Thiền là một yếu
tố nền tảng của giáo lư bí truyền dành cho bất kỳ ai thực sự dấn
thân vào đời sống tâm linh. Tôi cảm thấy may mắn khi t́nh cờ bước
vào lĩnh vực này mà không hề được đào tạo trước đây. May mắn v́ tôi
không mang theo hành trang ư tưởng của người khác để định h́nh trải
nghiệm của ḿnh. Tôi đă được làm quen với thiền định sau một thời
gian dài trải nghiệm, kéo dài hàng tuần. Măi sau này tôi mới biết
đến nó như một h́nh thức thiền định. Giống như một số bậc thầy vĩ
đại đă cố gắng truyền đạt, trạng thái thiền định thực sự không phụ
thuộc vào tư thế, cơ thể đang chuyển động hay đứng yên, địa điểm hay
mức độ hoạt động. Chắc chắn ở giai đoạn thiền định, tất cả những
điều kiện này đều có tác dụng riêng, nhưng dường như chúng không
liên quan đến trải nghiệm thực tế. Nếu lời khuyên của Krishna dành
cho Arjuna là đúng, th́ ngay cả giữa chiến trường, khi đang chiến
đấu để giành giật sự sống, trạng thái thiền định vẫn có thể xảy ra.
Trong
những lần đầu làm quen với nó, tôi thấy dễ dàng đạt được trạng thái
này hơn khi ngồi hoặc đi bộ, nhưng cũng có thể duy tŕ trạng thái
này khi đi xe buưt hoặc tṛ chuyện. Tôi đă thử kiểm tra xem ḿnh có
thể duy tŕ trạng thái này khi chơi bóng rổ hay không. Vận động thể
chất ở cường độ cao như vậy, tôi không thể làm được. Mặc dù tôi chắc
chắn rằng có những người mà tâm trí tĩnh lặng không bị ảnh hưởng
trong mọi điều kiện, nhưng lúc đó tôi không phải là một trong số họ. Một
trong những điều rơ ràng về trải nghiệm thiền định là, dù chúng ta
mô tả nó như thế nào, th́ nó cũng định líu đến việc làm cho những
làn sóng tư tưởng yên tĩnh(still); làm dịu đi (quiet) sự bận tâm của
chúng ta vào việc tạo ra và tương tác với những tư tưởng.
Trong
suốt cuộc đời ḿnh, ông Krishnamurti đă đưa ra nhiều b́nh luận về
thiền định là ǵ và không phải là ǵ. Một trong những điều ông nói
là để hiểu được cái vô lượng cần một tâm trí phi thường, tĩnh
(still) và lặng (quiet). V́ vậy, ư tưởng về thiền định là một chuyển
động vào cái vô lượng, dẫn đến sự hiểu biết, đ̣i hỏi sự tĩnh, lặng.
Ông cũng lên tiếng phản đối mạnh mẽ thiền định như một phương pháp
hay luyện tập (luyện tập mang tính lập lại). Ông phản đối ư tưởng
cho rằng khuôn phép và điều kiện đem đến hiệu quả trong quá tŕnh
giải phóng tâm trí. Đối với ông, việc luyện thiền định khiến chúng
ta trở nên máy móc. Thiền định thực hiện như thế không phát xuất từ
tự do, mà từ kỷ luật (khuôn phép, máy móc).
Ông
Krishnamurti là một người theo chủ nghĩa tuyệt đối, nghĩa là ông
không khoan nhượng khi nói từ cấp độ tâm thức mà ông đang sống. Từ
góc nh́n đó, việc luyện tập có thể không cần thiết, nhưng nó vẫn
không phải là không liên quan. Mặc dù bản thân việc luyện tập không
phải là trạng thái thiền định hay tự do, nhưng nó tạo điều kiện cho
những khoảnh khắc thấu hiểu của tuệ giác đi đến giải thoát. Luyện
tập âm nhạc không cho chúng ta thành một nhạc sĩ, dù là âm nhạc hay
thiền định, chỉ khi chúng ta vượt qua mức độ luyện tập đơn thuần và
thật sự dấn thân, toàn tâm toàn trí mới trải nghiệm được chiều sâu
của nó Lời
khuyên về thiền định thường được chia thành hai loại: (1) hướng tiếp
cận tích cực, khẳng định, và (2) hướng tiếp cận tiêu cực. Trong "Sơ
đồ Thiền" được cho là của bà Blavatsky, bà tŕnh bày hai cực của
thực hành thiền định này và kết hợp chúng thành một. Trong sơ đồ đó,
bà phác thảo hai loại: Thu thập (Acquisitions) - hoạt động tích cực
của việc đạt được các trạng thái tâm thức, và buông bỏ
(Deparvations) - sự phủ định các điều kiện giới hạn của tâm thức.
Việc hoàn thành Thu thập dẫn đến một tâm thức thừa nhận "Ta là tất
cả không gian và thời gian". Không có sự giam hảm hay giới hạn nào
cả. Sự
buông bỏ liên quan đến việc từ chối suy nghĩ về thực tại của những
cuộc gặp gỡ và chia ly, của cải, cá nhân, sự phân biệt bạn và thù,
và cảm giác. Sự hoàn thành giai đoạn này dẫn đến việc nhận ra rằng
"Tôi không có thuộc tính"(vô ngă), sự phủ nhận hoàn toàn mọi thứ mà
chúng ta nghĩ là một bản ngă. "Không có ǵ", không c̣n ǵ để xác
định danh tính của một người. (Rũ bỏ hoàn toàn, không c̣n cái tôi-
vô ngă.) Trong
Phật giáo, tập trung vào hai hoạt động thiền định. Một hoạt động
kích hoạt tâm trí. Hoạt động kia làm tĩnh lặng tâm trí. Có thiền
"phân tích", trong đó chúng ta đưa tâm trí vào việc phân tích những
ư tưởng cao siêu về đấng thiêng liêng, về bản chất của chính ḿnh,
hoặc về con đường dẫn đến tự do. Đây là hoạt động của jñana yoga,
hay yoga của tri thức. Khi tâm trí trở nên năng động trong quá tŕnh
này, những khoảnh khắc xảy ra khi chúng ta đạt đến đỉnh cao của một
ḍng tư tưởng và không thể đi xa hơn. Tâm trí đă dẫn dắt chúng ta
đến một tầm cao mà chức năng phân tích không c̣n tác dụng nữa. Chính
tại thời điểm này, thiền định tập trung trở thành công cụ của chúng
ta. Khi
những trải nghiệm như vậy nảy sinh trong giai đoạn phân tích này,
một thứ ǵ đó giống như một khoảng trống xuất hiện. Trong những
khoảnh khắc đó, tâm trí trở nên tĩnh lặng, bởi v́ lúc đó chúng ta đă
làm tất cả những ǵ có thể. Không c̣n ǵ để suy nghĩ của chúng ta có
thể thêm vào. Nó đă dẫn chúng ta đến một khoảng không chỉ có thể
được lấp đầy ‘sự vắng mặt liên tục của hoạt động’ -bằng thiền định
tập trung. Việc
thực hành bhakti trong yoga thường được mô tả là sự tự trút bỏ bản
thân thông qua ḷng sùng kính, t́nh yêu và sự tôn kính đối với đấng
thiêng liêng. Khi mọi thứ được tuôn đổ trong t́nh yêu và sự sùng
kính đối với đấng thiêng liêng, nó cũng làm trống rỗng bản ngă của
mỗi người. Trong không gian đó, điều mà Krishnamurti mô tả là vô
lượng là t́m thấy cội nguồn của tâm thức của chúng ta (tâm thức
hướng vào trong là Sự Sống). Kinh Thánh có mô tả về một cách để
thiền định hoặc cầu nguyện. Kinh Thánh khuyên rằng khi thiền định,
"hăy vào căn pḥng riêng (hay nội tâm) của bạn, đóng cửa lại và
hướng về Cha của bạn, Đấng đang ẩn náu trong bí mật". Chúng ta bước
vào căn pḥng nội tâm của tâm thức chúng ta, theo một số truyền
thống mô tả là "hang động của trái tim", và hướng về Cha, điều mà
Krishna mô tả là "Đấng cai trị nội tâm bất tử". Bà Blavatsky mô tả
Cha theo cách này: "Cha trên trời", bản chất thần thánh mà chúng ta
nhận thức được bên trong ḿnh, trong tâm hồn và tâm thức tinh thần
của chúng ta".
Trong "căn pḥng riêng" của tâm thức chúng ta, với cánh cửa giác
quan khép lại với thế giới bên ngoài, chúng ta tự kết nối bản thân
với "Cha". Có
một lời khuyên của HPB trả lời câu hỏi "Thiền là ǵ?", bà nói rằng
thiền là "Niềm khao khát không diễn tả được của con người bên trong
hướng đến cái vô hạn". Là một lời khuyên, nó không phải là thứ để
người ta có thể xây dựng một cách thực hành, mà là lời nói của một
người đă có trải nghiệm sâu sắc về thiền là ǵ. Nó là dấu hiệu cho
thấy cả hai thiền là ǵ và những ǵ không phải là thiền. Niềm khao
khát nuôi dưỡng quá tŕnh này không thể được diễn đạt bằng bất kỳ
cách nào. Niềm khao khát vô biên này cũng hướng đến một sự phủ định
khác, là cái Vô hạn. Khao
khát là ham muốn tha thiết xóa bỏ cảm giác chia cắt, chia rẽ, chia
ly. Chúng ta không thể khao khát một điều ǵ đó mà ḿnh hoàn toàn
không biết ǵ về nó. Trong những câu chuyện như Ramayana và
Maha-bharata, chúng ta t́m thấy những câu chuyện mang tính biểu
tượng về các vị vua lưu vong. Những bậc vĩ nhân đă từng cai trị các
vương quốc, giờ đây thấy ḿnh bị chia cắt khỏi quê hương, dấn thân
vào cuộc hành tŕnh và đấu tranh để trở về. Cái Ngă Nội Tâm (Inner
Self không phải là cái phàm ngă self) khao khát được trở về trạng
thái toàn thể ban đầu, và tất cả những ǵ điều đó có thể mang lại. Thiền
định là một trong những con đường trở về nhà.
Trong thơ Sufi, họ nói về sự chia cắt
giữa người yêu và người được yêu, cũng như nhu cầu mănh liệt được
đoàn tụ. Nỗi khao khát không thể diễn tả của ‘Bản ngă Bên Trong’
(không phải phàm ngă self) không ám chỉ những ham muốn của cá nhân.
Không phải chúng ta muốn những điều tốt đẹp hơn hay những thời gian
tươi đẹp hơn. Chúng ta đều biết khao khát là ǵ, nhưng đây chính là
khao khát của Bản ngă Nội Tâm. Tâm thức cốt lơi, Bản ngă Cao Hơn của
mỗi chúng ta, thấy ḿnh bị tách biệt khỏi biểu hiện cao nhất, chân
thực nhất của nó, trong trạng thái bị giam hăm trong tất cả những
giới hạn mà cá nhân đặt ra cho sự biểu hiện của nó. Nó khao khát sự
trở lại của vương quyền vốn có, thoát khỏi sự giam hăm và giới hạn.
Mặc dù trong cuộc sống thường nhật, nó có xu hướng bị che phủ, chế
ngự, thậm chí bị chối bỏ. Chính nỗi khao khát này thúc đẩy chúng ta
hướng tới con đường tâm linh, thúc đẩy chúng ta cố gắng trải nghiệm
những trạng thái tĩnh lặng. Nó thúc đẩy chúng ta tạo ra những điều
kiện để tâm trí không c̣n làm gián đoạn kết nối của chúng ta với
nguồn cội của chúng ta.
ΩΩΩΩΩ
Hăy ôm chặt Ta
bằng cả trái tim và tâm trí. Như vậy, con sẽ chắc chắn ở cùng Ta
trên cao. Nhưng nếu tư tưởng ngươi chùn bước trước tầm cao ấy; nếu
con yếu đuối không thể đặt trọn thân xác và tâm hồn vào Ta, th́ đừng
tuyệt vọng. Hăy phục vụ Ta ở mức thấp hơn. Hăy t́m cách đến gần Ta,
thờ phượng với ư chí kiên định.
Shri Krishna