|
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
CHƯƠNG
VI THỜI KỲ SƠ KHAI TRÊN DÃY HÀNH TINH TRÁI ĐẤT
Trích từ CON NGƯỜI: Từ đâu tới, Sinh hoạt
ra sao và rồi sẽ Đi về đâu
(MAN: Whence, How and Whither)
Tác giả C. W. Leadbeater |
|
CHƯƠNG
VI
THỜI KỲ SƠ KHAI TRÊN DÃY HÀNH TINH TRÁI ĐẤT
Trong khi đó Dãy
trái đất dần dần được hình thành, như ta biết
[[1]].
Các Nguyệt tinh quân trông nom việc kiến tạo
nó; đã đến lúc chất lên tàu ra khơi đi tới Dãy hành tinh mới những
người đầu tiên cần phải tiến hóa trên đó trong những thời đại sắp
tới. Đức Chủng Bàn Cổ quyết định nội dung của mỗi chuyến tàu và ra
lệnh cho nó khởi hành, còn Đức Căn Bàn Cổ phân bố các chuyến tàu khi
chúng thành công cặp bến trên bầu hành tinh A của Dãy trái đất.
Ở đây ta có thể phác họa ngắn gọn về Chính
phủ Huyền bí của Dãy hành tinh, mặc dù chỉ sơ lược thôi để cho học
viên có thể ngộ ra được một điều gì đó về tầm mức vĩ đại của cơ tiến
hóa mà mình đang khảo sát.
Đứng đầu là Chủng Bàn Cổ của Dãy hành tinh
trước kia tức Đức Chakshushas, ta đã thấy một điều gì đó về công
trình vĩ đại của Ngài nơi Dãy Nguyệt tinh. Có nhiều Chức sắc trợ
giúp ngài, báo cáo cho Ngài biết các thành viên của bất kỳ phân bộ
đặc biệt nào đáp ứng được bao nhiêu với những ảnh hưởng mà Ngài tác
động lên họ trong khi họ nhập vào cõi Niết Bàn Liên hành tinh. Cũng
giống như kẻ kém tiến hóa nhất trong thời đại được biệt phái để hoàn
thành nhiệm vụ cư ngụ trong những hình hài nguyên thủy nhất, còn kẻ
tiên tiến hơn nối tiếp sau đó khi hình hài đã tiến hóa tới một mức
cao hơn; cũng vậy xuất phát từ bất kỳ phân bộ đặc biệt nào được di
tản từ Mặt trăng rồi tích trữ nơi cõi Niết Bàn Liên hành tinh, những
kẻ nào tiến bộ chậm nhất do ảnh hưởng của Ngài trong thời gian tị
nạn sẽ được biệt phái đi đầu tiên gia nhập vào lớp người chinh phục
thế giới mới.
Đức Căn Bàn Cổ
của Dãy trái đất là đấng Vaivasvata
[[2]];
Ngài điều khiển toàn bộ thứ tự của cơ tiến hóa và là một Đắng cao cả
xuất phát từ Dãy hành tinh thứ tư của hệ thống tiến hóa Kim tinh,
hai trong những vị phụ tá của Ngài cũng xuất phát từ Dãy hành tinh
ấy, còn vị phụ tá thứ ba là một bậc Cao đồ đã thành chánh quả vào
buổi sơ khai của Dãy Nguyệt tinh
[[3]].
Một Đức Căn Bàn Cổ của một Dãy hành tinh
trước hết phải thành chánh quả trên dãy hành tinh mà Ngài đã từng
làm người và trở thành một trong các tinh quân của nó; sau đó Ngài
trở thành Bàn Cổ của một Giống dân rồi trở thành một Độc Giác Phật,
rồi trở thành Đấng Chúa Tể thế gian rồi trở thành Căn Bàn Cổ và
Chủng Bàn Cổ của một Cuộc tuần hoàn và chỉ lúc bấy giờ Ngài mới trở
thành Căn Bàn Cổ của một Dãy hành tinh, Ngài điều khiển các vị Bàn
Cổ của Cuộc tuần hoàn vốn phân chia công việc cho các Bàn Cổ của
Giống dân. Hơn nữa mỗi Dãy hành tinh cũng cho tốt nghiệp được một số
nhân vật đã thành chánh quả tức tinh quân của Dãy hành tinh, một số
vị này tận tụy với công việc của Dãy hành tinh mới dưới quyền điều
khiển của Đức Căn Bàn Cổ của nó.
Như vậy đối với
Dãy hành tinh Trái đất ta thấy có bảy lớp Nguyệt tinh quân làm việc
dưới quyền của Đức Căn Bàn Cổ của chúng ta, bảy lớp này tốt nghiệp
từ bảy bầu của Dãy Nguyệt tinh; họ tạo thành một trong hai loại hình
lớn các Đấng phò trợ từ bên ngoài vốn có liên quan tới việc dẫn dắt
cơ tiến hóa tổng quát của Dãy hành tinh Trái đất. Loại hình quan
trọng thứ nhì các Đấng Phò trợ từ bên ngoài là các Đấng mà ta gọi là
Hỏa Đức tinh quân, các ngài giáng lâm từ Kim tinh, xuống bầu hành
tinh thứ tư vào Cuộc tuần hoàn thứ tư, lúc giữa Căn chủng thứ ba để
xúc tiến cơ tiến hóa trí tuệ, để thành lập Quần Tiên Hội trên trái
đất và tiếp quản chính quyền của quả địa cầu. Chính ảnh hưởng ghê
gớm của các Ngài đã làm thúc đẩy nhanh chóng mầm mống sinh hoạt trí
tuệ khiến cho chúng bộc phát tăng trưởng tiếp theo sau một đợt ào
xuống dữ dội thông qua Chơn thần của cái mà ta gọi là Làn Sóng Sinh
hoạt thứ ba, tạo nên thể thượng trí, khiến cho Chơn ngã được khai
sinh hoặc giáng lâm đối với những sinh linh nào từ giới động vật
ngoi lên giới nhân loại. Sự đáp ứng của hằng hà sa số cư dân trên
trái đất đối với biến cố ấy mang tính ngay tức khắc, đến nỗi đôi khi
người ta bảo rằng các Ngài đã ‘ban cấp’ hoặc ‘phóng chiếu’ tia lửa
trí tuệ; nhưng thật ra tia lửa chỉ được quạt lên thành ngọn lửa chứ
không được phóng chiếu; bản chất của tặng phẩm này là việc làm cho
phát triển nhanh chóng mầm mống vốn đã có sẵn nơi nhân loại sơ sinh,
đó là tác dụng của tia nắng mặt trời đối với một hạt giống chứ không
phải là việc cung cấp hạt giống
[[4]].
Nhờ có các Hỏa
Đức tinh quân cho nên quyền năng của THƯỢNG ĐẾ mới được tập trung
vào các Chơn thần giống như các tia nắng mặt trời có thể được một
thấu kính hội tụ lại, và nhờ ảnh hưởng ấy mà tia lửa tức điểm linh
quang đáp ứng mới xuất hiện. Các Ngài chính là các Manasaputras chân
chính, các Con trí tuệ vì các Ngài xuất phát từ Cuộc tuần hoàn thứ
năm tức Cuộc tuần hoàn trí tuệ của Kim tinh cho nên các Ngài được
gọi là Con của lửa, Hỏa Đức tinh quân
[[5]].
Đức Căn Bàn Cổ phân phối bảy loại Nguyệt
tinh quân ra khắp Dãy hành tinh trái đất, đảm nhiêm các Cuộc tuần
hoàn và các bầu hành tinh trong khi các vị Bàn Cổ của các Giống dân
đặc biệt chăm lo về cơ tiến hóa của các Gióng dân tức là một Căn
chủng.
CUỘC TUẦN HOÀN THỨ
NHẤT
Các Nguyệt tinh
quân xuất phát từ bầu A, B và C của Dãy Nguyệt tinh là ba lớp người
giám sát chứ không tham gia vào việc kiến tạo vật lý của các bầu
hành tinh thuộc Dãy trái đất vì các bầu này lần lượt được tạo ra
xung quanh Chơn linh của mỗi bầu mà ta đã mô tả trước kia
[[6]].
Dường như họ giám sát công trình chi tiết của các Tinh Quân đến sau.
Lớp thấp nhất xuất phát từ bầu G tạo ra các hình tướng nguyên mẫu
bản sơ trên bầu A của Dãy trái đất trong Cuộc tuần hoàn thứ nhất rồi
hướng dẫn nhóm Tuyến giáng lâm để lấp đầy các hình tướng ấy từ bầu F
lại giám sát cơ tiến hóa của hình tướng trong Cuộc tuần hoàn thứ
nhì; lớp xuất phát từ bầu E giám sát cơ tiến hóa tương tự trong Cuộc
tuần hoàn thứ ba còn lớp xuất phát từ bầu D giám sát cơ tiến hóa
tương tự trong Cuộc tuần hoàn thứ tư
[[7]].
Hơn nữa chúng tôi thấy có một số Tinh quân
xuất phát từ bầu E cũng hoạt động trên Hỏa tinh trong Cuộc tuần hoàn
thứ tư, còn các Tinh quân xuất phát từ bầu D sau này mới hoạt động
trên Trái đất.
Khi bắt đầu biệt phái những sinh linh đầu
tiên thuộc cõi Niết Bàn Liên hành tinh thì chuyến tàu đầu tiên mang
theo nhóm Tuyến cùng với đại đa số những con thú xuất phát từ bầu D
của Dãy Nguyệt tinh; mỗi chuyến tàu nối tiếp nhau cách khoảng chừng
100 ngàn năm thế rồi luồng tiếp tế ấy ngưng lại tiếp theo sau là một
thời kỳ bao la, trong khi đó những kẻ mới di cư, những kẻ tiên phong
xung quanh lên Dãy hành tinh trái đất; theo đuổi cuộc hành trình dài
của các Cuộc tuần hoàn thứ nhất và thứ nhì cũng như một phần Cuộc
tuần hoàn thứ ba.
Thế giới lúc ấy thật kỳ lạ giống như những
cuộn xoáy bị đánh nháo nhào lên, Trái đất vốn là vật rắn chắc nhưng
lại nóng bỏng, đầy bùn lầy, dính xềnh xệch và nhiều phần lãnh thổ
của nó dường như không bám chặc được vào đâu. Nó cứ sôi sùng sục và
thay đổi độ dính kết liên tục; những thảm họa bao la nhận chìm đại
đa số sinh linh thỉnh thoảng xảy ra một lần mà vào tình trạng phôi
thai thì việc nhận chìm ấy cũng không có kết quả tồi tệ lắm, chỉ gia
tăng và nhân bội lên các sinh linh sống dưới những hang động khổng
lồ cũng giống như thể chúng sống trên mặt đất.
Cuộc tuần hoàn thứ nhất của Dãy Trái đất có
các bầu hành tinh ở cùng mức với Cuộc tuần hoàn thứ bảy của Dãy
Nguyệt tinh; Bầu A ở trên cõi thượng trí có một số vật chất hơi được
kích hoạt một chút; bầu B ở trên cõi Hạ trí; bầu C trên cõi xúc
động, bầu D trên cõi trần, bầu E lại ở trên cõi xúc động, bầu F ở
trên cõi hạ trí, bầu G ở trên cõi thượng trí. Trong Cuộc tuần hoàn
thứ nhì, toàn thể Dãy hành tinh giáng xuống một mức, có ba bầu ở
trên cõi trần: G, D và E, tuy nhiên các sinh linh trên đó đều có
hình tướng làm bằng chất dĩ thái giống như cái bao bánh bột, tạm
mượn hình dung từ văn vẻ của Bà H.P. Blavatsky. Các bầu C và E mà
nay ta gọi là Hỏa tinh và Thủy tinh vào thời ấy có vật chất của cõi
trần nhưng ở trạng thái thể khí cháy bỏng.
Cơ thể con người trên Trái đất trong Cuộc
tuàn hoàn thứ nhất giống như con a míp, giống như đám mây trôi nổi,
hầu như bằng chất dĩ thái cho nên tị nhiệt,
chúng sinh sôi nảy
nở theo kiểu trực phân. Chúng dường như nối tiếp nhau thành các
Giống dân nhưng không có từng kiếp lâm phàm riêng biệt, mỗi hình
tướng chỉ kéo dài trong thời khoảng một Giống dân. Không có sự sinh
ra và sự chết; chúng thừa hưởng tính bất tử giống như con a míp và
được chăm sóc bởi các Nguyệt tinh quân đã đạt quả vị La hán trên bầu
G. Có một số vật trôi nổi bằng chất dĩ thái có vẻ muốn ra sức mơ làm
loài thực vật nhưng không được thành công lắm.
Loài khoáng
vật ít nhiều rắn chắc hơn vì nó từ Mặt trăng, phần lớn là như mưa đá
rớt xuống trái đất trong tình trạng chảy lỏng; nhiệt độ có lẽ vào cở
3.500 độ C. Vì đồng ở tình trạng hơi đồng và đồng bốc hơi trong lò
điện ở nhiệt độ ấy. Ta thấy rõ có chất Silicon nhưng hầu hết các
chất đều là tiền nguyên tố chứ chưa phải nguyên tố và dường như rất
hiếm có những sự hòa hợp giống như ngày nay; bao quanh trái đất là
những khối hơi khổng lồ chắn nhiệt cho nên trái đất nguội đi rất
chậm. Ở vùng cực có loại đất bùn đang sôi sùng sục và nói chung nó
cũng bị lắng đọng xuống để rồi sau vài ngàn năm sẽ xuất hiện một lớp
váng màu xanh lục vốn là loài thực vật hoặc có lẽ nói cho chính xác
hơn thì sau này nó sẽ trở thành loài thực vật.
CUỘC TUẦN HOÀN THỨ NHÌ
Trong Cuộc
tuần hoàn thứ nhì thì nhiệt độ trên bầu D đã giảm đi đáng kể, đồng
đã nguội đi và trở thành chất lỏng, có nơi trở thành chất đặc. Gần
vùng Cực đã có đất liền, nhưng nếu ta đào lỗ thì lửa lại bùng lên
giống như một số nơi ở hai bên cạnh của vùng hình nón Vesuvius. Đám
tạo vật hình bao bánh bột dường như chẳng đếm xỉa gì tới nhiệt mà
thản nhiên trôi bồng bềnh, nhắc ta nhớ tới hình dáng của những
thương binh cụt giò và bộ quân phục được cắt may xung quanh thân
hình; một cơn gió thổi tạo ra một sự đánh dấu răng cưa, nó từ từ
được lấp đầy trở lại giống như thịt của một người bị bệnh thủy
thủng; phần trước của tạo vật ấy có một miếng để mút mà nó dùng để
lùa thức ăn vào trong mình, nó bám lấy nhau và mút lấy mút để dường
như thể mút một cái trứng qua một cái lỗ thủng nối vỏ trứng khiến
cho kẻ bị mút bị chảy xệ ra rồi chết; ta lưu ý thấy có một cuộc đấu
tranh trong đó mỗi bên cắm chặt miệng mút vào bên kia rồi mút lấy
mút để. Chúng có một loại tay chân lả lướt giống như tay chân của
một con hải cẩu, chúng biết tạo ra một tiếng động giống như tiếng
kèn líu lo nghe vui tai để biểu diễn sự khoái lạc – khoái lạc nói
chung là một loại cảm thấy dễ chịu còn đau đớn nói chung là khó chịu
chứ không đến nỗi đau buốt, chỉ hơi hơi thích thú và không thích
thú. Da chúng đôi khi có hình răng cưa và có nhiều sắc thái. Về sau
này chúng tương đối ít vô định hình hơn và mang hình người nhiều
hơn, bò lê trên mặt đất giống như những con sâu. Mãi về sau này ở
gần vùng Bắc cực trên mỏm đất ở đó, các tạo vật này mới phát triển
ra tay và chân, mặc dù vẫn không thể đứng thẳng được và đã thông
minh hơn nhiều. Người ta quan sát thấy một Nguyệt tinh quân – một vị
La hán đã thành chánh quả trên bầu F của Dãy Nguyệt tinh, ngài từ
điển hóa một hòn đảo và chăn dắt một đám tạo vật trên đó, nhắc ta
nhớ tới những con hải ngưu hoặc cá heo mặc dù chưa có cái đầu rõ
rệt; ngài dạy cho chúng biết gặm cỏ thay vì mút lẫn nhau và khi
chúng mút lẫn nhau thì chúng biết chọn bộ phận này để mút hơn bộ
phận kia dường như thể đã phát triển dược vị giác. Cái chỗ lõm dùng
làm miệng mút đâm sâu hơn thành ra một loại cái phễu và có một cái
bao tử bắt đầu phát triển, nó nhanh chóng lộn từ trong ra ngoài nếu
có chất lạ nào lọt vào bao tử mà nó không ưa. Các sinh vật này lộn
ngược từ trong ra ngoài mà dường như chẳng nảy ra điều gì tồi tệ. Bề
mặt trái đất vẫn còn rất bấp bênh, đôi khi chúng cũng bị bỏng hoặc
cháy xém một phần; dĩ nhiên chúng chẳng thích như vậy, và nếu tình
trạng diễn biến tồi hơn thì chúng cũng bị suy sụp. Bầu khí quyển
nặng nề khiến cho phương pháp di chuyển thông dụng của chúng là trôi
nổi và thấy vậy chứ còn dễ chịu hơn khi chứng kiến chúng oằn oại
trên mặt đất khiến ta nhớ tới những con sâu róm dễ sợ. Việc sinh sôi
nảy nở là bằng cách đâm chồi, một khối u xuất hiện tăng trưởng, một
lúc sau thì nó bị ngắt rời để sống một kiếp độc lập.
Trí thông minh của chúng y như con nít, người ta thấy có một sinh
vật rút mỏ vào con bên cạnh tính mút và khi mút hụt mục tiêu đã mút
trúng phần ở bên dưới của chính
mình rồi cứ tiếp tục khoái chí mút đi mút lại cho đến lúc có lẽ là
đến lúc hết hứng thú thì lại nhả chính mình ra. Có một sinh vật đồng
loại lăn bộ phận bên dưới của mình trong bùn rồi nổi lên thẳng đứng
thay vì nằm sóng soài và có vẻ rất hảnh diện về bản thân. Dần dần
thì cái đầu mút có chứa cái phễu cũng bị
thuôn thuôn
đi khá nhiều và có một trung tâm nho nhỏ xuất hiện trong đó để rồi
trong những thời đại vị lai xa xăm, nó có thể trở thành bộ óc. Có
một khối u nhỏ xuất hiện tạo ra thói quen đi chúi về phía trước với
khối u chỉa ra dường như mang theo cái miệng khiến cho các tác động
thường xuyên ảnh hưởng lên miệng xúc tiến việc phát triển.
Trong
thời kỳ này đời sống thực vật cũng phát triển và được trợ giúp bởi
bầu khí quyển nặng nề khó thở; rừng rú cũng phát triển nhưng rất
giống thảo nguyên cao tới 40 bộ Anh và cũng rậm rạp tương ứng. Chúng
mọc ở dưới bùn lầy ấm áp và cực kỳ hưng thịnh.
Vào lúc cuối
thời kỳ này thì một số vùng của trái đất đã hoàn toàn rắn chắc và
chỉ hơi âm ấm thôi. Có nhiều đường nứt chằng chịt, xét theo biểu
kiến là do trái đất bị co rút lại và mỗi ngọn đồi là một núi lửa
đang hoạt động.
Hỏa tinh trở
nên rắn chác hơn, nguội đi nhanh hơn vì kích thước nó nhỏ hơn nhưng
sự sống trên Hỏa tinh rất giống sự sống trênTrái đất.
CUỘC TUẦN HOÀN THỨ BA
Trong Cuộc
tuần hoàn thứ ba, Hỏa tinh hoàn toàn rắn chắc và một số con thú bắt
đầu phát triển, mặc dù thoạt tiên trông chúng khá giống như những
khúc gỗ cồng kềnh, những lọn gỗ đã được cưa xẻ. Chúng nhắc ta nhớ
tới những bức phác họa mà trẻ con vẽ ra khi chưa học vẽ; nhưng theo
thời gian có những sinh linh rõ rệt là người, mặc dù giống khỉ đột
hơn là giống người.
Địa hình lúc
bấy giờ khác hẳn địa hình của Hỏa tinh mà ta biết hiện nay. Không có
vấn đề nước vì khoảng chừng 3/4 bề mặt là nước và chỉ có1/4 là đất
liền. Vì thế cho nên không có kênh đào như ngày nay và tình hình vật
lý nói chung rất giống như tình thế hiện nay trên Trái đất.
Những người
bắt đầu bằng sự biểu lộ tuyến tính của thể thượng trí vào lúc này đã
phát triển được một dạng Rỗ lưới thô sơ mà chúng tôi nhận thấy thô
thiển hơn dạng Rỗ lưới đã được phát triển trên Mặt trăng. Khi đã đạt
tới giai đoạn này thì nhóm Rỗ lưới trên Mặt trăng bắt đầu tràn vào
và những chuyến tàu ấy lại được Đức Chủng Bàn Cổ gửi đi tới Trái
đất.
Khi xem xét
cõi Niết bàn Liên hành tinh để truy nguyên việc nhóm Rỗ lưới giáng
lâm xuống Hỏa tinh, chúng tôi đạt tới một điều thú vị. Những cái kệ
để chứa những củ giống ấy rõ ràng làm bằng vật chất cõi Thượng trí;
nhưng các củ giống được mang theo trong hào quang của Đức Chủng Bàn
Cổ phải được đưa ngang qua cõi tinh thần cho nên Rỗ lưới làm bằng
vật chất trí tuệ ở Mặt trăng phải bị tan rã và cần được tái tạo trở
lại trước khi các thực thể này bắt đầu đời sinh hoạt trên trái đất.
Chúng ắt ngủ im hằng thời đại trên cõi tinh thần để rồi lại khoác
lấy Rỗ lưới, làm bằng vật chất trí tuệ tương đương trên trái đất.
Giữa các Dãy hành tinh không có sự liên tục về chất trí tuệ. Cố
nhiên ta có thể bỏ qua khoảng cách vì Dãy địa cầu chiếm cùng một vị
trí trong không gian so với Dãy Nguyệt tinh nhưng, sự không liên tục
về vật chất trí tuệ khiến ta cần phải làm phân rã rồi tái tổ hợp
những thể thượng trí dạng Rỗ lưới.
Chúng tôi thấy
một Đức Bàn Cổ ghé thăm Hỏa tinh với một chuyến tàu gồm nhóm Rỗ lưới
nhắc chúng tôi nhớ tới những câu chuyện trong Kinh Puranas của Ấn Độ
băng qua đại dương trong một chiếc tàu mang theo hạt giống của một
thế giới mới cũng như những câu chuyện ghi chép lại về ông Noah của
dân Hebrew, bảo tồn trong chiếc bè tất cã những gì cần thiết để cho
Trái đất có trở lại cư dân sau trận lụt. Các huyền thoại được bảo
tồn trong các Kinh điển của tôn giáo thường là những câu chuyện bao
hàm những điều ghi chép về quá khứ, và Đức Bàn Cổ quả thật có giáng
lâm xuống Hỏa tinh để ban một xung lực mới cho cơ tiến hóa. Khi đến
Hỏa tinh Ngài lập nên một kiều dân gồm những người thuộc nhóm Rỗ
lưới ở nơi ấy.
Khi truy
nguyên nhóm người đặc biệt này tức là nhóm đầu tiên thuộc loại Rỗ
lưới đến Dãy hành tinh Trái đất, chúng tôi thấy rằng họ xuất phát từ
bầu G của Dãy Nguyệt tinh, và đã trở thành nhóm Rỗ lưới ở trên đó.
Họ là nhóm kém tiến hóa nhất trong tập thể nhóm Rỗ lưới vì là nhóm
cuối cùng đạt tới trình độ này; Đức Bàn Cổ hướng dẫn họ sinh trưởng
trong những gia đình đầy triển vọng nhất thuộc Giống dân thứ ba trên
Hỏa tinh và khi họ trưởng thành thì ngài dẫn họ đi tới vùng mà họ
trở thành kiều dân nơi họ nhanh chóng phát triển thành ra dân số của
Giống dân thứ tư. Ở vùng kiều dân này thiên hạ di chuyển theo một ý
chí trung tâm giống như những con ong trong một tổ ong, ý chí trung
tâm ấy là của Đức Bàn Cổ; ngài phóng ra những thần lực để điều khiển
tất cả. Hai nhóm Rỗ lưới khác giống như loài ong dã đến với Hỏa
tinh, những nhóm này đạt tới trình độ ấy trên bầu E và F của Dãy
Nguyệt tinh; họ đến nơi theo thứ tự ngược lại với thứ tự rời Mặt
trăng, những người xuất phát từ bầu F tạo thành Giống dân thứ tư
trên Hỏa tinh, còn những người xuất phát từ bầu E tạo thành Giống
dân thứ năm. Họ phát triển một số tình cảm và trí thông minh nhờ sự
chăm sóc bảo dưỡng của Đức Bàn Cổ; thoạt tiên sống trong hang động,
chẳng bao lâu sau họ bắt đầu biết xây nhà và dạy cho thổ dân ở đó
xây nhà dưới quyền của mình, ngay cả ở mức tiến hóa này thì nhóm Rỗ
lưới đã thành những kẻ chỉ huy.
Những người
này vốn thư hùng lưỡng tính, nhưng một giới tính này thường phát
triển nhiều hơn giới tính kia và cần có hai cá thể để sinh sôi nảy
nở. Các dạng sinh dục khác cũng tồn tại trong loại người thấp kém và
có một số người phôi thai thuộc loại hải xà sinh sôi nảy nở bằng
cách đâm chồi và những người khác bằng cách rịn mồ hôi ra trong khi
một số khác lại có trứng. Nhưng các cách sinh sản này không có trong
đám Rỗ lưới.
Trong Giống
dân thứ năm, trật tự xã hội đã thay đổi vì người ta phát triển trí
thông minh nhiều hơn; hệ thống đàn ông biến mất, nhưng chúng vẫn có
chút ít cá tính và đúng hơn di chuyển thành từng bầy đàn do Đức Bàn
Cổ chăm sóc. Những Rỗ lưới được đan bện kín mít hơn và biểu diễn
điều có thể thực hiện qua sự sống đang phát triển nơi những kẻ chủ
yếu là thân lập thân, không được trợ giúp do sự kích thích lớn lao
trong Cuộc tuần hoàn thứ tư nhờ vào các Hỏa Đức Tinh quân. Loại
người di chuyên theo bầy đàn đa số vẫn còn được đại diện trong đám
chúng ta qua những người bám lấy những ý tưởng bảo thủ theo qui ước
bởi vì người khác cũng bám lấy chúng và họ hoàn toàn bị bà Grundy
khống chế. Đây thường là những người rất tốt, nhưng ngoan ngoãn như
bầy cừu và có tính bầy đàn, họ sống đơn điệu dễ sợ. Trong nhóm họ
cũng có sự khác nhau nhưng đó là sự khác nhau giữa những người mua
trà thơm từng 1/4 cân Anh hoặc theo từng ounce mà chỉ có họ mới nhận
ra được.
Ta quan sát
thấy có loại Rỗ lưới dữ tợn, không sống trong cộng đồng mà đi lang
thang trong rừng rậm thành từng cặp, đầu họ trút lên thành một điểm
ở phía đằng sau khớp với cái cằm ở phía đằng trước và đầu họ tận
cùng bằng hai điểm trông thật kỳ cục và chẳng hấp dẫn chút nào. Họ
chiến đấu bằng cách húc đầu vào nhau như những con dê đỉnh đầu có
xương rất cứng. Cũng có một loại còn thấp hơn nữa là loài bò sát kỳ
lạ sống trên cây. Chúng to con hơn loại Tuyến nhưng kém thông minh
hơn nhiều và khi có cơ hội là ăn thịt nhóm Tuyến.
Trên Hỏa tinh
cũng có một số con thú ăn thịt; ta thấy một con thú khổng lồ giống
như cá sấu kịch liệt tấn công một người, y cầm cây chùy xông vào nó
nhưng đây dường như là một vũ khí không hiệu lực lắm. Song le y vấp
vào một tảng đá cho nên rơi tõm vào hàm con thú, thế là sớm đi đời
nhà ma.
Cuộc tuần hoàn thứ ba trên Trái đất rất
giống ở trên Hỏa tinh, thiên hạ nhỏ con hơn và rắn chắc hơn, nhưng
theo quan điểm hiện nay của chúng ta thì loài người vẫn còn khổng lồ
và giống như khỉ đột. Đa số nhóm Rỗ lưới xuất phát từ bầu D thuộc
Dãy Nguyệt tinh đã đến Trái đất trong Cuộc tuần hoàn này và lãnh đạo
cơ tiến hóa của loài người; nhóm Rỗ lưới xuất phát từ Hỏa tinh bị
tụt hậu so với nhóm kia và toàn bộ giống như những con khỉ đột khá
thông minh. Loài thú có rất nhiều vảy và ngay cả những tạo vật mà ta
gọi là chim thì cũng có nhiều vảy hơn là lông vũ; tất cả đều dường
như làm bằng một lố những mảnh vụn được ghép vào nhau nửa chim nửa
bò sát trông chẳng hấp dẫn chút nào. Thế nhưng trái đất vẫn còn hơi
giống một thế giới hơn là các bầu hành tinh trước kia, thật vậy
giống hơn bất cứ bầu hành tinh nào mà chúng ta chứng kiến từ khi rời
Mặt trăng để rồi kiến tạo những đô thị sau này. Công việc của các
Nguyệt tinh quân – trong Cuộc tuần hoàn này, họ là những vị La hán
xuất phát từ bầu E – giống như viên huấn luyện những con thú nhiều
hơn là viên dẫn dắt loài người tiến hóa. Nhưng ta có thể lưu ý thấy
rằng có thể nói là họ hoạt động theo từng tiểu đội với những thể xác
khác nhau và những thể tinh vi khác nhau. Cảnh thứ ba của các cõi
hồng trần; trung giới và trí tuệ đặc biệt phát triển, còn những loa
tuyến của các nguyên tử trên những cảnh này lại được khơi hoạt
[[8]]
.
Các phương
pháp sinh sôi nảy nở trên trái đất trong Cuộc tuần hoàn thứ ba là
những phương pháp hiện nay chỉ hạn chế cho các giới hạ đẳng trong
thiên nhiên. Trong các giống dân thứ nhât và thứ nhì vẫn chưa hoàn
toàn rắn chắc thì sự trực phân vẫn còn xảy ra, nhưng trong Giống dân
thứ ba trở đi thì các phương pháp như sau: nảy mầm ra, giống như
loài rắn biển nơi nhóm sinh vật có tổ chức kém cõi hơn; xuất tiết
các tế bào từ những cơ quan khác nhau trong cơ thể, nó sinh sản ra
những cơ quan tương tự rồi tăng trưởng thành một bản sao tí hon của
sinh vật tổ phu; đẻ trứng và con người phôi thai phát triển bên
trong đó. Đây là nhóm thư hùng lưỡng tính và dần dần một giới tính
chiếm ưu thế, nhưng chẳng bao giờ đủ mạnh để biểu diễn dứt khoát là
phái nam hay phái nữ.
Việc làn sóng sinh hoạt di chuyển từ bầu
này sang bầu khác vốn từ từ và có sự chồng chéo đáng kể; ta nên nhớ
rằng bầu A của Dãy trái đất bắt đầu hình thành khi bầu A của Dãy
Nguyệt tinh đang tan rã, việc Chơn linh của bầu xuất ra là dấu hiệu
của sự chuyển đổi hoạt động
[[9]].
Như vậy hoạt
động sống vốn liên tục mặc dù các chơn ngã có thời gian nghỉ ngơi
lâu dài. Một bầu chuyển sang giai đoạn hoại không khi THƯỢNG ĐẾ
không còn chú tâm tới nó nữa và do đó Ánh sáng của Ngài được triệt
thoái. Nó chuyển sang một loại hôn mê và chỉ còn lại tàn dư của các
sinh linh; trong thời kỳ này số lượng các sinh linh ấy dường như
không tăng lên. Nhưng khi các Giống dân đã bị diệt vong, các Chơn
ngã cư ngụ nơi các giống dân ấy đã chuyển đi hết thì bầu hành tinh
trở thành môi trường cho cuộc Nội Tuần hoàn, là nơi chốn mà các chơn
ngã trong trạng thái chuyển tiếp có thể được di dời đến đó nhằm làm
tăng trưởng nhanh chóng cơ tiến hóa theo kiểu săn sóc đặc biệt. Bầu
hành tinh mà Đức THƯỢNG ĐẾ lại chú ý tới bắt đầu sinh hoạt, để rồi
tiếp nhận các luồng Chơn ngã sẵn sàng tiến bước trên cuộc hành
hương.
Có một điều
khác nữa mà ta cần lưu ý là sự hồi qui của các loại hình ở mức tiến
hóa cao hơn, trong đó chúng chỉ tạo thành những giai đoạn chuyển
tiếp. Cũng giống như sự phát triển phôi thai con người thời nay, có
xuất hiện các loại hình cá, bò sát và động vật hữu nhũ hạ đẳng vốn
lập lại trong vài tháng sự tiến hóa a tăng kỳ kiếp trong quá khứ;
cũng vậy trong mỗi Cuộc tuần hoàn ta thấy rằng có một thời kỳ lập
lại xảy ra trước thời kỳ tiến bộ mới thêm. Cuộc tuần hoàn thứ ba
triển khai tỉ mỉ và cần mẫn những gì Giống dan thứ ba trong Cuộc
tuần hoàn thứ tư sẽ mô phỏng lại một cách tương đôi nhanh chóng,
trong khi Giống dân thứ nhì cũng được phản ảnh tương tự nơi Cuộc
tuần hoàn thứ nhì, và Giống dân thứ nhất được phản
ảnh hai nơi Cuộc tuần hoàn thứ nhất. Một khi ta lĩnh hội được
nguyên tắc chung thì việc nghiên cứu trở nên dễ dàng hơn vì bức phác
họa đã rõ ràng chỉ cần điền thêm vào những chi tiết thích hợp.
[[2]]
Ta không được lẫn lộn Đức Căn Bàn Cổ Vaivasvata với Đức Bàn
Cổ Vaivasvata của Căn chủng Aryen. Đức Căn Bàn Cổ là một
Đấng cao cả hơn nhiều mà ta thừa hiểu theo phát biểu về cơ
tiến hóa dài dằng dặc của Ngài ngay trong đoạn này.
[[3]]
Ta phải nhớ rằng khi một người đã thành chính quả trên Dãy
hành tinh mà mình tiến hóa ở đó thì ngài có thể ở lại trên
đó tiếp tục tiến hóa thêm nữa trên cương vị là một Cao đồ,
hiện nay trên bầu hành tinh của ta, Ngài có thể đạt tới quả
vị cao hơn trong Quần Tiên Hội mà không cần rời bỏ trái đất.
[[5]]
Trong Giáo Lý Bí Truyền các thuật ngữ Manasaputras chẳng
những được dùng để chỉ các Đấng này mà còn được dùng để chỉ
mọi Chơn ngã đã đủ tiên tiến để kích hoạt mầm mống trí tuệ
nơi các sinh linh khác, giống như hiện nay ta có thể kích
thích trí khôn của loài vật. Như vậy thuật ngữ này bao gồm
một lớp sinh linh lớn lao thuộc đủ mọi trình độ tiến hóa.
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS