|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
TẦM NH̀N TINH THẦN
(THE VISION OF THE SPIRIT)
Tác giả C. JINARAJADASA
Một bài thuyết tŕnh được đọc trước Hội nghị Thường niên thứ 36
của Hội Thông Thiên Học được
tổ chức ở Benares, năm 1911.
Tạp chí Nhà Thông Thiên Học, tháng 8, năm 1912
|
|
Lịch sử của nhân loại là lịch sử của những ư tưởng và những giai đoạn mà con
người đă vượt qua từ t́nh trạng dă man lên tới t́nh trạng văn minh; những
giai đoạn ấy có thể phân biệt được với nhau do ảnh hưởng của một vài thuyết
lớn. Trong số những giáo huấn đă uốn nắn các nền văn minh th́ ư tưởng Tiến
hóa nổi bật lên, là báo điềm cho một kỷ nguyên mới trong thế giới tư tưởng.
Thoạt đầu chỉ được coi là thú vị về mặt học thuật, chẳng bao lâu sau nó đă
được công nhận là có giá trị thực tiễn và ngày nay người ta biết nó cần
thiết để hiểu được mọi vấn đề trong mọi bộ môn hiện tồn.
Song le, sự thật là xét cho cùng th́
học thuyết tiến hóa chỉ là một thuyết. Chẳng ai sống lâu đến mức có thể thấy
được những mối liên kết đầy đủ trong chuỗi mắt xích tiến hóa để chứng nhận
rằng quả thật đă xảy ra những sự biến đổi được nêu trong định đề, nghĩa là
cái chuỗi mắt xích ấy không phải là điều hoang tưởng mà là sự thật. Thế
nhưng mọi người đều chấp nhận tiến hóa là một ư tưởng năng động, bởi v́
giống như một chiếc đũa thần nó tạo ra những điều kỳ diệu trong thế giới tư
tưởng. Nó sắp xếp những cơ thể khác về di truyền trong thiên nhiên thành ra
những nhóm có trật tự, và từ nguyên tố vô tri vô giác tiến lên tới nguyên
sinh chất, từ cơ thể đơn bào tiến lên tới cơ thể đa bào, từ loài không xương
sống tiến lên tới loài có xương sống, từ loài khỉ tiến lên tới loài người;
ta thấy có một cái thang sinh hoạt tăng lên măi.
Và khi phấn đấu lên tới con người, con sâu
Leo lên qua mọi cuộn xoắn ốc của h́nh tướng.
Thế nhưng chẳng ai có thể bảo rằng tiến hóa là một sự kiện dễ chịu cho ta
chiêm nghiệm, v́ có một sự tàn nhẫn trong những phương pháp của thiên nhiên
vốn thật là dễ sợ. Nó có vẻ cực kỳ độc ác và lăng phí, tạo ra và hoàn thiện
các tạo vật chỉ để làm mồi cho nhau, sinh sản ra nhiều hơn mức có thể sống
trong cuộc đấu tranh sinh tồn tàn khốc: “nhe răng giơ vuốt”, nó kiến tạo rồi
lại phá hủy, rồi lại kiến tạo, chỉ có mỗi một sự nhất tâm đó là c̣n một loại
h́nh sống sót bất chấp sự khoái lạc hay đau khổ đối với một sinh vật đơn
độc. Bản thân con người cho dẫu tự đắc với cái tự do tư tưởng và hành động
mà ḿnh tưởng tượng ra th́ chẳng qua cũng chỉ là những con tốt thí trên bàn
cờ mà thiên nhiên đang chơi. Người ta càng hiểu rơ sự tiến hóa theo những sự
kiện mà các nhà khoa học đă thu thập được cho đến nay bao nhiêu th́ người ta
càng có lư do chính đáng để nói theo Omar về việc ḿnh sinh ra đời, sinh
hoạt rồi chết đi như sau:
Nhập vào cái Vũ trụ này và Tại sao lại không biết,
Cũng chẳng biết Từ đâu đến giống như Nước tùy ư trôi chảy,
Và ra khỏi Vũ trụ giống như Gió lùa theo Hoang mạc,
Tôi cũng chẳng biết Đi về đâu cứ tùy ư thổi đi.
Dĩ nhiên cái thái độ này không tiêu biểu cho thái độ của đa số mọi người.
Hàng triệu người tin vào một Đấng Tạo hóa và “Thượng Đế ở trên trời hài ḥa
với thế gian!”. Nhưng cũng chẳng ngoa ngoắt khi bảo rằng sự lạc quan của họ
liên tục nhận ra những cú sốc thê thảm. Không một người nào nhạy cảm, dù nam
hay nữ, có thể nh́n xung quanh ḿnh mà không đồng ư với Tennyson so sánh
cuộc đời như một vở tuồng.
Hồi một; trần gian này là một sân khấu u ám với mọi điều khốn khổ.
Tất cả các bạn đều đau ḷng trước những màn diễn đổi thay.
Thế nhưng hăy kiên nhẫn. Nhà viết kịch có thể cho ta thấy,
Trong Hồi năm nào đó, Vở tuồng man dại này ngụ ư điều ǵ.
Cái ư tưởng tiến hóa lẫn ư tưởng có sự dẫn dắt của Thượng Đế theo như ta
quan niệm hiện nay, không thỏa măn đầy đủ được nhu cầu của con người đối với
một nhân sinh quan gợi linh hứng. Ư tưởng tiến hóa quả thật cho thấy một
tuồng diễn huy hoàng của thiên nhiên, nhưng nó chẳng có một thông điệp nào
dành cho cá nhân con người ngoại trừ việc khiến cho hầu hết cái chuỗi ngày
sống ngắn ngủi của y, khắc kỷ, ẩn nhẫn, cho đến khi bị tận diệt lúc thiên
nhiên không c̣n cần dùng tới y nữa. Ư tưởng được Thượng Đế dẫn dắt nói với
tâm hồn con người bằng một luận điệu dụ dỗ về một quyền năng tạo ra sự công
chính, nhưng nó thấy Thượng Đế chỉ tồn tại trong những khoảng trống của cái
trật tự vũ trụ không thương xót mà khoa học tiết lộ. V́ thế cho nên hiển
nhiên là thật đáng khảo sát khi có bất kỳ triết lư nào nêu định đề có một
mối quan hệ bất khả phân ly giữa Thượng Đế và sự tiến hóa, giữa thiên nhiên
và con người; đây chính là nhân sinh quan mà Thông Thiên Học xiển dương theo
sự minh giải của một ư tưởng vĩ đại duy nhất.
Ư tưởng này là sự Tiến hóa của Sự Sống. Cũng giống như khoa học hiện đại cho ta biết có một sự biến đổi không ngừng các h́nh tướng từ nguyên sinh chất lên tới con người; cũng vậy Thông Thiên Học khẳng định rằng song song đó là một sự sống biến dịch và tăng trưởng. Sự sống này không tùy thuộc vào h́nh tướng, mặc dù ta thấy nó liên kết với h́nh tướng; Thông Thiên Học bảo rằng, một là nó bất diệt và hai là nó đang tiến hóa.
Nó bất diệt theo nghĩa khi một cơ thể bị hủy diệt, song le tất cả không bị hủy diệt v́ có một sự sống vẫn c̣n có ư thức. Nếu một hoa hồng tàn lụi đi, cánh hoa của nó rơi rụng tan thành cát bụi, th́ không v́ thế mà sự sống của hoa hồng ngưng tồn tại; sự sống ấy vẫn trường tồn trong thiên nhiên, vẫn giữ lại trong bản thân mọi kư ức của mọi trải nghiệm mà nó trải qua khi hiện thân thành hoa hồng. Thế rồi theo diễn biến của lộ tŕnh đúng mức tuân theo những định luật mà người ta có thể hiểu được, sự sống ấy làm linh hoạt một hoa hồng khác thuộc một ḍng dơi khác, mang lại cho hiện thân thứ nh́ của ḿnh những kư ức của hiện thân thứ nhất. V́ vậy bất cứ khi nào dường như có sự chết của một sinh linh, cho dù là tinh thể hay thực vật, động vật hay con người, th́ vẫn c̣n trường tồn một sự sống và tâm thức bất diệt, cho dẫu xét theo bề ngoài th́ sự vật không c̣n sự sống nữa và qui tŕnh hủy diệt đă bắt đầu.
Hơn nữa sự sống này đang tiến hóa cũng giống hệt như cách thức mà nhà khoa học nói về sự tiến hóa của một cơ thể. Thoạt tiên, sự sống có tính cách vô định h́nh, chỉ đáp ứng chút ít với những kích thích từ bên ngoài, chỉ giữ lại những kư ức mong manh về những trải nghiệm mà nó đạt được qua những kiếp nhập thể liên tiếp. Nhưng nó tiến từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, thông qua những cơ thể càng ngày càng phức tạp hơn cho đến khi nó dần dần trở nên có chức năng xác định và đa dạng hơn; cũng giống như h́nh tướng bên ngoài tiến hóa từ nguyên sinh chất lên tới con người, cũng vậy sự sống cấp linh hồn cho h́nh tướng cũng tiến hóa như thế. Toàn thể thiên nhiên hữu h́nh và vô h́nh đều là môi trường tiến hóa của sự sống trải qua hàng loạt liên tiếp các h́nh tướng đang tiến hóa, với những giai đoạn tổng quát của sự sống tiến hóa chuyển từ giới khoáng vật sang giới thực vật, từ giới thực vật sang giới động vật, và từ giới động vật sang giới nhân loại.
Giáo lư về sự sống tiến hóa trải qua những h́nh tướng cũng đang tiến hóa đáp ứng được một số thắc mắc vốn gây bối rối cho nhà sinh học ngày nay. Nhiều sự kiện cho đến nay c̣n được gọi là nằm ngoài phạm vi khoa học lại được coi là minh họa cho những định luật mới, c̣n có những khoảng trống đă được bắc cầu nối liền khiến cho giáo lư về sự tiến hóa hợp lư hơn bao giờ hết. Nó chứng tỏ thêm rằng thiên nhiên không lăng phí và chỉ có vẻ là độc ác, bởi v́ chẳng có ǵ bị mất đi đâu và mọi trải nghiệm trong mọi h́nh tướng đă bị phá hủy qua qui tŕnh tuyển trạch tự nhiên th́ lại được sự sống ngày nay bảo tồn ǵn giữ. Những kiếp đă qua cho đến nay chứng tỏ rằng chủ đích của thiên nhiên không phải là lấy cái chết đè bẹp sự sống, mà là sự sống bao giờ cũng chiến thắng cái chết để dùng những tích lũy đó tạo ra con người bất diệt.
Nơi mỗi con người ta vẫn thấy cũng cái nguyên khí ấy là một sự sống bất diệt đang tiến hóa. Ấy là v́ con người là một sự sống và tâm thức cá thể, một linh hồn bất diệt có thể sống tách rời khỏi thể xác mà ta thường gọi là “con người”. Nơi mỗi linh hồn qui tŕnh tiến hóa đang hoạt động, bởi v́ khi bước vào tồn tại trên cương vị là linh hồn nó vẫn c̣n yếu đuối và hỗn loạn về tâm thức, lơ mơ và bất định trong việc hiểu thấu ư nghĩa cuộc đời, và chỉ có thể có một tầm tư tưởng và xúc cảm hẹp ḥi. Nhưng y cũng tiến hóa từ t́nh trạng bất định sang xác định, từ đơn giản sang phức tạp, từ hỗn độn sang trật tự.
Sự tiến hóa của con người là do những biểu lộ liên tiếp qua những nhục thể chuyển từ khi thể xác này chết sang bắt đầu sống một lần nữa ở một thể xác khác mới mẻ; và trong sự chuyển tiếp này y mang theo ḿnh kư ức về mọi trải nghiệm mà ḿnh đă đạt được trong quá khứ vừa qua. Khía cạnh này của sự sống tiến hóa ảnh hưởng tới con người, khía cạnh ấy được gọi là luân hồi.
Cũng như mọi qui tŕnh thiên nhiên đều có thể hiểu được dựa trên giả thuyết
về sự tiến hóa của cơ thể, cũng vậy mọi điều diễn ra cho con người đều có
thể hiểu được qua sự minh giải của thuyết luân hồi; cũng như sự tiến hóa
h́nh thể liên kết mọi h́nh tướng qua giống và loài, họ và ḍng, lớp và nhóm,
phân giới và giới, thành ra một dây xích không thể cắt đứt được; cũng vậy
luân hồi gắn liền mọi trải nghiệm của con người thành ra một triết lư sống
trước sau như một nhất quán. Giờ đây ta hăy xem luân hồi giải thích như thế
nào về những bí nhiệm xung quanh ta và gợi linh hứng cho ta như thế nào.
Xin các bạn hăy cùng tôi tưởng tượng rằng hiện hữu là một ngọn núi có hàng
triệu người đang leo lên đỉnh núi. Ắt cần phải mất nhiều ngày th́ một người
leo núi mới đạt tới đích. Thế th́ khi y leo lên hết ngày này sang ngày khác,
phần sự vật ở bên dưới y cũng như bên trên y đều thay đổi; mắt y thấy được
những phong cảnh mới, y hít thở được bầu không khí mới xung quanh ḿnh; mắt
y ắt thích ứng với những chân trời mới và từng bước một những sự vật đều
thay đổi h́nh dạng và kích thước. Cuối cùng khi người ta đi lên tới đỉnh núi
th́ một toàn cảnh rộng lớn trải dài ra trước mắt y, và y thấy rơ được mọi bộ
phận của con đường mà y đă leo lên, tại sao nó lại ch́m sâu vào thung lũng
rồi uốn quanh cái vách đá cheo leo ấy. Giả sử núi này tiêu biểu cho sự hiện
hữu c̣n những người nam nữ leo lên núi là các linh hồn bất diệt.
Bây giờ ta hăy nghĩ một lúc tới những người leo núi đang đứng ở chân núi và
sắp phải leo lên đỉnh. Ta biết rằng đường chân trời của họ bị hạn chế xiết
bao và họ chỉ có thể thấy được chút ít con đường dài dằng dặc trước mắt
ḿnh. Cứ cho rằng những người leo núi như thế tiêu biểu những thành phần lạc
hậu nhất trong nhân loại, người dă man nhất và kém thông minh nhất, kể cả
nam lẫn nữ mà ngày nay ta có thể thấy được. Theo thuyết luân hồi th́ có
những linh hồn non trẻ chỉ vừa mới bước vào tồn tại để trải qua sự tiến hóa
và trở thành những linh hồn toàn bích. Muốn hiểu được qui tŕnh tiến hóa, ta
hăy quan sát một người leo núi từng giai đoạn một khi y leo lên núi.
Điều đầu tiên mà ta chú ư đó là linh hồn này c̣n non trẻ và đang biểu lộ một
lưỡng tính. Ấy là v́ y vừa là linh hồn vừa là thể xác; trên cương vị là linh
hồn y xuất phát từ Thượng Đế, nhưng với vai tṛ là thể xác y xuất phát từ
loài thú.
Chúa dành căn nhà của con thú cho linh hồn một con người ở trong đó,
Và con người bảo rằng, thế liệu tôi có nợ Ngài không?
Chúa phán, không đâu, nhưng phải giữ nó sạch sẽ hết mức,
Và rồi ta sẽ cho ngươi một căn nhà tốt hơn.
Cơ thể mà con người cư ngụ trong đó có một bản năng mạnh mẽ, bản năng sinh
tồn đă được ghi dấu lên nó qua sự đấu tranh kịch liệt để sinh tồn của những
tổ tiên thú vật; bản thân con người là một linh hồn xuất phát từ Thượng Đế,
có trực giác, biết đúng sai, nhưng cho đến nay hầu như chưa có ư chí. Để
được sinh tồn cơ thể đ̣i hỏi rằng con người phải biết ích kỷ và vỗ ngực xưng
tên; v́ thiếu ư chí dẫn dắt sự tiến hóa cho nên con người hành động theo sự
thôi thúc của thể xác.
TẦM NH̀N CỦA BIỆT NGĂ
V́ thế cho nên ở giai đoạn sơ khởi nhất của linh hồn, tầm nh́n về cuộc đời
của nó khi nó leo lên đỉnh núi là tầm nh́n của biệt ngă. Nguyên tắc hành
động của nó là “Cái của tôi không phải là cái của bạn”; ḷng tham chi phối
nó, sự khao khát cảm giác thôi thúc nó và nó ít chú ư tới việc nó thật bất
công và độc ác, đối với những người khác th́ nó trải qua những ngày và đêm
ích kỷ, vỗ ngực xưng tên. Nó có vẻ có ư chí mạnh mẽ v́ nó đè bẹp được kẻ yếu
đuối hơn ḿnh, nhưng thật ra nó chẳng có ư chí ǵ hết v́ nó chẳng qua chỉ là
tṛ đùa của sự di truyền động vật mà nó không thể kiểm soát được. Tự do ư
chí của nó chẳng hơn ǵ cái guồng quay nước quay theo sức điều động của
lượng nước phun xuống; nó chẳng qua chỉ là công cụ của một “ư chí sinh tồn”
hoàn thành một chủ đích không phải là chủ đích của chính nó.
Hàng triệu người nam nữ xung quanh ta đang ở giai đoạn thứ nhất đó. Sự khôn
lỏi xảo quyệt của họ hầu như chẳng đáng được gọi là trí năng, đó là sự khôn
lỏi của một Falstaff (nhân vật béo và hay khôi hài trong kịch của
Shakespeare) mà đối với y th́ “thế giới đối với tôi là cái con ṣ mà tôi sẽ
dùng gươm cạy miệng nó ra”. Ở giai đoạn động vật kém cỏi nhất th́ mục đích
sống của nó là thoải mái: “chúng ăn mặc, tiêu hóa, nói ra lời
rành mạch; chúng hầu như không biểu lộ một sinh lực nào khác”. Vũ trụ xung
quanh họ thật là vô nghĩa và họ hầu như không thể thắc mắc “Cứ giả sử Mặt
trời mọc, việc sáng tạo ra thế giới diễn ra tới
hai lần th́ nó không c̣n là điều
ǵ kỳ diệu, đáng chú ư hoặc có thể ghi nhận được”. Cái rốn vũ trụ ở nơi bản
thân họ; họ cũng chẳng cần biết và quan tâm xem liệu có một cái rốn vũ trụ
nào khác chân thực hơn chăng.
Thế nhưng khi ta nhận ra rằng mỗi một trong những linh hồn này đều bất diệt
và tương lai của nó là “tương lai của một điều ǵ đó tăng trưởng và huy
hoàng vô hạn”, th́ ta bắt đầu hiểu ra được tại sao ở giai đoạn sơ khai này
ḷng ích kỷ lại đóng một vai tṛ nổi bật trong sinh hoạt của y. Ấy là v́
trong giai đoạn sắp tới y phải có khả năng đứng một ḿnh, đứng vững trên một
nền tảng cá tính, cố kết, v́ thế cho nên giờ đây y phải phát triển sáng kiến
và sức mạnh. Y mau chóng trả thù, nhưng nhờ vậy mà các mầm mống của quyết
định chớp nhoáng mới tăng trưởng được; y khống chế và độc ác nhưng những hạt
giống của việc quản trị thông minh bắt nguồn từ chính cái sự xảo quyệt mang
tính động vật mà y phơi bày. Mọi điều ác mà y thực hiện th́ một ngày nào đó
cũng phải bị trở lại qua việc phụng sự vất vả cho những nạn nhân của ḿnh;
thế nhưng nói chung điều ác mà y thực hiện ở giai đoạn này có vẻ kém hơn về
mặt số lượng và sức mạnh so với điều ác được thực hiện trong những giai đoạn
sau này khi trí thông minh sắc sảo hơn và xúc động mạnh mẽ hơn. Ở một thời
kỳ nào đó, trong sự tiến hóa của con người, ḷng ích kỷ có vai tṛ trong cơ
cấu tổ chức sự vật, bởi v́ ḷng ích kỷ cũng là một lực được dùng để xây dựng
công sự pḥng thủ ở trên trời.
Những linh hồn này mà nguyên nhân
của ḷng ích kỷ chỉ v́ c̣n non trẻ, những linh hồn ấy vẫn có bản thể thiêng
liêng của Thượng Đế và nơi họ không có điều ác nào thuộc loại chủ động;
những thói xấu chẳng qua chỉ là sự thiếu vắng đức tính; c̣n điều ác th́
“không có, chẳng là ǵ hết, là sự im lặng hàm ư có âm thanh”. Mỗi linh hồn
đều là một “người tốt” mà sâu thẳm bên trong có một trí thức về “con đường
duy nhất chân thực”, mặc dù khi toan tính bước trên con đường ấy y có vẻ là
thụt lùi hơn là tiến hóa. Cũng giống như những cái cây trong vườn (mỗi cái
cây trong vườn, mỗi linh hồn) đều được chăm sóc bởi Đấng phát sinh ra chúng;
Ngài biết các linh hồn toàn bích mà Ngài ắt tạo ra qua sự thay đổi và tăng
trưởng theo thời gian.
Mặc dù việc phụng sự của y đối với Ta vẫn c̣n lúng túng,
Chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đưa y tới một buổi sáng trong trẻo hơn.
Đừng nh́n người làm vườn, ngay cả khi y đang ươm mầm cho cái cây,
Cả hoa và trái đều tô điểm cho những năm tháng tương lai.
Hết kiếp này sang kiếp khác, ba hồi
là nam ba hồi là nữ; sống một cuộc đời ích kỷ rồi chết đi và hầu như là
không thấy được sự thay đổi nào trong tính t́nh của họ; nhưng dần dần một sự
bất măn len lỏi vào đời họ. Cái trí cùn nhụt cho nên không lĩnh hội được mối
quan hệ của cá thể với tổng thể, c̣n óc tưởng tượng quá yếu kém nên không vỡ
lẽ ra được “con người không chỉ sống bằng bánh ḿ”. V́ thế cho nên y phải
chịu “hàng ngàn sự chấn động thiên nhiên đối với xác thịt”, chúng lũ lượt
xếp hàng đi qua và được dùng để cải tạo lại cái sự tự măn qui ngă ấy; tuổi
già, sự chết, trải bóng lên họ vốn không có quyền năng làm buồn một cái tâm
hồn có triết lư; bệnh tật và tai nạn ŕnh rập chờ đón họ, làm cho tinh thần
họ nặng trĩu và khiến cho họ nổi loạn chống lại một số phận mà ḿnh không
hiểu nổi. Chừng nào tâm hồn họ c̣n chưa ấp ủ một chủ đích thiêng liêng của
Thượng Đế th́ một con Chó săn trên Trời vẫn theo đuổi họ, th́ “không một
điều ǵ che chở cho y khi nó không che chở cho Ta”.
Thế rồi họ trở nên sẵn sàng chuyển sang giai đoạn kế tiếp; lập nên nền tảng
của những năng lượng, c̣n cá thể đứng vững trên nền tảng được xây dựng qua
ḷng ích kỷ. Bây giờ đă tới lúc bắt đầu công tŕnh vất vả là vứt bỏ bản ngă;
thế là mở ra trước con mắt đăm đăm của linh hồn tầm nh́n về giai đoạn kế
tiếp. Tùy theo loại h́nh của linh hồn mà tầm nh́n này hoặc là Tầm nh́n của
cái Trí hoặc là Tầm nh́n của Xúc động.
Trên đời này có hai loại linh hồn chính yếu, một loại h́nh có trí thông minh
kiểm soát được xúc động, c̣n loại h́nh kia có xúc động khống chế được cái
trí. Loại h́nh này chẳng hề tiến hóa hơn loại h́nh kia; chúng đều là những
giai đoạn chuyển tiếp để tăng trưởng một quan năng cao hơn đó là quan năng
Trực giác. Tầm nh́n ở giai đoạn thứ ba là Tầm nh́n Trực giác, nhưng muốn đi
tới đó xuất phát từ giai đoạn thứ nhất, các linh hồn phải trải qua hoặc là
trí năng hoặc là xúc động. Trước hết ta hăy xét những linh hồn tiến hóa qua
con đường trí năng.
TẦM NH̀N CỦA CÁI TRÍ
Ta ắt thấy trong quá khứ, những linh hồn này đă phát triển được nhiều trí
thông minh trong giai đoạn đầu tiên; ḷng ích kỷ của họ đă khiến cho họ
nhanh chóng và xảo trá thích ứng các cơ hội nhằm mưu t́m được sự thoải mái.
Giờ đây trí thông minh này được tiếp quản bởi những lực Dẫn dắt vô h́nh của
tiến hóa và linh hồn được đặt vào môi trường hoàn cảnh làm biến đổi cái sự
xảo trá chỉ mang tính thú vật ấy thành ra trí năng chân chính. Những điều
thiện và ác trong quá khứ mà y đă gieo ắt được điều chỉnh lại khi y gặt, sao
cho việc này cung cấp cho y sự bận tâm và quan tâm, khiến cho y bắt buộc
phải nghĩ tới những con người và sự vật xung quanh ḿnh tách rời khỏi mối
quan hệ với bản thân ḿnh. Thay v́ cân nhắc những trải nghiệm theo kiểu sự
thoải mái cho cá nhân, giờ đây y bắt đầu xếp nhóm chúng lại thành các loại
h́nh và phạm trù; dần dần y bắt đầu thấy một trật tự vật chất và đạo đức
trong cái càn khôn lớn mạnh hơn ư chí của y. Thoạt đầu khi thấy mỗi định
luật trong thiên nhiên th́ y khiếp sợ bởi v́ nó có vẻ làm cho y nhụt chí;
nhưng về sau khi trải nghiệm nhiều hơn về sự vận hành của định luật th́ y
bắt đầu tin cậy vào nó và lệ thuộc vào nó để thành tựu được mục đích của
ḿnh. Ḷng yêu thích học thức bắt đầu xuất hiện nơi y và thiên nhiên không
c̣n là tờ giấy trắng nữa; y không c̣n là “một cặp mắt kính mà đằng sau đó
không có con mắt nào”.
Ở giai đoạn này ta ắt thấy rằng ḷng ích kỷ vẫn c̣n có nơi y, nó sẽ làm méo
mó những phán đoán của cái trí y. Y ắt là một kẻ giáo điều, một thầy đời ưa
đấm đá và đầy thành kiến; ấy là v́ mọi trí năng của y, mọi tính t́nh của y
đều bộc lộ những nhược điểm nổi bật và y thường nh́n thấy rồi xiển dương
những nguyên tắc ứng xử mà y không tài nào ứng dụng được cho bản thân. Y cứ
thất bại đi thất bại lại măi trong việc biết ra ḿnh thông hiểu thế giới quá
ít, bởi v́ thế giới là hiện thân của một sự sống vượt trên cả cái trí và chỉ
dùng cái trí để t́m hiểu thế giới không thôi ắt sẽ hiểu lầm nó. Nơi việc trí
năng phát triển quá đáng ắt lại là khuyết điểm của trí thông minh, cho nên y
xem xét mọi sự vật dường như qua một cái kính âm u.
Trải qua nhiều kiếp th́ nhờ vào cái trí y mới dần dần thu lượm những trải
nghiệm để đồng hóa chúng thành một nhân sinh quan đúng thực hơn. Đến lúc bấy
giờ y mới bắt đầu tham gia vào sinh hoạt trí thức của thế giới và khi y ở
trước ngưỡng cửa của giai đoạn kế tiếp th́ ta ắt thấy y là một người làm
việc về khoa học, triết học hoặc văn chương. Nhưng trí năng của y vẫn c̣n có
một xu hướng cá nhân quá lớn và trí năng ấy phải trở nên vô ngă, trong sáng
trước khi có được tầm nh́n kế tiếp là tầm nh́n của trực giác. Lại một lần
nữa ta ắt thấy rằng một sự bất măn xâm nhập vào cuộc đời của y. Những cấu
trúc mà y đă xây dựng cần mẫn xiết bao do thành quả của biết bao nhiêu năm
làm việc lần lượt sụp đổ hết, bởi v́ thiên nhiên hé lộ những sự kiện mới cho
thấy cái thế giới theo sự tổng quát hóa của y chỉ đúng có một phần; cái thế
giới mà y đă vất vả cực nhọc với nó ắt quên lăng y đi để cho những người
hoạt động non trẻ hơn sẽ tiếp được những danh dự lẽ ra phải thuộc về y. Y ắt
phải bị hiểu lầm ngay cả bởi những người bạn thân nhất và “y giờ đây nếu
không ngừng th́ cũng tạm gián đoạn việc gặm nhấm tâm hồn của chính ḿnh, và
giơ nanh vuốt hướng ra xung quanh ḿnh bên ngoài nhắm vào cái Phi ngă để có
được một món ăn ngon lành hơn”.
Nhưng mặc dù là việc gặt nỗi buồn gieo bất công cho những người khác qua
những thành kiến sớm muộn ǵ nỗi khổ này cũng mang theo nó một sự thanh tẩy
cao độ; linh hồn học được bài học lớn là làm việc v́ ích lợi của làm việc
chứ không phải v́ thành quả của tác động. Giờ đây nó biết được niềm vui của
việc hiến ḿnh vị tha để mưu cầu sự thật. Vốn là một học viên triết lư nhưng
không nô lệ cho bất cứ triết lư nào, giờ đây nó quan sát thiên nhiên “như
thật” và nhờ vào cái trí hoàn toàn vô ngă, nó lần lượt giải quyết được các
bí nhiệm của thiên nhiên; giờ đây ta có thể nói về y theo các môn đồ
Pythagore như sau : “một trí năng vĩ đại là bản ḥa ca của thiên tính”. Thế
là nơi y ló dạng Tầm nh́n của Trực giác.
TẦM NH̀N CÙA XÚC ĐỘNG
Khi mô tả việc chuyển tiếp từ giai đoạn đầu sang giai đoạn thứ nh́, tôi có
nói rằng trên thế giới có hai loại h́nh chính yếu về linh hồn - một là những
người chuyển từ Tầm nh́n của Biệt ngă sang Tầm nh́n của Trực giác nhờ vào
cái trí; và hai là những người khác phát triển theo con đường song song và
chuyển từ xúc động lên tới trực giác. Chúng ta vừa mới thấy bằng cách nào
linh hồn được rèn luyện thông qua trí năng để vứt bỏ bản ngă; giờ đây ta ắt
thấy bằng cách nào ta đạt được cũng kết quả đó đối với những người có xúc
động thắng thế cái trí.
Cũng giống như loại h́nh trí thức chứng tỏ trong giai đoạn đầu tiên một sự
phát triển nổi bật của trí thông minh thuộc loại thấp; cũng giống như vậy ta
ắt thấy rằng những linh hồn sắp xem xét chứng tỏ có nhiều xúc cảm cũng trong
cùng giai đoạn ấy. Xúc cảm này không hề thanh bai hoặc vị tha; thật vậy nó
hầu như là tham dục và ghen tuông, với có lẽ thêm vào đó một chút xúc động
tôn giáo thô thiển. Nhưng loại tính t́nh này hiển nhiên dễ bị chi phối bởi
xúc động và đặc điểm này nơi linh hồn giờ đây được tiếp quản và tác động lên
đó để khiến cho y có khả năng chuyển sang giai đoạn kế tiếp.
Tùy theo xu hướng xúc động và ích
kỷ, hiển nhiên đối với xúc cảm của những người xung quanh ḿnh linh hồn ắt
cưỡng chế những người khác yếu hơn ḿnh phải làm nô lệ cho ham muốn của
ḿnh; nhưng những đam mê và óc chiếm hữu của y đối với những người thỏa măn
ḷng tham dục của ḿnh ắt liên kết y với họ hết đời này sang đời khác, cho
đến khi y từ từ bắt đầu cảm thấy rằng họ thiết yếu cho sinh hoạt xúc động
của ḿnh và không thể bị tùy tiện vứt bỏ. Dần dần th́ những đam mê không
trong sạch này ắt được chuyển hóa thành những t́nh cảm luyến ái trong sạch
hơn; thế rồi y ắt trở đi trở lại tiếp xúc với họ sao cho những xúc động của
y ắt theo xung lực ùa ra hướng về họ. Những điều ác mà y gây ra đối với họ
trong quá khứ giờ đây ắt che mắt họ và khiến cho họ dửng dưng với y. Y ắt bị
bắt buộc phải yêu thương, phải chuộc tội về điều ác trong quá khứ qua việc
phụng sự, nhưng phần thưởng duy nhất chỉ là thất vọng; khi giận dỗi y cố
gắng phá vỡ cái ràng buộc liên kết y với họ th́ y ắt thấy ḿnh không thể
làm. Y ắt nguyền rũa t́nh yêu để rồi cứ trở đi trở lại mang lễ vật dâng lên
bàn thờ t́nh yêu.
Mặc dù cuộc sống giờ đây trở nên tràn đầy phẩn chí và thất vọng, trong những
lúc thanh thản hơn y ắt thừa nhận rằng bất chấp nỗi đau khổ mà nó mang lại,
sinh hoạt xúc động đă từ từ mở ra một cảm thức mới nơi y. Thỉnh thoảng y bắt
gặp những thoáng nh́n về sự thanh xuân bất diệt nơi vạn vật và cái thế giới
vốn có vẻ âm u và già nua tẻ nhạt lại xuất hiện trong một vài cơn căng thẳng
xúc động nào đấy, giống như y đă từng biết nó trước khi cuộc đời trở thành
một thảm kịch. Những sự thoáng thấy này thoạt tiên thật phù du, quả thật chỉ
kéo dài chừng nào mà xúc động yêu thương c̣n tô điểm cho bản thể y; nhưng
đối với y sẽ có một lúc mà
Khi cả thế giới c̣n non trẻ thanh xuân,
Và mọi cái cây đều xanh màu lá,
Và mọi con ngỗng đều là một con thiên nga,
Và mọi cô gái đều là một nữ hoàng.
Hết đời này sang đời khác, được bồi dưỡng bằng những t́nh yêu phù du, ư thức
này ắt tăng trưởng nơi y cho đến khi nó nở rộ thành ra một cảm thức về phép
lạ. Lúc bấy giờ thiên nhiên khai thị qua vạn vật đang sinh hoạt những giá
trị mới có ư nghĩa mà từ nay trở đi y chẳng bao giờ hoàn toàn quên được.
Trong khi t́nh yêu c̣n cháy bỏng trong tâm hồn y th́ mỗi ngọn cỏ, mỗi chiếc
lá, mỗi đóa hoa đều có một ư nghĩa mới đối với y; giờ đây y thấy được vẻ đẹp
mà trước đó y chẳng thấy ǵ. Mọi thứ đẹp đẽ xung quanh y - một khuôn mặt,
một đóa hoa, một buổi hoàng hôn, một bản nhạc du dương - ắt liên kết y một
cách bí nhiệm với những ǵ mà y yêu thương; thế giới không c̣n là một trang
giấy trắng nữa.
T́nh yêu đánh thức con người mỗi lần trong một kiếp sống.
Người ta ngước đôi mắt nặng trĩu lên và ngắm nh́n.
Và xem này! điều mà một trang giấy ngọt ngào có thể dạy được,
Người ta vui vẻ đọc rồi khép cuốn sách lại.
Thế là một số người tạ ơn, c̣n một số người báng bổ,
Và hầu hết đều quên đi mất. Nhưng dù sao đi nữa th́ đó vẫn là giấc mơ của
trẻ con mà chẳng ai chú ư tới.
Giấc mơ ấy là trọn cả ánh sáng suốt ngày của chúng.
Ắt xảy ra việc cái cảm thức phép lạ này chỉ năm th́ mười họa và lại có những
thời kỳ mà thế giới bị che phủ đi; nhưng bức màn che này do chính y tạo ra
và nếu y muốn có Tầm nh́n Trực giác th́ y phải xé toang nó đi. Một lần nữa
sự bất măn lại xâm nhập cuộc đời y, bất măn v́ chính t́nh yêu xét cho cùng
cũng vẫn là phù du. Những người mà y yêu thương rồi yêu y trở lại ắt bị tước
đoạt khỏi tay y ngay khi cuộc đời dường như đang nở hoa; những người bạn mà
y lư tưởng hóa ắt đập tan tành những lư tưởng đă được triều mến tặng cho
ḿnh. Cho dù mọi điều đó có vẻ là độc ác th́ chẳng qua cũng chỉ là việc gặt
nỗi buồn ḿnh đă gieo trong kiếp quá khứ, nhưng giờ đây việc gặt hái ấy luôn
luôn có ư nghĩa. Cho đến nay y chưa hề yêu thương chính T́nh yêu, mà chỉ yêu
thương cái bóng dáng của t́nh yêu, y không yêu thương cái Lư tưởng không
điều ǵ có thể bị tước đoạt từ đó, mà chỉ yêu thương cái đồ giả mạo vốn phải
chịu suy giảm; giờ đây y phải nh́n thấy rơ ràng hơn và cảm nhận chân thực
hơn. Tính t́nh phải được b́nh ổn sao cho nó không nhảy từ sự hồ hởi phấn
khởi sang sự chán nản trầm cảm, cũng không thỏa măn với một cảm thức thần bí
mơ hồ ưa hào hứng với những xúc cảm của chính ḿnh hơn là thẩm định điều gây
ra những xúc cảm đó.
V́ thế cho nên tất yếu phải có sự
thanh tẩy thông qua đau khổ; cái cặn bă bản ngă bị thiêu đốt đi cho đến khi
chỉ c̣n lại vàng ṛng là ham muốn thiêng liêng. Lúc bấy giờ y phát hiện ra
rằng những cảm xúc chân thực nhất chỉ là những cảm xúc có nơi ḿnh tinh thần
hiến dâng. Giờ đây khi y đă được thanh tẩy về ham muốn, c̣n loại h́nh linh
hồn khác đă có trí năng vô ngă th́ Tầm nh́n của Trực giác mới ló dạng được.
TẦM NH̀N CỦA TRỰC GIÁC
“Trước khi mắt có thể nh́n thấy th́ nó phải không c̣n nhỏ lệ nữa. Trước khi tai có thể nghe thấy th́ nó ắt là phải mất đi sự nhạy cảm của ḿnh”. Mọi linh hồn đạt tới tŕnh độ này th́ đến nay đă học được bài học cay đắng; đó là “chỉ khi ta biết Xả bỏ Sự Sống theo đúng nghĩa, th́ ta mới có thể nói là Sự Sống ấy bắt đầu”; qua trải nghiệm của chính ḿnh họ đă chứng tỏ rằng điều đă từng có lần có lẽ là sự chết th́ chẳng qua chỉ là “sự thống hối để bước vào cuộc sống mới”. Giờ đây họ đă phát hiện ra ư nghĩa của sự sống - con người là con của Thượng Đế, đến với cuộc đời để cộng tác với Cha ḿnh. Cũng chẳng có ǵ quan trọng khi linh hồn không tự nhủ mối quan hệ của ḿnh với tổng thể bằng những lời lẽ nêu trên; chỉ quan trọng khi y đă phát hiện thấy rằng phần việc của ḿnh trong khi hiện là một người làm một phần việc và không điều ǵ xảy ra cho ḿnh mà quan trọng, chừng nào cái công việc ấy c̣n tiến tới cứu cánh tất yếu. Y biết rằng cứu cánh của tư tưởng và xúc cảm là làm việc v́ đồng loại, và làm việc như vậy (1) là phải vô dục, (2) là không được nghĩ tới phần thưởng và (3) là tràn đầy óc hiến dâng biết ơn.
Giờ đây y có được quan năng của trực giác; nó siêu việt được cả lư trí và
xúc động, thế nhưng nó có thể biện minh những phán đoán của ḿnh cho cả lư
trí lẫn xúc động. Y tăng trưởng vượt qua “óc phân biệt phải trái thông
thường”, tiêu chuẩn về những sự việc thông thường để tiến vào một cảm thức
phi thường; ấy là v́ cuộc đời giờ đây tràn đầy những sự việc phi thường mà
những người khác không biết được sự tồn tại của chúng. Y phân biệt ra được
những yếu tố vô h́nh nơi người nam và nữ vốn tất yếu trong mối quan hệ giữa
người và người; và v́ vậy phán đoán của y về người ta “không phải thuộc thế
giới này”. Trong mọi chuyện mà y nh́n thấy và cảm nhận thấy th́ đều có Sự
Sống Nhất Như. Bất cứ điều ǵ thống nhất đều thu hút y; nếu là trí thức y ắt
thích tổng hợp về khoa học và triết học; nếu thuộc mẫu người xúc động y ắt
hiến ḿnh cho nghệ thuật hoặc t́nh nhân ái.
Giờ đây Vạn thù trở thành Nhất bổn đang từ từ diễn ra với y. Y chỉ biết được
Nhất bổn qua tầm nh́n của giai đoạn kế tiếp, nhưng để chuẩn bị y cho tầm
nh́n ấy, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và triết lư, ắt suy diễn cho y những
loại h́nh căn bản vĩnh hằng từ cái kính vạn hoa của cuộc sống. Các loại h́nh
của h́nh tướng, loại h́nh của tư tưởng, loại h́nh của xúc động, loại h́nh
của tính khí, th́ y đều nh́n thấy khắp nơi xung quanh ḿnh và sự sống trong
mọi giai đoạn đều được biến hóa v́ nó phản chiếu giống như trong một tấm
gương những Nguyên mẫu thiết kế của một cơi giới vượt ngoài tầm thời gian,
không gian và biến dịch.
Mọi thứ trong kiếp sống hữu hoại
Chẳng qua chỉ là một loại h́nh;
Điều chỉ có giá trị chút ít,
Ở đây đă được chín muồi.
Điều vốn là một bí nhiệm,
Ở đây hiện rành rành trước mắt;
Điều Hằng-nữ tính,
Thu hút ta ở trên cao.
Giờ đây “điều Hằng-nữ tính” cho y thấy đâu đâu cũng có một Minh triết duy
nhất; khoa học cho y biết về tính đơn nhất của thiên nhiên, c̣n triết học
cho y biết rằng con người là một tâm thức sáng tạo ra thế giới của ḿnh;
nghệ thuật khai thị vẻ thanh xuân và vẻ đẹp trong vạn vật, c̣n tôn giáo th́
thào cho y biết rằng T́nh yêu ấp ủ tất cả. Sự đồng cảm của y tỏa khắp vạn
vật, khi ư chí của y hằng phụng sự vạn vật.
Giờ đây y đă gần tới lúc mà Tầm nh́n của Tinh thần ắt nó dạng. Nhưng để đưa
y tới tận cánh cổng của nó th́ một lần nữa sự bất măn lại xâm nhập vào linh
hồn y. Đó không c̣n có thể là sự bất măn mang tính cá nhân nữa; nỗi buồn v́
gặt hái sự phiền năo do điều ác mà ḿnh làm nay đă qua rồi, và “chỉ có nỗi
phiền năo của người khác là phủ bóng lên tôi thôi”. Nó cũng chẳng bị gây ra
bởi bất cứ cảm thức nào về sự vô thường của vạn vật, bởi v́ y đă biết hoàn
toàn chắc chắn rằng ḿnh bất tử và mặc dù vạn vật vô thường th́ đằng sau nó
vẫn có cái ǵ đấy chẳng bao giờ thay đổi. Thế nhưng, trong khi y bám lấy cái
mục tiêu đă được qui định đó th́ sự bất măn phải luôn luôn có mặt.
Giờ đây y trở thành một nhà sáng tạo. Ấy là v́ khi được trực giác dẫn dắt y
ắt sáng tạo trong cái địa hạt nỗ lực mà ḿnh đă tự rèn luyện trong những
kiếp quá khứ; cho dù với vai tṛ thi sĩ, nghệ sĩ, chính khách, thánh nhân
hoặc khoa học gia th́ y đều là một trong những thiên tài của thế giới. Nhưng
mặc dù những sáng tạo của y ắt là một phép lạ đối với toàn thể, thế nhưng
đối với y chúng chỉ phần nào đúng, phần nào đẹp, bởi v́ y vẫn thấy rơ cái lư
tưởng mà ḿnh thất bại trong việc đưa xuống cho loài người và biết rằng thất
bại của ḿnh không ai khác có thể biết được. Cuộc sống đang dạy cho y “đạt
tới cái không thể đạt được qua h́nh bóng chiếu của cái ấy”.
Thế là hết kiếp này sang kiếp khác, y tăng trưởng với vai tṛ nhà khoa học
và thi sĩ, nghệ sĩ và vị thánh, giờ đây chúng ḥa lẫn lại thành ra một loại
h́nh người mới nh́n thấy bằng “tầm nh́n rộng lớn hơn và khác hơn tầm nh́n
của chúng ta”. Y đă có trở lại sự nguyên sơ của ḿnh trong tâm hồn và sự
ngây thơ vô tội của ḿnh trong đôi tay để trở thành “một anh nhi”; “do ḷng
thương xót đă được thắp sáng giờ y đă là Parsifal, “Thằng khùng Trong sáng”
bước vào di sản của ḿnh.
TẦM NH̀N CỦA TINH THẦN
Thế rồi chính ở cái ngưỡng cửa ấy, y gặp gỡ cái Đấng đă quan sát y leo lên
trong nhiều kiếp và mọi thứ không ai thấy được đă khích lệ y. Đây chính là
Chơn sư, một đấng có “cái t́nh đồng đội tốt hảo nhất của những hiệp sĩ nổi
tiếng thế gian vẫn c̣n ghi danh”. Nơi Ngài, linh hồn thực chứng được mọi lư
tưởng đă thu hút y tiến lên và khi đề huề với “Cha trên Trời” th́ giờ đây
ngài bước trên thánh đạo trong khi Chơn sư chứng tỏ Tầm nh́n Tinh thần cho
ngài. Ai mà miêu tả được cái tầm nh́n ấy nếu không phải là những đấng đă có
nó, và bằng cách nào mà một người kém hơn Chơn sư lại có thể nói được về nó
một cách đầy thẩm quyền? Thế nhưng v́ các Chơn sư Minh triết đă sống giữa
nhân quần, v́ Đức Phật, đấng Krishna và đấng Kitô đă thông qua cuộc đời ḿnh
chứng tỏ cho ta thấy tầm nh́n đó là ǵ, cho nên chắc chắn là từ cuộc đời của
các ngài ta có thể suy ra tầm nh́n ấy ắt phải là ǵ.
Trong Tầm nh́n đó của Tinh thần th́ Vạn thù chính là Nhất bổn. “Ngài đến rồi
đi đơn độc trong vũ trụ này. Ngài là lửa và Ngài thấm nhuần nước; chỉ có
Ngài mới hiểu được cái vượt qua sự chết; không c̣n con đường nào khác để đi
theo nữa.”
Giờ đây đối với linh hồn đă kết thúc việc leo lên th́ mỗi con người chỉ là
“tinh thần mà ḿnh hoạt động trong đó, không phải là cái ḿnh làm, mà là cái
ḿnh trở thành”. Cuộc đời này chẳng có ǵ cao hay thấp, bởi v́ trong mọi thứ
ngài đều thấy có một tia xuất phát từ Ngọn lửa Thiêng liêng; xuyên suốt qua
điều cao nhất cũng như điều thấp nhất, đối với ngài “Thượng Đế đều đang ẩn
trong đó, tŕnh hiện đủ ánh sáng của ḿnh để cho chúng ta vươn lên ra khỏi
bóng tối”. Từ nay trở đi cuộc đời trở thành một phép Bí tích và ngài là Đấng
cử hành phép đó; bằng những tư tưởng và hành vi yêu thương, ngài cử hành
phép Bí tích để hiệp thông con người với Thượng Đế và Thượng Đế với con
người. Ngài phân biệt, tẩy trược nơi bản thân và hiến dâng cho Thượng Đế “vô
vàn nỗi đam mê và nỗi đau của những tâm hồn hữu hạn đang thổn thức”; ngài
mang đến cho con người cái xuất phát từ Thượng Đế trên cao mà chỉ có nó mới
thỏa măn được nỗi niềm thổn thức đau đáu đó.
Ngài đă xả bỏ cái “ư chí sống” và nhờ vậy đă biến mục đích của ư chí này
thành chủ đích của ḿnh; “khi xả bỏ bản ngă tôi tăng trưởng lên thành vũ
trụ”. Thế nhưng ngài ngây ngất biết rằng “Ngă” ấy chẳng qua chỉ là một thấu
kính nhỏ xíu trong một Ánh sáng lớn lao. Từ nay trở đi ngài chỉ sống sao cho
một điều Cao cả hơn ngài có thể hoạt động thông qua ngài, yêu thương thông
qua ngài và hành động thông qua ngài; và măi măi tâm hồn ngài sẽ th́ thào dù
ở trên thiên đường hay dưới địa ngục, bất cứ nơi đâu và công việc của ngài
có thể đưa ngài tới đó th́: “Tôi biết Ngài, đấng Đại hùng, sáng chói như Mặt
trời vượt ngoài tầm Bóng đêm; chính Ngài và chỉ có Ngài thôi, không c̣n ai
khác biết được cái vượt qua sự chết; không c̣n con đường nào khác để đi theo
nữa”.
*
* *
Như vậy là chúng ta, một số những người hạnh phúc, một ít những người tiên
phong trong những thời đại mới đều có nhân sinh quan theo sự minh giải của
thuyết luân hồi. Cũng giống như nhà tiến hóa luận coi như toàn thể thiên
nhiên nối kết với nhau thành một chiếc thang sự sống duy nhất, trời, đất và
biển, minh chứng cho y sự tiến hóa; cũng vậy chúng ta thấy mọi người liên
kết với nhau qua một chủ đích chung duy nhất, niềm hi vọng và sợ hăi của họ,
sự xả thân và ích kỷ của họ, minh chứng sự luân hồi cho ta. Đối với chúng ta
cuộc sống và những trải nghiệm của nó không c̣n là:
Một ṿng cung mà thông qua nó,
Lấp lánh cái thế giới chưa ai đi tới đó, đường biên của nó mờ nhạt đi,
Măi măi và măi măi khi tôi tiến tới.
Đối với chúng ta thế giới không c̣n giống như người thi sĩ cất tiếng ca
ngâm:
Hồi một, trái đất này là một giai đoạn u ám với sự khổ năo,
Tất cả chúng ta đều bị ốm yếu trước những phong cảnh đổi dời.
Thế nhưng hăy kiên nhẫn. Nhà viết kịch của chúng ta có thể cho thấy.
Vở tuồng man rợ này ngụ ư ǵ ở một Hồi năm nào đấy.
Ở đây, Hồi năm có trước mắt chúng ta. Chính cái Linh ảnh về Tinh thần ấy là
di sản của mọi linh hồn và mọi người đang từ từ tiến tới đó v́ “tuyệt nhiên
không c̣n con đường nào khác để mà đi”.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS