|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
T̀M KIẾM MINH TRIẾT
(Seeking Wisdom)
Tác giả N. SRI RAM
|
|
(Đây là bản dịch thứ hai có sửa chữa ngày 19.12.2013)
Trong đối thoại bàn về
sự chết của Socrates th́ Plato có giải thích rằng triết gia chân chính giáp
mặt với sự chết giống như một người bạn chứ không phải như một kẻ thù, bởi
v́ y hiểu được bản chất của sự thay đổi mà sự chết mang lại. Đó là một sự
thay đổi tự nhiên và hạnh phúc. Thái độ của người ta đối với sự chết c̣n tùy
thuộc vào hiểu biết của người ta về cuộc đời, bản chất chân thực của sự sống
không tách rời khỏi sự thực về sự chết.
Triết học theo nghĩa đen có nghĩa là
‘t́nh yêu minh triết’. Có hai từ, mỗi từ ấy có một ư nghĩa phi thường và đẹp
đẽ. Tốt hơn ta nên cố gắng t́m hiểu đâu là bản chất của t́nh yêu và kế đến,
minh triết thật sự có nghĩa là ǵ, dĩ nhiên minh triết không phải chỉ là
kiến thức.
Triết gia chân chính,
theo như Ấn độ và Hi lạp cổ truyền thời xưa hiểu, không phải chỉ là một nhà
lư thuyết hoặc một người trí thức có thể là vô tích sự trong cuộc sống thực
tế. Một người như thế bàn luận về một điều ǵ đó mà ḿnh quan tâm và cố gắng
chứng minh sự thật luận đề của ḿnh, nhưng có thể hành động một cách khác.
Nhưng theo quan niệm cổ truyền th́ triết lư của một người phải được phản ánh
trong cuộc đời của y, và thật sự đúng như vậy. Triết lư được phản ánh như
thế có thể không giống như điều mà y tuyên bố rao giảng. Mà chỉ có sự sống
mới chứng minh cái sự thật cũng như giá trị của điều mà người ta tin tưởng
hoặc những ư tưởng mà người ta chủ trương.
Minh triết theo thời xưa có nghĩa là
tư tưởng chân thực, không chỉ đối với một vài vấn đề đă được trích ra từ
cuộc sống, mà c̣n đối với mọi thứ thuộc về cuộc đời của ḿnh. Nó được coi là
điều quí báu nhất mà một người có thể sở hữu và là cội nguồn chân thực của
hạnh phúc của y. Hạnh phúc hiếm khi đi đôi với giàu sang hoặc quyền lực.
Đôi khi ta có thể gặp một người ở trong t́nh trạng có quyền lực và rất giàu
có, hoặc ngay cả cai trị một vương quốc, thế nhưng vẫn c̣n là một triết gia
nhưng một người như thế thật là hiếm. Thường thường th́ giàu có nhiều quá
cùng nghĩa là có nhiều chuyện nhức đầu và một sự bận tâm liên tục làm cho
tâm trí và sự chú tâm của người ta xao lăng đối với những sự việc đáng được
nhận thức, hiểu biết hoặc theo đuổi nhất.
Có một phát biểu trong
một Đối thoại của Socrates theo đó minh triết là một đồng tiền thật sự duy
nhất mà mọi thứ phải được đổi ra nó. Nó đáng trao đổi với bất cứ điều ǵ mà
ta có thể có, thậm chí chỉ để trao đổi lấy một chút minh triết thôi. Và
người ta hiểu rằng minh triết không cần thiết tách rời hoàn toàn khỏi niềm
vui hoặc sự vui hưởng - đó là một sai lầm mà nhiều người đă rớt vào, nhất là
ở Ấn độ. Họ t́m cách tự hành xác ḿnh để đi đến sự thật vốn ở bên trong bản
thân ḿnh. Việc vui hưởng một cách
điều độ - ta dùng từ này theo một nghĩa đặc biệt, có nghĩa là tinh thần
chân chính cùng với phẩm tính chân chính -
có chỗ thích hợp của nó trong cuộc
sống. Điều này không có nghĩa là người ta phải vui hưởng trong những
giới hạn không tự nhiên được bày ra bởi con người.
Thế nhưng triết gia
không mưu cầu lạc thú; y coi nhẹ khoái lạc khi nó đến với ḿnh. Trong cuộc
sống có cả vui thú lẫn đau khổ, và hầu như thiếu hiện thực và vô ích mà gạt
bỏ hoặc chế nhạo chúng, nhưng thái độ của ta đối với cả hai điều này có thể
thay đổi hoàn toàn, và đó là cái loại thay đổi xăy ra trong con người mà ta
có thể gọi là một triết gia chân chính. Minh triết liên quan tới điều thiện,
hơn là liên quan tới điều vui sướng hài ḷng (pleasure), và đây là hai bản
chất khác nhau (giữa điều thiện và vui sướng hài ḷng good and pleasure).
Thường thường ta lẫn lộn hai thứ này. Có nhiều người nghĩ rằng cái ǵ có thể
vui sướng là tốt là thiện, và nếu họ có thể có một số lượng niềm vui tối đa
và lúc nào cũng có th́ dĩ nhiên đối với họ đó là điều chí thiện . Đây là một
sự sai lạc hoàn toàn và người ta cần phải ngộ ra điều này.
Khi ta cố gắng t́m hiểu
bản chất của minh triết thỉ ta ắt thấy rằng ta không thể tách rời nó khỏi
cuộc sống. Nó thật sự có nghĩa là một sự tổng hợp các đức tính và sự toàn
bích của mọi đức hạnh mà chúng có thể biểu lộ được trong cuộc đời; người ta
đă nói tới nó là đức hạnh đầu tiên trong mọi đức hạnh. Điều này có nghĩa là
trước hết phải có sự chớm nở của một chút ánh sáng trong tâm hồn của ḿnh
trước khi có thể có bất kỳ đức hạnh nào. Chính John Milton nói về Ánh sáng
là đứa con đầu tiên của Thiên đàng, nghĩa là điều đầu tiên phát sinh từ Cội
nguồn nguyên thủy, tức Thượng Đế, nếu ta có thể dùng cái từ ngữ chưa ai định
nghĩa được ấy.
Ánh sáng này chính là
Minh triết, và được Plato gọi là đức hạnh làm thanh tẩy linh hồn khỏi sự sai
lạc. Từ ngữ ‘hồn’ (soul) ở đây có nghĩa là hồn người tức thông linh
(psyche), chứ không phải là Buddhi
mà H. P. Blavatsky đă dịch là hồn thiêng (spiritual soul). Không thể có sai
lầm hoặc bất kỳ khuynh hướng sai lầm nào trong bản chất của Tinh thần. Nhưng
rất thường khi vào thời xưa từ ‘hồn’ lại có nghĩa là hồn người mà thoạt tiên
th́ u minh nhưng dần dần trở nên được thanh tẩy và chói sáng rực rỡ, sao cho
có một sự thay đổi t́nh trạng hoàn toàn ở nơi nó; lúc bấy giờ hồn người
khoác lấy vẻ đẹp, những đường nét và h́nh tướng của hồn thiêng. Chỉ có minh
triết mà qua đó tẩy trược bản chất của ta như vậy th́ mới khiến cho ta có
thể chứng kiến được ‘Bản thể chân thực’ theo như người ta gọi, nghĩa là cội
nguồn của sự thật - đây là một tư tưởng cũng có trong
Chí Tôn Ca khi người ta gọi nó là
điều tẩy trược vĩ đại nhất.
Người ta nói rằng triết
gia chân chính có tâm trí cố định vào Bản thể chân thực; đây là một điều làm
cho y chú tâm. Trong Thánh thư của các
Chơn sư có nói rằng Chơn sư sống trong cội nguồn của sư thật. Dĩ nhiên
ngài cũng sống trong thể xác nữa. Ngài ăn mặc, đi đứng v.v. . . nhưng phát
biểu này có nghĩa là trọng tâm chú ư của ngài vốn ở cội nguồn của sự thật.
Thế nhưng cái nhu cầu ấy không cắt đứt ngài khỏi trần thế. Mọi Chơn sư được
đề cập tới đều có thể xác, nhưng ta nghe nói có nhiều người không có thể xác
như vậy mà vẫn c̣n tiếp xúc với trần thế trong các thể tinh vi, các ngài
không ĺa xa trần thế.
Có một triết lư sai lạc
dẫn dụ người ta rút lui quá sớm ra khỏi trần tục hoặc chạy trốn khỏi nó. Cái
gọi là xả bỏ như thế thật ra là thú nhận rằng ḿnh thất bại. Thiên nhiên
theo ư nghĩa rộng lớn không cho phép ta trốn tránh khỏi những trách nhiệm
hoặc né tránh những vấn đề của ḿnh; những điều ấy phải được giải quyết theo
một cách nào đấy. Nếu bạn trốn chạy qua cửa sau th́ bạn ắt gặp lại vấn đề đó
dưới một dạng khác trong kiếp này hoặc một kiếp nào khác - chuyện như vậy
chỉ là tŕ hoăn nhiệm vụ. Chính đó là toàn thể khái niệm ẩn đằng sau từ
dharma ở Ấn độ. Một người phải hoàn thành thiên mệnh của ḿnh, cho dù t́nh
huống của y có khó khăn đến đâu đi nữa, cho dù làm như vậy gây ra nhiều khó
chịu đến đâu đi nữa. Người ta có thể thấy sự thật của giáo huấn này theo sự
minh giải của định luật Thiên nhiên khi ta thật sự thấu hiểu được chúng.
Chơn sư sống với thế
gian, mặc dù ngài sống ẩn dật đối với nó, để hoàn thành sứ mệnh của ḿnh là
thuần túy vị tha. Thái độ của người mà đă tận tụy với minh triết ắt phải
cũng giống như thế. Phải sống với thế gian bởi v́ ḿnh phải sống, nhưng
không vướng mắc vào thế gian theo những con đường khác, và người ta có thể
giải thoát chính ḿnh theo con đường đúng duy nhất. Có hàng trăm con đường
để đi sai lạc nhưng chỉ có một con đường để đi đúng . Người minh triết có
thể vẫn c̣n lại với thế gian, hiểu biết được tầm quan trọng của công việc mà
ḿnh có thể làm ở đó, thế nhưng y không có mục tiêu trần tục. Điều này phân
biệt triết gia với kẻ vô minh, vô minh không chỉ không biết ǵ về những sự
kiện thông thường mà không biết về những chân lư cốt lơi. Người mà nhắm tới
minh triết đó điều mà người ta có thể mô tả như là Thượng Đế, bởi v́ nó sinh
ra từ trên trời, không dính mắc nhiều đến sự quan trọng đối với sự vĩ đại
của nhân gian, cái loại vĩ đại được trao giải thưởng một cách phổ thông bởi
con người. Mục tiêu vĩ đại xuất phát từ cái khoái lạc là so sánh bản thân
ḿnh với những người khác và bằng một cách nào đó cảm thấy ḿnh vượt cao
trên tŕnh độ của người khác. Chúng ta nên dẹp bỏ cái ư tưởng muốn vĩ đại
khi so sánh với những người khác, xem người khác dường như nhỏ nhoi.
Luôn luôn có một điều
dường như là nghịch lư trong thái độ của người t́m cách bước trên Thánh đạo.
Y không trốn tránh lạc thú; y không e sợ vui hưởng cơn gió hiu hiu mát lạnh
khi nó thổi qua, nhưng đồng thời y không khao khát một bất kỳ loại khoái lạc
nào. Bất cứ lúc nào y cũng sẵn ḷng chết, nhưng không muốn đẩy nhanh cái
diễn biến ấy. Mặc dù tâm trí y được trụ vào điều
mà có thể gọi là Thượng Đế đích thực, chân lư tối hậu, thế nhưng y lại là
người yêu thích tri thức. Tuy nhiên, ta phải hiểu cho đúng phát biểu
này. Nó không có nghĩa là y bị đau khổ v́ một sự khao khát càng ngày càng
nhiều kiến thức hơn nữa về bất cứ điều ǵ và mọi
việc. Điều này ắt là một loại tra
tấn, một cuộc sống khốn khổ nhất, khi ta cứ khao khát bất cứ khoái lạc cảm
giác nào khác. Nó có nghĩa là trong mối quan hệ của ta với kiến thức th́ có
một đức tính t́nh yêu
cùng với sự dứt bỏ nào đó. Khi bạn
bắt gặp một kiến thức nào đó liên quan đến sự việc nhỏ hoặc lớn th́ bạn hăy
chấp nhận nó với một tinh thần thân thiện; có một cảm xúc chấp nhận và quan
tâm đối với kiến thức như thế.
Being: viết hoa là
Thượng Đế
Điều mô tả của Plato về
triết gia khá thú vị: triết gia là người quan sát trong mọi lúc và mọi kiếp.
Nói cách khác, y có một tầm nh́n bao trùm cả vũ trụ, quan tâm tới mọi điều
nhưng không bị vướng mắc vào chúng. Điều này không có nghĩa là y không quan
tâm tới những người khác chịu ảnh hưởng như thế nào, mà có nghĩa là y không
bị vướng mắc vào chúng để bị chúng làm xáo trộn.
Có một cụm từ tiếng Bắc
phạn jnana atma, nghĩa là ‘Tự ngă-Minh triết’ (Wisdom-Self) cũng được mô tả
là Tự ngă-Chứng nhân (Witness- Self). Trừ phi có một mức độ không vướng mắc
nào đó để cho cái tôi (self) không đi
kèm với những phản ứng của nó, th́ không thể đạt được một sự nh́n đúng về sự
vật, bởi v́ những phản ứng cá nhân luôn luôn làm mờ đi tầm nh́n và sự phán
đoán của con người. Để hiểu được điều
mà ta quan sát, cho dù đó là những sự kiện xăy ra trên sân khấu cuộc đời mà
người ta đọc thấy hằng ngày, hoặc những diễn biến trong địa hạt cuộc sống cá
nhân, và để hành động cho đúng đắn th́ người ta có thể khảo sát chúng mà
không có thiên kiến và không có
bất cứ yếu tố mơ tưởng nào. Người ta phải có một tinh thần điều tra
tự do và vô tư để đạt tới chân lư về bất cứ điều ǵ. Nếu một quan điểm nào
đó được biểu lộ th́ người ta không nên ngay tức khắc chấp nhận hoặc bác bỏ
nó, mà trước hết phải xem xét nó. Chỉ khi đă tự kiềm chế ḿnh đúng mức và
tạm dừng lại để xem xét mà không nóng ḷng bác bỏ hoặc chấp nhận nó, th́ một
người mới có thể biết được sự thật về nó. Trước hết ta phải được phép đi vào
ô cửa trong tâm trí của ta và nó t́m được một tiền pḥng trước khi sự phán
đoán có thể được tác động lên đó. Cho dẫu một quan điểm là sai lầm th́ người
ta nên biết nó sai lầm theo kiểu nào, bản chất của sự sai lầm dính mắc là ǵ
và nó gây ra như thế nào.
Một điều quan trọng đối với thái độ
của người mưu cầu minh triết là ở chỗ y phải hoàn toàn tự kiềm chế đối với
bất kỳ loại ngụy biện nào. Có những người lập luận khéo léo, tài t́nh và
kiên tŕ để chứng minh điều mà ḿnh nói. Điều họ thật sự muốn xiển dương
không phải là sự thật mà chỉ là sự giả vờ hoặc giống như sự thật, một điều
ǵ đó có vẽ hợp lư. Đây là điều mà nhiều người ủng hộ. Họ biết có sự thật ở
bên phía kia nhưng họ muốn xác lập lập trường của chính ḿnh, và họ dùng mọi
tài nguyên trí năng, rút ra mọi điểm kỹ thuật có thể được, những tiền lệ
v.v. . . để có được điều mà ḿnh
muốn. Tôi không nghĩ điều này là có thể tốt cho bất cứ ai dấn thân vào cái
loại nghệ thuật ngụy biện ấy. Một người nhắm việc thủ đắc hoặc đạt tới minh
triết ắt phải chỉ màng tới sự thật thôi chứ không quan tâm tới việc lừa gạt
thiên hạ hoặc làm cho họ rối trí, bằng cách chơi tṛ ảo thuật với những sự
kiện để rút ra được một điều ǵ đó. Mọi cái loại lừa gạt những người khác
hoặc lừa gạt bản thân ḿnh phải hoàn toàn bị loại bỏ ra khỏi bản chất của
ḿnh trước khi ta có thể mô tả nó là chân thực. Người nào mưu cầu trở thành
một huyền bí gia phải chân thực trong suy nghĩ của chính ḿnh, nhất là về
cách thức mà y xem xét thiên hạ cũng như nơi thái độ bên ngoài. Ở y nên có
một t́nh yêu chân lư và không có ǵ khác nữa ngoài chân lư. Thời xưa từ
‘triết học’ được dùng để bao gồm cả khoa học, và như vậy hàm ư là cần có một
khảo hướng khoa học trong mọi vấn đề. Không có khoa học riêng rẽ như vậy
theo cái nghĩa hiện đại của thuật ngữ này. Ngay cả đầu thế kỷ này th́ khoa
học c̣n được gọi trong nhiều sách vở khác nhau là ‘triết học tự nhiên’.
Có một cái nghịch lư khác nữa v́
dường như người ta không đi sâu vào vấn đề, cụ thể là, triết gia không quan
tâm đến tôn giáo theo quan niệm và quan sát phổ thông thường t́nh, bởi v́
phần lớn là tự lừa gạt ḿnh, thế nhưng triết gia lại thật sự là người mộ
đạo. Người ta thường bảo rằng chính các linh mục đă lừa gạt và dẫn dắt sai
lầm thiên hạ, nhưng có một khuynh hướng mạnh mẽ nơi tất cả chúng ta là chúng
ta tự lừa gạt ḿnh, và hơn nữa, người ta lại đi theo cái loại người thích
hợp với ḿnh nghĩa là ngưu tầm ngưu mă tầm mă; do đó ta nên tự trách ḿnh
chứ không chỉ trách người khác, tiên trách kỷ hậu trách nhân. Đối với nhiều
người, tôn giáo phần lớn là một loại tŕnh diễn, một thứ giả tưởng, không
thật.
Minh triết chân chính
không chỉ quan tâm tới đường lối suy nghĩ và hành động của người ta mà c̣n
quan tâm tới những mối quan hệ giữa người ta và việc an bài xă hội. Nhận xét
này diễn ra trong một Đối thoại: Triết gia toan tính định h́nh Quốc gia theo
kiểu mẫu trên trời. Nhưng thế th́ người ta phải có được một ư niệm kiểu mẫu
trên trời là ǵ? Cũng có cái loại phát biểu tử tế cho rằng triết gia mời gọi
con người sống theo Thiên nhiên. Đ́ều này nhằm nói tới Thiên nhiên căn bản
vốn là Thiên nhiên thuần khiết trong cái khía cạnh nó phản ánh được Tư tưởng
của Thượng Đế. Một triết gia như thế, người định hướng về sự thật ẩn đằng
sau dáng vẻ bên ngoài th́ không quan tâm tới những sự việc mà thiên hạ
thường ham muốn và chạy đuổi theo, triết gia ấy không phải thuộc về thế giới
trần tục mà là một thần bí gia. Từ ngữ ‘thần bí gia’ có thể có nhiều hàm ư
khác nhau và bất cứ khi nào ta dùng nó th́ ta phải nêu rơ cho bản thân ta
hiểu nó như thế nào. Có một vài từ ngữ - triết gia, thần bí gia, linh hồn,
t́nh thương v.v. . . - khiến cho lắm
người hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Người ta đă bảo rằng:
‘Nhà thần bí th́ trong tâm hồn phải có sự hài ḥa’. Ở đây hồn nghĩa là thông
linh (psyche). Plato miêu tả triết học là âm nhạc cao quí nhất và hay nhất.
Mọi người đều yêu âm nhạc và tất cả chúng ta đều bảo rằng âm nhạc có một ảnh
hưởng làm thanh tịnh cho con người, nhưng rất nhiều người lệ thuộc vào cái
mà ta gọi âm nhạc là ǵ và cái loại âm nhạc nào.
Khi người ta đạt tới một tŕnh độ thực
chứng nào đấy, nếu trọn cả bản thể của ḿnh đầy t́nh thương - đối với
một người nào khác hoặc đối với người khác nói chung, t́nh thương với đúng
bản chất của nó - th́ người ấy ắt thấy
rằng mọi âm nhạc đều mờ nhạt đi so với t́nh thương đó. Nếu âm nhạc thật
sự là đẹp th́ âm nhạc ắt phải ḥa trộn vào trạng thái yêu thương đó, nó sẽ
làm tăng cường hoặc mở rộng cảm xúc yêu thương; lúc bấy giờ âm nhạc dường
như diễn tả những xúc động bên trong bản thân. Nhưng chỉ có âm nhạc thật sự
đẹp mới làm được như vậy. Chúng ta thường không hiểu rằng có loại âm nhạc
này và âm nhạc kia. Khi ta nói tới âm nhạc th́ ta nói tới một loại nhạc nào
đấy, nhưng chúng ta không nghĩ rằng mọi âm nhạc đều có cùng một giá trị. Khi
ta lắng nghe âm nhạc th́ ta ắt khảo sát được bản chất đáp ứng của ḿnh với
nó, và cố gắng t́m ra xem xúc động được khơi dậy bởi nó là ǵ. V́ biết bao
nhiêu người chỉ theo nhịp của bài nhạc, nên họ đắm ḿnh trong nhịp điệu điều
này chỉ có thể làm cho họ thưởng thức được một phần nào.
Luôn luôn có nguy cơ
trong bất cứ loại vui hưởng nào mà ta có thể đắm ḿnh vào đấy, ta không biết
điều ǵ đang xảy ra cho ḿnh, cái loại đáp ứng nào mà ḿnh đang thực hiện
đối với sự vật mà ḿnh vui hưởng. Sự hưởng thụ hay thú vui có một khuynh
hướng nhấn ch́m tâm trí, rút nó vào trong cái xoáy lốc mà chính nó tạo ra.
Mọi người đều có thể biết rằng khi ḿnh trải nghiệm một cảm giác vui thú và
muốn càng ngày càng nhiều nó hơn nữa th́ y càng ngày càng đi sâu hơn và bị
đắm ch́m vào nó. Nếu vào lúc vui thú mà có bất kỳ lời kêu gọi nào thực hiện bổn phận, cho
dù khẩn cấp đến đâu đi nữa, th́ y ắt không có khuynh hướng nhúc nhích ǵ,
phản ứng ǵ. Điều này chứng tỏ rằng bằng một cách nào đấy nó đă ức chế sự
sẵn sàng của ta để đáp ứng. Có cái nguy cơ đó trong đủ thứ thú vui.
Người ta không cần phải né tránh thú vui, nhưng phải tự xét ḿnh khi đắm
ḿnh vào thú vui .
Minh triết mà ngự trong
linh hồn là âm nhạc cao quí nhất và hay nhất, bởi v́ trong đó có một phẩm
tính hài ḥa mà phẩm tính này chỉ hiện diện trong loại âm nhạc hay nhất. Nó
cũng có khả năng tạo ra sự hài ḥa, trong mọi biểu hiện và hành động của
người ta. Minh triết chân chính như được phân biệt với cái gọi là khôn ngoan
linh tinh, là một điều hiếm hoi. Thế nhưng đây chính là nhận xét của
Socrates, theo đó nó là cái đức hạnh duy nhất mà mọi người từ khi c̣n trai
trẻ đă nghĩ rằng ḿnh sở hữu. Một người có thể công nhận sự
kiện là ḿnh không có năng khiếu về
âm nhạc, không có năng khiếu về toán học, rằng ḿnh không có năng lực về rất
nhiều khía cạnh, điều này đă kiểm định qua nhiều cách khác nhau là ḿnh đă
thất bại. Nhưng y lại tin rằng ḿnh có minh triết cần thiết để xét đoán mọi
vấn đề trong cuộc đời, và ư kiến của ḿnh cũng giỏi, hay như ư kiến của
những người khác. Đó là một dạng mù quáng rất thông thường và đưa người ta
vào đủ thứ điên rồ và sai lạc. Thật khó mà thoát ra khỏi cái sự hiểu biết
tưởng tượng này khi bạn lại chẳng biết ǵ.
Mọi điều ấy đều áp dụng
được cho tất cả chúng ta, và chẳng những đối với một vài người đặc biệt đang
mưu cầu một điều ǵ đó xa cách với cuộc đời của ḿnh. Thông Thiên Học là một
triết lư, xét theo một khía cạnh nào đó. V́ vậy, nếu ta thật sự hiểu được
th́ ta ắt phải hành động theo đó. Tôi nhớ ông Krishnamurti có phát biểu
trong một buổi hội thảo, khi một người nào đó nêu lên vấn đề luân hồi tái
sinh (lúc ấy ông chẳng bao giờ nói liệu nó có phải là sự kiện hay chăng)
Krishnamurty nói: ‘Ông không tin vào luân hồi, bởi v́ nếu ông tin th́ ông ắt
đă hành động khác đi rồi’. Khi nói như vậy, Krishnamurti đang ứng dụng một
sự kiểm định thực tiễn. Ông bảo rằng người ta nghĩ rằng ḿnh tin, nhưng
chính y lại tự lừa gạt ḿnh khi làm khác đi như thế.
Điều ta cần hiểu không
phải chỉ là một vài sự vật vốn trừu tượng và xa xăm - như Parabrahman,
Thượng Đế Ngôi Lời v.v. . . mà là sự thật về mọi sự vật mà nó liên quan sinh
hoạt hằng ngày của ta như: vẻ đẹp chân chính là ǵ, một ư kiến có giá trị
đến đâu, đâu là nền tảng của hành động, bản chất của ư chí là ǵ, có phải nó
giống như sự ngoan cố hay là
kiên tŕ hoặc là một bản chất khác nào đó v.v. . . Chúng ta phải có tâm trí
và tâm hồn, có khuynh hướng để khảo sát những vấn đề như thế liên quan tới
cuộc đời của ta, nh́n vào chúng một cách im lặng và kỹ lưỡng. Việc khảo sát
ấy không nên trở thành một chuyện xúc động làm xáo trộn sự quân b́nh của ta,
khiến cho ta không thể tư duy một cách điềm tĩnh và khách quan. Ta khảo sát
chính ḿnh như thế nào mới là quan trọng. Có một cách khảo sát đưa tới sự
minh triết, nhưng nó dựa hoàn toàn vào sự vô tư, chấp nhận b́nh tĩnh bản
thân ḿnh khi ta ở trong một trạng thái tịch lặng.
H. P. Blavatsky nói tới việc khảo sát phàm ngă theo sự minh giải của
chân ngă. Khi ta dùng từ ‘Chân ngă’ th́ ta chẳng biết nó là ǵ, cụm từ này
có ư nghĩa rất ít đối với ta trong thực tế, nhưng không phải như vậy. Hiển
nhiên ‘trong ánh sáng của Chân ngă’ có nghĩa là khách quan, bằng sự thanh
thản, chứ không bằng bất cứ loại kết
án nào hoặc biện minh nào cho bản thân, không bằng một sự cố gắng lạnh lùng,
vô cảm để nh́n thấy sự vật đúng như là sự vật.
Tất cả chúng ta là các nhà Thông Thiên Học nên thường xuyên khảo sát thái độ của chính ḿnh, các động cơ thúc đẩy, cách mà chúng ta nói và hành động và đủ thứ phản ứng trong nội tâm diễn ra ngay cả khi ta không biết. Chỉ theo cách đó th́ người ta mới có thể đến với sự thật hoặc đạt tới cái sự chuyển hóa được gọi là Thánh đạo. Bước trên Thánh đạo có nghĩa là tạo ra một sự thay đổi hoàn toàn nơi bản thân, và ta chỉ có thể thực hiện được điều đó thông qua trí tuệ tự do của ḿnh, bằng cách khách quan đối với bản thân, và không c̣n một cách nào khác nữa. Để được khách quan th́ người ta phải biết được tất cả những ǵ đang xảy ra nơi bản thân. Nếu ta quá bận bịu với những ư tưởng của riêng ḿnh, sống trong một lối ṃn hoặc một trạng thái nửa mơ mộng, trong cái trạng thái vô minh mà lại gọi đó là cực lạc th́ ta đă tách rời ḿnh khỏi ḍng chảy chính của sự sống và không c̣n tiếp xúc được với thực tại của nó nữa. Thánh đạo đ̣i hỏi nổ lực mạnh mẽ, nhưng nó làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của ta, biến sinh hoạt hằng ngày của ta làm một trải nghiệm khác hẳn so với nó đă như vậy từ trước đến nay.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS