Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

THẾ NÀO LÀ THÔNG THIÊN HỌC

HAY MINH TRIẾT THIÊNG LIÊNG?

Annie Besant


THẾ NÀO LÀ THÔNG THIÊN HỌC

HAY MINH TRIẾT THIÊNG LIÊNG?
         Dưới h́nh thức hiện nay của nó, Thông Thiên Học ra đời từ năm 1.875 nhưng nó đă có từ khi nhơn loại biết suy tư. Trên thế giới, nó được gọi dưới nhiều tên khác nhau, nhưng tựu trung nó chỉ có một ư nghĩa.

Sự chấn hưng Thông Thiên Học trong thời đại chúng ta nhằm ngăn chận sự phát triển tai hại của thuyết duy vật ở các quốc gia tiên tiến.

Khoa học càng bành trướng th́ nó càng ch́m sâu trong duy vật v́ các nhà khoa học cho rằng trí óc con người bất lực, không thể t́m hiểu sự tuyệt đối. Một học thuyết được lan truyền sâu rộng cho rằng con người chỉ có thể biết ở ngoại cảnh những ǵ mà giác quan cung cấp hay do lư trí suy luận từ những điều quan sát được. Họ quả quyết không có một phương tiện hiểu biết nào khác. Nói cách khác, theo họ, con người không sao hiểu biết được sự sống vĩnh cửu và thâm diệu, nguồn gốc và mục đích của nó và các vấn đề liên hệ đến Thượng Đế, sự trường cửu và linh hồn.

Tâm trạng ấy cũng được phổ biến ở Á Đông nhứt là những xứ chịu ảnh hưởng Tây phương và c̣n toan lan tràn khắp thế giới. V́ vậy, các Đấng Cao Cả xét đă đến lúc phải chấn hưng Chơn lư xưa dưới một h́nh thức mới mẻ hợp với trào lưu tiến hóa.

Trong quá khứ sở dĩ các tôn giáo lần lượt ra đời là để đáp ứng lại các nhu cầu của mỗi thế hệ. Vào thời đại chúng ta, mỗi người cần biết rằng các tôn giáo đều phổ biến các chơn lư giống nhau, rằng chúng là những nhánh nhóc của một đại thọ duy nhứt, và v́ thế mà căn bản chung của các tôn giáo phải được giải thích một cách sâu rộng.

Sự khảo sát quá khứ với những phế tích, sự sưu tầm của các nhà khảo cổ, sự nghiên cứu cổ văn thuộc các nền văn minh xưa, các kết quả của những cuộc khai quật và sự phiên dịch các cổ tự, tất cả đều chứng minh một cách chắc chắn rằng giáo lư căn bản của các tôn giáo đều giống nhau, rằng ở các xứ cùng một mức tiến, các nền luân lư cũng in hệt, rằng đời sống của các vị Giáo chủ có nhiều điểm tương đồng, cho đến các việc cúng tế, lễ nghi, tế tự đều hàm súc một tinh hoa duy nhứt.

Nhiều người đồng ư về điểm nầy nhưng lại căn cứ trên đặc điểm đó để đả kích các tôn giáo; họ cho rằng chúng là sản phẩm của sự dốt nát và sẽ bị tiêu diệt khi nào nhơn loại hiểu biết nhiều hơn.

Thái độ của các giới Tây phương là như thế vào lúc Thông Thiên Học (Théosophia) ra đời. Thông Thiên Học chính là Minh Triết Thiêng liêng. Lúc ban đầu v́ nó hoạt động ở Mỹ và ở Anh nên nó dùng một danh từ Hi Lạp để tự gọi. Danh từ đó là Théosophia mà các phái tân học thuyết Platon đă dùng một thời gian sau đấng Ki Tô để gọi sự Minh Triết Thiêng liêng. Sau đó danh từ ấy được phổ biến ở các giới triết học huyền môn nên hàm súc nhiều ư nghĩa đối với các học giả Tây phương.

Nếu chúng ta lùi sâu hơn trong dĩ văng, chúng ta gặp một danh từ đồng nghĩa ở Ấn Độ, đó là chữ Phạn Brahma Vidya. Brahma là Trời và Vidya là Minh Triết. Thế là Brahma Vidya có nghĩa là Minh Triết Thiêng Liêng. Phạn ngữ c̣n có chữ Paravidya là Minh Triết Tối Thượng.

Một Đại sư một hôm được một đệ tử hỏi thế nào là sự hiểu biết. Ngài đáp rằng có hai sự hiểu biết, một thứ thấp và một thứ cao. Tất cả những điều hiểu biết thông thường như khoa học, mỹ thuật, văn chương, kinh sách cho đến thánh thư Vệ đà, tất cả những môn đó đều thuộc thứ hiểu biết thấp. Chỉ có sự hiểu biết Đấng Duy Nhứt sáng tạo vạn vật mới là sự hiểu biết cao. Đó là ư nghĩa của Thông Thiên Học, sự hiểu biết Trời, sự hiểu biết Thượng Đế, nguồn cội của sự sống trường tồn.

Như vậy, trái với sự quả quyết của các nhà khoa học, tôn giáo không phải là sản phẩm của sự dốt nát mà là kết quả của sự hiểu biết thiêng liêng. Tôn giáo chẳng qua là những con đường hướng dẫn con người đến Thượng Đế. Chúng là nguyện vọng của linh hồn hướng về thiêng liêng, của con người t́m hiểu Thượng Đế.

Các bạn thử dở một quyển sách sử kư, các bạn thử t́m hiểu một văn minh hay thử thám hiểm Tây phương hay Đông phương cho đến tận góc biển chân trời, đâu đâu quí vị cũng để ư thấy sự khao khát Thượng Đế của nhơn loại. Đó là một tiếng kêu gọi tha thiết được một thi sĩ diễn tả bằng những lời cảm động: “Con nai tơ không sao quên ḍng suối trong, con cũng thế, con không sao không nghĩ đến Ngài, hỡi Thượng Đế mến yêu!”. Giordano Bruno cũng nói lên một ư niệm tương tự khi ông sánh sự khao khát Thượng Đế với sức mạnh của ḍng nước ngày đêm tuôn chảy để trở về mức độ b́nh thường.

Nếu bạn muốn biết, biết một cách rơ ràng chớ không phải ước mong, tưởng niệm mà thôi, biết với một niềm tin không lay chuyển, th́ bạn hăy t́m Đấng Thánh Linh không phải ở ngoài bạn mà ở trong bạn. Bạn đừng gặp nhà khoa học, họ không chỉ bảo ǵ được ngoài những luật thiên nhiên bất biến; bạn đừng hỏi nhà thần học, họ chỉ lư luận suông mà thôi; bạn cũng không thể nào nhờ các nghệ sĩ tuy họ diễn tả rất khéo vẻ đẹp của Thượng Đế; bạn cũng không nên thảo luận với các triết gia, họ chỉ đưa ra những luận cứ trừu tượng. Bạn hăy hướng vào trong chớ đừng quay ra ngoài, bạn hăy tiến sâu vào ḷng bạn và t́m ở buồng tim của bạn sự mầu nhiệm rất đáng cho bạn khám phá, và chỉ ở đó và ở đó mà thôi, bạn mới có thể t́m ra Thượng Đế. Và khi bạn t́m được Ngài, bạn sẽ thấy rằng tất cả trong vũ trụ đều ca tụng sự vinh quang của Ngài và bạn sẽ thấy Ngài ở khắp nơi.

Đó là Chơn lư căn bản, chơn lư của các chơn lư. Đó là Minh Triết Thiêng Liêng mà chúng ta gọi là Thông Thiên Học.

 

* * * *

Thông Thiên Học c̣n tŕnh bày hai lư thuyết quan trọng khác.

Thuyết thứ nhứt là sự hiện diện của Thượng Đế ở khắp nơi và trong vạn vật. Đó là một chơn lư xưa nhưng bị quên lăng ở Tây phương v́ thế mà khi chơn lư ấy được giảng dạy ở giảng đường Cơ Đốc, nó có vẻ mới lạ. Chơn lư ấy được ghi trong nhiều kinh sách xưa. Bạn hăy dở quyển Bhagavad Gita: “Không có chi di động và bất động mà nó có thể hiện tồn nếu không có Ta”. Hoặc:“Đă dựng lên vũ trụ với một phần của Ta, Ta tồn tại nơi đây”.

Nếu chúng ta quay về tư tưởng hiện đại, chúng ta cũng thấy ư niệm ấy. Ví dụ văn hào Tennyson không ngớt kêu gọi bản chất thiêng liêng ở ḷng ông tiến lên ḥa hợp với Đấng Thiêng Liêng tối thượng. Ông quả quyết:

 

Ngài gần với tôi hơn hơi thở,

Hơn cả chân tôi và hơn cả tay tôi.

 

Như vậy, Thượng Đế vô sở bất tại, không một h́nh hài nào, một sắc tướng nào mà không có Ngài bên trong.

 

* * *

Lư thuyết căn bản thứ nh́ là hậu quả của lư thuyết thứ nhứt và không thể tách rời ra. Đó là sự liên đới giữa vạn vật. Nếu có một sự sống, một tâm thức duy nhứt, nếu Thượng Đế hiện diện trong mọi sắc thái th́ vạn vật, nghĩa là các sắc tướng đều liên hệ mật thiết với nhau. Khi ta biết Thượng Đế vô sở bất tại th́ ta không sao bác bỏ t́nh tương thân tương ái, t́nh huynh đệ đại đồng. Nếu Thượng Đế có mặt ở khắp cùng th́ một điều ác do một người làm sẽ ảnh hưởng tới toàn thể. Nơi nào có sự sống, có sắc tướng là có Thượng Đế. Trong sự kết hợp mật thiết đó, không có chi có thể tách riêng rẽ, và do đó sự đoàn kết phải là căn bản của đạo đức. Bạn không thể làm hại một người nào mà không làm hại cho chính bạn, cũng như bạn không khi nào uống một chén thuốc độc mà thứ thuốc đó không chạy vào máu, vào tế bào, vào trọn thân thể bạn.

Đó là hai lư thuyết căn bản của Tôn giáo và Đạo đức mà Thông Thiên Học hiện đại cố gắng biểu dương.

Tôi có nói các tôn giáo là những phương pháp nhằm giúp con người kiếm t́m Thượng Đế. Tại sao phải có nhiều Tôn giáo như thế? Là v́ sở thích của mỗi người mỗi khác. Tánh t́nh con người khác nhau th́ lẽ tất nhiên là nhu cầu không thể giống nhau. Chúng ta ở vào những nấc khác nhau của chiếc thang tiến hóa. Trong chúng ta có những người anh cả và cũng có người em út. Chơn lư đâu đâu cũng là một mà cách thức phát biểu th́ hằng trăm. Những ai đă hiểu hai lư thuyết nói trên đều chấp nhận quan điểm nầy và ước mong các tôn giáo dù xưa hay nay đều được phổ biến rộng răi, v́ mỗi tôn giáo là một phương pháp đào luyện con người và người toàn thiện phải thực hiện được các điều chí thiện dạy ở tôn giáo ấy. Chúng ta không nên tiếc rẻ sự khác biệt, trái lại chúng ta mừng mà thấy rằng chơn lư phong phú đến đỗi nó có thể tŕnh bày dưới nhiều khía cạnh khác nhau và khía cạnh nào cũng cao đẹp. Mỗi tôn giáo mang lại cho nhơn loại một thông điệp và thông điệp nào cũng quí.

Về phương diện nầy, Thông Thiên Học là một sứ giả ḥa b́nh. Tại sao chúng ta lại gây gổ nhau? Thượng Đế là trung tâm và từ ṿng tṛn bên ngoài bất cứ ở chỗ nào, chúng ta cũng có thể tiến đến Ngài theo một chiều hướng riêng; các tôn giáo cũng thế, chúng tuy khác nhau nhưng đều dẫn đến Ngài.

Một giáo chủ dạy: “Nhơn loại đến với Ta bằng nhiều con đường và dù họ theo con đường nào, khi họ đến th́ Ta cũng đón tiếp nồng hậu v́ các con đường đó là của Ta”.

Một tôn giáo cũng nói: “Các con đường dẫn đến Thượng Đế nhiều như hơi thở của trẻ con”.

V́ con người khác nhau nên một món ăn bổ dưỡng cho người nầy lại không giúp được người kia; như vậy, ai chọn thức ăn nào tùy ư, dưới danh từ nào cũng được. B́nh đựng nước, h́nh dáng khác nhau nhưng nước bên trong không khác th́ ai dùng b́nh nào cũng được. Người th́ ưa b́nh Hi Lạp xinh xắn, người lại thích b́nh Ai Cập đơn sơ, kẻ khác nữa th́ dùng b́nh vàng của vua chúa hay uống nước trong bụm tay; việc đó không quan trọng, quan trọng là việc đỡ khát. Vậy sự căi vă về b́nh lớn, b́nh nhỏ, b́nh đẹp, b́nh xấu nào có ích ǵ v́ b́nh nào cũng chứa nước được.

Vị trí của Thông Thiên Học trong phạm vi tôn giáo là thế. Nó quả quyết rằng các tôn giáo đều tốt và đều dạy những điều cao siêu nên học, rằng những sự khác biệt giữa các tôn giáo phải được sử dụng để mở rộng kiến thức nhơn loại thay v́ để kích bác lẫn nhau.

 

Triết Lư

Thông Thiên Học chẳng những là nền tảng của tôn giáo và luân lư mà c̣n là triết lư của sự sống v́ nó nghiên cứu nhiều vấn đề liên hệ đến sự sống mà chúng ta sẽ đề cập sau nầy khi chúng ta nói đến đẳng cấp hữu h́nh và vô h́nh không ngớt hoạt động trong không gian. Chúng ta sẽ bàn đến luật tiến hóa và luân hồi nhằm giúp cho nhơn loại tiến đến chỗ chí thiện, chí mỹ và luật nhân quả nó liên kết chặt chẽ mọi sự vật.

Về sự cấu tạo thế giới, Thông Thiên Học xem sự sống là chánh, c̣n sắc tướng h́nh hài là phụ. Theo nó, sắc tướng là kết quả các kinh nghiệm, là những biểu hiện của sự sống. Tư tưởng, t́nh cảm và sự sống theo một số khoa học gia là sản phẩm của một cơ cấu vật chất nào đó, c̣n Thông Thiên Học quả quyết rằng sự sống là nguyên nhân của các cơ cấu đó. Nhà khoa học trứ danh William Crookes, người kế vị giáo sư Tyndall ở hội Phát triển Khoa học Anh, quan niệm sự tiến hóa khác hẳn ông nầy. Giáo sự Tyndall cho rằng vật chất là mầm mống của sự sống, c̣n ông W. Crookes th́ tuyên bố rằng chính sự sống tạo mọi h́nh hài. Quan niệm của W. Crookes là quan điểm của Thông Thiên Học.

Làm sao sự sống đào tạo h́nh hài? Bằng quyền năng của tư tưởng. Với quyền năng nầy con người đào tạo vận mệnh ḿnh và khai thác thiên nhiên bằng sự hiểu biết. Như thế, Thông Thiên Học duy tâm v́ nó xem vật chất là dụng cụ của sự sống và sử dụng tư tưởng như một quyền năng sáng tạo.

 

Khoa Học

Một phạm vi quan trọng của tư tưởng là khoa học. Khoa học quan sát sự việc, sắp xếp, suy luận và đặt ra định luật. Trong sự hỗn độn của hiện tượng, nó tái lập vũ trụ trong trật tự. Mọi sai biệt quan trọng giữa khoa học tân tiến và Thông Thiên Học là khoa học nghiên cứu từng bộ phận của toàn thể, chỉ biết có những hiện tượng hữu h́nh và những sự kiện khác do khối óc và giác quan chuyển đến. V́ vậy, nó thường lầm lạc. Trong việc sưu tầm, khoa học chỉ biết dùng giác quan và những máy móc tinh vi nhưng nó không tin một điều ǵ không được khối óc chấp nhận, cả sự giải thích những giấc chiêm bao hay hiện tượng xuất thần.

Đành rằng một vài khoa học gia như William Crookes tin rằng có một tâm thức rộng hơn là tâm thức của khối óc, như Oliver Lodge cho rằng tâm thức của khối óc sánh với toàn thể tâm thức chẳng qua là phần dưới nước của con thuyền sánh với toàn thể chiếc thuyền. Khoa học không tin quan niệm nầy mặc dầu nó biết có nhiều sự kiện tế nhị cho đến đỗi giác quan con người không quan sát được dù với khí cụ chính xác và mạnh nhứt. Vị trí của khoa học hiện nay giống như vị trí của một nhà thực vật học khi nghiên cứu một cây sen trong hồ: ông chỉ đếm và vẽ tỉ mỉ lá và hoa nhô khỏi mặt nước, c̣n thân cây, rễ cây th́ ông không hiểu biết ǵ cả.

Thông Thiên Học cũng là một khoa học nhưng nó quan niệm vũ trụ là một biểu hiện của tư tưởng và nghiên cứu nó trong toàn thể chớ không phải từ bộ phận một và trong tất cả trạng thái chớ không giới hạn trong phạm vi hữu h́nh mà thôi. Khoa học huyền môn xác nhận sự hiện tồn của nhiều thứ vật chất tế nhị hơn dĩ thái và các vật chất nầy ḥa hợp nhau để dựng lên vũ trụ mà chúng ta có thể quan sát, nghiên cứu và t́m hiểu.

Con người không hề bị giới hạn trong thế giới hữu h́nh. Thông Thiên Học xác nhận rằng nhơn loại đă tiến hóa đến mức mà một số người có thể khai mở các giác quan mới hầu quan sát những hiện tượng tế nhị hơn là hiện tượng thông thường để phát hiện nhiều định luật c̣n ẩn tàng trong vũ trụ. Quan năng thông minh và tri giác, ngoài giác quan phàm tục, c̣n có thể nhờ vào các giác quan sắc bén, tế nhị và tinh nhạy hơn. Các giác quan mới nầy sẽ giúp cho khoa học phát triển tầm hoạt động của nó và đi đến những kết luận cao siêu hơn.

Những kết quả mà Thông Thiên Học đă thu thập được nhờ các giác quan mới chưa được chấp nhận là đúng với sự thật nhưng có thể xem như là những giả thuyết chưa kiểm chứng song đáng t́m hiểu và kinh nghiệm.

Mỗi khoa học đều có phương pháp của nó. Nếu ta muốn học khoa thiên văn, giáo sư sẽ hỏi ta có học toán chưa và nếu chúng ta chưa học, giáo sư sẽ bảo chúng ta học toán trước. Một thuyền trưởng có thể lái con thuyền theo những sách về môn hàng hải tuy rằng anh không thể làm ra những sách nầy. Anh chưa biết (theo nghĩa tuyệt đối) nhưng anh tin các sách ấy đúng.

Các kết quả mà chúng tôi đă thu hoạch cũng thế. Người ta có thể sử dụng nó như là những điểm tựa trong việc khảo cứu cá nhân và chỉ có những người đă được chuẩn bị mới có thể kiểm chứng.

Trong mọi ngành khoa học nếu sinh viên muốn tự ḿnh hiểu biết tận gốc, anh phải có th́ giờ và khả năng, trái lại anh phải chấp nhận các lời chỉ bảo của các nhà bác học. Ngành nào cũng đặt những điều kiện tiên quyết: nhà thực vật học phải biết quan sát, nhạc sĩ phải thính tai v. v. . . , khoa huyền môn cũng thế, nó đ̣i hỏi một thể xác, một thể vía và một thể trí tinh luyện v́ chúng ta phải có những dụng cụ hoàn toàn thanh khiết nếu chúng ta muốn khảo cứu các cơi trên vô cùng tế nhị. Trong viễn vọng kính hay kiếng hiển vi nếu mặt kiếng dơ th́ h́nh không rơ. Trong khoa huyền môn cũng thế, những dục vọng và tư tưởng ô uế là những mối trở ngại quan trọng. Người trọng trược không thể khảo sát hay tiến sâu vào các cơi trên một cách an toàn.

Thông Thiên Học hay Minh Triết Thiêng Liêng là thế. Trong phạm vi tôn giáo, triết lư và khoa học, nó có nhiều kiến thức mới mẻ, linh động, sáng sủa mà nó sẵn sàng hiến cho những ai muốn t́m hiểu chính ḿnh và những sự vật chung quanh. Ở phạm vi tôn giáo và luân lư, nó đặt những căn bản vững vàng; trên b́nh diện triết lư, nó giải thích nhiều vấn đề khó khăn đă giày ṿ biết bao tâm hồn; về khoa học, nó vạch những phương pháp mới nhằm đạt những tri thức mới và chỉ cách phải làm thế nào để phát hiện những sự kiện mới trong thiên nhiên phong phú. Nó c̣n giải thích sự bất b́nh đẳng giữa con người. Nhờ thế cuộc đời hiện ra dễ hiểu.

Như vậy, Thông Thiên Học chẳng những đă đặt các nguyên lư căn bản cho đời sống mà c̣n hiến cho chúng ta những lư tưởng cao cả để giúp chúng ta vươn lên khỏi sự nghèo nàn, đau khổ và lỗi lầm. Bởi v́ lỗi lầm, đau khổ và nghèo nàn là kết quả của vô minh. Vô minh là nguồn cội tội lỗi. Trên cái thế giới đau khổ của chúng ta, trên các sự chống đối giữa đảng phái, trên các trận giặc giữa quốc gia, trên các cuộc cách mạng đẫm máu, trên nạn nghèo đói cơ hàn, trên sự lo lắng của người thất nghiệp không phương thế nuôi con, nuôi vợ, trên các tiếng khóc của những người đàn bà bị đuổi xô, của những cô gái bị bội bạc, của những đứa trẻ mồ côi; trên các đau khổ ấy, có một sự phúc lạc chờ đón mọi người. Đau khổ phát sanh từ sự vô minh: chúng sẽ bớt lần lần khi sự hiểu biết của chúng ta mở rộng.

Cái Ta thật của mỗi người mà ta gọi là Chơn Ngă, là linh hồn trường cửu mà bản chất là An lạc v́ Thượng Đế là an lạc.

Các đau khổ là những điều mà chính chúng ta đă tạo ra, và chúng ta phải diệt nó. Là những điểm linh quang của Thượng Đế, bạn có thể chuyển biến các hoàn cảnh đau khổ do bạn tạo nên v́ tinh thần có thể chủ trị vật chất. An lạc, hạnh phúc là đời sống đương nhiên của bạn. Bạn được sanh trong sự an lạc và chỉ ở tạm trong cảnh khổ để học những điều mà phúc lạc không thể dạy và để cuối cùng nó trở về với sự an lạc, là di sản tinh thần của bạn.

Đó là quan niệm của Minh Triết Thiêng Liêng.

Các đau khổ của bạn phát sanh từ vô minh và sẽ tan dần với ánh sáng của Minh Triết v́ Phúc lạc là thuộc bản chất của bạn.

Bạn từ nó ra đi và sẽ trở về với nó.

 

HUỲNH VĂN TUẤT dịch -- Trích ÁNH ĐẠO  số 20, năm 1971.


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS