiểm chứng được; quyền năng tạo ra một vật tùy ư xuất hiện và
biến mất xét về những người đang chứng kiến; quyền năng phóng ra một điều
tương tự tới một khoảng cách xa được những người hiện diện ở đó nh́n thấy và
nghe thấy, rồi mang về trở lại thông tin sau đó tỏ ra là chính xác; quyền
năng di chuyển các đồ vật mà không tiếp xúc với nó; khiến cho một đồ vật bị
đứng im bất động v.v. . . bằng
đủ thứ vô số điều. Thế rồi c̣n dễ tiếp cận hơn cả những điều nêu trên nhiều
là những hiện tượng lạ mà ta thu được bằng cách sử dụng thuật thôi miên
mesmer và thuật thôi miên, với việc có thể tách rời được tâm thức ra khỏi
tác động của bộ óc, sự kích thích ghê gớm những quan năng của tâm trí trong
những t́nh huống mà tiên nghiệm
là bác bỏ bất cứ sự vận dụng nào các quan năng ấy, việc làm rút gọn hoạt
động của bộ óc liên quan với việc gia tăng hoạt động của tâm linh. Những thí
nghiệm thuộc loại này rất hữu ích để giúp cho ta xác lập sự tồn tại độc lập
của cái Ngă Trí thức, là một thực thể được nối liền với, nhưng không chỉ là
hậu quả của cái cơ thể thể chất. Chúng cũng hữu ích để chứng minh rằng tâm
thức của cá thể rộng lớn hơn nhiều và đầy đủ hơn nhiều cái ư thức b́nh
thường trong sinh hoạt hằng ngày, rằng kư ức bao gồm một địa hạt rộng lớn
hơn nhiều so với những ǵ mà ta nhớ được trong cái trí hoạt động thông
thường. Nhưng trên hết là kết quả của việc theo đuổi cái đường lối nghiên
cứu ấy, việc xét tới những hiện tượng lạ mà ta ít hiểu v́ quá tối tăm, ắt là
có được càng ngày càng mong muốn t́m ra một lư thuyết nào đấy sẽ đưa chúng
vào cái mối quan hệ thuần lư với phần c̣n lại của một vũ trụ bao gồm những
định luật, sẽ làm cho chúng tương quan để tŕnh bày chúng ra như là sự vận
hành b́nh thường của các nguyên nhân tự nhiên. Cái việc phụng sự lớn lao này
đối với trí tuệ đă được Thông Thiên Học thực hiện và chỉ được chấp nhận làm
một giả thuyết để kiểm chứng là một sự hướng dẫn tạm thời để thực nghiệm, ta
ắt thấy nó đă được biện minh nhanh chóng cho việc chấp nhận nó làm giả
thuyết và ta ắt thấy nó được kiểm chứng bởi việc nó phù hợp với những sự
kiện.
(d) Dĩ nhiên bằng chứng từ phép suy luận tương tự cần phải được triển khai
tỉ mỉ, từng bước một, và ta không thể làm nhiều hơn ở đây là nói bóng gió
tới cái loại công dụng mà công cụ này có thể được sử dụng. Trước hết ta hăy
xét ví dụ (i) là các cơi gồm bảy
phần trong vũ trụ và (ii) là giáo
lư về luân hồi.
(i)
Khi nghiên cứu về thế giới vật chất mà chúng ta là một bộ phận trong đó ta
thấy thường xuyên có sự xuất lộ của con số bảy: ta phân chia một chùm tia
ánh sáng trắng th́ sẽ thấy có bảy màu sắc trong quang phổ; ta xét một âm
giai và ta thấy có bảy nốt nhạc riêng rẽ đang tiệm tiến thế rồi có bát độ;
ta hăy xét những thời kỳ sinh sản mang thai rồi ta thấy chúng cũng bao gồm
một tập hợp các con số là các tháng âm lịch, nghĩa là bội số của số bảy; ta
hăy xét những cơn sốt trải qua một lộ tŕnh xác định th́ ta ắt thấy rằng lộ
tŕnh đó là bội số của bảy; những cơn điên cũng chứng tỏ con số bảy này hồi
qui; mặt trăng đánh dấu những sự thay đổi của nó bằng các con số bảy và đă
được dùng làm cơ sở cho tuần lễ gồm có bảy ngày của chúng ta, và tôi có thể
tiếp tục như vậy tới một hay hai trang nữa. Tất cả những chu kỳ gồm bảy phần
này khó ḷng có thể là vấn đề chỉ là ngẫu nhiên, may mắn trùng hợp; trong
một vũ trụ bao gồm các qui luật th́ chắc chắn chúng rất có thể là kết quả
của một nguyên lư thâm căn cố đế nào đấy trong thiên nhiên; lư luận bằng
phép tương tự th́ sự phân chia ra làm bảy rất có thể tồn tại trong vũ trụ
nói chung, ngay cả là những bộ phận của nó. Tạm thời vượt ngoài mức này th́
chúng ta không thể tiến xa hơn được bởi v́ việc đưa ra phép tương tự bằng
cách quan sát những sự kiện ở các cơi vũ trụ là việc vượt mức năng lực của
con người b́nh thường được phát triển như hiện nay; người ta khẳng định rằng
có những người tiến hóa cao đến nỗi các ngài có thể quan sát ở trên các cơi
cao cũng giống như ta quan sát trên các cơi thấp, nhưng hiện nay ta không
quan tâm tới những bằng chứng mà chỉ có thể được thu thập bởi hàng nhiều
năm, không đâu bởi nhiều kiếp, nhẫn nhục, kiên tŕ nghiên cứu.
(ii)
Một lần nữa khi nghiên cứu thế giới vật chất, ta để ư thấy thường có sự
tương quan của cái tương đối thường tồn và cái phù du. Một cái cây ắt kéo
dài tồn tại trong một thế kỷ, hằng năm lại mọc ra một đám lá, những lá này
khô héo đi khi đến mùa thu; những chiếc lá lại rơi rụng nhưng cái cây vẫn
trường tồn. Thế là cái thân cây của cây dương xỉ hoặc cái chồi ấy hằng năm
lại nở ra để tăng trưởng theo định kỳ cái lớp lá lược hoặc những đóa hoa của
ḿnh; sự tăng trưởng theo mùa ấy đă chết đi theo một mùa nhưng cái cây đó
không chết. Cây và thực vật sống qua những thời kỳ biểu lộ, sinh ra vô số
kiếp sống, là hậu quả của cá thể trung tâm. Cũng giống như vậy, Thông Thiên
Học dạy về con người cũng thế. Với vai tṛ là một cá thể, y trường tồn trải
qua suốt chu kỳ biểu lộ của ḿnh, mọc ra đám lá gồm vô số các phàm ngă,
chúng chết đi trong khi y vẫn c̣n sống. Nhưng
ta có thể nói rằng những chiếc lá
chết đi: chúng không sống lại khi
hơi thở của đợt sóng triều mùa xuân lại làm cho thiên nhiên thức tỉnh dậy;
chúng đang bị thối rữa ở dưới đất và chính những thứ nối tiếp chúng, chứ
không phải chúng, đă mọc trên cái cây với sự vinh diệu của nó. Thật cũng
đúng như vậy đối với những phàm ngă; chúng chết đi, và đối với chúng không
có sự phục sinh. Nhưng cũng giống như những chiếc lá, sống cuộc đời của ḿnh
trải qua mùa xuân, mùa hạ và mùa thu, thu thập từ không khí rồi rút ra từ
dưới đất những chất dinh dưỡng mà chúng uốn nắn thành ra những vật liệu để
cho cái cây tổ phụ tăng trưởng rồi từ đó chúng nảy sinh ra; và cũng giống
như những vật liệu cầu kỳ này được rút ra từ chúng bởi cái cây tổ phụ, th́
công dụng và hiệu lực của chúng đă qua rồi trước khi chúng bị ngọn dao sắc
bén là sương giá của mùa đông cắt đứt: cũng giống như vậy phàm ngă thu thập
kiến thức và kinh nghiệm do việc tiếp xúc với thế giới rồi chuyển hóa những
thứ này thành ra các dạng mà biệt ngă vốn trường tồn có thể rút ra từ đó vào
trong ḿnh, sao cho khi lưỡi dao thần chết cắt đứt nó khỏi thân cây tổ phụ,
th́ tất cả những ǵ mà nó thu thập được là vật liệu chân chính dùng làm cho
sự tăng trường của Chơn ngă ắt được chuyển qua để duy tŕ Chơn ngă, mỗi kiếp
sống trước khi nó chết như vậy đều thêm phần hạn ngạch dinh dưỡng của nó cho
Chơn nhơn vốn không chết.
Bằng cách này nếu có thời giờ và có chỗ th́ tôi có thể tiếp tục thu thập
những điều nói bóng gió về cái điều không thấy được xuất phát từ điều thấy
được, thu thập những tiếng nói th́ thào của Bà mẹ Vĩnh hằng là âm nhạc đối
với những chân lư ẩn tàng bên dưới những bức màn che của bà.
Nhưng tài liệu này được dự tính để kích động việc nghiên cứu hơn là việc để
dạy cho học viên, để gợi ư hơn là để thuyết phục, để cho người ta lắng nghe
Thông Thiên Học hơn là để xiển dương các giáo lư của nó. Khoa học cho ta
biết vô số sợi dây đàn có thể được căng ra mà vẫn câm lặng, khi một nốt nhạc
xuất hiện làm mạch động qua không khí trống rỗng gây ra chuyển động ở nơi có
sự tĩnh lặng th́ âm thanh có ở nơi mà sự im lặng ngự trị và đó đây dường như
thể đáp ứng lại từ nhiều trong những sợi dây đàn đang im lặng mà âm nhạc đă
trương phồng lên trải qua không ai để ư thấy, ắt vang lên một nốt nhạc hài
ḥa, có nhịp điệu đáp ứng với cung bậc chủ. Nó xuất phát từ một vài sợi dây
đàn có cùng một tần số rung động và do đó được làm cho xao xuyến khi nốt
nhạc băng ngang qua chúng và đă gửi chúng trở lại thành ra âm nhạc sâu sắc
và du dương như của chính ḿnh. Việc tất cả đều không đáp ứng không phải là
lỗi của nốt nhạc khi được trổi lên, mà là ở việc các sợi dây đàn không có
khả năng rung động đồng nhịp. Và như vậy trong đám những hồn người thuộc mọi
thế hệ, nhiều hồn người ắt vẫn c̣n câm lặng khi nốt nhạc của đàn organ Thông
Thiên Học xao xuyến trổi lên trong sự im lặng, và đối với họ nó sẽ chết đi
mà không được chú ư thành ra không khí trống rỗng. Nhưng đó đây có một người
ắt cảm nhận được sự xao xuyến của âm nhạc và trả lại cho nó thành ra sự cộng
hưởng trọn vẹn trong sáng, là cung bậc đă được trổi lên. Đó là v́ khi một
nốt nhạc như vậy được trổi lên th́ lời hiệu triệu đă được đưa ra. Mong sao
những người nào có thể nghe thấy ắt sẽ đáp ứng.
--------------------------
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS