|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
TIẾN GẦN TỚI ĐẤNG THIÊNG LIÊNG
(Approaching the Divine)
Tác giả TIM BOYD
Bài đăng trên Tạp chí Nhà Thông Thiên Học số tháng 5 năm
2016.
|
|
Trong thời kỳ đầu của Hội Thông Thiên Học, người ta biết H. P. Blavatsky có
chỉ trích những phép thực hành của Giáo hội và h́nh thức xuất hiện của Kitô
giáo vào thời của bà. Ta có thể hiểu được điều này, xét về t́nh h́nh thế
giới thực dân, nhất là ở Ấn Độ. Đối với H. P. B., đó là vấn đề “dũng cảm bảo
vệ những người bị tấn công một cách bất công”. Tôi tin rằng bà cảm thấy việc
áp đặt một tôn giáo ngoại lai được thực hành tồi tệ lên một nền văn hóa
trong đó những khảo hướng hiện hữu đối với Thượng Đế vẫn có công hạnh lớn
lao, việc áp đặt này là một điều ǵ đó mà bà nên đề cập tới. Và dĩ nhiên với
phong cách giống như chiến sĩ, bà đă đề cập tới nó.
Trong tác phẩm của bà, ta thấy bà thường xuyên chỉ trích cái cách thức mà
Giáo hội tiếp cận với khái niệm Thượng Đế. Trong những tác phẩm của bà, bà
hiếm khi dùng từ “Thượng Đế”, ít ra không phải theo nghĩa quen thuộc với
cách thực hành thông thường của Kitô giáo và khi bà làm như vậy th́ người ta
thường nêu ra một số những điều hạn chế đă được áp đặt lên cái nguyên lư vĩ
đại và có tiềm năng cứu độ này. Bà không chống lại Thượng Đế, mà chống lại
việc đặc trưng méo mó xuất lộ từ một triết lư không lành mạnh với nội dung
là cái biếm họa về thiên tính ấy đang được áp đặt lên nhân dân xứ thuộc địa.
Cái ư niệm cho rằng có một trí tuệ vô thượng tuyệt đối và vô hạn, để rồi
được nhân cách hóa, nghĩa là được mang một tên gọi, được miêu tả theo kiểu
giới hạn của con người chẳng hạn như giận dữ, cáu kỉnh, bất măn, do việc gán
cho nó cả đống những thuộc tính hạn chế mà bà nhận ra là kiểu lư luận dùng
nhục h́nh. Và thế là bà nói tới điều ấy. Theo quan điểm của H. P. B., khi
nói về Đấng Tuyệt Đối th́ cách thức duy nhất mà ta có thể mô tả nó đó là sự
u minh và tánh không - tánh không theo nghĩa Đấng Tuyệt Đối hoàn toàn không
có thuộc tính, không thể liên tưởng nó với bất cứ sự việc đặc thù nào, do đó
“tánh không” là phương thức thích hợp nhất để mô tả nó.
Những người nối tiếp H. P. B. trong truyền thống Thông Thiên Học - Annie
Besant, C. W. Leadbeater, I. K.Taimni và những người khác – chẳng gặp khó
khăn ǵ khi sử dụng từ ngữ “Thượng Đế” để diễn tả một ư nghĩa đặc thù. Trong
quyển Ch́a Khóa Thông Thiên Học, H. P. B. đảm nhiệm vai tṛ Người
điều tra và cũng như nhà Thông Thiên Học trả lời thắc mắc. Trong quyển sách
này bà hỏi thẳng Nhà Thông Thiên học đang trả lời. Thắc mắc như sau: “Liệu
ngài có tin vào Thượng Đế chăng?” Đây là một thắc mắc trực tiếp và có vẻ đơn
giản. Câu trả lời mà bà đáp lại thắc mắc này hoàn toàn mang tính khai thị.
Đó không phải trả lời là “có” hoặc “không”. Đó là một điều c̣n tùy thuộc xem
bạn ngụ ư ǵ qua thuật ngữ Thượng Đế. Bà tiếp tục mô tả mọi điều không
nên được bao gồm trong bất cứ tín ngưỡng nào về Thượng Đế. Những điều
như nhân cách hoặc bất cứ thứ ǵ có thể gán cho một đại danh từ là “của ông
ấy” hoặc “của bà ấy” ắt không đạt tiêu chuẩn này. Nhưng bà bảo rằng điều mà
chúng ta tin tưởng đó là một “bản thể thiêng liêng đại đồng thế giới”. Annie
Besant và những người khác có một ư niệm rất rơ rệt là ḿnh đang nói ǵ khi
dùng thuật ngữ “Thượng Đế”.
Bạn đi tới bất cứ nơi đâu và khảo sát bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử thế
giới th́ cũng luôn luôn có một ư niệm nào đấy về Thượng Đế, một điều ǵ đó
tương đương với khái niệm Thượng Đế. Trải qua 100 năm vừa qua, chúng ta có
một cơ hội để chứng kiến một cuộc thực nghiệm đă được triển khai trên qui mô
lớn, trong đó có một nỗ lực rất tập trung và cố ư làm nhổ bật tận rễ đức tin
tôn giáo. Trong cuộc thực nghiệm được thí điểm ở Liên Xô cũng như ở Trung
Cộng, ta có một dẫn chứng đă bị khuấy đảo về đủ thứ khào hướng đối với
Thượng Đế, họ thấy ḿnh sống trong một trật tự xă hội mới mà việc thực hành
và tín ngưỡng tôn giáo không c̣n được cho phép nữa. Chẳng những người ta
không cho phép mà khi bắt gặp bất cứ ai thực hành th́ sẽ tiến hành trừng
phạt tối đa. Ư niệm thịnh hành trong những xă hội cộng sản này đó là việc
tôn giáo là một điều ǵ đấy không tự nhiên vốn được lắp ghép vào ư thức con
người và nếu ta từ bỏ không cho nó cơ hội biểu hiện th́ nó ắt chết đi. Cuộc
thực nghiệm ấy đă được thí điểm trải qua hầu như ba thế hệ. Vậy là con của
những đứa con của những người lần đầu tiên trải qua cuộc thực nghiệm đă được
giáo dưỡng mà không có biểu hiện công khai nào về tôn giáo.
Khi những chế độ này kết thúc th́ lại đột nhiên có một bộ phận hấp dẫn dường
như thể nó chưa bao giờ biến mất; khát vọng tôn giáo lại ngóc đầu dậy mạnh
mẽ, sao cho mặc dầu những đoàn thể nhân dân thực hành các tôn giáo này có
thể đă bị tiêu diệt hoặc tâm trí của họ có thể bị bóp méo qua sự tù đày hoặc
“cải tạo”, th́ bằng một cách nào đó những nguyên lư làm nảy sinh do sự thôi
thúc tôn giáo vẫn c̣n nguyên vẹn. Theo quan điểm của Thông Thiên Học th́
điều này thật rơ ràng. Cội nguồn của sự thôi thúc tôn giáo ấy sâu bên trong,
vượt ngoài tầm với của lực vật chất hoặc ngay cả lực xúc động và trí tuệ
nữa.
Trong kho tài liệu Thông Thiên Học có một thành ngữ là: “Tín ngưỡng là tri
thức trong vô thức”. Lư do là có một sự trào dâng liên tục hướng về Đấng
Thiêng Liêng trong nội bộ tâm hồn nhân loại v́ có tồn tại một “tri thức”
vượt quá cái trí hữu thức. Nó ở ngoài tầm lĩnh hội của cái trí, thế nhưng
liên tục phản ứng lên cái trí. Ta biết nó và nó không thể biến mất được. Có
một “bản thể thiêng liêng đại đồng vũ trụ” liên tục cấp linh hồn cho những
sinh linh của mỗi người và mọi người.
H. P. B. cũng hoàn toàn phê phán việc cầu nguyện, ít ra là cái phương cách
mà người ta thực hiện nó trong Giáo hội vào thời của bà và ngay cả trong
Giáo hội thời nay. Cũng giống như phản ứng của bà đối với khảo hướng về
Thượng Đế không lành mạnh về triết học, bà cảm thấy lời cầu nguyện theo như
người ta thường hiểu và thực hành làm bạc nhược người cầu nguyện. Vậy cũng
giống như đối với khái niệm Thượng Đế, vấn đề của bà không phải là đối với
lời cầu nguyện mà là đối với sự hiểu biết méo mó của người thực hành thông
thường. Xét cho cùng th́ cầu nguyện là một trong những pháp môn của sinh
hoạt tinh thần mà ta thấy được thực hành ở mọi nơi trên thế giới. Một số
những nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử đă chịu ảnh hưởng của việc thực
hành cầu nguyện.
Trong quyển Ch́a Khóa Thông Thiên Học, H. P. B. có nói tới cầu
nguyện. Trước hết bà thảo luận về sự bất cập của một khảo hướng dâng một
thỉnh nguyện lên một đấng thiêng liêng v́ một ham muốn ích kỷ nào đấy, trông
mong rằng nó sẽ được đáp ứng cho dù có xứng đáng hay chăng, hoặc ngay cả cho
dù đó có là một điều ǵ đấy những phạm vi của định luật Thiên nhiên. Bà bảo
rằng khảo hướng này ngược lại với sự cầu nguyện chân chính. Bà bảo rằng với
vai tṛ là nhà Thông Thiên Học th́ chúng ta tin vào lời cầu nguyện, nhưng bà
mô tả nó là “lời cầu nguyện của ư chí”. Lời cầu nguyện của ư chí không được
hướng tới một nhân vật cao siêu nào mà hướng tới “Cha trên Trời”. Bà phân
biệt Cha trên Trời với đức tin thịnh hành là có một vị Cha thiêng liêng ngự
trên những đám mây, ban cấp mọi chuyện cho những ai thốt ra những lời đúng
đắn. Cha trên Trời là bản chất tinh thần thâm thúy của chính ta, tức Atma,
Buddhi, Manas. H. P. B. phân biệt rằng lời cầu nguyện chân chính được hướng
tới Cha trên Trời này đó là một nguyên khí v́ nó mang tính đại đồng vũ trụ.
Annie Besant và những người khác thuộc truyền thống Thông Thiên Học sau này
dùng từ ngữ “cầu nguyện” một cách rất thoải mái. Thật vậy, ngày nay trong
hầu hết mọi buổi họp được tổ chức khắp thế giới Thông Thiên Học, ta dùng một
lời cầu nguyện do Annie Besant viết ra vốn được biết là “Lời Cầu Nguyện Đại
Đồng Vũ Trụ”.
Bà viết lời cầu nguyện ấy để đáp ứng lại một thỉnh nguyện của một người nào
đó triệu tập một buổi họp và thỉnh cầu bà viết một đề tài tham thiền mà nhóm
có thể dấn thân vào. Bà viết ra lời cầu nguyện và bảo rằng khi bà viết nó
th́ dường như nó vang dội bên trong bà. Bà cảm thấy rằng ḿnh không thể viết
ra một đề tài tham thiền, v́ bà xét thấy rằng đó là một vấn đề mang tính cá
nhân hơn. Thay vào đó bà viết lời cầu nguyện “Hỡi Sự Sống Ẩn Tàng” dành cho
buổi họp này, với ư tưởng rằng người ta có thể cầu nguyện hai lần trong ngày
vào buổi sáng và buổi chiều tối. Dĩ nhiên nó đă tiếp tục trở thành một điều
ǵ đó tụng niệm trong khắp thế giới Thông Thiên Học và được sử dụng trong
việc thực hành cá nhân cho vô số cá thể.
Một trong những điều nền tảng của truyền thống Thần bí học, đó là ư niệm cho
rằng Thượng Đế tức sự hiện diện của đấng thiêng liêng trên khắp vũ trụ là
một điều ǵ đó có thể trải nghiệm, và nhờ trải nghiệm như vậy người ta mới
biết được giá trị và ư nghĩa chân thực của nó. Ngay cả H. P. B. trong khi mô
tả lời cầu nguyện của ư chí cũng bảo rằng tác dụng của nó có thể mang lại sự
hiệp thông chân chính, giống như sự ḥa lẫn linh hồn cao siêu với bản thể vũ
trụ.
Có một quyển sách nhỏ bắt nguồn từ truyền thống thần bí Kitô giáo được viết
thành một quyển sổ tay để thực hành việc hiệp nhất với Thượng Đế, tức Đấng
thiêng liêng. Nó có tựa đề là Đám Mây Huyền Vi. Trong đó có một lời
cầu nguyện ngắn gọn với tiềm năng hoàn toàn mạnh mẽ. Lời cầu nguyện như sau:
Hỡi Thượng Đế mà mọi tâm hồn đều mở ra với ngài,
mà ham muốn đều hùng biện với ngài,
mà không có điều ǵ bí mật bị che giấu đối với ngài.
Xin ngài hăy tẩy rửa những tư tưởng trong tâm hồn con,
bằng việc tuôn đổ tinh thần của ngài,
để cho con có thể yêu thương ngài bằng một t́nh yêu toàn bích,
và ca ngợi ngài đúng như ngài xứng đáng vậy.
Chúng ta có thể cố gắng đi sâu thêm một chút vào ư nghĩa của những từ này.
Đó là một lời cầu nguyện không thể cạn kiệt được, nhưng ít ra ta cũng có thể
cào trầy trên bề mặt. “ Hỡi Thượng Đế mà mọi tâm hồn đều mở ra với ngài” là
việc công nhận một thực tại, một điều tự tại mà bất kỳ lời cầu nguyện chân
chính nào cũng phải như thế. Đó không phải là sự tổ hợp chuyên biệt những từ
ngữ gây ra sự khác biệt, mà là việc công nhận trong nội tâm có một bản thể
thiêng liêng đại đồng vũ trụ mà mọi tâm hồn đều liên kết với và cởi mở với
nó. Như vậy lời cầu nguyện bắt đầu bằng sự công nhận căn bản điều vốn là
thực tại của vạn vật.
Cụm tự mà đối với ngài th́ ham muốn là tài hùng biện có thể hơi ngoắc ngoéo
một chút. Trong truyền thống của Hermes có một châm ngôn cho rằng “Đằng sau
Ư chí có ham muốn”. Đây là điều mà ta có thể quen thuộc. Chỉ bằng cách nỗ
lực thực hiện việc trau dồi ham muốn thuộc một loại đặc thù th́ ta mới ảnh
hưởng tới phàm ngă khiến cho nó cởi mở với bản chất cao siêu. Ham muốn mà ta
nêu rơ ắt theo đường lối hoài băo đạo tâm. Nếu không có sự trao đổi và định
hướng cái gọi là “ham muốn” th́ ta không trải nghiệm được sự giáng hạ của ư
chí cao siêu. Từ ngữ “tài hùng biện” có liên quan tới tính thuyết phục. Như
vậy cụm từ mà ham muốn là tài hùng biện với ngài mô tả tính thuyết phục
thuộc ham muốn cao siêu nhất của ta, cái ham muốn tiếp cận và triệu thỉnh sự
giáng hạ của Ư chí Thượng Đế.
Cụm từ kế tiếp bảo rằng “đối với ngài th́ không một điều bí mật nào bị che
giấu”. Nơi duy nhất có sự che giấu những điều bí mật chính là những nơi ngóc
ngách sâu thẳm thuộc phàm ngă của chính ta, những ngóc ngách thuộc bản thể
mà ta không sẵn ḷng để cho ánh sáng cao siêu nhập vào. Đây là những chỗ mà
ta cảm thấy bị giới hạn, nơi ta che giấu chính ḿnh và những người khác, nơi
ta ấp ủ mọi phức cảm và khó khăn để cho các nhà tâm lư học có việc mà làm.
Trong mối quan hệ của ta với Chơn ngă thiêng liêng th́ sự bí mật ấy vừa vô
nghĩa vừa không cần thiết. Tất cả đều luôn luôn được biết. Việc công nhận
này khiến cho ta phóng thích được nỗ lực khổng lồ cần thiết trong toan tính
củng cố những nơi chốn ẩn giấu này. Lại nữa, đây chỉ là việc công nhận thực
tại.
Như vậy, phần đầu tiên của lời cầu nguyện được ta đi qua qui tŕnh công nhận
những khía cạnh khác nhau của Đấng thiêng liêng và tiềm năng của nó nhằm
dính mắc sáng tạo trong nội bộ phàm ngă. Phần kế tiếp của lời cầu nguyện đưa
ra thỉnh cầu: “Xin hăy thanh tẩy những tư tưởng trong tâm hồn con bằng cách
tuôn đổ tinh thần của ngài”. Lời thỉnh cầu nhằm vào việc ánh sáng của Đấng
thiêng liêng có thể soi chiếu cho những tư tưởng sinh ra trong phần sâu lắng
nhất thuộc bản thể ta, chứ không phải là những tư tưởng của cái trí b́nh
thường, (tức những tư tưởng có vẻ đến rồi đi trong mọi lúc) mà là những tư
tưởng trong “tâm hồn tôi”.
Ta thường nghĩ “Ánh Sáng” đồng nghĩa với Đấng thiêng liêng. Đối với một
người xây dựng một căn nhà không có cửa sổ, rồi suốt đời sống trong căn nhà
ấy th́ thật vô lư khi trông mong rằng ánh sáng liên tục tỏa chiếu của mặt
trời ắt t́m đường đi tới chỗ đó. Sự việc ta thấy ḿnh cắt đứt khỏi ánh sáng
ấy tuyệt nhiên không làm giảm bớt ánh sáng mặt trời. Nó chỉ ảnh hưởng tới sự
tiếp cận của ta.
Phần này của lời cầu nguyện không thỉnh cầu mặt trời chiếu sáng rực rỡ hơn
hoặc thỉnh cầu mặt trời xuyên thấu những bức tường mà ta đă dựng nên xung
quanh ḿnh. Lời cầu nguyện bảo rằng “Xin ngài hăy thanh tẩy những tư tưởng
trong tâm hồn con bằng cách tuôn đổ tinh thần ngài”. Đó là một biểu hiện ư
chí của ta muốn loại bỏ cái hàng rào mà ta đă dựng nên để cho ánh sáng được
phép tuôn vào. Đây không phải là lời cầu nguyện có ư định làm thay đổi
phương thức vận hành của Vũ trụ. Đó là việc biểu hiện ư chí của ta muốn tiếp
cận sự tỏa chiếu ánh sáng của mặt trời thiêng liêng.
Lời cầu nguyện đạt đỉnh cao qua việc “để cho con có thể yêu thương ngài bằng
t́nh yêu thương toàn bích và ca ngợi ngài đúng như ngài xứng đáng”. Đâu là
bản chất của “t́nh yêu thương toàn bích?” Đâu là bản chất của “sự ca ngợi”?.
Khi ta nói tới sự cầu nguyện th́ có nhiều phương cách và loại h́nh cầu
nguyện khác nhau mà ta thực hiện. Thường thường đối với lũ trẻ con, nếu
chúng đạt được một thành tích nho nhỏ nào đấy th́ ta ắt khen ngợi chúng sao
cho chúng phát triển được ḷng tự tin. Khen ngợi thực sự diễn ra khi ta thấy
một điều ǵ đó có giá trị và công nhận nó. Việc này không được sáng tạo ra
hoặc thực hiện ngay lúc ấy. Đó là việc công nhận và thừa nhận điều đang
hiện hữu.
Và đâu là lời ca ngợi mà “bản thể thiêng liêng vũ trụ” xứng đáng. Đây có lẽ là một điều ǵ đó ít phức tạp hơn nhiều so với mức ta nghĩ. Có lẽ nó chẳng có ư nghĩa ǵ nhiều hơn việc công nhận sự hiện diện của Đấng thiêng liêng nơi mọi người và mỗi người, nơi vạn vật, ở bất cứ nơi đâu mà ta nh́n tới. Đây là lời ca ngợi phát xuất từ một người đă thực sự đạt được tŕnh độ phát triển cho phép họ nh́n thấy được Giả dối ca ngợi điều ta không nh́n thấy hoặc chưa thực chứng được, chỉ là một thái độ rỗng tuếch. Nhưng mọi người đă từng trải nghiệm th́ bằng một cách nào đấy ắt xác nhận cái “sự ḥa lẫn” linh hồn cao siêu với bản chất thiêng liêng mà Blavatsky có nói tới. Trong Chí Tôn Ca, Krishna tự xưng là Đấng Cai Trị Bất Tử trong nội tâm, hiện diện trong tâm hồn mọi chúng sinh. Khi bên trong ta xuất hiện năng lực nh́n thấy nó th́ cái sự công nhận đơn giản này là lời ca ngợi xứng đáng.
Có nhiều lời cầu nguyện tương tự. Lời cầu nguyện này của một tác giả vô danh
được giới thiệu làm ví dụ cho tiềm năng thúc đẩy nhanh chóng mọi hoạt động
của phàm ngă, sao cho chúng có thể được hướng về việc trải nghiệm thực hữu
cái Sự Sống Ẩn Tàng, Ánh Sáng Ẩn Tàng và T́nh Thương Ẩn Tàng mà Annie Besant
đă đề cập tới trong Lời Cầu Nguyện Đại Đồng Vũ Trụ. Nó hiện diện ở khắp mọi
nơi và thường là không được công nhận, không được thừa nhận. Bất cứ công cụ
nào cung ứng được khả năng ít ra tạm thời công nhận nó cũng đáng để cho ta
cứu xét.
Việc hội ngộ giữa con người và Thượng Đế phải luôn luôn có nghĩa là Đấng
thiêng liêng xuyên thấu và thâm nhập vào bản thể con người và con người tự
ch́m ngập vào Thiên tính.
Sri Aurobindo
--------------------------
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS