|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
TRUYỀN THUYẾT
PHẬT ĂN THỊT HEO RỪNG
Trích
Giáo Lư Bí Truyền
quyển 2
Tác giả
Blavatsky |
|
TRUYỀN THUYẾT PHẬT ĂN THỊT HEO RỪNG
Trong truyền thuyết nội môn Phật giáo có
một giai thoại kỳ lạ. Tiểu sử ẩn dụ ngoại môn của Đức Phật
Thích Ca cho rằng Đấng Thế tôn tịch diệt v́ bội thực
thịt heo và cơm, đó thật
là một kết cuộc phàm tục chẳng có ǵ là trang nghiêm. Người ta giải
thích điều này như là đề cập một cách
ẩn dụ tới việc Ngài đă
được sinh ra trong Thiên kiếp “Heo
rừng”, (tức Varāha Kalpa) khi Vishnu khoác lấy h́nh hài của con thú
này để kéo Trái đất ra khỏi “Nước của Không gian”. Nay v́ người Bà
la môn trực tiếp thoát thai từ Brahmā và có thể nói là đồng nhất hóa
với Ngài, và v́ họ đồng thời cũng là kẻ thù bất cộng đái thiên của
Đức Phật và Phật giáo nên chúng ta mới có ẩn dụ kỳ cục này. Bà la
môn giáo (của kiếp Heo rừng tức
Varāha Kalpa) đă tàn hại
Phật giáo ở Ấn Độ và đă quét sạch nó ra khỏi xứ sở này, do đó; người
ta mới nói rằng Đức Phật, được đồng
nhất hóa với triết thuyết của Ngài, tịch diệt v́ ăn thịt heo rừng.
Chỉ riêng cái ư tưởng là Đấng đă lập
nên phép ăn chay nghiêm nhặt nhất và cấm sát sinh – kiêng ăn cả
trứng v́ nó là vận cụ của
cuộc sống tiềm tàng trong tương lai – mà lại tịch diệt v́ bội
thực thịt, cũng đủ mâu thuẫn một cách vô lư rồi,
và nó đă từng làm điên đầu nhiều học
giả Đông phương. Song lối thuyết minh này, khi vén màn bí mật được
ẩn dụ, cũng giải thích được tất cả những ǵ c̣n lại. Tuy nhiên,
Varāha không những là con Heo rừng, mà trước hết h́nh như c̣n có
nghĩa là một con vật sống trên hồ trước thời đại hồng thủy “vẫy vùng
trong nước một cách khoái chí” (Vāyu Purāna).
-----------------------
Bữa thọ thực cuối cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập Niết Bàn là
món ǵ?
Cư sĩ Tâm Diệu
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối
cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường, trong đó có món ăn
sūkara-maddava như là nguyên nhân dẫn đến quyết định về sự Nhập tịch
của Ngài.
Mời Đạo hữu ngắm và cung thỉnh tôn tượng Đức Thích Ca Mâu Ni tại
đây.
Tại sao ông Thuận Đà lại vô t́nh là người đưa món ăn có độc cho đức
Phật?
Theo Kinh Trung Bộ, trên đường đi về hướng Câu Thi
Na (Kushinagar), Đức Phật và Tăng đoàn của Ngài dừng nghỉ tại khu
vườn xoài của nhà ông Thuần Đà ở làng Pava. Thuần Đà hay tin liền
đến ngay chỗ Thế Tôn đảnh lễ và nghe Ngài thuyết pháp. Sau khi nghe
pháp, Thuần Đà phát tâm cúng dường bậc Đạo Sư và Tăng đoàn bữa
ăn trưa ngày hôm sau tại nhà. Đức Thế Tôn im lặng nhận lời.
Sáng sớm hôm sau Thuần Đà sửa soạn các món ăn “loại cứng, loại
mềm và nhiều thứ Sūkara-maddava” để dâng cúng vào thời ngọ trai.
(Ḥa thượng Thích Minh Châu dịchsūkara-maddava là một loại mộc nhĩ).
Trong bữa ngọ trai hôm đó, sau khi an vị chỗ ngồi, đức Thế Tôn nói
với Thuần Đà “Hăy mang món mộc nhĩ đă soạn sẵn cho ta, c̣n những
món ăn khác hăy dọn cho chúng Tỳ kheo”. Chờ cho Thuần Đà dọn
xong các món ăn, đức Thế Tôn bảo Thuần Đà đem chôn món ăn mộc nhĩ
c̣n lại, v́ Ngài biết rằng không một ai có thể “tiêu hóa được” khi
ăn món mộc nhĩ này.
Sau bữa ăn đó, bữa ăn cuối cùng, đức Thế Tôn bị nhiễm bệnh trầm
trọng và Ngài quyết định lên đường đi tiếp đến Câu Thi Na, cách đó
khoảng 15 cây số.
Món ăn cuối cùng của đức Phật là nấm hay mộc nhĩ, hay thịt heo?
Kinh Đại Bát Niết Bàn trong Kinh Trường
Bộ của Tam Tạng kinh điển Pāli với bản dịch của Ḥa
Thượng Thích Minh Châu mà chúng tôi dẫn chiếu trên là nguồn tư
liệu đáng tin cậy nhất về bữa ăn cuối cùng của Đức Phật (vào
khoảng 483 trước Công nguyên). Trong bản Việt dịch, Ḥa thượng dùng
chữ sūkara-maddava một lần và chuyển ngữ chữ này thành “món
ăn mộc nhĩ” 6 lần trong suốt bản văn kinh.
Song hành với Kinh Trường Bộ Pali là Kinh Trường A
Hàm Sanskrit, Ḥa Thượng Thích Thiện Siêu dịch là “nấm
chiên-đàn (chiên-đàn-thọ nhĩ)” và ghi chú là “Chiên-đà ở đây
nên hiểu là quư báu. Thức ăn này theo chữ Pali là sūkara-maddavam,
có nghĩa là một loại nấm hay rau mà loài heo ưa thích”.
Thật ra “sūkara-maddava” là một thuật ngữ đă gây tranh
luận từ rất lâu trong giới học giả Phật Giáo, v́ thế trong một số
bản dịch Anh ngữ thuật ngữ này được để lại y nguyên. Sūkara-maddava
được phân làm hai từ: "sūkara " và "maddava". Theo nhiều học
giả Pali th́ danh từ sūkara được dịch là "lợn / heo rừng" mà
tính từ maddava được dịch là "được ưa thích, mềm mại, dịu
dàng". Tuy nhiên, trong bài viết bằng Anh ngữ “How did the
Buddha die?”, Tiến sĩ B́nh Anson, một học giả /hành giả Phật
Giáo Nam truyền thời nay cho biết:
“Thuật ngữ sūkara -maddava có nghĩa là phần mềm của lợn hay heo
rừng, hoặc một loại mà giống lợn/heo rừng thích ăn, được cho là một
thứ nấm (mushroom) hay loại nấm truffle, khoai lang hay tuber
(LND: truffle là quả thể phát sinh từ nấm tuber mọc hoàn toàn dưới
mặt đất).
Trong một số bài b́nh luận khác, sūkara -maddava cũng được nhắc đến
như là một loại "cây thuốc" (dược thảo) trong y học cổ Ấn Độ, hoặc
là "măng non bị chà đạp bởi lợn". Tất cả các nhà sư học
giả ngày nay đều đồng ư với ư nghĩa của "nấm hoặc nấm truffle", và
tôi đồng t́nh với họ.
Theo các quy tắc của tu viện, các nhà sư không được phép ăn
thịt từ động vật đặc biệt bị giết để làm thức ăn cho họ. Ư
nghĩa của sūkara -maddava là "thịt lợn / thịt heo rừng " không thích
hợp ở đây. "
(“Sūkara -maddava may mean: (1) the tender parts of a pig or
boar,(2) what is enjoyed by pigs or boars, which may be referred to
a mushroom or truffle, or a yam or tuber. In some other
commentaries, sukara-maddava was also mentioned as a "medicinal
plant" in classic Indian medicine, or as "young bamboo shoots
trampled by pigs".
All the current scholar monks agree with the meaning of "mushroom or
truffle", and I concur with them. According to the monastic rules,
the monks are not allowed to eat meat from animals specifically
killed to make food for them. The meaning of sukara-maddava as
"pork/boar meat" is thus not appropriate here.”)
Sáng sớm hôm sau Thuần Đà sửa soạn các món ăn “loại cứng, loại mềm
và nhiều thứ Sūkara-maddava” để dâng cúng vào thời ngọ trai. Sau bữa
ăn đó, bữa ăn cuối cùng, đức Thế Tôn bị nhiễm bệnh trầm trọng và
Ngài quyết định lên đường đi tiếp đến Câu Thi Na, cách đó khoảng 15
cây số.
Ngoài ra, trong lời nói đầu cho bản dịch tiếng Đức Kinh Trung Bộ,
Karl Eugen Neumann, một trong những học giả Phật Giáo sớm nhất của
Đức Quốc đă trích dẫn từ một bản tóm lược các cây thuốc Ấn Độ th́ có
một vài cây thuốc bắt đầu với chữ sūkara và ông kết luận sūkara
–maddava có nghĩa là một món ăn ngon của heo, một loại nấm
truffles.
Trong bản dịch từ tiếng Pali sang tiếng Anh, học giả Rhys Davids
cũng đă dịch thuật ngữ sūkara –maddava là “truffles”
Một học giả khác là Arthur Waley trong một luận án viết vào năm 1932
(("Did Buddha die of eating pork?") đă giải thích sūkara –maddava có ít
nhất bốn nghĩa:
(1) Thức ăn mềm của heo (pig's soft-food),
(2) Món ăn ưa thích của lợn (pig's-delight),
(3) Thực phẩm, chà đạp bởi lợn (pig-pounded) và ông liệt kê một
số thực vật bắt đầu bằng chữ “pig” như sūkara -kanda (pig-bulb),
sūkara -paadika (pig's foot), sukaresh.ta (sought-out by pigs). Và
sau khi phân tích các chữ và nghĩa, ông cho rằng sūkara –maddava
không có nghĩa là thịt heo mà chính là một loại thực phẩm mà heo ưa
thích, một loại nấm truffles. Hơn nữa, Waley chỉ ra loại thực
vật này là do dân địa phương xứ Ma Kiệt Đà (Maghada ) tức bang Bihar
(Bắc Ấn) ngày nay đặt ra mà vùng Tây và Nam Ấn, nơi Phật
Giáo Pali hoàn toàn không biết nên đă hiểu lầm sūkara –maddava là
món ăn làm bằng thịt heo. [06].
Phải chăng đức Phật biết trước đây là món ăn sẽ đưa ḿnh tới Nhập
diệt Niết Bàn?
Tại sao Phật dặn Thuần Đà đừng dọn cho các vị Tăng khác món ăn nấm
và phải chôn phần c̣n dư của món này. Có phải Phật đă biết món ăn
nấm đă bị nhiễm độc là cơ duyên cuối để Phật nhập Niết Bàn nên không
cho chư tăng khác ăn? Cho nên rất có thể đây là món ăn mộc
nhĩ như Ḥa Thượng Minh Châu dịch hay là món ăn nấm như đa số các
học giả Phật Giáo thời nay đồng ư, v́ loại nấm này, một loại nấm chỉ
mọc ngầm dưới đất có thể bị nhiễm độc và chỉ có heo rừng mới t́m
ra được mà thôi.
Một điều nữa cần biết thêm là vùng Pava, nơi cư ngụ của ông Thuần
Đà là trung tâm truyền giáo của Kỳ Na Giáo thời Phật tại thế,
một đạo giáo chủ trương triệt để ăn chay thuần, cấm sát sinh và cấm
uống rượu.
Nói tóm lại, phần lớn các học giả Phật giáo đều đồng ư với ư
nghĩa của sūkara -maddava là "một loại nấm truffle", chứ không
thể là thịt lợn hay thịt heo rừng v́ các nhà sư không được phép ăn
thịt từ động vật đặc biệt bị giết để làm thức ăn cho họ. Điều này
cũng dễ hiểu v́ Thuần Đà là một vị cư sĩ Phật tử đă quy y theo Phật,
biết luật Phật, biết Đức Phật rất nhạy cảm đến nỗi khổ đau của chúng
sinh, ngay cả việc Ngài không dùng sữa của ḅ trong mười ngày đầu
khi bê con ra đời; nên ông không thể nào nỡ giết heo làm thịt cúng
dường Phật.
Đức Phật biết nhân duyên tịch diệt của Ngài đă đến, lại thêm ḷng
từ bi muốn tạo phước đức cho Thuần Đà nên Ngài quyết định dùng bữa
ăn do Thuần Đà cúng dường, cho dù không dùng bữa ăn ấy th́ ngày
giờ Niết Bàn của Đức Thế Tôn cũng được Ngài quyết định từ ba tháng
trước.
Để xóa tan nghi ngờ và niềm hối hận trong ḷng của cư sĩ Thuần Đà v́
nghĩ rằng chính thức ăn mà ḿnh dâng cúng làm cho đức Thế Tôn Niết
Bàn. Đức Phật bảo Ngài A Nan hăy đến trấn an tinh thần Thuần Đà.
Đức Phật đă quyết định Niết Bàn vào ngày trăng tṛn tháng tư âm lịch
(vesakha) tức vào năm 483 trước Công nguyên. Sự việc này đă được ghi
lại trong kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna) và kinh Cunda.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS