Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

Tham Thiền - Tim Boyd

Vol. 146.7, April 2025 The Theosophist

 Bản Dịch www.thongthienhoc.com

Tham Thiền - Tim Boyd

Thiền là một yếu tố nền tảng của giáo lư bí truyền dành cho bất kỳ ai thực sự dấn thân vào đời sống tâm linh. Tôi cảm thấy may mắn khi t́nh cờ bước vào lĩnh vực này mà không hề được đào tạo trước đây. May mắn v́ tôi không mang theo hành trang ư tưởng của người khác để định h́nh trải nghiệm của ḿnh. Tôi đă được làm quen với thiền định sau một thời gian dài trải nghiệm, kéo dài hàng tuần. Măi sau này tôi mới biết đến nó như một h́nh thức thiền định. Giống như một số bậc thầy vĩ đại đă cố gắng truyền đạt, trạng thái thiền định thực sự không phụ thuộc vào tư thế, cơ thể đang chuyển động hay đứng yên, địa điểm hay mức độ hoạt động. Chắc chắn ở giai đoạn thiền định, tất cả những điều kiện này đều có tác dụng riêng, nhưng dường như chúng không liên quan đến trải nghiệm thực tế. Nếu lời khuyên của Krishna dành cho Arjuna là đúng, th́ ngay cả giữa chiến trường, khi đang chiến đấu để giành giật sự sống, trạng thái thiền định vẫn có thể xảy ra.

 Trong những lần đầu làm quen với nó, tôi thấy dễ dàng đạt được trạng thái này hơn khi ngồi hoặc đi bộ, nhưng cũng có thể duy tŕ trạng thái này khi đi xe buưt hoặc tṛ chuyện. Tôi đă thử kiểm tra xem ḿnh có thể duy tŕ trạng thái này khi chơi bóng rổ hay không. Vận động thể chất ở cường độ cao như vậy, tôi không thể làm được. Mặc dù tôi chắc chắn rằng có những người mà tâm trí tĩnh lặng không bị ảnh hưởng trong mọi điều kiện, nhưng lúc đó tôi không phải là một trong số họ. Một trong những điều rơ ràng về trải nghiệm thiền định là, dù chúng ta mô tả nó như thế nào, th́ nó cũng định líu đến việc làm cho những làn sóng tư tưởng yên tĩnh(still); làm dịu đi (quiet) sự bận tâm của chúng ta vào việc tạo ra và tương tác với những tư tưởng.  Trong suốt cuộc đời ḿnh, ông Krishnamurti đă đưa ra nhiều b́nh luận về thiền định là ǵ và không phải là ǵ. Một trong những điều ông nói là để hiểu được cái vô lượng cần một tâm trí phi thường, tĩnh (still) và lặng (quiet). V́ vậy, ư tưởng về thiền định là một chuyển động vào cái vô lượng, dẫn đến sự hiểu biết, đ̣i hỏi sự tĩnh, lặng. Ông cũng lên tiếng phản đối mạnh mẽ thiền định như một phương pháp hay luyện tập (luyện tập mang tính lập lại). Ông phản đối ư tưởng cho rằng khuôn phép và điều kiện đem đến hiệu quả trong quá tŕnh giải phóng tâm trí. Đối với ông, việc luyện thiền định khiến chúng ta trở nên máy móc. Thiền định thực hiện như thế không phát xuất từ tự do, mà từ kỷ luật (khuôn phép, máy móc).  Ông Krishnamurti là một người theo chủ nghĩa tuyệt đối, nghĩa là ông không khoan nhượng khi nói từ cấp độ tâm thức mà ông đang sống. Từ góc nh́n đó, việc luyện tập có thể không cần thiết, nhưng nó vẫn không phải là không liên quan. Mặc dù bản thân việc luyện tập không phải là trạng thái thiền định hay tự do, nhưng nó tạo điều kiện cho những khoảnh khắc thấu hiểu của tuệ giác đi đến giải thoát. Luyện tập âm nhạc không cho chúng ta thành một nhạc sĩ, dù là âm nhạc hay thiền định, chỉ khi chúng ta vượt qua mức độ luyện tập đơn thuần và thật sự dấn thân, toàn tâm toàn trí mới trải nghiệm được chiều sâu của nó Lời khuyên về thiền định thường được chia thành hai loại: (1) hướng tiếp cận tích cực, khẳng định, và (2) hướng tiếp cận tiêu cực. Trong "Sơ đồ Thiền" được cho là của bà Blavatsky, bà tŕnh bày hai cực của thực hành thiền định này và kết hợp chúng thành một. Trong sơ đồ đó, bà phác thảo hai loại: Thu thập (Acquisitions) - hoạt động tích cực của việc đạt được các trạng thái tâm thức, và buông bỏ (Deparvations) - sự phủ định các điều kiện giới hạn của tâm thức. Việc hoàn thành Thu thập dẫn đến một tâm thức thừa nhận "Ta là tất cả không gian và thời gian". Không có sự giam hảm hay giới hạn nào cả. Sự buông bỏ liên quan đến việc từ chối suy nghĩ về thực tại của những cuộc gặp gỡ và chia ly, của cải, cá nhân, sự phân biệt bạn và thù, và cảm giác. Sự hoàn thành giai đoạn này dẫn đến việc nhận ra rằng "Tôi không có thuộc tính"(vô ngă), sự phủ nhận hoàn toàn mọi thứ mà chúng ta nghĩ là một bản ngă. "Không có ǵ", không c̣n ǵ để xác định danh tính của một người. (Rũ bỏ hoàn toàn, không c̣n cái tôi- vô ngă.) Trong Phật giáo, tập trung vào hai hoạt động thiền định. Một hoạt động kích hoạt tâm trí. Hoạt động kia làm tĩnh lặng tâm trí. Có thiền "phân tích", trong đó chúng ta đưa tâm trí vào việc phân tích những ư tưởng cao siêu về đấng thiêng liêng, về bản chất của chính ḿnh, hoặc về con đường dẫn đến tự do. Đây là hoạt động của jñana yoga, hay yoga của tri thức. Khi tâm trí trở nên năng động trong quá tŕnh này, những khoảnh khắc xảy ra khi chúng ta đạt đến đỉnh cao của một ḍng tư tưởng và không thể đi xa hơn. Tâm trí đă dẫn dắt chúng ta đến một tầm cao mà chức năng phân tích không c̣n tác dụng nữa. Chính tại thời điểm này, thiền định tập trung trở thành công cụ của chúng ta. Khi những trải nghiệm như vậy nảy sinh trong giai đoạn phân tích này, một thứ ǵ đó giống như một khoảng trống xuất hiện. Trong những khoảnh khắc đó, tâm trí trở nên tĩnh lặng, bởi v́ lúc đó chúng ta đă làm tất cả những ǵ có thể. Không c̣n ǵ để suy nghĩ của chúng ta có thể thêm vào. Nó đă dẫn chúng ta đến một khoảng không chỉ có thể được lấp đầy ‘sự vắng mặt liên tục của hoạt động’ -bằng thiền định tập trung. Việc thực hành bhakti trong yoga thường được mô tả là sự tự trút bỏ bản thân thông qua ḷng sùng kính, t́nh yêu và sự tôn kính đối với đấng thiêng liêng. Khi mọi thứ được tuôn đổ trong t́nh yêu và sự sùng kính đối với đấng thiêng liêng, nó cũng làm trống rỗng bản ngă của mỗi người. Trong không gian đó, điều mà Krishnamurti mô tả là vô lượng là t́m thấy cội nguồn của tâm thức của chúng ta (tâm thức hướng vào trong là Sự Sống). Kinh Thánh có mô tả về một cách để thiền định hoặc cầu nguyện. Kinh Thánh khuyên rằng khi thiền định, "hăy vào căn pḥng riêng (hay nội tâm) của bạn, đóng cửa lại và hướng về Cha của bạn, Đấng đang ẩn náu trong bí mật". Chúng ta bước vào căn pḥng nội tâm của tâm thức chúng ta, theo một số truyền thống mô tả là "hang động của trái tim", và hướng về Cha, điều mà Krishna mô tả là "Đấng cai trị nội tâm bất tử". Bà Blavatsky mô tả Cha theo cách này: "Cha trên trời", bản chất thần thánh mà chúng ta nhận thức được bên trong ḿnh, trong tâm hồn và tâm thức tinh thần của chúng ta". Trong "căn pḥng riêng" của tâm thức chúng ta, với cánh cửa giác quan khép lại với thế giới bên ngoài, chúng ta tự kết nối bản thân với "Cha". Có một lời khuyên của HPB trả lời câu hỏi "Thiền là ǵ?", bà nói rằng thiền là "Niềm khao khát không diễn tả được của con người bên trong hướng đến cái vô hạn". Là một lời khuyên, nó không phải là thứ để người ta có thể xây dựng một cách thực hành, mà là lời nói của một người đă có trải nghiệm sâu sắc về thiền là ǵ. Nó là dấu hiệu cho thấy cả hai thiền là ǵ và những ǵ không phải là thiền. Niềm khao khát nuôi dưỡng quá tŕnh này không thể được diễn đạt bằng bất kỳ cách nào. Niềm khao khát vô biên này cũng hướng đến một sự phủ định khác, là cái Vô hạn. Khao khát là ham muốn tha thiết xóa bỏ cảm giác chia cắt, chia rẽ, chia ly. Chúng ta không thể khao khát một điều ǵ đó mà ḿnh hoàn toàn không biết ǵ về nó. Trong những câu chuyện như Ramayana và Maha-bharata, chúng ta t́m thấy những câu chuyện mang tính biểu tượng về các vị vua lưu vong. Những bậc vĩ nhân đă từng cai trị các vương quốc, giờ đây thấy ḿnh bị chia cắt khỏi quê hương, dấn thân vào cuộc hành tŕnh và đấu tranh để trở về. Cái Ngă Nội Tâm (Inner Self không phải là cái phàm ngă self) khao khát được trở về trạng thái toàn thể ban đầu, và tất cả những ǵ điều đó có thể mang lại. Thiền định là một trong những con đường trở về nhà. Trong thơ Sufi, họ nói về sự chia cắt giữa người yêu và người được yêu, cũng như nhu cầu mănh liệt được đoàn tụ. Nỗi khao khát không thể diễn tả của ‘Bản ngă Bên Trong’ (không phải phàm ngă self) không ám chỉ những ham muốn của cá nhân. Không phải chúng ta muốn những điều tốt đẹp hơn hay những thời gian tươi đẹp hơn. Chúng ta đều biết khao khát là ǵ, nhưng đây chính là khao khát của Bản ngă Nội Tâm. Tâm thức cốt lơi, Bản ngă Cao Hơn của mỗi chúng ta, thấy ḿnh bị tách biệt khỏi biểu hiện cao nhất, chân thực nhất của nó, trong trạng thái bị giam hăm trong tất cả những giới hạn mà cá nhân đặt ra cho sự biểu hiện của nó. Nó khao khát sự trở lại của vương quyền vốn có, thoát khỏi sự giam hăm và giới hạn. Mặc dù trong cuộc sống thường nhật, nó có xu hướng bị che phủ, chế ngự, thậm chí bị chối bỏ. Chính nỗi khao khát này thúc đẩy chúng ta hướng tới con đường tâm linh, thúc đẩy chúng ta cố gắng trải nghiệm những trạng thái tĩnh lặng. Nó thúc đẩy chúng ta tạo ra những điều kiện để tâm trí không c̣n làm gián đoạn kết nối của chúng ta với nguồn cội của chúng ta.

ΩΩΩΩΩ

Hăy ôm chặt Ta bằng cả trái tim và tâm trí. Như vậy, con sẽ chắc chắn ở cùng Ta trên cao. Nhưng nếu tư tưởng ngươi chùn bước trước tầm cao ấy; nếu con yếu đuối không thể đặt trọn thân xác và tâm hồn vào Ta, th́ đừng tuyệt vọng. Hăy phục vụ Ta ở mức thấp hơn. Hăy t́m cách đến gần Ta, thờ phượng với ư chí kiên định.

Shri Krishna


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS