|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
CHƯƠNG
HAI MƯƠI BỐN
TÁM PHẦN NHỎ CỦA KỸ
THUẬT YOGA
|
|
TÁM PHẦN NHỎ CỦA KỸ
THUẬT YOGA
Hệ thống Yoga tŕnh bày trong
quyển Yoga Sutras của
Patanjali được gọi là Astānga,
có nghĩa là “có tám chi”. Nghĩa thông thường của từ
Anga là “chi”, hay là một
thành phần của thân thể. Trong bài này, nó có nghĩa rơ ràng là tám
phần nhỏ, mà kỹ thuât Yoga được chia ra. Số các phần nhỏ cũng như
bản chất của những thành phần đều khác biệt trong hệ thống khác nhau
về Yoga.
Tám phần nhỏ của kỹ thuật Yoga được kể ra ở
Chương 2, Sūtra 29, như sau:
“Tự kềm chế, những kỷ luật tự kiểm soát; tư
thế (cách ngồi). điều ḥa và kiểm soát hơi thở; sự trừu tượng hóa,
định trí, tham thiền và nhập định”, là tám phần nhỏ của kỹ thuật
Yoga.
Chúng ta sẽ vắn tắt xem qua mỗi thực hành
này để có một ư niệm về kỹ thuật Yoga. Về phần chi tiết, người sinh
viên có thể tra cứu trong mỗi b́nh luận về các câu Sūtras liên hệ.
Trước khi xem qua từ mỗi thực hành khác nhau này, có một câu hỏi cần
được giải đáp. Hỏi vậy chúng được coi như những giai đoạn kế tiếp
của công việc thực hành Yoga, hay là những kỹ thuật riêng rẽ độc lập
có thể thực hiện rời ra. Do bản chất của các thực hành rơ ràng là có
một liên hệ nào đó giữa chúng nó. Thí dụ: Định trí (Dhāranā), Tham
thiền (Dhyāna) và Đại định (Samādhi) phải được thực hiện theo thứ tự
này, v́ chúng là ba giai đoạn kế tiếp của cùng một tiến tŕnh. Cũng
như thế đó, tự chế (Yama), tuân thủ kỷ luật (Niyama), tư thế
(Āsana), điều ḥa và kiểm soát hơi thở (Prānāyāma) và sự trừu tượng
hóa (Pratyāhāra) cũng phải đi theo cùng thứ tự đó, bởi v́ sự thực
hành có kết quả của một trong những kỹ thuật này tùy thuộc phần nào
về cách đă thực hiện các kỹ thuật trước đó. Thí dụ: một người không
thể thực hiện Prānāyāma
nếu chưa thực hiện Yama, Niyama và thu đạt phần nào sự kiểm soát các
cảm xúc và dục vọng của ḿnh. Tương tự, Định trí (Dhāranā), Tham
thiền (Dhyāna) và Đại định (Samādhi) không thể thực hiện, nếu không
có một kiểm soát toàn diện thể xác và ít nhất tiêu diệt được các dục
vọng thông thường đă ảnh hưởng cái trí một cách to tát. Nhưng đối
với ai không có ư định bước sang phần thực hành một hệ thống Yoga
cao hơn nữa, y có thể thực hiện bất cứ kỹ thuật nào một cách độc
lập, mặc dù y sẽ thấy điều đó khó khăn. Y sẽ mau lẹ nhận thấy rằng
ḿnh phải cố gắng luôn cả các lănh vực kia của các thực hành liên
hệ. Dù sao, chúng ta cũng sẽ xem qua các kỹ thuật khác nhau này theo
thứ tự nêu ra trong câu Sūtra trên.
Vậy chúng ta bắt đầu với
Yama và
Niyama, chính đó là nền
tảng của đời sống Yoga. Chúng nó nhằm mục đích xây dựng loại tánh
t́nh đúng đắn và tạo ra trạng thái đúng đắn của tâm trí; cả hai đều
là điều kiện tiên quyết cho sự thực hành nghiêm chỉnh môn Yoga. Lằn
mức phân ranh giữa Yama
và Niyama không rơ rệt
lắm, bởi v́ cả hai đều thật sự có mục đích biến đổi bản chất thấp
kém thành một dụng cụ thanh khiết, hài ḥa và an tịnh, được kiểm
soát hoàn toàn cho Chân Ngă sử dụng. Bằng những đường lối khác nhau,
chúng mang lại cùng một mục đích. Hai câu Sūtras dưới đây kể ra đặc
điểm và trạng thái của cái trí phải được phát triển để cung cấp nền
tảng cần thiết luân lư, trí thức và tâm linh cho sự luyện tập Yoga
tiếp sau. Trong mỗi câu này, năm đặc điểm hay thực hành được bắt
buộc và phạm vi của Yama
và Niyama được định rơ
đến mức độ nào đó.
“Những lời nguyện
tự kềm chế – được gọi là Yama – gồm có tránh sự hung bạo, dối trá,
trộm cắp, dâm ô và ham lợi”
“Sự
thanh khiết, măn nguyện, khổ hạnh, sự nghiên cứu bản ngă và phục
ṭng Thượng Đế, tạo thành Niyama hay là những tuân thủ cố định của
kỷ luật bản thân”.
Những b́nh luận chi tiết thuộc về các thực
hành bắt buộc nằm trong Yama
và Niyama, người sinh
viên có thể tra cứu trong bất cứ quyển b́nh luận nào về quyển
Yoga Sutras. Ở đây chúng
ta chỉ có thể xét đến một vài điểm có tánh cách tổng quát thôi.
Mặc dầu những thực hành này liên quan tới
nhiều khía cạnh khác nhau của bản chất chúng ta, và phát triển nhiều
đặc điểm và thái độ khác nhau, nhưng đừng quên rằng đời sống con
người không thể chia ra thành những ngăn riêng, và tất cả khía cạnh
của bản chất chúng ta liên quan mật thiết với nhau, và không thể nào
thật sự giải quyết riêng rẽ được, như đă nhắc nhở ở phần trước. Vấn
đề thuộc về cái trí và tánh t́nh phải được giải quyết nguyên bộ, mặc
dầu trong một lần chúng ta có thể hướng sự chú ư đặc biệt đến một
khía cạnh riêng rẽ của bản chất chúng ta, hầu để diệt trừ một nhược
điểm hay khuynh hướng cá biệt nào đó. Điều này cũng có nghĩa là khi
hành động với bản chất thấp kém chúng ta, không phải ḿnh chỉ gồm
các cố gắng vào lănh vực những yếu kém thông thường kể trong hai câu
Sūtras trên đây thôi. Thí dụ, chúng ta không nên hiểu rằng ḿnh có
trọn quyền tự do nóng giận, ganh tỵ… bởi v́ những nhược điểm này của
con người được đặc biệt nhắc nhở trong những Sutras thuộc về
Yama và
Niyama. Nếu chúng ta tỏ
ra nóng giận và ganh tỵ như thế, tất cả năng lực đă thấy biểu lộ
trong những khuynh hướng quen thuộc lâu rồi sẽ tự nó tạo ra những
vận hà mới cho chúng nó, và xuất hiện dưới h́nh thức những khuynh
hướng khó chịu mới mà chúng ta nghĩ là không hiện hữu trong chúng
ta. Sự việc rằng hai đức tánh tinh thần gọi là
Sauca và
Santosa – thanh khiết và
măn nguyện – trong Niyama
đă bao gồm phần lớn những khuynh hướng xấu xa mà chúng ta không thấy
kể ra trong Yama một cách
rơ rệt, và nếu hai tánh tốt này được thực hiện đến một mức độ đầy
đủ, chúng ta sẽ phát triển trí tuệ và tánh t́nh ḿnh một cách hoàn
toàn chứ không phiến diện.
Điểm thứ hai phải ghi chú là khi diệt bỏ
những khuynh hướng bất hảo kể trên, không cần phải ư thức đi sâu vào
một cuộc suy xét nội tâm ḿnh. Nhưng, chỉ dẫn này phải được thực
hiện mà không cần lư luận hay phân tách các lư do hành động của
chúng ta. Thí dụ như, khi chúng ta thấy ḿnh muốn nói một điều ǵ
không thật, chúng ta khỏi phải cân nhắc trong trí ḿnh hỏi vậy
trường hợp đặc biệt này có cho phép ḿnh nói một điều dối trá không,
hay là t́m coi động cơ nào đă
thúc đẩy ḿnh nói dối, hoặc cố gắng ư thức những t́nh trạng
của tâm trí ḿnh vào lúc đó. Chúng ta phải đơn giản bỏ qua một bên
những tư tưởng mù mờ, và nói, hay làm điều chánh đáng, không cần han
hỏi ǵ cả. Để làm điều đó, chỉ cần thiết có sự ư thức thông thường
về các hoạt động và khuynh hướng trí tuệ của chúng ta mà thôi, và
nếu chúng ta cương quyết thực hành điều chánh đáng, chúng ta sẽ có
khả năng làm điều này không khó khăn chi cả. Chính v́ lư do đó,
trong Sūtra II.31, Patanjali không cho sót một chỗ hở nào để chúng
ta có thể thoát ra được. Những lời thề nguyền này phải được theo dơi
ở mọi hoàn cảnh và không do dự, hay nghi ngờ, khi ḿnh làm một việc
chánh đáng hay tưởng nghĩ một tư tưởng đứng đắn, hoặc có một cảm xúc
liêm khiết. Bản chất thấp kém này của chúng ta là một thực thể rất
điêu ngoa, và nó sẽ nghĩ ra mọi mưu lược để gạt gẫm chúng ta làm
điều quấy và tiếp tục những đường lối sái quấy của ḿnh. Nó sẽ tŕnh
bày trước trí chúng ta mọi loại biện bạch v́ sao cần làm điều quấy,
khoác lấy sự chánh đáng để che đậy những lư do và hành động nhơ
nhớp, trá h́nh sự oán thù dưới h́nh thức yêu thương, và cố gắng gạt
gẫm chúng ta duới muôn ngàn cách, nếu chúng ta có thói quen do dự,
cân nhắc hay thỏa hiệp với điều quấy bằng những đường lối khác nhau.
Chính do nơi hiện tượng này trong ta luôn luôn tạo ra sự cám dỗ xấu
xa làm chúng ta tội lỗi. Phương thuốc th́ rơ rệt và rất linh nghiệm.
Hăy quyết định một lần cuối rằng bạn sẽ luôn luôn làm điều phải ở
mọi trường hợp và không thỏa hiệp với điều quấy hay sai lầm, dù cho
những hậu quả sẽ đến có ra sao đi nữa; rồi đó bám chặt vào quyết
định của bạn một thời gian và bạn sẽ nhanh chóng thấy ngay rằng sự
cám dỗ làm điều sái quấy biến mất trong đời sống ḿnh; và thực hành
điều thiện trở thành một công việc dễ dàng và tự nhiên nhứt. Những
nghi ngờ, do dự và cân nhắc bên trong tâm trí ḿnh chẳng những làm
chậm trễ việc làm điều thiện, mà lại c̣n tạo ra một sự chiến đấu
liên tục trong nội tâm. và chúng làm điêu đứng đời sống của những ai
đă tự cho phép ḿnh, thỉnh thoảng thỏa hiệp với điều quấy. Ngay đến
ở thế giới bên ngoài, bạn sẽ thấy một hiện tượng tâm lư rất thông
thường. Những người tỏ ra thỏa hiệp với điều quấy luôn luôn bị kẻ
khác lôi cuốn làm quấy dưới mọi h́nh thức và mọi mức độ, trong khi
những người không thỏa hiệp th́ lại được để yên. Một người tham
nhũng có thói quen nhận những hối lộ, sẽ luôn luôn gặp gỡ người dụ
dỗ y làm mọi việc để có được một ít tiền, trong khi một người thật
sự lương thiện và liêm sỉ sẽ không bị một ai quấy rầy. Bất cứ ở đâu,
cũng đều có một định luật luân lư ẩn tàng cai quản sự sống và trong
trường hợp những cá nhân, th́ các hoàn cảnh bên ngoài phần lớn là
phản ảnh của những trạng thái tâm trí và thái độ bên trong của họ.
Khi chúng ta làm điều thiện một cách tự động
và không do dự, một điểm lợi lớn là những khía cạnh tế nhị hơn của
những khuynh hướng xấu xa của chúng ta đều bắt đầu được ḿnh lưu ư
đến. Nhờ trí tuệ và t́nh cảm lần hồi được thanh lọc, khiến cho ánh
sáng của Bồ Đề Tâm len lỏi xuyên qua cái trí dễ dàng hơn, và giúp
chúng ta thấy các sự việc rơ ràng hơn, với một khả năng phân biện to
lớn hơn. Do đó sự nhận thức đúng đắn về bản chất thật sự, và trạng
thái trí tuệ ḿnh tự nhiên đến và dươi một h́nh thức hữu hiệu hơn,
giúp chúng ta xóa bỏ ngay cả những h́nh thức tế nhị của các khuynh
hướng xấu của ḿnh mà trước kia ḿnh không chú ư được.
Một cái nh́n sơ qua về năm đức tánh liệt kê
dưới đề mục Yama cho thấy
chúng nó không biểu hiện một h́nh thức tŕnh độ luân lư thật cao
siêu. Đúng ra không nói dối và không trộm cắp nhất thiết không là
một tŕnh độ luân lư thật cao. Nhưng Patanjali có ư đưa ra những
h́nh thức thô sơ nhứt của những khuynh hướng xấu để cho mọi người
đều có thể thấy chúng, và nếu y tỏ ra nghiêm chỉnh th́ sẽ cố gắng từ
bỏ chúng. Chính là nhờ từ bỏ những h́nh thức thô sơ này mà chúng ta
ư thức được những h́nh thức tế nhị hơn, và những thứ này cũng sẽ
được từ bỏ về sau. Ngoài ra th́ không có cách nào khác hơn. Những
đức tánh này sẽ được phát triển đến mức cao nhứt và cho đến các h́nh
thức tế nhị nhứt cũng phải bị tiêu trừ. Điều đó được rơ rệt tŕnh
bày trong 10 Sūtras kể ra ở phần sau để diễn tả những kết quả của sự
phát triển 10 đức tánh này đến trạng thái toàn thiện tột độ. Trong
10 Sūtras này tương ứng với 10 yếu tố của
Yama và
Niyama, chẳng những bạn
thấy ranh giới mà con người có thể đi đến trong sự phát triển những
đức tánh này, mà c̣n nhận thức những khả năng kỳ diệu tiềm ẩn trong
những sự việc thông thường nữa. Ở đây không cần đi sâu vào vấn đề
tranh căi thích thú này, nhưng một sự nghiên cứu cẩn thận về vấn đề
sẽ giúp người sinh viên nhận thức những khả năng tiềm tàng trong
tánh ngay thật và những ǵ chúng ta có thể thực hiện thật đơn giản
là thói quen luôn luôn làm điều chánh đáng ở mọi hoàn cảnh, dù lúc
đó phải trả bất cứ giá nào. Có được thói quen hành động ngay thật,
hay trở nên Dharma-nista,
là một thành tựu to tát và điều đó chẳng những là cần thiết để dẫn
dắt đời sống Yoga, nhưng chính nó, một phần lớn tạo thành đời sống
Yoga, và giúp cho việc thực hành Yoga cao cấp hết sức dễ dàng và an
toàn. Chính tính ngay thật này phát triển sự soi sáng tâm linh dược
nói đến trong Sūtra II.28.
Jnāna-dīpti kể trong Sūtra này là một tên khác để chỉ Ánh Sáng
Trên Đường Đạo.
C̣n có những Sūtras khác nói đến
Yama và
Niyama, nhưng không cần
phải xét chúng nơi đây. Tuy nhiên c̣n một Sūtra có tầm quan trọng
lớn trong việc thực hành, đáng cho chúng ta biết qua trước khi đi xa
hơn nữa. Đó là Sūtra II.33 :
“ Khi cái trí bị những tư tưởng bất hảo quấy
rầy biện pháp ngăn ngừa là suy nghĩ liên tục đến những việc trái
ngược lại”.
Bất cứ ai bắt tay vào công việc biến đổi bản
chất thấp kém của ḿnh đều sẽ thấy điều đó không dễ dàng. Đương
nhiên khó khăn chánh là bất kể lư tưởng của chúng ta và bất kể quyết
tâm của chúng ta, phải bứng bỏ tận gốc những khuynh hướng bất hảo,
chúng vẫn tiếp tục quấy rầy chúng ta. Vậy chúng ta phải làm sao?
Phương pháp nào hiệu nghiệm nhứt để xóa bỏ một khuynh hướng bất hảo?
Điểm thứ nhứt phải ghi nhớ là khuynh hướng đó có gốc rễ trong trí
ḿnh, ngay cả những khuynh hướng có vẻ hoàn toàn vật chất. Mỗi hành
động đều do một tư tưởng dẫn đến, hoặc hiện diện trong cái trí ư
thức hoặc không ư thức. Từ “không ư thức”, thay v́ “tiềm thức” được
dùng với dụng ư, bởi v́ sức mạnh điều khiển sự thực hành những hành
động tốt phát sinh từ những vùng cao cả của cái trí. Cho nên, để xóa
bỏ những khuynh hướng xấu này, đương nhiên, chúng ta phải đi đến
lănh vực của cái trí và cố gắng vô hiệu hóa chúng nơi đó, thay v́
chỉ mất công ngăn ngừa những thể hiện bên ngoài của chúng. Chính
việc làm vô hiệu hóa một khuynh hướng bất hảo tại nguồn gốc của nó
trong cái trí, được khuyên bảo trong câu Sutra này. Nhưng câu “suy
nghĩ liên tục đến những việc trái ngược lại” có nghĩa ǵ? Chẳng
những nó có nghĩa là suy nghĩ về một tư tưởng có bản chất trái
ngược, mà c̣n là cố gắng xem xét cẩn thận một quan điểm đối nghịch.
Bởi thế, nếu bạn ghét một người nào, hăy cố gắng nhớ đến những điểm
tốt của y, đến quan điểm của y về những vấn đề khác nhau, và nhớ dến
những điều kiện bất lợi y phải cưu mang khi làm việc. Hay là, nếu
bạn có khuynh hướng chịu thua một đam mê nào, hăy nghĩ đến cái giá
của những sự đau khổ mà bạn sẽ phải trả sau này. Tưởng nghĩ như thế,
không chỉ là lập lại máy móc một tư tưởng, mà thật ra là một sự phân
tích thành thật và thông minh những thói quen và thái độ của bạn.
Điều này phải được làm, không phải ở lúc khuynh hướng sắp được biểu
lộ, mà khi bạn ở vào một trạng thái trí tuệ b́nh tĩnh hơn và bạn có
khả năng suy gẫm điểm đối nghịch một cách thản nhiên. Ở giây phút
đặc biệt của sự biểu lộ, phương pháp duy nhất hữu hiệu và an toàn
phải theo - như đă được đề nghị ở trên - là ngưng đi sự biểu lộ,
không tưởng nghĩ, bởi v́ đó là điều đúng phải làm và bạn đă quyết
định làm điều đúng. Không cần bàn căi xa hơn nữa về vấn đề thích thú
này, và bây giờ chúng ta có thể xem đến sự thực hành kỹ thuật Yoga
kế tiếp, được gọi là Āsana
– hay tư thế.
Có lẽ trong tất cả mọi thực hành liên quan
đến Yoga, điều mà phần đông dân chúng quen thuộc là các
Āsana hay tư thế. Sự
thật, đối với phần đông th́
Yoga không ǵ khác hơn là các
Āsana hay là những hoạt
động vật chất kết hợp khác mà họ đă sử dụng để có sức khỏe tốt. Tuy
nhiên có nột số ít người biết được vai tṛ quan trọng mà tư thế đảm
nhiệm trong đời sống Yoga. Nó không có mục đích nào khác hơn là xóa
bỏ những trở ngại do thân thể vật chất gây ra trong cái trí. Cái trí
và thể xác của mỗi người được liên kết với nhau và những hoạt động
bất thường và những cử động của thể xác mang lại những rối loạn liên
tục trong cái trí, cần phải được xóa bỏ trước khi thực hiện
Dhāranā,
Dhyāna và
Samādhi. Cho nên thể xác
phải được kềm giữ trong một tư thế, và tư thế này được giữ trong
những thời gian dài. Kết quả của điều này là nó trở nên không c̣n
nhạy cảm với những thay đổi ở bên ngoài của môi trường, như là nóng,
lạnh…. được gọi là Dvandvas
(các cặp đối đăi), và chừng đó sẽ không xuất hiện những rối loạn
trong thể trí mà chính những thay đổi đó đă sinh ra chúng. Điều này
cũng chuẩn bị cho thể xác thực hành hai phần kế là
Prānāyāma và
Pratyāhāra.
Kỹ thuật kế của Yoga là
Prānāyāma, cũng rất bị
hiểu lầm, nhứt là ở phương Tây. Nơi đó, người ta cho
Prānāyāma tương đương với
những thực hành hô hấp với mục đích giúp cho thân thể được khỏe
mạnh. Nếu thực hành đúng đắn,
Prānāyāma chắc chắn làm cho sức khỏe tráng kiện hơn trước, nhờ
hít thêm nhiều dưỡng khí dưới nhiều h́nh thức của nó và cũng bổ ích
cho hệ thần kinh nữa, Nhưng đó không phải là mục đích thật của Yoga.
Mục đích của nó là giúp sự kiểm soát đầy đủ và ư thức những luồng
thần lực (prāna) trong thể phách con người, và như thế, có thể dẫn
chúng đến nơi nào cần thiết. Điều này chỉ có thể thực hiện xuyên qua
kỹ thuật Kumbhaka, hay là
sự ngưng hô hấp ở những mực độ chậm. Khi những luồng
prāna được chủ trị, chúng
nó có thể được dùng để khai mở
Kundalini và mang lại sự
giao tiếp tâm thức của cơi vật chất với tâm thức các cơi vía và trí.
Chính nơi đây, Prānāyāma
tỏ ra nguy hiểm, và chính v́ vậy mà không bao giờ thực hành, nếu
không có sự d́u dắt của một ông thầy rành nghề và sau khi được chuẩn
bị đúng đắn trước.
Một công dụng khác của
Prānāyāma là chuẩn bị cái
trí để thực hiện sự định trí, ít người biết rằng
Prāna là dây liên lạc
giữa một thể và cái trí, hoạt động xuyên qua thể đó. Chính là xuyên
qua Prāna mà cái trí sử
dụng một thể, và cái thể có khả năng ảnh hưởng cái trí. V́ thế, nếu
chúng ta có thể kiểm soát
Prāna, chúng ta có thể loại bỏ mọi loại xáo trộn do các thể gây
ra trong cái trí.
V́ thế, chúng ta sẽ thấy rằng các dục vọng
và các khuynh hướng đủ loại ẩn núp trong tiềm thức cái trí, không
phải là nguồn duy nhứt làm cái trí xáo trộn. Những chuyển động bất
thường của Prāna trong
thể Phách cũng có thể là một nguyên nhân xáo trộn nữa. Những loại
trước sẽ được tiêu trừ do
Yama và Niyama, và
những loại sau, do Prānāyāma
diệt bỏ. Bây giờ người sinh viên thấy rơ ràng hơn v́ sao các cố gắng
của y để tập trung cái trí ở các buổi thiền định hằng ngày thường
không có kết quả. Khoa học Yoga giải quyết vấn đề một cách khoa học,
và đầu tiên thanh toán những nguồn gốc mang lại sự xáo trộn trước
khi thực hành Dhāranā,
Dhyāna và
Samādhi. Mức độ thông
thường về việc định trí có thể đầy đủ cho công việc tri thức, nhưng
tỏ ra quá ít để thực hành Yoga. Cường độ của việc tập trung phải
được lần hồi tăng thêm, cho đến khi nó bước sang giai đoạn tham
thiền kế đó và chấm dứt ở giai đoạn chót là Đại định, hay là
Samādhi. Để cho công việc này thực hiện có kết quả, th́ tất cả
mọi nguồn gốc đem lại sự xáo trộn – trừ ra những nguồn gốc ngay tại
thể trí – phải được loại bỏ trước tiên một cách có hệ thống.
Kế đó đến
Pratyāhāra, bước thứ năm
của kỹ thuật Yoga. Câu Sūtra II.54 diễn tả như sau:
“Pratyāhāra
hay là trừu tượng hóa, những giác quan bắt chước theo cái trí, tự
rút lui ra khỏi những đối tượng”.
Ít người thấu hiểu nghĩa của chữ
Pratyāhāra và người ta
đưa ra nhiều cách giải đáp. Cái nghĩa thật sự của nó chỉ có thể thấu
hiểu khi chúng ta xem nó như là một thực hành để cắt đứt hoàn toàn
mọi liên lạc của cái trí với thế giới bên ngoài xuyên qua năm giác
quan mà ai cũng biết – những
Jnānendriyas theo Phạn ngữ. Chúng ta biết rơ cách thức chúng ta
giao tiếp với thế giới bên ngoài xuyên qua những giác quan này.
Những rung động hay những hoạt động nhỏ đủ loại chạm vào các giác
quan, gây trong chúng những phản ứng; phản ứng này được những dây
thần kinh truyển đến một số trung tâm trong bộ óc. Ở đây, do một
tiến tŕnh bí mật, những rung động của dây thần kinh được chuyển
thành cảm giác. Khoa học không thể đi xa hơn những điều này, nhưng
theo các cuộc sưu tầm Huyền Bí Học,
Prāna và một số trung tâm
trong cái Phách và cái Vía cũng có vai tuồng trong tiến tŕnh này.
Không cần đi sâu vào vấn đề nơi đây. Điều chúng ta cần ghi chú là
chính sự phối hợp của cái trí với những trung tâm trong bộ óc hoặc
những thể tinh vi hơn, đă mang lại sự tạo ra những h́nh ảnh giác
quan trong cái trí. Một ḍng nối tiếp các h́nh ảnh giác quan đang
hiện ra trong cái trí, khi mà nó c̣n giao tiếp với thế giới bên
ngoài xuyên qua các giác quan. Thật ra cái trí không nhận thức được
tất cả những rung động chạm đến các giác quan. Tất cả những rung
động âm thanh đang đập vào lỗ tai mọi lúc, nhưng chúng ta không lưu
ư đến chúng. Chúng ta biết rằng cái trí càng bị thu hút vào một loại
hoạt động nào đó, nó càng ít lưu tâm đến các rung động khác, mặc dầu
chúng vẫn liên tục đập vào các giác quan. Tuy vậy, sự việc cái trí
cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài, do sự tập trung của nó
vào một đối tượng, điều dó chỉ có một phần thôi và không cố ư, cái
trí có thể luôn luôn bị xao lăng do một va chạm giác quan đủ mạnh,
từ bên ngoài. Mục đích của
Pratyāhāra là cắt đứt mọi liên lạc của cái trí một cách trọn vẹn
và tự ư với thế giới bên ngoài, để cho khi người Yogi muốn đi vào
bên trong của cái trí và tập trung vào bất cứ đối tượng hay vấn đề
ǵ, y đều có thể cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài một
cách tự ư bằng cách đóng nó lại, nếu có thể nói như thế, đóng các
cửa của giác quan. Chừng đó, y có khả năng tập trung vào vấn đề
trong cái trí, không bị một loại quấy rầy nào hay xáo trộn nào xảy
ra, xuyên qua hoạt động của các giác quan của y. Các giác quan vẫn
c̣n đó, nhưng các cảm giác hoạt động xuyên qua chúng đă bị rút vào
nội tâm, trong cái trí. Chúng ta nên nhớ rằng các cảm giác là những
thành phần của cái trí, và chúng giống như những ṿi, mà cái trí tḥ
ra thế giới bên ngoài để thu thập vật liệu giác quan, giúp nó được
phát triển. Một cách chậm chạp và siêng năng, nó đào tạo và hoàn
thiện các giác quan như là những dụng cụ dành cho công việc này.
Trong Pratyāhāra, cái trí
rút lại các cảm giác nảy, khi nó muốn thực hiện
Dhāranā,
Dhyāna và
Samādhi, mà không có một
loại quấy động nào đến được, xuyên qua các ống dẫn của những giác
quan.
C̣n về các
vận hành của
Pratyāhāra, ta sẽ thấy
rằng nó một phần tùy thuộc vào cái mức độ
tập trung của cái trí. Nếu cái trí tập trung đúng mức, nó có thể tự
ḿnh cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài một cách tự động. Nhưng
ở vào giai đoạn cao của Yoga, nơi mà một mức độ tập trung rất cao tỏ
ra cần thiết trong những thời gian dài, th́ lợi điểm là các giác
quan hoạt động xuyên qua trung gian của
Prāna. Như thế, bằng cách
vận dụng các luồng Prāna,
người ta có thể chận đứng lại hoạt động của các giác quan, đúng như
là bằng cách vận dụng luồng điện, người ta có thể làm ngưng hoạt
động của một chiếc radio, hay máy thu h́nh. Đó là tại sao sự thực
hành Prānāyāma đem lại sự
kiểm soát có ư thức các luồng
Prāna trong cái Phách đi trước sự thực hành
Pratyāhāra. Sau khi hiểu
ư nghĩa của câu Sūtra có vẻ kỳ bí này, bây giờ chúng ta có thể sang
qua ba phần chót của kỹ thuật Yoga, được gọi là
Antaranga hay là bên
trong, để phân biệt chúng với năm phần trước, gọi là
Bahiranga hay là bên
ngoài
Dhāranā,
Dhyāna và
Samādhi là những tiến
tŕnh hoàn toàn trí tuệ. Đó là những kỹ thuật thật sự và chính yếu
của Yoga, trong khi năm cái trước đă nói qua, chỉ là năm phần phụ
trợ. Vai tuồng của năm cái này là làm cho có đầy đủ những điều kiện
cần thiết để thực hành ba cái kia.
Cảm tưởng cho rằng thực hành
Samādhi là một thành tựu
vô cùng khó khăn, gần như không sao thực hiện được, đă do một quan
niệm sai lầm mà ra. Chúng ta cố gắng tập trung trí ḿnh trong khi
đang có tất cả cản trở và điều kiện bất lợi hiện diện, và do đó mà
thất bại, không thể đạt đến một mức độ tập trung vừa phải của cái
trí trong lúc thiền định. Do đó mà chúng ta tự nhiên kết luận rằng
đạt đến mức độ tập trung cao trong
Samādhi, như vừa tŕnh
bày xong, là một việc gần như không thể được cho một người b́nh
thường. Đó là một điều không thể được nếu chúng ta thực hành mà
không chuẩn bị trước ǵ cả, cũng
như không thể đưa cho một sinh viên học toán ở nhà trường cố
làm những bài toán về vi phân và tích phân. Nhưng nếu nền tảng được
gây dựng đúng đắn và có hệ thống, và hành giả tiến hành từng bước
một, y sẽ không nhận thấy khó khăn quá sức để giải quyết vấn đề này
khi đi đến những giai đoạn cao. Cũng như thế ấy, thực hành
Dhāranā,
Dhyāna và
Samādhi trở nên dễ dàng
sau khi có một cuộc chuẩn bị cần thiết, và những điều kiện đ̣i hỏi
cho việc thực hiện. Khi nó đă được giải thoát khỏi những chướng
ngại, mặc cảm và căng thẳng làm méo mó và ngăn ngừa những cử động tự
nhiên, không giới hạn, cái trí tỏ ra thường là dễ dàng kiểm soát và
điều khiển. Mục tiêu của
Bahiranga, hay phần ngoài của Yoga, là mang lại điều kiện này
một cách khoa học. Yama,
Niyama loại bỏ những xáo trộn của t́nh cảm và dục vọng.
Āsana loại bỏ những xáo
trộn do thể xác vật chất thô kệch,
Prānāyāma làm tan biến
những xáo trộn của thể phách và sau rốt,
Pratyāhāra cắt đứt hoạt
động của các giác quan. Vậy, hiện nay chỉ c̣n cái trí một ḿnh để
thực hiện, và trí này đă được giải thoát khỏi tất cả trở ngại và
căng thẳng vừa kể. Chừng đó nhà Yogi có thể thực hành
Dhāranā,
Dhyāna và
Samādhi không gặp khó
khăn lạ thường nào, và đạt được nó do sự kềm chế những biến đổi của
cái trí đă thực hiện được nhờ những điều kiện đă kể ra trong các
Chương trước. Cũng giống như trong những lănh vực khác của Khoa học,
những kết quả khó khăn nhứt sẽ trở nên dễ dàng đạt được bằng cách
đặt kế hoạch và áp dụng những kỹ thuật một cách đúng đắn, trường hợp
môn Khoa Học Yoga cũng theo qui luật đó.
Như đă được giải thích,
Dhāranā,
Dhyāna và
Samādhi là ba bước tiến
lần hồi của cùng một tiến tŕnh liên tục và chúng chỉ khác nhau ở
mức độ của sự tập trung và sự hiện diện của một số điều kiện rơ rệt
và xác định kỹ lưỡng, do đó mà phân biệt một giai đoạn tập trung này
với một giai đoạn khác. Tất cả những vấn đề này đă được bàn luận chi
tiết trong phần b́nh luận của
Yoga Sutras và không cần nói lại nơi đây làm chi. Nhưng có một
vài sự việc về bản chất tổng quát có thể được chỉ ra, giúp phá tan
một quan niệm sai lầm thông thường để người sinh viên được thông
suốt b́nh luận dễ dàng hơn.
Điểm thứ nhứt cần ghi chú là đối tượng đặc
biệt của sự định trí trong tiến tŕnh bộ ba
Dhāranā,
Dhyāna và
Samādhi không cần là một
đối tượng xác thực. Từ “đối tượng” hay
Vísaya được dùng theo
thuật ngữ của Yoga, có thể là bất cứ điều ǵ, hay nguyên tắc, định
luật, hiện tượng hay sự việc của đời sống, mà thật sự nó được biết
bằng những tiến tŕnh đă được diễn tả như là “hiểu biết do cách trở
thành” trong Chương trước. Tiến tŕnh bộ ba liên tục về sự tập trung
mà lên đến cực điểm là
Samādhi, được gọi là
Samyama theo thuật ngữ Yoga, và trong Chương 3 của quyển
Yoga Sutras, có một số
lớn thí dụ được kể ra về các đối tượng theo đó
Samyama có thể được thực
hiện. Sự học tập về Chương này có thể cho thấy các đối tượng thật là
phong phú để có thể lựa chọn cho mục tiêu đó.
Kết quả của sự thực
hiện Samyama nếu mỹ măn,
đương nhiên sẽ là sự hiểu biết Thực Tại đang được t́m hiểu. Và như
mỗi phần nhỏ của sự hiểu biết thật sự đều liên hệ đến một quyền lực
tương xứng, Samyama về
bất cứ đối tượng nào đều mang lại sự phát triển một số quyền lực
riêng biệt, liên hệ đến sự hiểu biết đó. Những quyền lực này được
gọi là
Siddhis,
những kỹ năng theo thuật ngữ của Yoga, mà đôi khi người ta cũng gọi
chúng là Phép Thần thông. Nhưng, đó chỉ
là những quyền năng bậc thấp, phát triển do
Samādhi, như thần nhăn
v.v … được coi như những quyền năng tâm linh. Những quyền năng bậc
cao, phát triển do tiến tŕnh của Yoga cao cấp, mới thật sự là tâm
linh, do bản chất của chúng và có cả một thế giới khác biệt giữa
chúng và những quyền năng thường mà chúng ta biết đến. Cũng có cách
khác để phát triển quyền năng bậc thấp đó, như sự dùng một số cây
cỏ, những Mantras (câu
thần chú) .v.v . . đă được chỉ ra trong câu Sutra IV.1. Nó không cần
thiết phải sử dụng đến phương pháp
Samādhi để thu đạt chúng.
Nhưng, tất cả những quyền năng cao cấp của Yoga chỉ có thể phát
triển nhờ Samādhi mà
thôi, và là kết quả sự tiến hóa của Chơn nhơn và sự khai mở những
trạng thái cao của tâm thức. Chúng được đặt dưới sự kiểm soát của cá
nhân và luôn luôn do y điều khiển, bởi v́ y đă thu đạt được chúng
bằng sự khai mở bản chất tâm linh của y.
Sự phát triển những
quyền năng đặc biệt này – hay đủ loại
Siddhis
– không có ǵ để phải ngạc nhiên. Ngay ở lănh vực của hạ trí, chúng
ta biết rằng bất cứ loại hiểu biết nào, dù là tầm thường, đều mang
lại một ít quyền lực cho cá nhân.. Sự hiểu biết về bất cứ ngành
thương mại hay nghề nghiệp đem lại cho đương sự khả năng kiếm tiền
và có được mọi tiện nghi và xa hoa cho y. Sự hiểu biết mà các khoa
học gia thu đạt về năng lượng nguyên tử, đă mang lại quyền lực nâng
cao mức sống của nhân loại, hay là tiêu diệt nhân loại. Vậy có ǵ
đâu để ngạc nhiên, nếu sự hiểu biết siêu việt của nhà Yogi là kết
quả của sự phát triển trạng thái cao của tâm thức do những phương
pháp của Yoga mang lại cho y – những quyền năng mang lại phi thường
này. Chúng ta không ngạc nhiên nếu một quả bom khinh khí có khả năng
hủy diệt một thành phố, nhưng chúng ta lại ngạc nhiên cách nào mà
một nhà Yogi có thể đi xuyên qua một bức tường, hay là đọc được tâm
trí của những người khác.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS