|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
TÂM THỨC BỒ ĐỀ
(BUDDHIC CONSCIOUSNESS)
Trích Quyển THỂ NGUYÊN NHÂN VÀ CHƠN NGĂ
Tác giả: ARTHUR E. POWELL Bản Dịch: Chơn Như |
|
CHƯƠNG XXXII
Xét v́ sự kiện cuộc Điểm đạo thứ Nhất có bao gồm việc trải nghiệm tâm thức
bồ đề, cho nên ta cần mở rộng những điều đă được tŕnh bày ở chương trước
kia liên quan tới bản chất của tâm thức trên cơi bồ đề.
Ta cũng chẳng cần nói cho học viên biết rằng mọi sự miêu tả tâm thức bồ đề
tất nhiên và cốt yếu là thiếu sót. Ta không thể dùng ngôn ngữ trần gian để
tŕnh bày hơn mức chỉ là nói bóng gió về tâm thức cao siêu, bởi v́ bộ óc
phàm không thể lĩnh hội được thực tại.
Thật khó mà có một quan niệm đúng mức ngay cả về các hiện tượng trên cơi
trung giới v́ trên cơi trung giới có bốn chiều đo. Ở cơi bồ đề có không ít
hơn sáu chiều đo sao cho những khó khăn hiển nhiên là được tăng cường ghê
gớm nơi ấy.
Có một sơ đồ rất tài t́nh (mà tác giả quyển sách này phải chịu ơn đối với
người vô danh đă thiết kế ra nó) được mô phỏng thành Sơ đồ XXXVIII, trang
279 vốn minh họa một cách sống động sự khác nhau căn bản giữa cơi bồ đề và
mọi cơi bên dưới nó.
Ta thấy sơ đồ bao gồm một số những cái cọc hoặc cái căm
chồng lấn lên nhau ở một mức độ nào
đấy. Mức độ chồng lấn lên nhau vốn khởi đầu của cơi Bồ đề.
Đầu mút của cái căm vốn biểu diễn tâm thức của con người trên cơi trần:
chúng vốn riêng rẽ và tách rời khỏi nhau. Khi đi theo những cái căm về tới
tận tâm điểm th́ ta thấy tâm thức trung giới mở rộng hơn một chút sao cho
tâm thức của những người riêng rẽ tiến lại gần nhau hơn nữa. Tâm thức hạ trí
lại tiến gần tới nhau hơn nữa, trong khi tâm thức thượng trí ở mức cao nhất
gặp nhau ở một
điểm nơi bắt đầu tâm thức bồ đề.
Sơ đồ XXXVIII. Tính Đơn
nhất trong sự Đa dạng
Bây giờ ta ắt thấy rằng tâm thức bồ đề của mỗi ‘con người’ cá thể và riêng
rẽ chồng lấn lên tâm thức riêng rẽ khác ở mỗi bên phía cạnh của ḿnh. Đây là
một minh họa sống động về khía cạnh “chồng lấn” của tâm thức bồ đề nơi mà ta
trải nghiệm ư thức hiệp nhất với những người khác.
Khi tâm thức c̣n vươn cao nữa lên tới các cơi cao hơn th́ ta ắt thấy rằng nó
chồng lấn lên mỗi tâm thức ở kế cận nó nhiều hơn cho đến khi rốt cuộc đạt
tới tâm điểm th́ hầu như tâm thức được ḥa lẫn hoàn toàn. Tuy nhiên, mỗi cái
căm riêng rẽ vẫn c̣n tồn tại với cái hướng và dáng vẻ bên ngoài cá thể của
ḿnh. Khi nh́n ra ngoài, hướng về các cơi thấp th́ mỗi tâm thức nh́n theo
một hướng khác nhau, đó là một khía cạnh của tâm thức nhất như trung tâm.
Mặt khác, khi nh́n vào trong th́ các hướng phân ly này đều hội tụ và trở nên
hiệp nhất với nhau.
Ư thức hiệp nhất là đặc trưng của cơi bồ đề. Trên cơi này, mọi sự hạn chế
đều bắt đầu rơi rụng và tâm thức con người mở rộng cho tới khi y ngộ ra được
– không c̣n chỉ là lư thuyết suông nữa – tâm thức của đồng loại ḿnh được
bao gồm bên trong tâm thức chính ḿnh; y cảm nhận, hiểu biết và trải nghiệm
với một sự đồng cảm hoàn hảo về tất cả những ǵ vốn có nơi chúng bởi v́ đó
cũng quả thật là một bộ phận của chính y.
Trên cơi này, người ta biết – không phải chỉ do sự thẩm định bằng trí năng
mà do sự trải nghiệm trực tiếp – sự kiện nhân loại là huynh đệ v́ đằng sau
nó có sự đơn nhất tâm linh. Mặc dù y vẫn c̣n là chính ḿnh và tâm thức của y
vẫn c̣n là của riêng y, thế nhưng nó đă mở rộng ra tới mức đồng cảm hoàn
toàn với tâm thức của người khác đến nỗi y ngộ ra được rằng ḿnh quả thật
chỉ là một bộ phận của một tổng thể uy dũng.
Cũng giống như một chúng sinh đứng dưới ánh mặt trời được ánh nắng soi chiếu
tuôn đổ xuống ấy ắt không cảm thấy sự khác nhau giữa tia này với tia khác mà
tuôn đổ theo tia này cũng dễ dàng và thoải mái như theo tia khác; cũng vậy
một người trên cơi bồ đề cảm nhận
được t́nh huynh đệ và tuôn đổ cho bất kỳ ai cần tới sự giúp đỡ của ḿnh. Ở
đây ta thấy vạn vật cũng là chính ḿnh và cảm thấy rằng mọi thứ ḿnh có th́
người ta cũng có giống ḿnh và trong nhiều trường hợp cảm thấy người ta c̣n
nhiều hơn ḿnh, bởi v́ người ta cần nhiều hơn mà lại yếu đuối hơn ḿnh.
Cũng giống như yếu tố nổi bật nơi thể nguyên nhân là tri thức và cuối cùng
là minh triết; cũng vậy yếu tố nổi bật nơi tâm thức của thể bồ đề chính là
t́nh thương và cực lạc. Sự thanh thản của minh triết đặc trưng cho một đằng,
c̣n ḷng từ bi âu yếm nhất tuôn đổ ra không cạn kiệt theo đằng kia.
V́ thế cho nên thể bồ đề được môn đồ phái Vedanta gọi là Anandamayakosha,
tức lớp vỏ cực lạc. Đây là “ngôi nhà không do tay người dựng nên, vĩnh hằng
trên trời” mà bậc Điểm đạo đồ Ki Tô giáo là thánh Phao lô đă từng nói tới.
Ngài ca tụng ḷng từ ái, t́nh thương thuần khiết vượt trên mọi đức tính
khác, bởi v́ chỉ nhờ có nó th́ con người trên trần thế mới có thể đóng góp
vào chỗ vinh quang ấy. V́ lư do tương tự, tính chia rẽ được Phật tử gọi là
“đại tà thuyết”, c̣n “sự hiệp nhất” tức Yoga là mục tiêu của tín đồ Ấn giáo.
Một người ích kỷ không thể hoạt động trên cơi bồ đề v́ bản chất của cơi này
là sự đồng cảm và hoàn toàn thông cảm vốn loại trừ tính ích kỷ.
Có một sự liên kết mật thiết giữa các thể vía và thể bồ đề, theo một cách
thức nào đó thể vía vốn là phản ánh của thể bồ đề. Nhưng v́ vậy ta không
được giả sử rằng người ta có thể nhảy vọt từ tâm thức trung giới lên tâm
thức bồ đề mà không phát triển các hiện thể trung gian.
Mặc dù ở các mức cao nhất của cơi bồ đề con người trở nên hiệp nhất với mọi
người khác, nhưng không phải v́ vậy mà ta giả định rằng y cảm thấy giống như
mọi người khác. Thật vậy, không có lư do để giả định rằng ta bao giờ cũng
cảm thấy hoàn toàn giống nhau đối với mọi người. Đó là v́ ngay cả Đức Phật
cũng có đệ tử cưng là Ananda, c̣n Đức Ki Tô coi thánh John thân thương khác
với những tông đồ khác. Quả đúng là hiện nay người ta yêu thương mọi người
cũng giống như người nào thân thương nhất và gần gũi với ḿnh, nhưng vào lúc
ấy họ đă phát triển rồi v́ đối với những người thân thương nhất và gần gũi
nhất th́ hiện nay ta không có một loại t́nh thương nào để quan niệm được.
Trên cơi bồ đề không có sự chia rẽ. Như ta đă nói, trên cơi ấy tâm thức
không nhất thiết ḥa lẫn ngay tức khắc vào mức thấp nhất, nhưng chúng dần
dần trở nên rộng lớn hơn măi cho tới khi ta đạt tới mức cao nhất th́ con
người thấy ḿnh đă hợp nhất hữu thức với nhân loại. Ấy là mức thấp nhất mà ở
đó tính riêng rẽ hoàn toàn không tồn tại; xét đầy đủ ra th́
sự đơn nhất hữu thức với chúng
sinh lại thuộc về cơi Niết Bàn.
Đối với mỗi Chơn ngă nào có thể đạt tới trạng thái tâm thức này th́ dường
như là y đă hấp thụ hoặc bao hàm mọi thứ khác; y nhận thức rằng mọi thứ đều
là các phiến diện của một Tâm thức rộng lớn hơn; thật vậy, y đă đạt tới mức
ngộ ra được công thức cổ truyền: “Ngươi là Cái Đó”.
Ta ắt phải nhớ ra rằng, trong khi tâm thức bồ đề đưa người ta tới mức hiệp
nhất với mọi điều vinh quang và nhiệm mầu nơi người khác, thật vậy hiệp nhất
với chính các Chơn sư, thế nhưng nó cũng đưa y tới mức hài ḥa với kẻ c̣n
nhiều thói xấu và kẻ phạm tội ác. Người ta phải trải nghiệm những xúc cảm
của loại người thấp kém cũng như sự vinh quang rạng rỡ của sự sống cao siêu
hơn. Khi ta bỏ đi tính riêng rẽ và ngộ ra được tính đơn nhất th́ con người
ắt thấy rằng ḿnh ḥa lẫn với Sự Sống Thiêng Liêng, và thái độ yêu thương là
thái độ duy nhất mà ḿnh có thể chọn theo đối với bất cứ ai trong các đồng
loại cho dù họ là cao hay thấp.
Trong khi sống nơi thể nguyên nhân, một Chơn ngă đă nhận ra được Tâm thức
Thiêng liêng nơi vạn vật; khi y nh́n lên một Chơn ngă khác th́ tâm thức của
y có thể nói cũng bốc lên để nhận ra Thiên tính nơi người khác.
Nhưng trên cơi bồ đề, nó không c̣n bốc lên để chào đón thiên tính nơi người
khác từ bên ngoài bởi v́ nó đă
được lồng khuôn vào trong tâm hồn của chính người ấy. Y
là tâm thức ấy và tâm thức ấy vốn
của y. Không c̣n có “nhân” và
“ngă” nữa, bởi v́ cả hai chỉ là một, là những phiến diện của một điều ǵ đó
vốn siêu việt, thế nhưng lại bao trùm cả hai.
Chẳng những ta hiểu được người khác mà ta c̣n cảm thấy chính ḿnh đang tác
động thông qua y; ta cảm nhận được động cơ thúc đẩy của y là động cơ thúc
đẩy của chính ḿnh, cho dẫu ta có nói trong một chương trước kia, ta có thể
hiểu hoàn toàn được rằng một bộ phận khác của chính ta có thêm nhiều tri
thức hoặc một quan điểm khác, ắt có thể hành động khác hẳn.
Ư thức về sở hữu cá nhân xét về đức tính và ư tưởng đă hoàn toàn biến mất,
bởi v́ ta thấy rằng mọi chuyện đều thật sự là của chung đối với tất cả, bởi
v́ đó là một phần của thực tại vĩ đại vốn ẩn đằng sau tất cả b́nh đẳng với
nhau.
V́ thế cho nên, niềm kiêu hảnh cá nhân về sự phát triển cá thể hoàn toàn
không thể có được, bởi v́ giờ đây ta thấy rằng sự phát triển cá nhân chẳng
qua chỉ là sự tăng trưởng của một cái lá trong số hàng ngàn chiếc lá trên
cây duy nhất; và sự kiện quan trọng không phải là kích thước hoặc h́nh dạng
của cái lá đặc thù ấy mà là mối quan hệ của nó đối với cái cây xét chung; đó
là v́ chỉ đối với cái cây xét chung th́ ta mới thật sự có thể có sự tăng
trưởng trường tồn.
Ta đă hoàn toàn không c̣n chê trách người khác v́ họ khác với chính ta; thay
vào đó ta chỉ lưu ư họ là những biểu lộ khác trong hoạt động của chính ta,
bởi v́ giờ đây ta thấy có những lư do mà trước kia ta không thấy được. Ngay
cả kẻ gian tà ta cũng thấy là một bộ phận của chính ḿnh, một bộ phận yếu
đuối; v́ vậy ta không c̣n muốn quở trách y nữa mà chỉ muốn giúp y bằng cách
tuôn đổ sức mạnh vào cái bộ phận yếu đuối ấy của chính ta sao cho toàn thể
đoàn thể nhân loại có thể sung sức và khỏe mạnh.
Như vậy, khi người ta vươn lên tới cơi bồ đề th́ ta có thể thu được kinh
nghiệm của những người khác; v́ thế cho nên mỗi Chơn ngă không cần phải trải
nghiệm mọi kinh nghiệm với vai tṛ là một cá thể riêng rẽ. Nếu ta không muốn
cảm thấy sự đau khổ của người khác th́ ta có thể rút lui, nhưng ta tự nguyện
muốn cảm thấy sự đau khổ ấy bởi v́ ta muốn giúp người. Ta bao trùm người
đang đau khổ vào trong tâm thức của chính ḿnh và mặc dù kẻ đau khổ ấy không
hề biết tới sự bao trùm ấy, thế nhưng trong một chừng mực nào đó nó vẫn giảm
bớt sự đau khổ của ḿnh.
Trên cơi bồ đề có một năng lực hoàn toàn mới vốn chẳng có điều ǵ chung với
các năng lực trên cơi thấp. Đó là v́ người ta nhận ra các đối tượng bằng một
phương pháp khác hẳn, trong đó những rung động bên ngoài không đóng vai tṛ
ǵ hết. Đối tượng trở thành một bộ phận của chính ḿnh và ta nghiên cứu đối
tượng ấy từ bên trong thay v́ từ bên ngoài.
Với một phương pháp lĩnh hội như thế, rơ ràng là nhiều đối tượng quen thuộc
đâm ra hoàn toàn không nhận thức được. Ngay cả thần nhăn trên cơi trung giới
cũng có thể giúp ta nh́n thấy mọi vật từ mọi phía cùng một lúc kể cả nh́n từ
bên trên và bên dưới, thêm vào đó lại c̣n có sự phức tạp thêm nữa là trọn cả
phần bên trong vật thể ấy cũng mở ra trước mắt ta dường như thể mọi hạt đều
được đặt riêng rẽ lên trên mặt bàn: thêm vào sự kiện ấy c̣n có việc khi ta
nh́n vào các hạt này th́ đồng thời ta thấy bên trong mỗi hạt như thể ta đang
nh́n qua đó th́ hiển nhiên là ta không thể truy nguyên bất kỳ sự giống nhau
nào như vậy với các đối tượng mà ta biết trên cơi trần.
Trong khi trực giác của thể nguyên nhân nhận ra cái
bên ngoài th́ trực giác của thể
bồ đề nhận ra cái bên trong. Trực
giác trí năng khiến ta có thể ngộ ra được một điều ở
bên ngoài ḿnh; đối với trực giác
của cơi bồ đề th́ người ta nh́n một vật từ
bên trong.
Như vậy nếu trong khi hoạt động qua thể nguyên nhân ta muốn t́m hiểu một
người khác để trợ giúp cho y th́ ta xoay chuyển tâm thức ḿnh lên thể nguyên
nhân và nghiên cứu những đặc điểm của nó; chúng hoàn toàn xác định và thấy
rành rành nhưng ta luôn luôn nh́n thấy chúng từ bên ngoài. Nếu muốn biết như
vậy mà ta lại nâng tâm thức lên cơi bồ đề ta ắt thấy được tâm thức của người
khác là một phần của chính ḿnh. Ta thấy một điểm tâm thức biểu diễn cho y
mà ta có thể gọi là một lỗ hơn là một điểm. Ta có thể tuôn đổ ḿnh vào cái
lỗ ấy và nhập vào tâm thức của ḿnh ở bất kỳ mức nào thấp hơn theo như ta
muốn, và v́ vậy có thể thấy mọi thứ chính xác như ta thấy từ bên trong thay
v́ từ bên ngoài. Thật dễ hiểu là điều này giúp ta có được sự thông cảm và
đồng cảm hoàn toàn xiết bao.
Thế nhưng như ta đă từng thấy trong mọi sự tiến bộ kỳ lạ này vẫn không hề
mất đi ư thức cá thể cho dẫu hoàn toàn mất hết ư thức biệt lập. Trong khi
phát biểu này có vẻ dường như nghịch lư, thế nhưng nó lại hoàn toàn đúng.
Người ta vẫn nhớ mọi thứ đằng sau ḿnh. Chính ḿnh là người đă hành động như
thế này như thế nọ trong quá khứ xa xăm. Y tuyệt nhiên không thay đổi trừ
phi giờ đây y đă đạt được nhiều hơn mức ấy và cảm thấy rằng ḿnh
bao hàm trong bản thân nhiều biểu
lộ khác nữa.
Nếu ở dưới đây và ngay bây giờ, một trăm người chúng ta có thể đồng thời
nâng tâm thức lên tới tận cơi bồ đề th́ tất cả chúng ta ắt chỉ là một tâm
thức duy nhất, nhưng đối với mỗi người tâm thức ấy dường như là của riêng
ḿnh, hoàn toàn không thay đổi ǵ hết, ngoại trừ việc giờ đây nó c̣n bao hàm
mọi tâm thức khác nữa.
Huệ nhăn của cơi bồ đề bộc lộ con người không phải là một thành lũy mà là
một Ngôi Sao tỏa chiếu theo mọi hướng: các tia của ngôi sao ấy xuyên thấu
qua tâm thức của kẻ quan sát sao cho ta có thể cảm thấy nó là một bộ phận
của chính ḿnh, thế nhưng lại hoàn toàn không phải vậy. Mọi quan sát viên
đều nhất trí rằng ta không thể mô tả trạng thái tâm thức bồ đề nếu không
phải bằng một loạt những điều phủ định mâu thuẫn nhau.
Khả năng đồng hóa trên cơi bồ đề chẳng những đạt được đối với tâm thức cùa
người khác mà c̣n đối với tâm thức của mọi điều khác nữa. Như ta có nói, ta
học được mọi thứ từ bên trong thay v́ từ bên ngoài. Điều mà ta đang khảo sát
đă trở thành một bộ phận của chính ḿnh; ta khảo sát nó là một loại triệu
chứng nơi bản thân ta. Đặc trưng này rơ rệt là cấu thành một sự khác nhau
căn bản. Trước khi ta có thể đạt được điều ấy th́ ta phải hoàn toàn vô ngă,
bởi v́ chừng nào c̣n có một yếu tố cá nhân trong quan điểm của đệ tử th́
chừng đó y không thể tiến bộ theo tâm thức bồ đề vốn tùy thuộc vào việc trấn
áp phàm ngă.
H. P. Blavatsky có nói rơ rằng: “Bồ đề là năng lực nhận biết, là kênh dẫn
thông qua đó tri thức thiêng liêng đạt tới Chơn ngă, đó là sự phân ly thiện
với ác cũng như là lương tâm của Thượng Đế, là Linh hồn, vốn là hiện thể của
Ātma” (Giáo Lư Bí Truyền, quyển
I, trang 2). Ta thường bảo rằng đó là nguyên khí phân biệt tâm linh.
Trong hệ thống Yoga, turiya, tức một trạng thái xuất thần cao cấp có liên
quan tới tâm thức bồ đề; cũng như sushupti có liên quan tới tâm thức trí
tuệ; svapna có liên quan tới tâm thức trung giới và jagrat có liên quan tới
tâm thức trên cơi trần. Tuy nhiên các thuật ngữ này c̣n được dùng theo ư
nghĩa khác v́ chúng chỉ tương đối hơn là tuyệt đối (Xem quyển
Thể Trí, trang 146).
Trong sáu Giai đoạn của cái Trí mà ta tŕnh bày ở trang 146, quyển
Thể Trí, giai đoạn niruddha, tức
do Chơn ngă kiểm soát tương ứng với hoạt động trên cơi bồ đề.
Nơi thể xác, prana màu vàng nhập vào luân xa tức trung tâm lực ở tim biểu
diễn nguyên khí bồ đề.
Mặc dù ở mức bồ đề, con người vẫn có một thể nhất định, thế nhưng tâm thức
của y dường như cũng hiện diện nơi một số lớn các thể khác. Sinh vơng (màn
lưới sinh tồn) vốn cấu tạo bằng chất bồ đề mở rộng ra đến nỗi nó bao trùm
nhiều người khác sao cho thay v́ là nhiều sinh vơng nho nhỏ riêng rẽ th́ ta
có một mạng lưới duy nhất rộng lớn bao trùm tất cả với một sự sống chung duy
nhất.
Nhiều người khác nữa, dĩ nhiên có thể hoàn toàn không ư thức được sự thay
đổi này và đối với họ th́ bộ phận nho nhỏ riêng tư của ḿnh thuộc về mạng
lưới ấy dường như vẫn măi măi riêng rẽ hoặc ắt phải như thế nếu họ có biết
chút ít ǵ về sinh vơng. Như vậy xét theo quan điểm này và ở mức này th́
toàn thể nhân loại đều nối kết với nhau bằng các kim quang tuyến để tạo
thành một đơn vị phức hợp duy nhất không c̣n là một con người mà là
người theo nghĩa trừu tượng.
Trên cơi bồ đề, theo một cách thức nào đó dĩ nhiên là óc phàm không tài nào
hiểu nổi, qua khứ, hiện tại và tương lai đều tồn tại cùng một lúc. Trên cơi
này người ta không c̣n chịu sự hạn chế của không gian như ta từng biết trên
cơi trần. V́ thế cho nên khi đọc Tiên thiên Kư ảnh (Xem quyển
Thể Trí, trang 238), y không c̣n
cần tới – giống như trên cơi trí tuệ - việc duyệt lại một loạt các diễn biến
bởi v́ như ta đă nói, quá khứ, hiện tại và tương lai hiện diện trước mắt y
cùng một lúc.
Khi tâm thức đă phát triển trọn vẹn trên cơi bồ đề th́ v́ vậy ta có thể tiên
đoán hoàn toàn, mặc dù dĩ nhiên ta không thể - thật vậy ắt không thể - đưa
toàn bộ kết quả xuống tâm thức hạ đẳng cùng một lúc. Tuy nhiên ta vẫn rơ
ràng là có được sự tiên đoán minh bạch khá nhiều bất cứ khi nào ta muốn vận
dụng năng lực ấy, và ngay cả khi ta không vận dụng năng lực ấy th́ những tia
chớp lóe tiên đoán thường xẹt qua sinh hoạt thường nhật của ta sao cho ta
thấy có được một trực giác ngay tức khắc về cách thức diễn biến của sự vật
ngay cả trước khi chúng bắt đầu.
Tầm rộng lớn của cơi bồ đề mở ra đến mức cái có thể được gọi là thể bồ đề
của các hành tinh khác nhau thuộc dăy hành tinh của ta cũng gặp nhau sao cho
trọn cả dăy hành tinh chỉ có một thể bồ đề duy nhất. V́ thế cho nên khi ở
trong thể bồ đề, người ta có thể di chuyển từ hành tinh này sang hành tinh
khác trong dăy hành tinh.
Ở đây ta có thể nhận thấy rằng một nguyên tử chất bồ đề có chứa 493
tức 117.649 “bọt hỗn nguyên khí”.
Một người có thể nâng tâm thức ḿnh lên tới cảnh giới nguyên tử của cơi bồ
đề ắt thấy ḿnh hoàn toàn hiệp nhất với mọi người khác đến nỗi nếu y muốn
t́m ra một người khác th́ y chỉ cần liên lạc dọc theo đường lối của chính
người ấy th́ có thể t́m được người ta. Phần sau đây có thể được coi là một
ví dụ thuộc tác động của tâm thức bồ đề. Mọi vẻ đẹp cho dù thuộc về h́nh
tướng hay màu sắc, cho dù ở thiên nhiên hay là trong khuôn khổ của con
người, trong những thành tựu cao cấp của nghệ thuật hoặc trong đồ gia dụng
khiêm tốn nhất đều chẳng qua chỉ là một biểu hiện của Vẻ đẹp Duy nhất; v́
thế cho nên mọi vẻ đẹp đều được bao hàm một cách tiềm ẩn trong vật nào đẹp
đẽ cho dẫu nó là thấp hèn nhất; như vậy thông qua nó ta có thể ngộ ra được
mọi vẻ đẹp và đạt tới được Đấng mà Bản thân Ngài là sự Mỹ lệ. Để hiểu được
trọn vẹn điều này th́ ta cần phải có tâm thức bồ đề nhưng ngay cả ở mức thấp
hơn nhiều th́ ư niệm này cũng có thể hữu ích và có kết quả.
Một Chơn sư đă từng diễn tả như sau: “Chẳng lẽ con không hiểu rằng chỉ có
một T́nh thương Duy nhất, do đó cũng chỉ có một Vẻ đẹp Duy nhất. Bất cứ điều
ǵ đẹp đẽ ở trên bất cứ cơi nào cũng đều như thế, bởi v́ nó là bộ phận của
Vẻ đẹp ấy. Và nếu ta truy nguyên nó tới đúng mức th́ mối quan hệ của nó ắt
hiển lộ ra. Mọi Vẻ đẹp đều thuộc về Thượng Đế, cũng giống như mọi T́nh
thương đều thuộc về Thượng Đế; và thông qua những Đức tính này của Ngài, kẻ
có tâm hồn thanh khiết bao giờ cũng có thể đạt tới Ngài.”
Song le, việc phát triển trọn vẹn được thể bồ đề vốn thuộc về tŕnh độ La
hán mặc dù những người cho đến nay c̣n lâu mới đạt tới tŕnh độ ấy vẫn có
thể bằng nhiều cách khác nhau tiếp xúc được với tâm thức bồ đề.
Bồ đề nơi tinh thần con người vốn là Lư trí thuần túy và Từ bi, đó là Ngôi
Minh Triết, là đấng Ki Tô nơi con người.
Trong diễn tŕnh tiến hóa b́nh thường, tâm thức bồ đề sẽ dần dần được triển
khai trong Giống dân phụ thứ Sáu thuộc Giống dân Chính thứ Năm và c̣n nhiều
hơn nữa trong chính Căn chủng thứ Sáu.
Người ta có thể truy nguyên sự xuất hiện của Giống dân phụ thứ Sáu nơi những
người đang ở rải rác trong Giống dân phụ thứ Năm mà đặc điểm là khả năng âu
yếm. Tinh thần tổng hợp là đặc trưng cho Giống dân phụ thứ Sáu này; các
thành viên của nó có thể hiệp nhất sự đa dạng về ư kiến và tính t́nh để thu
thập từ đó những ư kiến khác hẳn nhau rồi ḥa lẫn chúng thành ra một tổng
thể chung có khả năng tiếp thu những điểm đa dạng, rồi phóng chúng ra trở
lại thành những điều đơn nhất, sử dụng những năng lực khác hẳn nhau, t́m ra
cho mỗi thứ vị trí của ḿnh rồi kết hợp chúng lại thành ra một tổng hợp kiên
cố.
Ḷng từ bi cũng nổi bật lên; đó là đức tính ngay tức khắc chịu ảnh hưởng của
việc tồn tại một yếu đuối nào đấy rồi đáp ứng với sự yếu đuối ấy bằng sự
kiên nhẫn, ḷng âu yếm và sự che chở. Ư thức đơn nhất và từ bi ắt là một sức
mạnh và một quyền năng được dùng để phụng sự, mà muốn đo lường sức mạnh ấy
chính là đo lường trách nhiệm và bổn phận.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS