Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lý

 HOME TÌM HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   HÌNH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

Trích CON NGƯỜI từ đâu tới,

Sinh hoạt ra sao và Rồi sẽ đi về đâu  

CHƯƠNG  XXIV Tôn giáo và các Đền thờ  

Tác giả Annie Besant và C. W. Leadbeate

Bản dịch: www.thongthienhoc.com

 

CHƯƠNG  XXIV

Tôn giáo và các Đền thờ

 

Việc hầu như không có mọi điều lệ khiến cho thoạt nhìn có vẻ có tự do đáng kể, mặc dù cùng lúc đó bầu không khí nhất trí cũng gây ấn tượng rất mạnh mẽ đối với chúng tôi. Có nhiều người thuộc nhiều loại khác nhau và đang tiến hóa theo những đường lối trí năng, sùng tín và hành động; nhưng tất cả đều công nhận rằng Đức Bàn Cổ biết rất rõ mình đang làm gì và mọi đường lối khác nhau này chỉ là biết bao nhiêu phương pháp phục vụ ngài – bất cứ sự phát triển nào đối với ai đó xảy ra cho y không phải là vì bản thân y mà là vì cả Giống dân do nó có thể được trao truyền cho con cái của y. Không còn có những tôn giáo khác nhau theo nghĩa mà chúng ta hiểu về từ ngữ này mặc dù cùng một giáo huấn như nhau được trình bày dưới những dạng tiêu biểu khác nhau. Tuy nhiên đề tài thờ cúng tôn giáo có tầm quan trọng lớn đến nỗi bây giờ chúng tôi xin dành một tiết đặc biệt để cứu xét nó, sau đó là tới những phương pháp giáo dục mới và những đặc điểm chi tiết về sinh hoạt cá nhân, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt đoàn thể trong cộng đồng.

 

Thông Thiên Học trong Cộng đồng

 

Vì hai Chơn sư sáng lập ra hội Thông Thiên Học cũng là hai thủ lĩnh của cộng đồng này cho nên hoàn toàn tự nhiên là ý tưởng tôn giáo hiện hành ở đó cũng là cái mà hiện nay ta gọi là Thông Thiên Học. Mọi điều hiện nay chúng ta chủ trương – mọi thứ chỉ được biết trong vòng thâm u nhất của Trường Bí giáo – đều là tín ngưỡng phổ thông của cộng đồng và có nhiều điều cho đến nay ta chỉ biết vỏ vẽ thì lúc đó dân cộng đồng đã thấu hiểu tỉ mỉ và lĩnh hội hoàn toàn. Đại cương về Thông Thiên Học không còn là vấn đề tranh cãi mà là chuyện chắc chắn, sự thật về đời sống bên kia cửa tử cùng với sự tồn tại và bản chất của các cõi cao là chuyện hiểu biết thực nghiệm của hầu hết mọi thành viên trong đám kiều dân. Ở đây cũng giống như trong thời đại chúng ta, có nhiều ngành nghiên cứu khác nhau thu hút những người khác nhau; một số người chủ yếu suy nghỉ về triết học cao siêu và siêu hình học, trong khi đa số mọi người thích biểu lộ tình cảm tôn giáo của mình theo một số đường lối được cung ứng sẵn nơi các Đền thờ khác nhau. Một cảm hứng mạnh mẽ, thực tiễn lan tỏa khắp suy tư của họ và ta cũng chẳng nói xa sự thật bao nhiêu khi cho rằng tôn giáo của cộng đồng này là tu hành hiệp nhất, ngôn hành hiệp nhất. Không có chuyện khoa học và tôn giáo quay lưng lại với nhau bởi vì cả hai đều hoàn toàn có khuynh hướng nhắm vào cùng một mục đích và chỉ tồn tại vì ích lợi của Nhà nước. Thiên hạ không còn thờ cúng đủ thứ biểu lộ bởi vì mọi người đều hiểu biết chính xác về sự tồn tại của Thái dương Thượng Đế. Nhiều người vẫn còn có phong tục chào Mặt trời lúc bình minh, nhưng tất cả đều thừa biết rằng ngài được coi là một trung tâm lực trong cơ thể của Đấng Thiêng liêng.

 

Các Thiên thần

 

Một đặc điểm nổi bật của sinh hoạt tôn giáo là mức độ mà các Thiên thần tham gia vào đó. Nhiều tôn giáo trong thế kỷ thứ 20 có nhắc tới một Thời đại Hoàng kim trong quá khứ khi các Thiên thần hoặc Thần linh sinh hoạt thoải mái giữa nhân quần, nhưng tình huống hạnh phúc này từ đó trở đi đã ngưng bặt bởi vì cơ tiến hóa đạt tới giai đoạn thô trược. Xét về cộng đồng của chúng ta thì điều này lại được thực hiện vì các đại Thiên thần thường giáng lâm giữa nhân quần mang lại cho người ta nhiều khả năng phát triển mới, mỗi đại Thiên thần thu hút về mình những người tương cận với bản chất của mình. Ta cũng chẳng nên ngạc nhiên về điều đó bởi vì ngay cả trong thế kỷ 20, các Thiên thần đã giúp đỡ nhiều cho những kẻ nào có thể tiếp thu được. Lúc bấy giờ thì đa số mọi người không thích hợp với những cơ hội được học hỏi và những đường lối tiến bộ như thế nhưng đó không phải do lỗi là các Thiên thần không sẵn lòng mà vì loài người lúc đó tiến hóa lạc hậu quá. Lúc bấy giờ chúng ta ở vào địa vị rất giống như con nít học lớp tiểu học trong trường đời. Các vị đại giáo sư của trường đại học thỉnh thoảng cũng đến trường chúng ta giảng dạy cho các học viên xuất sắc và đôi khi ta thấy họ đi ngang qua ở chỗ xa xa; nhưng lúc đó công trình phục vụ của họ chẳng trực tiếp hữu dụng cho ta chỉ vì tuổi tác hoặc trình độ phát triển của ta chưa thể ứng dụng gì được những điều đó. Các lớp học ấy bây giờ lại được tổ chức. Thầy giáo vẫn còn đó, hoàn toàn trong tầm ứng dụng của ta ngay khi ta đã đủ lớn khôn. Cộng đồng của ta đã đủ lớn khôn cho nên nó mới gặt hái được ích lợi của việc thường xuyên giao tiếp với các Đấng cao cả và được các ngài thường xuyên giáo huấn.

 

Việc Phụng tự trong các Đền thờ

 

Các Thiên thần này không chỉ lâu lâu mới xuất hiện mà dứt khoát đóng vai trò tổ chức chính qui dưới sự điều hành của bậc Thượng tế, ngài hoàn toàn kiểm soát sự phát triển tôn giáo trong cộng đồng và bộ môn giáo hóa của nó. Xét về biểu hiện bên ngoài của tôn giáo thì chúng tôi thấy người ta tổ chức đủ thứ lớp học về việc phụng tự trong Đền thờ và chức năng đặc biệt của các Thiên thần chính là việc phụng tự ấy. Bốn loại Đền thờ đã được chúng tôi quan sát cho dù nét đại cương và những mục đích của việc phụng tự đều giống như nhau nhưng xét về hình thức và phương pháp thì có những điều khác nhau nổi bật mà bây giờ chúng tôi sẽ ra sức miêu tả. 

Chủ điểm của việc phụng tự trong Đền thờ là ở chỗ cho dù mỗi người thuộc về một loại đặc biệt nào thì y vẫn có một con đường nào đó giúp mình có thể dễ dàng nhất đạt tới Đấng Thiêng Liêng, vì vậy đến lượt ảnh hưởng thiêng liêng cũng dễ dàng đạt tới y nhất theo đường ấy. Nơi một số người thì kênh dẫn ấy là tình luyến ái, nơi những người khác là lòng sùng tín, nơi những người khác là lòng đồng cảm và nơi những người khác nữa là trí năng. Đó là vì có bốn loại Đền thờ, trong mỗi Đền thờ thì mục đích là làm nổi bật lên phẩm tính nơi con người để y giao tiếp tích cực và hữu thức với phẩm tính tương ứng nơi Thượng Đế. Vì đó chỉ là một biểu lộ của phẩm tính Thượng Đế cho nên bằng cách ấy, bản thân con người có thể dễ dàng nhất để được thăng tiến và trợ giúp. Nhờ vậy chỉ một thời gian sau y có thể được nâng lên tới mức độ tâm linh và quyền năng vượt xa bất cứ thứ gì mà bình thường y có thể đạt được; mỗi nỗ lực thăng tiến tâm linh như thế sẽ khiến cho y dễ dàng thực hiện nỗ lực tương tự tiếp theo để được nâng lên chút ít so với mức bình thường. Mọi việc phụng tự mà con người tham dự đều được dự tính gây một tác dụng nhất định đối với y và người ta cẩn thận xếp đặt việc phụng tự trong một năm hoặc một loạt năm liên tiếp nhằm mục đích phát triển trung bình cho cộng đồng ngõ hầu đưa các thành viên cộng đồng lên tới một mức nào đó. Trong công việc này thì sự hợp tác của vị Thiên thần thật là vô giá bởi vì Thiên thần đóng vai vị lễ sư chân chính, làm trung gian giữa người thường và Thượng Đế, tiếp nhận, thu thập và chuyển giao luồng thần lực đạo tâm của thiên hạ cũng như phân phối, ứng dụng và thích ứng xuống mức bình thường làn sóng ảnh hưởng thiêng liêng từ trên cao giáng nhập để đáp ứng.

 

Đền thờ màu đỏ thắm

 

Đền thờ đầu tiên mà ta bước vào nhằm mục đích khảo sát là một trong những Đền thờ mà vị Thiên thần thoạt tiên đã trình bày trong những bức tranh – một trong những Đền thờ nơi sự tiến bộ chủ yếu được thực hiện thông qua tình cảm, một đặc trưng vĩ đại của việc phụng tự này là một luồng màu sắc rực rỡ ào ạt đi kèm theo các việc phụng tự và quả thật là biểu hiện chính yếu của chúng. Ta hãy tưởng tượng một dinh thự nguy nga hình tròn hơi giống như một nhà thờ chính, thế nhưng không thuộc loại kiến trúc mà hiện nay ta đã biết và thoáng khí hơn hẳn so với bất kỳ nhà thờ chính nào trong khí hậu hiện nay ở Âu châu. Ta hãy tưởng tượng nó chứa đầy một đám đông sùng kính còn vị lễ sư Thiên thần đứng ở trung tâm ngay trước mặt đám đông. Trên chóp đỉnh của một loại công trình dựng đứng có hình in chìm với dạng Kim tự tháp hoặc hình nón sao cho mọi phía của tòa nhà lớn này đều có thể nhìn thấy vị Thiên thần giống nhau.

Thật đáng lưu ý khi mỗi người thờ phụng bước vào ngồi trên bệ đá yên lặng và kính cẩn rồi khép mắt lại thấy trước mắt tâm trí của mình diễn ra một loạt những dải hoặc đám mây ngũ sắc, đôi khi giống như ta thấy xảy ra trước mắt mình trong đêm tối ngay trước khi ngủ thiếp đi. Mỗi người đều có một thứ tự riêng của mình về những màu sắc này, trong một chừng mực nào đó những màu sắc ấy hiển nhiên là biểu hiện cá nhân của y. Điều này dường như có bản chất là lời cầu nguyện mở đầu trước khi bước vào nhà thờ trong thế kỷ thứ 20 nó có mục đích để làm cho người ấy bình tỉnh lại, tập trung tư tưởng nếu chúng đang tán loạn và làm cho người ấy chỉ hợp với bầu không khí xung quanh và mục đích mà nó trợ lực. Khi việc phụng tự bắt đầu thì Thiên thần hiện ra trên đỉnh Kim tự tháp, nhân dịp này khoác lấy hình tướng một con người, rực rỡ và vinh hiển, mặc những bộ y phục màu đỏ tươi khi bay tới những Đền thờ đặc biệt này (màu sắc biến thiên tùy theo loại Đền thờ mà hiện nay ta ắt thấy được).

Tác động đầu tiên của vị Thiên thần là khiến cho cái đầu của mình tỏa ra một dải màu sắc rực rỡ khá giống như quang phổ mặt trời, ngoại trừ có những dịp khác thì màu sắc lại theo thứ tự với những tỉ lệ khác nhau. Ta thực ra không thể miêu tả được chính xác dải màu sắc này vì nó đâu phải chỉ là quang phổ: đó là một bức tranh nhưng lại không phải là bức tranh, nó chứa đựng những hình kỷ hà, thế nhưng hiện nay ta không có phương tiện nào để vẻ ra hoặc biểu diễn nó, bởi vì nó không có nhiều chiều đo hơn mức mà các giác quan ta biết theo cấu tạo hiện nay. Dải này là chủ âm hoặc văn bản của cái việc phụng tự đặc thù ấy, những người nào hiểu được nó ắt biết được mục tiêu chính xác mà nó dự tính thành tựu và phương hướng để cho tình cảm và đạo tâm của mình phải tuôn đổ theo chiều ấy. Đó là một tư tưởng được diễn tả bằng ngoại ngữ màu sắc của chư Thiên và cả đám đông đều hiểu được điều đó như vậy. Ta thấy nó thể hiện rõ ràng trên cõi Hồng trần cũng như trên cõi Trung giới và cõi trí tuệ vì mặc dù đa số đám đông đều có ít ra là, thần nhãn trên cõi trung giới nhưng có thể một số người trong đám đó lúc thì thấy lúc thì không.

Bây giờ mỗi người hiện diện đến toan tính bắt chước bản văn hoặc chủ âm này, dùng quyền năng của ý chí để tạo ra trong bầu không khí ngay trước mặt mình một dải màu sắc nhỏ càng giống dải mẫu bao nhiêu càng tốt. Một số người thành công hơn hẳn so với những người khác sao cho mỗi toan tính như thế chẳng những biểu diễn đề tài vị Thiên thần biểu thị mà còn biểu diễn tính tình của người tạo ra nó. Một số người có thể làm như vậy dứt khoát đến nỗi người ta thấy được nó trên cõi hồng trần trong khi những người khác chỉ có thể làm như vậy ở trên cõi trung giới và cõi trí tuệ. Một số người bắt chước được hình tướng mà vị Thiên thần tạo ra một cách rực rỡ và thành công nhất nhưng không đưa nó xuống cõi hồng trần.

Vị Thiên thần giơ tay ra trên đầu mọi người bây giờ thông qua hình tư tưởng màu sắc tuôn xuống một luồng ảnh hưởng kỳ diệu lên thiên hạ - luồng này đạt tới người ta thông qua hình tư tưởng màu sắc tương ứng của họ rồi nâng họ lên tỉ lệ đúng mức với việc họ thành công tạo ra hình tư tưởng màu sắc giống như của vị Thiên thần. Ảnh hưởng không chỉ của vị lễ sư Thiên thần mà vượt trên và hoàn toàn vượt trên y, xa rời khỏi Đền thờ hoặc thế giới vật chất; còn có một đoàn Thiên thần cao hơn mà vị Thiên thần này đóng vai là kênh dẫn thần lực. Tác dụng trên cõi Trung giới của sự tuôn đổ màu sắc ấy thật là đáng kể. Một biển ánh sáng màu đỏ thắm nhạt tràn ngập bầu hào quang rộng lớn của vị Thiên thần, tỏa ra thành những đợt sóng lớn phủ xuống đám đông, nhờ vậy đã tác động lên họ, kích động xúc cảm của họ trở nên kịch liệt hơn. Mỗi một xúc động này vọt lên nhập vào biển ánh sáng màu hường ấy với hình tư tưởng đặc thù của mình, nhưng cho dù nó đẹp thì tự nhiên nó vẫn còn thuộc loại thấp hơn hình tư tưởng của vị Thiên thần; cá nhân nó thô hơn và mờ đục hơn toàn thể sự rực rỡ mà nó lóe lên vào trong đó, như vậy ta có một tác dụng đẹp tuyệt vời khi những ngọn lửa màu đỏ thắm sẫm xuyên qua một biển màu hường mà ta có thể tưởng tượng là những ngọn lửa của núi lửa phun trào trước cảnh mặt trời lặn rực rỡ.

Muốn hiểu được trong một chừng mực nào đó cách thức tạo ra hoạt động rung động đồng cảm này ta phải (ngộ ra) được rằng hào quang của vị Thiên thần vốn mở rộng hơn hào quang của con người và linh hoạt hơn nhiều. Xúc cảm nơi một người bình thường biểu hiện thành ra một nụ mĩm cười chào đón thì nơi một vị Thiên thần nó khiến cho hào quang đột ngột mở rộng và sáng chói, biểu lộ chẳng những qua màu sắc mà còn qua âm thanh của âm nhạc nữa. Lời chào của vị Thiên thần này với Thiên thần kia là một hợp âm rực rỡ hoặc đúng hơn là một hợp âm; một cuộc đàm đạo giữa hai Thiên thần giống như một khúc fuga, còn một bài diễn từ mà Thiên thần này thuyết cho Thiên thần kia thì giống như một nhạc kịch lộng lẫy. Một vị Sắc giới thiên thần ở trình độ bình thường cũng có hào quang thường thường là đường kính nhiều trăm thước Anh và khi bất cứ thứ gì làm Thiên thần thú vị hoặc kích thích sự hào hứng của Thiên thần thì hào quang này tức khắc gia tăng ghê gớm. Vì vậy, vị Thiên thần lễ sư của chúng ta bao trùm toàn thể đám đông bên trong hào quang mình, do đó có thể tác động lên họ một cách mật thiết nhất từ cả bên trong lẫn bên ngoài, Có lẽ bạn đọc sẽ hình dung được hào quang này nếu y nhớ tới hào quang của vị La hán trong tác phẩm Con người Hữu hình và Vô hình nhưng bạn đọc phải nghĩ rằng nó ít cố định hơn và linh động hơn, nó có nhiều lửa và đốm lửa hơn, hầu như bao gồm toàn là các tia lửa mạch động, thế nhưng cách sắp xếp màu sắc thì có tác dụng chung chung giống hệt. Dường như thể những hình cầu màu sắc này vẫn y nguyên, nhưng được tạo ra bởi các tia lửa cứ tuôn chảy mãi ra bên ngoài, thế nhưng khi chúng vượt qua mỗi hình nan quạt của bán kính ấy thì chúng ta lại có được màu sắc của hình nan quạt ấy.

 

Các liên hệ với Thượng Đế

 

Luồng tuôn đổ ảnh hưởng đầu tiên lên thiên hạ này có tác dụng nâng cao mỗi người tới mức cao nhất và khơi dậy nơi y tình cảm cao thượng nhất mà y có thể đạt được. Khi vị Thiên thần thấy rằng mọi người đều đã chỉnh hợp với một chủ âm thích đáng thì Thiên thần đảo ngược dòng thần lực, tập trung xác định bầu hào quang biến vào bên trong một hình cầu nhỏ hơn, từ chóp hình cầu này vươn ra một cột trụ khổng lồ dựng đứng lên. Thay vì duỗi tay ra phía trên đầu mọi người thì Thiên thần nâng họ lên trên đầu mình và bằng dấu hiệu ấy mọi người trong đám đông đều phóng về phía vị lễ sư-Thiên thần nguồn tình cảm và đạo tâm dồi dào nhất của mình tuôn đổ về phía ngài lòng sùng bái và yêu thương khi quì dưới chân Đấng thiêng liêng. Vị Thiên thần hút hết mọi luồng lửa này vào bản thân rồi tuôn đổ chúng lên trên đầu thành ra một suối nguồn rộng lớn ngọn lửa có nhiều màu sắc, nó càng dâng lên thì càng mở rộng ra rồi được nhóm Thiên thần đang chờ đợi tiếp nhận; những Thiên thần này lại truyền dẫn nó thông qua chính mình, chuyển hóa nó, hội tụ nó giống như hội tụ các tia khúc xạ qua một lăng kính cho đến khi nó đạt tới vị Tổng Thiên thần của Cung ấy, đây là đấng đại hùng chuyên quyền được coi như chính Thượng Đế và biểu diễn Cung ấy liên quan tới Thượng Đế.

Vị Tổng Thiên thần này thu thập những luồng tương tự từ khắp nơi trên thế giới rồi ngài dệt những luồng ấy thành ra một sợi dây thừng lớn nối liền cõi trần với gót chân Thượng Đế, ngài phối họp nhiều luồng này lại thành ra một dòng sông lớn duy nhất chảy xung quanh Gót chân Thượng Đế rồi đưa đóa hoa sen tới gần tâm của đóa hoa; thế là Thượng Đế đáp ứng. Dưới ánh sáng của chính Thượng Đế tỏa chiếu trong chốc lát một sự chói lọi còn rực rỡ hơn nữa, phản xạ trở lại vị Tổng Thiên thần cái tia chớp lóe tức khắc nhận ra được nó thông qua Tổng Thiên thần truyền xuống vành đai các thiên thần chờ đợi bên dưới để đón nhận luồng sóng quyền lực ấy; rồi thông qua các Thiên thần này nó tiếp xúc với vị Thiên thần lễ sư đang trông chờ trên đỉnh (Kim tự tháp) một lần nữa vị Thiên thần hạ cánh tay xuống đưa nó ra trên đầu (thần dân) để ban phước. Một cơn thác lũ màu sắc rực rỡ khôn tả tràn đầy trọn cả nhà thờ chính rộng lớn; những dòng thác này giống như lửa ở dạng chất lỏng, thế nhưng có sắc thái tinh vi như mặt trời lặn ở Ai cập, thấm nhuần mọi người với vẻ sáng láng; và mọi người đều rút ra từ làn sóng vinh quang ấy những gì mình có thể hấp thu được mà trình độ phát triển của mình tiêu hóa được.

Mọi hiện thể của mỗi người đang có mặt đều được luồng năng lực thiêng liêng ồ ạt tràn xuống này kích hoạt tới mức cao nhất và trong nhất thời mỗi người đều ngộ ra được đến mức tối đa sự sống của Thượng Đế có nghĩa là gì, và bằng cách nào mà nơi mỗi người nó phải biểu hiện thành ra tình thương đối với đồng loại. Đây là một sự ban phúc đầy đủ hơn nhiều và mang tính cá nhân hơn nhiều so với lúc được thể hiện khi bắt đầu việc phụng tự, vì đây là một điều gì đó thích hợp chính xác với mỗi người, củng cố được nhược điểm của y, thế nhưng đồng thời lại phát triển được đến mức cao nhất mọi điều tốt đẹp nhất nơi y, cung cấp cho y chẳng những là một kinh nghiệm siêu việt và phi thường vào lúc đó mà cũng còn là một kỷ niệm sẽ trở thành một ánh sáng rạng rỡ và chói lọi dành cho y trong nhiều ngày sắp tới. Đây là việc phụng tự hằng ngày, việc thực hành tôn giáo hằng ngày của những người thuộc về Cung tình cảm.

Ảnh hưởng tốt đẹp của việc phụng tự ấy chẳng những tác động lên những người có mặt mà các tia chiếu xạ của nó còn trải rộng ra một vùng rộng lớn, tẩy trược cho bầu không khí trên cõi trung giới và trí tuệ. Tác dụng này được cảm nhận rõ ràng ngay cả đối với một người chỉ nhạy cảm trung bình khi ở cách xa Đền thờ tới hai – ba dặm. Mỗi dịp phụng tự như thế cũng phóng ra một luồng bùng nổ khổng lồ những hình tư tưởng màu hường tới tấp đổ ụp xuống vùng xung quanh bằng những tư tưởng yêu thương sao cho trọn cả bầu không khí ở đó đều đầy ấp tình thương. Ngay nơi chính Đền thờ thì có một luồng xoáy rộng lớn màu đỏ thắm được lập nên một cách khá trường tồn sao cho bất cứ ai bước vào Đền thờ đều ngay tức khắc cảm nhận được ảnh hưởng của nó, và điều này cũng giữ cho ta có được một sự phóng phát đều đều ra vùng xung quanh. Ngoài những vùng nêu trên ra, mỗi người khi trở về nhà từ bước phụng tự ấy thì bản thân y cũng là một trung tâm lực không kém phần tầm thường. Và khi y về tới nhà thì những tia bức xạ tuôn ra từ y cũng được cảm nhận mạnh mẽ nơi bất cứ người lân cận nào không được tham gia buổi phụng tự.

 

Bài  giảng

 

Thỉnh thoảng ngoài điều đó ra hoặc có lẽ là một việc phụng tự riêng biệt, vị Thiên Thần còn rao giảng điều có thể mô tả là một loại bài giảng bằng màu sắc lấy chính cái hình tư tưởng màu sắc mà ta vừa đề cập tới làm chủ âm hoặc văn bản cho ngày hôm đó, rồi giải thích cho dân chúng bằng một qui trình phát triển hầu hết là không nói nên lời, có lẽ khiến cho nó trải qua một loạt những biến dị với mục đích truyền đạt cho nó đủ thứ điều giáo huấn. Một bài giảng màu sắc cực kỳ linh hoạt và sinh động thuộc loại này có mục đích cho thấy tác dụng của tình thương đối với đủ thứ phẩm tính nơi người khác khi nó tiếp xúc với người ta. Các đám mây ác ý đen ngòm, màu đỏ bầm giận dữ, màu xanh lục dơ dáy của sự lừa gạt, màu nâu xám của lòng ích kỷ, màu xanh lục nâu xỉn của lòng ghen tương và màu xám xỉn nặng nề của sự ngã lòng, đến lượt chúng đều tuân phục ngọn lửa yêu thương màu đỏ thắm cháy rực. Người ta đã chứng tỏ các giai đoạn mà chúng phải trải qua để thấy rõ rằng rốt cuộc thì không màu sắc tối tăm nào có thể chống lại được sức mạnh của yêu thương và tất cả cuối cùng đều tan chảy vào đó để rồi bị tiêu rụi.

 

Nhang  trầm

 

Mặc dù xét về mọi khía cạnh là đặc điểm chính của việc phụng tự mà ta vừa mô tả, nhưng vị Thiên thần cũng không xem thường việc lợi dụng những phương tiện khác xuyên qua các giác quan khác hơn là thị giác. Trong suốt buổi phụng tự và ngay cả trước khi nó bắt đầu người ta vẫn đốt nhang trầm trong những lư hương lắc lư bên dưới kim tự tháp vàng nơi có hai đứa trẻ đứng cạnh. Loại nhang trầm được đốt lên thay đổi tùy theo các bộ phận khác nhau trong buổi phụng tự. Người ta (trong tương lai) nhạy cảm với mùi hương hơn chúng ta (vào các thế kỷ trước đó); họ có thể phân biệt chính xác được mọi loại nhang trầm khác nhau và họ biết chính xác mỗi loại có nghĩa là gì và nó được dùng vào mục đích gì. Số mùi hương thơm có sẵn lúc ấy vốn nhiều hơn hẳn so với mùi hương được sử dụng trước kia và người ta tìm ra được một phương pháp nào đó để khiến cho mùi hương bốc lên dễ hơn sao cho chúng thâm nhập ngay tức khắc vào mọi nơi trong nhà thờ. Điều này tác động lên thể phách khá giống như màu sắc tác động lên thể vía và đóng góp vào việc khiến cho mọi hạ thể của con người nhanh chóng được hài hòa. Thiên hạ trong tương lai cũng có được nhiều thông tin mới về tác dụng của mùi hương lên một bộ phận nào đó của bộ óc mà ta sẽ thấy rõ hơn khi bàn về quá trình giáo dục.

 

Âm  thanh

 

Dĩ nhiên là mọi sự thay đổi màu sắc đều có kèm theo âm thanh thích hợp và mặc dù đây chỉ là đặc điểm phụ thuộc trong đền thờ màu sắc mà ta mô tả, thế nhưng nó tuyệt nhiên đâu phải không có tác dụng. Tuy nhiên bấy giờ ta sẽ thử toan tính mô tả một việc phụng tự hơi giống như thế trong một Đền thờ mà âm nhạc là đặc điểm chính, còn màu sắc chỉ có tác dụng hỗ trợ, cũng giống như âm thanh hỗ trợ cho màu sắc trong Đền thờ tình cảm. Theo ngôn ngữ thông thường thì các Đền thờ mà sự phát triển chủ yếu là nhờ vào tình cảm thì chúng được gọi là “Đền thờ màu đỏ thắm” – một là vì mọi người đều biết rằng đỏ thắm là màu của hào quang biểu thị tình cảm, do đó là màu chủ yếu của mọi luồng phóng phát rực rỡ diễn ra trong đền thờ; hai là vì khi nhận ra sự thật ấy thì mọi đường nét dễ thương trong hình kiến trúc đều được biểu thị bằng các đường màu đỏ. Đa số những Đền thờ này đều được kiến tạo bằng viên đá có màu xám lợt đẹp đẽ, bề mặt được mài nhẵn rất giống như đá cẩm thạch và nếu trường hợp này xảy ra thì chỉ có những hình trang trí bên ngoài là có màu sắc biểu thị bản chất của việc phụng tự được thực hiện ở bên trong. Tuy nhiên thỉnh thoảng có những Đền thờ tình cảm được xây dựng hoàn toàn bằng đá có màu hường nhạt rất dễ thương nổi bật lên với vẻ đẹp tuyệt vời trong cái nền xanh lục sống động của những cây cối bao xung quanh chúng. Các Đền thờ mà âm nhạc là yếu tố chủ chốt cũng được gọi là “Đền thờ màu xanh lơ” bởi vì mục đích chủ yếu của chúng là khơi dậy tối đa lòng sùng tín, cho nên màu xanh lơ là màu nổi bật nhất liên quan tới các việc phụng tự, do đó là màu được chọn dùng để trang trí nội thất và ngoại thất.

 

Đền thờ màu xanh lơ

 

Nét đại cương của việc phụng tự nơi các Đền thờ màu xanh lơ cũng gần giống như điều đại khái mà ta đã miêu tả rồi, ngoại trừ việc trong trường hợp này thì âm thanh thay thế cho màu sắc đóng vai trò tác nhân chính yểu. Cũng giống như nỗ lực trong Đền thờ màu sắc nhằm kích thích tình thương nơi con người qua việc được nó tiếp xúc hữu thức với tình thương Thượng Đế; cũng vậy trong Đền thờ này mục đích là xúc tiến cơ tiến hóa của con người qua phẩm tính sùng tín bằng cách dùng âm nhạc nâng nó lên cao rất nhiều, tăng cường nó để cho nó trực tiếp tiếp xúc với Thượng Đế vốn là đối tượng của lòng sùng tín. Cũng giống như trong Đền thờ màu đỏ thắm vốn tồn tại một luồng xoáy thường xuyên có tình cảm cao cả nhất và cao quí nhất; cũng vậy trong Đền thờ âm nhạc này có tồn tại một bầu hào quang tương tự với lòng sùng tín bất vị kỷ ngay tức khắc ảnh hưởng tới mọi người bước vào đền thờ.

Các thành viên trong đám đông bước vào bầu hào quang này, mỗi người cầm trên tay một nhạc cụ kỳ dị không giống như bất cứ nhạc cụ nào mà ta đã từng biết trước kia trên trần thế. Đó không phải là vĩ cầm; có lẽ đúng hơn nó có bản chất là một loại hạc cầm tròn nho nhỏ có dây đàn làm bằng một thứ kim loại chói sáng nào đó, Nhưng nhạc cụ kỳ lạ này có nhiều tính chất đáng chú ý. Thật ra nó còn hơn là một nhạc cụ nữa; nó được từ điển hóa đặc biệt dành cho chủ nhân ông và không một người nào khác sử dụng được nó. Nó đã được chỉnh hợp với chủ nhân ông; nó là biểu hiện của chủ nhân ông, là một kênh dẫn thông qua đó người ta có thể tiếp xúc với y trên cõi hồng trần. Y chơi nhạc cụ thế nhưng đồng thời khi làm như vậy nhạc cụ cũng tác động lên chính y. Y phóng ra rồi nhận lại các làn sóng rung động thông qua nhạc cụ.

 

Việc phụng tự sùng tín

 

Khi người thờ cúng bước vào Đền thờ thì y khơi dậy lên trước tâm trí mình một loạt âm thanh hay ho – một bản nhạc cũng tạo ra cho y cái chức năng giống như một loạt những màu sắc hiện ra trước mắt người ở trong Đền thờ màu sắc cũng vào cái giai đoạn thủ tục ấy. Khi vị Thiên thần hiện ra thì Thiên thần cũng cầm một nhạc cụ có bản chất giống như vậy, rồi bắt đầu việc phụng tự bằng cách trổi lên một hợp âm (hoặc đúng hơn là một hợp âm hài) với chức năng là chủ âm về màu sắc được dùng trong Đền thờ màu sắc. Tác dụng của hợp âm này thật là hết sức đáng chú ý. Nhạc cụ của Thiên thần chỉ là một nhạc cụ nhỏ, xét theo biểu kiến không có nhiều quyền năng mặc dù có cung bậc vô cùng du dương; nhưng khi vị Thiên thần trổi lên hợp âm thì nó dường như được thu hút vào bầu không khí xung quanh Thiên thần dường như thể được một ngàn nhạc sĩ vô hình lặp lại sao cho nó vang dội qua mái vòm lớn của Đền thờ và tuôn ra thành một dòng thác hài âm, một biển âm thanh cuồn cuộn tuôn tràn lên toàn thể đám đông. Bây giờ mỗi thành viên trong đám đông sử dụng nhạc của chính mình và thoạt tiên rất nhẹ nhàng nhưng dần dần nó bùng lên thành một âm hưởng lớn hơn cho đến khi mọi người tham gia vào bản hòa âm kỳ diệu này. Như vậy, cũng giống như trong Đền thờ màu sắc, mọi thành viên đều được làm cho hài hòa với ý tưởng chính yếu mà vị Thiên thần muốn nhấn mạnh trong việc phụng tự này và trong trường hợp đó cũng như trong trường hợp khác thì một sự ban phúc được tuôn đổ lên tất cả mọi người, nâng mọi người lên tới mức cao tối đa và thu hút về y một sự đáp ứng tha thiết vốn biểu lộ bằng cả âm thanh lẫn màu sắc.

Ở đây người ta cũng sử dụng nhang trầm và nó biến đổi ở nhiều mức phụng tự khác nhau giống hệt như trong trường hợp khác. Thế rồi khi đám đông đã hoàn toàn chỉnh hợp thì mỗi người lại dứt khoát bắt đầu đóng vai của mình. Tất cả đều đóng những vai đã được nhận rõ mặc dù dường như việc này không hề được dàn xếp hoặc tập dượt trước. Ngay khi sân khấu đang nhộn nhịp diễn viên, thì vị lễ sư Thiên thần thu rút vào trong hào quang của mình, bắt đầu rút âm thanh vào bên trong thay vì tuôn ra bên ngoài phủ lên người ta. Mỗi người đều dồn hết sức bình sinh vào vai diễn của mình và dứt khoát nhắm vào vị Thiên thần sao cho nó có thể vươn lên thông qua ngài. Tác dụng đối với những xúc động cao thượng của thiên hạ là đáng kể nhất; đạo tâm sống động và lòng sùng tín của đám đông được tuôn đổ lên trên thành ra một luồng mạnh mẽ đi xuyên qua vị Thiên thần chủ lễ lên tới giới Thiên thần đông đúc ở bên trên; cũng như trước kia, giới Thiên thần này thu hút đạo tâm ấy vào nơi mình, chuyển hóa nó lên tới một mức hoàn toàn cao siêu hơn rồi bàn giao nó thành một luồng còn dũng mãnh hơn nữa hướng về vị đại Thiên thần đứng đầu Cung. Hàng ngàn luồng đạo tâm như thế từ mọi lòng sùng tín trên thế gian đều hội tụ vào ngài, đến lượt ngài thu thập tất cả những thứ này lại, thêu dệt chúng thành ra một đạo tâm duy nhất vốn sẽ liên kết ngài với chính Thái dương Thượng Đế khi ngài chuyển nó lên trên.

Ngài đóng góp phần của mình vào bài hòa âm ấy vốn xuất phát từ mọi thế giới trong Thái dương hệ và những luồng xuất phát từ mọi thế giới ấy bằng cách nào đó tạo ra cái đàn lyre dũng mãnh có 12 dây đàn mà chính Đức Thượng Đế gảy lên khi ngài ngự trên Hoa sen Thái dương hệ. Ta không diễn tả điều này nên lời, nhưng tác giả đã chứng kiến nó và biết điều này là đúng sự thật. Thượng Đế nghe thấy, ngài đáp ứng và bản thân ngài trổi nhạc tác động lên Thái dương hệ của mình. Như vậy là lần đầu tiên chúng ta đã thoáng nhìn thấy trong một phút giây ngắn ngủi sự sống vinh diệu mà ngài hoạt động trong nhóm các Thượng Đế khác ngang hàng với ngài; nhưng tư tưởng đâm ra thất bại trước sự vinh quang ấy; tâm trí của ta không đủ năng lực để hiểu được nó. Ít ra thì ta cũng thấy rõ rằng các vị đại Thiên thần âm nhạc xét chung đều biểu diễn âm nhạc cho Thượng Đế và bản thân ngài cũng tự biểu lộ thông qua các Đại Thiên thần ấy thành ra âm nhạc đối với các thế giới của mình.

 

Sự ban phước

 

Thế rồi lại tới sự đáp ứng: một dòng thác âm thanh hài hòa tuôn đổ xuống nó mãnh liệt đến nỗi ta không thể mô tả được, nó chảy xuống qua vị Thủ lĩnh của Cung đến với đoàn Thiên thần ở bên dưới rồi từ đó tới vị Thiên thần lễ sư trong Đền thờ, cứ mỗi giai đoạn thì nó lại được chuyển hóa xuống các mức thấp hơn sao cho cuối cùng nó tuôn đổ ra thông qua vị chủ lễ trong Đền thờ dưới dạng mà đám đông có thể hấp thụ được – đây là một đại dương âm thanh bùng phát, du dương, dịu dàng một sự bùng nổ âm nhạc cõi trời bao xung quanh, quấn quít và phủ trùm lên đám đông, thế nhưng tuôn đổ vào đám đông (qua các nhạc cụ của người ta) những rung động linh hoạt, làm phấn chấn đến mức các thể cao của thiên hạ đều được kích hoạt và tâm thức của họ được nâng lên tới mức mà thậm chí nó không thể vói tới được trong sinh hoạt nơi ngoại giới. Mỗi người đều giơ cao nhạc cụ ra phía trước mình, chính thông qua nhạc cụ ấy mà tác dụng nhiệm mầu ấy mới được tạo ra nơi bản thân y. Dường như thể từ bản đại hòa tấu mỗi nhạc cụ đều chọn lựa ra những hợp âm thích đáng với mình nghĩa là thích hợp với chủ nhân ông đang biểu diễn nó. Thế nhưng bằng một cách nào đó, mỗi hạc cầm đều chẳng những tuyển lựa và đáp ứng, mà còn khơi dậy nhiều hơn mức âm lượng của chính mình.

Toàn thể bầu không khí đều tràn ngập các vị Khẩn na la tức Thiên thần âm nhạc sao cho mỗi âm thanh quả thật đều được gia tăng gấp bội và cứ mỗi cung bậc đơn thuần thì lại có một hợp âm lớn được tạo ra bao gồm các cung bậc cao và cung bậc thấp, tất cả đều du dương và hay ho đến mức không có trên trần thế. Sự đáp ứng ban phước từ trên cao này là một sự trải nghiệm cực kỳ huyền diệu nhưng lời lẽ cũng hoàn toàn bất lực khi ta cố gắng tìm cách diễn tả nó. Ta phải chứng kiến, nghe thấy và cảm nhận nó trước khi ta có thể hiểu được nó theo bất cứ cách nào.

Có thể nói là kết cuộc mầu nhiệm này vang vọng về tới tận nhà mọi người; nó ẩn tàng bên trong mỗi người ngay cả khi buổi phụng tự đã qua rồi và mỗi thành viên đều cố gắng mô phỏng lại nó ở một mức độ thấp kém hơn qua một loại phụng tự riêng tư lặt vặt tại gia. Trong Đền thờ này cũng có thể có điều tương ứng với một bài giảng, nhưng trong trường hợp này, chính vị Thiên thần thuyết pháp qua nhạc cụ của mình và người ta thích tiếp nhận qua nhạc cụ của họ. Rõ ràng là bài giảng không giống nhau với tất cả mọi người – một số người tiếp thu nhiều hơn và một số người tiếp thu ít hơn ngụ ý mà vị Thiên thần rao giảng và nội dung mà ngài dự tính truyền đạt.

 

Trí tuệ

 

Mọi tác dụng được tạo ra trong Đền thờ màu đỏ thắm nhờ vào tình cảm qua một biển màu sắc sặc sỡ thì ở đây nó được tạo ra qua lòng sùng tín nhờ vào việc sử dụng âm nhạc nhiệm mầu. Rõ ràng là trong cả hai trường hợp thì tác động chủ yếu nhắm vào thể trực giác và thể xúc động của người ta: trực tiếp tác động lên thể trực giác nơi những người đã phát triển được nó tới trình độ đáp ứng và gián tiếp tác động lên thể trực giác thông qua thể xúc động thông qua những người khác ít nhiều kém tiến hóa hơn. Trí tuệ chỉ được tác động qua sự phản ảnh nơi các cõi này; trong khi đó ở loại Đền thờ kế tiếp mà ta sắp mô tả thì tác động đảo ngược lại bởi vì người ta trực tiếp kích động tới trí năng và chỉ thông qua đó, nhờ vào đó thì bây giờ người ta mới khơi hoạt được trực giác. Chắc chắn là những kết quả tối hậu đều giống như nhau, nhưng thứ tự của thủ tục nay lại khác nhau.

 

Đền thờ màu vàng

 

Nếu ta nghĩ rằng những người trong Đền thờ màu đỏ thắm phát triển thông qua màu sắc, những người trong Đền thờ màu xanh lơ sử dụng âm thanh để phát triển thì có lẽ ta coi hình tướng là hiện thể chính yếu được sử dụng trong Đền thờ màu vàng, bởi vì màu vàng tự nhiên là màu sắc của Đền thờ đặc biệt dành riêng cho việc phát triển trí tuệ, do đó bằng cách này nó mới được tượng trưng qua đủ thứ hiện thể của con người .

Một lần nữa, kiến trúc và kết cấu nội thất của Đền thờ vẫn giống như cũ ngoại trừ việc mọi phần trang trí và phác họa bên ngoài đền màu vàng thay vì màu xanh lơ hoặc đỏ thắm. Sơ đồ chung của việc phụng tự cũng y hệt như vậy, trước hết là phần tiêu đề hoặc chủ âm khiến cho tất cả được hiệp nhất với nhau, thế rồi tới phần đạo tâm hoặc lời cầu nguyện hoặc nỗ lực của quần chúng vốn hiệu triệu được sự đáp ứng của Đức Thượng Đế. Vì thiếu một danh từ hay ho hơn cho nên tôi đã gọi cái hình thức giáo huấn này cũng là bàì giảng khi đóng vai trò trong mọi việc phụng tự. Tất cả đều dùng nhang trầm, mặc dù sự khác nhau giữa loại nhang được dùng trong Đền thờ màu vàng và nhang dùng trong Đền thờ màu xanh lơ và màu đỏ thẳm thật là đáng kể. Trong trường hợp này, xoáy lực kích thích hoạt động trí tuệ sao cho chỉ cần bước vào Đền thờ là người ta cũng cảm thấy trí tuệ được linh hoạt hơn, có thể hiểu rõ hơn và thẩm định được nhiều hơn.

Những người này không mang theo bất kỳ nhạc cụ bằng vật chất nào; thay vì trải ra trước mắt mình một đoàn lần lượt những đám mây màu sắc thì ngay khi bắt đầu an tọa họ đã hình dung ra một số hình tư tưởng nào đó. Mỗi người đều có hình tư tưởng của riêng mình, rõ rệt được dự kiến để biểu lộ bản thân cũng giống như nhạc cụ của nhạc sĩ hoặc sơ đồ màu sắc đặc biệt của người thờ cúng trong Đền thờ tình cảm. Những hình tư tưởng này đều khác nhau, nhiều hình tư tưởng rõ rệt hàm ý người ta có khả năng hình dung trong óc phàm một số hình đơn giản có bốn chiều đo. Dĩ nhiên là năng lực hình dung cũng khác nhau; do đó một số người có thể tạo ra các hình thù hoàn chỉnh và xác định hơn hẳn những người khác. Nhưng kỳ lạ thay tính vô định ấy dường như biểu lộ ở cả hai đầu mút của bậc thang này. Những tư tưởng gia ít được giáo dục – những người cho đến nay chỉ mới học cách suy tư – thường tạo ra những hình tướng không rõ ràng hoặc thậm chí nếu họ có thể thoạt đầu tạo ra hình tướng rõ ràng thì sau đó họ lại không thể duy trì nó được lâu để rồi thường xuyên sa vào sự bất định. Họ thường không thực hiện được chúng ra thực tiễn mà chỉ tạo được hình thù rõ rệt trong cõi trí tuệ mà hầu hết ngay cả ở giai đoạn hoàn toàn sơ khai đều dường như có thể thực hiện được. Thoạt tiên thì rõ rệt là phải qui định các hình tư tưởng cho họ, người ta bảo họ phải giữ cho nó trở thành một phương tiện chứ không phải là cứu cánh của việc chiêm niệm. Rõ ràng là các hình tướng ấy được dự tính để biểu hiện cho người sáng tạo ra chúng, khi người này tiến bộ thêm nữa thì hình tướng sẽ bị biến đổi mặc dù bản thể của chúng thì không thay đổi. Y dự tính suy nghĩ thông qua hình tư tưởng và tiếp nhận rung động thông qua nó cũng giống như người sử dụng âm nhạc tiếp nhận chúng thông qua nhạc cụ hoặc thành viên trong đám đông màu sắc tiếp nhận chúng thông qua hình tướng màu sắc. Đối với những người thông minh hơn thì hình tướng trở nên xác định và phức tạp hơn; nhưng đối với một số hình tướng xác định nhất thì nó lại có dáng vẻ gợi ra sự vô định bởi vì trên một cõi còn cao hơn nữa thì nó bắt đầu như thế khi nó càng ngày càng có thêm nhiều chiều đo và vì vậy trở nên linh hoạt đến nỗi không thể giữ cho nó cứng ngắc được.

 

Kích thích trí tuệ

 

Khi vị Thiên thần xuất hiện thì ngài cũng tạo ra một hình tướng, đây không phải là hình tư tưởng biểu hiện chính ngài mà cũng giống như trong các Đền thờ khác, đây là chủ âm của việc phụng tự vốn xác định mục đích đặc biệt mà ngài nhắm tới trong dịp này. Bấy giơ đám đông phóng chiếu bản thân vào các hình tư tưởng của mình và cố gắng dùng những hình tướng này để đáp ứng với hình tư tưởng của Thiên thần và hiểu được nó. Đôi khi đó là một hình tướng đang biến dịch – một hình tướng bộc lộ hoặc triển khai ra thành một loạt những chuyển động liên tiếp. Cùng với việc tạo lập điều này và thông qua nó, vị lễ sư Thiên thần trút xuống đám đông một dòng thác ào ạt ánh sáng màu và tạo ra sự kích động mạnh mẽ đối với năng khiếu trí tuệ của họ theo đường lối đặc thù mà ngài đang biểu thị. Ngài đang tác động mạnh mẽ lên cá thể nguyên nhân lẫn thể hạ trí của họ, nhưng tương đối tác động rất ít lên thể xúc động hoặc thể trực giác. Một số người bình thường chưa có tâm thức của thể hạ trí được khơi hoạt bằng quá trình này cho nên lần đầu tiên nhờ vào phương tiện ấy họ mới có thể sử dụng nó hoàn toàn thoải mái và nhìn thấy rõ ràng. Nơi những người khác vốn không thường có nó thì lần đầu tiên nó cũng khơi hoạt được năng lực nhìn thấy được bốn chiều đo; nơi những người khác kém tiến hóa hơn thì nó chỉ khiến cho họ nhìn thấy sự vật rõ ràng hơn một chút và tạm thời hiểu được những ý tưởng thường quá siêu hình đối với họ.

 

Xúc  cảm  trí  tuệ

 

Nỗ lực trí tuệ ấy đâu phải hoàn toàn không có xúc cảm đi kèm theo bởi vì ít ra cũng có việc rất thích thú khi được vươn lên trên, mặc dù ngay cả cái sự thích thú ấy cũng được cảm nhận chủ yếu là thông qua thể hạ trí. Cũng như trước kia, mọi người đều tuôn đổ tư tưởng thông qua các hình tư tưởng lên tới vị Thiên thần lễ sư; họ hiến dâng những sự đóng góp cá thể này coi đó là một loại hiến tế dành cho đấng Thượng Đế những gì tốt đẹp nhất mà mình phải dâng hiến. Họ xả thân hiến dâng lên Ánh sáng cháy bùng ở bên trên; nhập vào ngài và thông qua ngài; họ hòa lẫn bản thân, phóng chiếu vào chính ngài và thông qua ngài; đó là ánh lửa trí tuệ chói sáng trắng đã được nâng lên tới mức cao nhất. Giống như trong các Đền thờ khác, vị lễ sư Thiên thần tổng hợp mọi hình tướng khác nhau được phóng lên cho ngài, hòa lẫn mọi luồng thần lực lại với nhau trước khi chuyển giao nó cho giới Thiên thần bên trên; đến lượt các giới thiên thần này hiện nay lại bao gồm lớp Thiên thần đặc biệt mà ta gọi là Thiên thần màu vàng: những người đang phát triển trí năng và hoan hỉ trợ giúp hướng dẫn trí năng nơi con người.

Cũng như trước kia, họ hấp thu thần lực nhưng chỉ phóng nó ra trở lại ở một mức cao hơn và có số lượng gia tăng ghê gớm lên tới vị thủ lãnh Tổng thiên thần đứng đầu Cung, đây là một loại trung tâm để trao đổi thần lực, khía cạnh trí tuệ của Thượng Đế tác động lên Tổng thiên thần và tác động thông qua ngài từ bên trên, trong khi mọi tài năng của con người đều vươn lên tới ngài và thông qua ngài từ bên dưới. Ngài tiếp nhận và chuyển giao phần đóng góp của Đền thờ; đến lượt ngài lại mở ra cánh cổng thoát lũ dành cho trí tuệ của Thượng Đế; trí tuệ này được hạ thấp qua nhiều giai đoạn trên đường đi xuống tuôn ra cho đám người đang chờ đợi, nâng họ lên vượt khỏi mức bản ngã sinh hoạt thường nhật để nhập vào điều sẽ chính là họ trong tương lai. Tác dụng nhất thời của sự tuôn đổ xuống ấy hầu như là không thể tính toán được. Mọi Chơn ngã có mặt đều được kích hoạt mãnh liệt và tâm thức trong thể nguyên nhân được khơi hoạt nơi tất cả những người nào cho đến nay chưa hề đạt được điều đó; Nơi một số người khác nó chỉ có nghĩa là gia tăng hoạt động trí tuệ rất nhiều, một số người được nhấc bổng lên khỏi bản thân đến nỗi họ thật sự rời bỏ thể xác, còn những người khác chuyển sang một loại nhập định Samadhi, bởi vì tâm thức được rút lên một hiện thể chưa được phát triển đúng mức để có thể biểu lộ được tâm thức.

Sự đáp ứng từ bên trên không chỉ là một sự kích thích. Nó còn bao gồm một khối lượng lớn các hình tư tưởng – dường như là mọi hình tư tưởng khả hữu theo bất kỳ đường lối đặc biệt nào đương thời. Các hình tướng này cũng được đám đông đồng hóa sao cho họ có thể sử dụng được chúng; điều đáng lưu ý là cùng một hình tư tưởng lại ngụ ý với một số người nhiều hơn những người khác. Chẳng hạn như một hình tư tưởng truyền đạt một chi tiết thú vị nào đó về sự tiến hóa vật thể đối với người này thì đối với người khác lại biểu diễn trọn cả một giai đoạn bao la của sự phát triển trong vũ trụ. Đối với nhiều người thì dường như thể họ đang nhìn thấy các câu thơ trong Thiên thư (Stanzas of Dzyan) dưới một dạng hữu hình. Tất cả đều đang cố gắng suy tư theo cùng một đường lối, thế nhưng họ thực hiện điều này bằng nhiều cách khác nhau và vì vậy họ thu hút về mình những hình tư tưởng khác nhau từ một hệ thống bao la có trật tự vốn có sẵn trong tầm tay của mình. Mỗi người đều rút tỉa từ cái số đông ấy những gì thích hợp nhất với mình. Chẳng hạn như một số người chỉ được những minh giải mới mẻ về một đề tài nào đó, họ thay thế hình tư tưởng của chính mình bằng một hình tư tưởng khác, thực ra cũng chẳng có gì cao siêu hơn mà chỉ là một khía cạnh khác của vấn đề.

Người ta rõ rệt là được nâng lên tâm thức trực giác theo những đường lối ấy. Bằng cách cực lực suy tư, bằng cách thấu triệt các luồng hội tụ, thoạt tiên họ lĩnh hội được bằng trí tuệ cấu tạo của vũ trụ để rồi gây áp lực mạnh mẽ hướng lên giúp họ nhận thức được nó và coi như đột phá được qua đó. Điều này thường xuất hiện như một sự bùng nỗ và hầu như con người choáng váng - ít ra thì theo đường lối này y chưa thực hành được bao nhiêu vào lúc trước đó nhằm hiểu rõ được xúc cảm của loài người. Xét theo quan điểm trí năng thì y đã khảo sát và mổ xẻ người ta qua lăng kính triết học dường như thể họ là cây cỏ xuất hiện trước kính hiển vi của y. Bây giờ thì trong một phút giây ngắn ngủi, y thấy bùng phát nơi bản thân mình sự thật tất cả đều thiêng liêng như chính mình, mọi thứ ấy đều tràn đầy xúc cảm và xúc động riêng họ, tràn đầy sự hiểu biết và ngộ nhận của riêng họ, và những thứ ấy còn đáng gọi là anh em của mình nhiều hơn nữa bởi vì họ thực ra ở bên trong mình chứ không phải ở bên ngoài như mình lầm tưởng. Đây quả là một sự choáng váng đối với kẻ nào lần đầu tiên tiếp nhận và y cần có thời giờ để hiệu chỉnh lại bản thân, để phát triển một số phẩm tính khác mà cho đến nay y đã lơ là đến một chừng mực nào đó. Việc phụng tự rồi ra cũng kết thúc giống như những việc phụng tự khác khiến cho hình tư tưởng của mỗi người thường xuyên tốt đẹp hơn ít nhiều nhờ vào sự thực hành mà mình vừa trải qua.

 

Pháp thuật về trí tuệ

 

Ở đây ta cũng có một dạng giáo huấn mà ta gọi là bài giảng; trong trường hợp này đó thường là việc trình bày những sự thay đổi diễn ra trong một hình tư tưởng hoặc một tập hợp hình tư tưởng nào đó, trong trường hợp này thì vị Thiên thần đôi khi sử dụng lời lẽ nói lên được mặc dù chỉ nói ít lời thôi. Dường như thể ngài đang phô ra cho thiên hạ thấy những bức ảnh biến đổi qua đèn chiếu pháp thuật và đặt tên những bức ảnh ấy khi nó hiện ra trước mắt thiên hạ. Ngài làm hiện hình rõ rệt và mạnh mẽ hình tư tưởng đặc biệt mà ngài đang chiếu ra cho thiên hạ thấy, và mỗi thành viên trong đám đông cố gắng sao chép nó lại bằng vật liệu trí tuệ của chính mình. Trong một trường hợp mà chúng tôi quan sát được thì đều được miêu tả là việc chuyển di hình tư tưởng từ cõi này sang cõi khác: đó là một loại pháp thuật trí tuệ cho ta thấy tư tưởng có thể biến thành tư tưởng khác ra sao; trên cõi hạ trí Thiên thần chứng tỏ một tư tưởng ích kỷ có thể trở thành vị tha như thế nào. Không ai trong đám thần dân có tính ích kỷ quá thô thiển, bằng không thì họ đã chẳng thuộc về cộng đồng này; nhưng vẫn còn có những dạng tinh vi của tư tưởng qui ngã. Cũng có một nguy cơ nào đó về lòng ngã mạn của trí tuệ, và thiên thần cho thấy nó có thể được chuyển hóa như thế nào thành ra việc tôn thờ sự minh linh của Thượng Đế.

Trong những trường hợp khác thì cho ta thấy những sự biến hình thú vị nhất – hình tư tưởng này biến thành hình tư tưởng khác bằng cách lộn ngược từ trong ra ngoài giống như một găng tay. Chẳng hạn như bằng cách này một hình khối 12 mặt trở thành một hình khối 20 mặt. Chẳng những người ta trình bày những sự biến đổi này mà còn giải thích ý nghĩa nội tại của chúng trên mọi cõi khác nhau; ở đây cũng thật là thú vị khi ta thấy sự phát triển những ý nghĩa bí truyền liên tiếp để rồi lưu ý xem một số thành viên trong đám đông dừng lại ở một trong những ý nghĩa ấy vì cảm thấy nó đã đạt tới mức cao nhất có thể được, và hoàn toàn mãn nguyện khi có thể nhìn thấy hình tư tưởng; trong khi đó những người khác tiếp tục tiến lên một hai hoặc nhiều trình độ hơn nữa để đi sâu vào tâm khảm thật sự của ngụ ý. Điều được áp dụng chỉ là việc chuyển hóa tư tưởng bởi đám đông những người có mặt thì đối với một số ít người lại có thể vượt xa hơn nữa thành ra sự chuyển dịch thần lực vũ trụ từ cõi này sang cõi khác. Một bài giảng như thế quả thật rèn luyện được trí tuệ về mặt cường độ và hoạt động, muốn theo dõi được nó thì cần phải chú ý mật thiết lâu dài.

Trong tất cả những Đền thờ này thì người ta đều quan tâm tới việc rèn luyện ý chí vốn cần thiết để tập trung vào một bộ phận khác nhau qua sự biến thiên của các hình vẽ, âm nhạc hoặc hình tư tưởng. Mọi điều ấy đều biểu lộ rõ rệt nhất qua việc thể nguyên nhân bừng sáng lên nhưng nó phản tác động trên thể hạ trí và ngay cả trên bộ óc phàm nữa, nói chung thì trong những người tiên phong của Căn chủng thứ sáu, bộ óc phàm có vẻ rõ rệt lớn hơn so với những người thường Căn chủng thứ năm. Nhiều người thường nghĩ rằng nghiên cứu quá mức hoặc phát triển trí tuệ quá mức có khuynh hướng làm teo tóp hoặc hủy hoại đáng kể năng lực hình dung, nhưng đối với những người sùng tín trong Đền thờ màu vàng thì tuyệt nhiên không phải như vậy. Có lẽ sự khác nhau ở chỗ việc nghiên cứu thời xưa phần lớn chỉ là nghiên cứu theo kiểu mọt sách qua văn tự ngữ ngôn trong khi trường hợp những người này thì họ đã nhiều kiếp hiến mình cho việc tham thiền vốn tất nhiên cần phải thường xuyên thực hành việc hình dung ở mức cao độ.

 

Đền thờ màu xanh lục

 

Thế nhưng ta còn phải mô tả một loại Đền thờ nữa: loại này được trang hoàng bằng màu xanh lục nhạt dễ thương bởi vì các hình tư tưởng sinh ra trong đó chính xác có màu này. Trong số các Đền thờ mà ta đã nhắc tới, Đền thờ màu đỏ thắm và xanh lơ dường như có nhiều điểm chung, và dường như có một mối liên hệ tương tự nối liền Đền thờ màu vàng với Đền thờ màu xanh lục. Người ta có lẽ bảo rằng Đền thờ màu xanh lơ và đỏ thắm tương ứng với hai loại mà Ấn Độ gọi là Bhakti Yoga. Trong trường hợp ấy thì ta có thể nghĩ rằng Đền thờ màu vàng cung ứng cho ta Jnana Yoga còn Đền thờ màu xanh lục là Karma Yoga; hoặc theo tiếng Anh thì ta có thể đặc trưng chúng lần lượt là Đền thờ tình cảm, Đền thờ Sùng tín, Đền thờ trí tuệ và Đền thờ hành động. Đám đông trong Đền thờ màu xanh lục cũng hoạt động chủ yếu trên cõi trí tuệ, nhưng đường lối đặc thù của nó là biến tư tưởng thành hành động, nghĩa là thi hành các sự vật. Một phần việc phụng tự chính qui của nó là cố tình phóng phát ra những luồng tư tưởng đã được bài trí sẵn chủ yếu hướng về chính cộng đồng nhưng cũng thông qua các hình tư tưởng ấy hướng về thế giới nói chung. Trong các Đền thờ khác người ta cũng nghĩ tới thế giới bên ngoài vì người ta cũng bao gồm nó trong tư tưởng yêu thương và sùng tín của mình hoặc xử trí nó bằng trí tuệ; nhưng ý tưởng của những người trong Đền thờ xanh lục là hành động đối với mọi việc cho nên họ xét thấy mình không chắc đã lĩnh hội được một ý tưởng nếu chưa biến nó thành hành động.

Mặt khác, những người trong Đền thờ màu vàng cũng xem xét những ý tưởng ấy khác hẳn, coi như hoàn toàn có thể hiểu rõ được nó mà không cần hành động gì cả. Nhưng các tín đồ trong Đền thờ xanh lục không thể cảm thấy mình thật sự chu toàn bổn phận trên thế gian trừ phi mình thường xuyên hành động tích cực. Đối với họ thì một hình tư tưởng không thể là hữu hiệu nếu nó không chứa đựng một chút màu xanh lục tiêu biểu – bởi vì họ bảo rằng nó thiếu sự đồng cảm - sao cho mọi thần lực của họ đều biểu hiện thành hành động, hành động, hành động; và nhờ hành động họ mới thấy hạnh phúc do việc xả thân trong hành động thì họ mới đạt mục đích.

Họ ấp ủ trong tâm trí những kế hoạch tập trung và đầy sức mạnh; trong một số trường hợp ta lưu ý thấy nhiều người phối hợp với nhau để nghĩ ra một kế hoạch chung và thực thi công việc. Họ cẩn thận tích lũy nhiều tri thức về bất cứ đề tài nào mà họ coi là chuyên đề. Thường thường thì mỗi người đảm nhiệm một lĩnh vực nào đó trong thế gian mà mình tuôn đổ hình tư tưởng vào vì một mục đích nào đó. Chẳng hạn như có người thì đảm nhiệm việc giáo dục ở Greenland hoặc có người đảm trách việc cải cách xã hội ở Kamschatka. Tự nhiên là họ bàn tới đủ loại địa điểm khỉ ho cò gáy giống như những nơi nêu trên bởi vì vào lúc ấy thì mọi chuyện mà ta quan niệm được đều đã được thực hiện ở mọi nơi mà ta đã từng nghe nói tới trong sinh hoạt hằng ngày. Tuy nhiên họ không dùng thuật thôi miên, họ tuyệt nhiên không cố gắng khống chế ý chí của bất cứ người nào mà họ muốn trợ giúp, họ chỉ cố gắng gây ấn tượng lên bộ óc của y bằng những ý tưởng cải tiến của mình.

 

Đường lối của các thiên thần chữa bệnh

 

Một lần nữa thì sơ đồ chung phụng tự của họ giống như của các Thiên thần khác. Họ không mang theo bất cứ nhạc cụ nào mà cũng giống như những người trí thức họ mang theo các hình tư tưởng, có điều là trong trường hợp này, chúng luôn luôn là những kế hoạch hoạt động. Mỗi người có một kế hoạch đặc biệt nào đó mà mình tận tụy với nó, mặc dù đồng thời y cũng tận tụy với Thượng Đế thông qua kế hoạch ấy. Họ vẫn nhớ kỹ kế hoạch và việc thực hiện chúng y hệt như trường hợp những người khác để mắt tới hình tư tưởng hoặc hình ảnh màu sắc của mình. Điều đáng chú ý là những kế hoạch này bao giờ cũng được đưa lên tới đỉnh cao quan niệm. Chẳng hạn như kế hoạch của một người để tổ chức một quốc gia lạc hậu ắt bao gồm và chủ yếu là tập trung vào ý tưởng nâng cao dân chúng về mặt trí tuệ và đạo đức. Những tín đồ ở đền thờ xanh lục không thật sự là nhân ái theo nghĩa cổ điển của từ ngữ này mặc dù tâm hồn họ tràn ngập sự đồng cảm với các đồng loại và được biểu diễn qua sắc thái đẹp đẽ nhất của màu sắc đặc trưng cho họ. Thật vậy, chỉ thoáng nhìn qua thế giới bên ngoài thì ta cũng thấy dường như hiển nhiên là lòng nhân ái thông thường hoàn toàn không cần thiết nữa bởi vì sự nghèo đói đã biến mất rồi. Sơ đồ của họ đều là những kế hoạch cứu nhân độ thế để cải tiến thân phận con người về một phương diện nào đó.

 Ở đây có chỗ cho đủ thứ điều gợi ý và đủ mọi loại hoạt động, chúng hấp dẫn được các vị Thiên thần chữa bệnh hoặc Thiên thần hoạt động là loại mà các Thần bí gia Ki Tô giáo đồng nhất hóa với huyền giai của Tổng Thiên thần Raphael. Vị Thiên thần lễ sư đặt ra trước mắt họ một điều gì đó dùng làm văn bản hoặc ý tưởng chủ yếu của việc phụng tự; nó ắt là một khía cạnh trong mọi ý tưởng của họ và sẽ củng cố cho mọi ý tưởng ấy. Người ta cố gắng trình bày rõ ràng nhiều sơ đồ của mình, nhờ vậy họ phát triển được cho bản thân qua việc ra sức trợ giúp và đồng cảm với những người khác. Sau việc chỉnh hợp sơ bộ và bắt đầu ban phước, một lần nữa lại tới việc dâng lên các kế hoạch. Ta có thể coi việc bắt đầu ban phước là chứng tỏ sự dũng cảm của các Thiên thần với mọi sơ đồ của họ, vị lễ sư Thiên thần đã đồng nhất hóa với từng sơ đồ một.   

Khi đến lúc hiến dâng đại tâm thì mỗi người dâng lên kế hoạch của mình là một điều gì đó của chính mình cần phải đóng góp coi như thành quả từ não của mình mà mình dâng lên đấng Chúa tể cũng như y có những suy nghĩ để mình dâng hiến cuộc đời cùng với các sơ đồ để hiến tế vì lợi ích của Thượng Đế. Một lần nữa, ta cũng có được tác dụng huy hoàng tương tự với những suối nguồn và màu sắc rực rỡ với biển ánh sáng chói lòa màu xanh lục nhạt giống như lúc hoàng hôn, trong đó những ngọn lửa màu xanh lục sẫm vọt lên từ tư tưởng đồng cảm của mỗi thành viên có mặt nơi đó. Cũng giống như trước kia mọi thứ ấy đều được thu thập lại mà vị lễ sư Thiên thần tạo ra một tiêu điểm rồi gửi lên tới tận tầng lớp Thiên thần trị bệnh bên trên và thông qua tầng lớp này lên tới Tổng thiên thần của Cung, một lần nữa Tổng thiên thần lại dâng khía cạnh này của thế gian lên cho Thượng Đế.

Như vậy khi họ đã dâng hiến bản thân và tư tưởng của mình thì có một luồng đáp ứng lớn đáp ứng lại, nó tuôn đổ thiện chí và sự ban phước, đến lượt nó lại soi sáng cho sự hiến tế mà họ đã dâng lên qua đường lối mà mỗi người hướng về. Các vị đại Thiên thần dường như đều từ điển hóa con người, làm gia tăng quyền năng của y theo đường lối này và những đường lối tương cận, nâng nó lên những mức cao hơn nữa, ngay cả trong khi gia tăng cho nó thêm sức. Sự đáp ứng chẳng những làm tăng cường những tư tưởng tốt đẹp ấy vốn đã như thế, mà còn mở ra cho họ quan niệm hoạt động thêm nữa vì tư tưởng của chính mình. Đó là một hành vi phóng chiếu nhất định mà họ thực hiện trong lúc im lặng tham thiền sau khi tiếp nhận sự ban phước. Trong đám người này có nhiều loại, họ khơi hoạt những trung tâm lực khác nhau trong thể hạ trí; các luồng thần lực tư tưởng của họ đôi khi được phóng ra từ luân xa này và đôi khi từ luân xa khác. Trong sự ban phước cuối cùng thì dường như thể chính Thượng Đế tuôn đổ thông qua các Thiên thần nhập vào họ rồi lại đi ra khỏi họ tới các đối tượng mà họ đồng cảm sao cho có xảy ra một sự chuyển hóa thần lực thêm nữa và đỉnh cao hành động của họ chính là việc trở thành một tác nhân đối với hành động của Thượng Đế. Sự đồng cảm kịch liệt là xúc cảm mà những người này trao đổi nhiều nhất; đó là chủ âm mà họ thường dùng để dần dần vươn lên xuyên qua thể hạ trí và thể nguyên nhân lên tới tận thể trực giác và tìm thấy đỉnh cao đồng cảm ở đó bởi vì nơi đó đối tượng của sự đồng cảm không còn ở bên ngoài họ mà ở bên trong.

Trong trường hợp này, bài giảng thường là phô bày tính thích ứng của đủ loại tinh hoa ngũ hành đối với thần lực tư tưởng cần thiết. Một bài giảng như vậy được minh họa khi nó tiếp diễn và các hình tư tưởng được Thiên thần kiến tạo trước mặt đám đông rồi hiện hình ra cho họ sao cho họ có thể học được một cách chính xác cách tốt nhất để tạo ra hình tư tưởng và kiến tạo hình tư tưởng bằng những vật liệu tốt nhất.

 

Những người độc lập

 

Trong những đường lối phát triển đặc biệt ở các Đền thờ này dường như có sự gợi ý nửa chừng kỳ diệu về bốn cảnh giới thấp của cõi hạ trí khi chúng biểu hiện ra qua sinh hoạt bên kia cửa tử, bởi vì ta nên nhớ rằng tình luyến ái là đặc trưng chủ yếu của một trong các cảnh ấy, lòng sùng tín đặc trưng cho một cảnh khác, hành động vì ích lợi của Đấng thiêng liêng đặc trưng cho cảnh thứ ba và quan niệm rõ ràng làm điều đúng vì nó đúng đặc trưng cho cảnh thứ tư. Tuy nhiên hoàn toàn hiển nhiên là không có sự khác nhau nào khi các Chơn ngã tiến bô. Theo đường lối này hoặc theo đường lối khác; tất cả những con đường này rõ ràng là ngang nhau; tất cả đều là những bậc thang dẫn lên từ cấp nhân loại bình thường bước trên Thánh đạo để vươn lên tới mức quả vị Chơn sư. Một trong những loại này đều thuộc về đại đa số người trong cộng đồng sao cho mọi đền thờ ngày nào cũng đông đúc đám tín đồ.

Có ít người không tham dự bất kỳ việc phụng tự nào chỉ vì họ thấy không có loại nào là đường lối phát triển thích hợp nhất với họ. Tuy nhiên không hề có xúc cảm chút nào khi cho rằng vì thế mà một số ít người này là vô đạo hoặc thấp kém hơn về bất cứ phương diện nào đối với hầu hết những người tham dự các buổi phụng tự chính qui. Người ta hoàn toàn công nhận rằng có nhiều con đường dẫn lên đỉnh núi và mỗi người đều hoàn toàn tự do tiếp nhận điều dường như tốt nhất đối với mình. Trong hầu hết các trường hợp thì người ta chọn lựa đường lối của mình rồi kiên trì bám theo nó, nhưng y chẳng bao giờ dám quở mắng người lân cận mình vì chọn theo một đường lối khác, hoặc ngay cả từ chối chọn theo bất kỳ đường lối nào được đề ra cho họ. Mỗi người đều cố gắng hết sức mình theo đường lối của riêng mình để thích ứng với công việc mà mình phải thực hiện trong tương lai cũng như làm hết sức mình để thực thi công việc ngay trước mắt. Không ai ấp ủ xúc cảm: “Tôi đang đi theo đường lối tốt hơn người này người nọ”, bởi vì y thấy có người khác làm không giống mình. Những người quen đến dự buổi phụng tự ở một Đền thờ cũng rất thường đến viếng thăm những Đền thờ khác; thật vậy, có một số người cố gắng lần lượt thay phiên đến các Đền thờ tùy theo cảm hứng vào lúc đó và họ tự nhủ, “Tôi nghĩ rằng sáng nay mình cần có một chút màu vàng để cho trí tuệ được sáng suốt hơn”, hoặc “có lẽ tôi đang trở nên quá siêu hình cho nên tôi sẽ cố gắng bồi dưỡng ở Đền thờ xanh lục”; hoặc mặt khác: “Mới đây tôi đã phấn đấu theo đường lối trí tuệ, bây giờ đến lượt tôi chuyển sang tình cảm hoặc lòng sùng tín”.

 

Đám đông người chết

 

Nhiều người cũng thực hành việc tham dự các lễ phụng tự huy hoàng mặc dù có tính cách sơ cấp hơn thường được tổ chức ở các Đền thờ lấy cớ là dành cho thiếu nhi; ta sẽ mô tả tỉ mỉ điều này khi xét tới đề tài giáo dục. Thật thú vị khi nhận xét rằng bản chất đặc thù của Đền thờ phụng tự trong cộng đồng này hiển nhiên đã thu hút được nhiều sự chú ý trên cõi trung giới vì phần lớn những người chết đều thực hành việc tham dự các lễ phụng tự. Họ đã phát hiện được có các Thiên thần tham gia và do đó có những thần lực ghê gớm tác động thông qua các Thiên thần cho nên rõ rệt là họ muốn tham dự vào đó để hưởng lợi ích. Đám đông người chết này được chiêu mộ toàn là từ thế giới bên ngoài bởi vì trong cộng đồng không có người chết do mỗi người khi bỏ xác phàm đều nhanh chóng kiếm lấy một xác phàm mới để tiếp tục tiến hành công việc mà mình đã tận hiến cho nó.

 

Bậc Chơn sư về tôn giáo

 

Khía cạnh sinh hoạt tôn giáo và giáo dục trong cộng đồng được đặt dưới quyền của Chơn sư KH; chính ngài quan tâm tới việc lần lượt tham quan các Đền thờ đóng vai vị Thiên thần chủ lễ và khi làm như thế ngài chứng tỏ sự thật là ngài phối hợp nơi bản thân mọi phẩm tính của mọi loại hình ở mức độ cao nhất. Các Thiên thần làm việc liên quan tới tôn giáo và giáo dục đều được điều động theo lệnh ngài. Một số thành viên trong cộng đồng được các Thiên thần đặc biệt huấn luyện và dường như rất có thể là sớm muộn gì thì những người ấy sẽ chuyển sang đường tiến hóa Thiên thần.

 


 HOME TÌM HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   HÌNH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS