|
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
SỰ TIẾN HÓA CỦA LOÀI THÚ
(THE EVOLUTION OF
ANIMALS)
Trích Chương VII
Quyển
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA THÔNG THIÊN
HỌC
(SỰ TIẾN HÓA HUYỀN BÍ CỦA
NHÂN LOẠI)
Tác giả C.
Jinarājadāsa
|
|
SỰ TIẾN HÓA CỦA LOÀI THÚ
Khi khảo sát thiên nhiên ta có thể dễ dàng thấy rằng
cho đến nay đại đa số sinh vật khộng thuộc về giới nhân loại mà thuộc giới
thực vật và động vật. Các thuyết khoa học hiện đại cho ta biết rằng có một
cầu nối tiến hóa của hình tướng từ giới thực vật lên giới động vật, rồi từ
giới động vật lên giới nhân loại; vì vậy hiển nhiên là bởi vì cho đến nay
con người vẫn tiến hóa cao nhất, nên mọi hình tướng thấp hơn hình tướng con
người ắt phải hướng về loại hình con người. Loại hình cao nhất trong giới
động vật và gần gũi nhất với con người chính là cái “mắt xích còn thiếu”; và
loài khỉ giống người là những hình tướng hiện hữu gần gũi nhất với “mắt xích
còn thiếu” ấy. Xét về phương diện hình tướng thể xác thì ta có thể thấy rõ
sự chuyển tiếp đúng mức từ loài khỉ giống người sang loài người; nhưng khi
xét tới trí thông minh trong giới động vật thì ta thấy quan niệm của khoa
học về tiến hóa có một lỗ trống nghiêm trọng. Ta có một vài loài gia súc như
chó, mèo và ngựa mà những đặc trưng nổi bật của con người về trí tuệ và xúc
động đã xuất hiện qua chúng; xét về bản chất nội tâm thì có nhiều con chó
gần gũi với con người hơn con khỉ giống người. Xét theo khía cạnh hình tướng
thì rõ rệt là không thể có sự chuyển tiếp từ con chó sang con người; vì vậy,
tất yếu là những thuộc tính cao cấp của con người mà loài gia súc cục cưng
của ta đã phát triển được ắt phải hầu như bị hoài công, nếu cơ tiến hóa diễn
tiến cứng ngắc theo cái thang tiến hóa hình tướng mà khoa học đã phát biểu.
(Xem Hình 5).
Để hiểu được chi li hơn thiên nhiên hoạt động ra sao,
ta phải bổ sung cho quan niệm tiến hóa hình tướng trong giới động vật bằng
quan niệm tiến hóa sự sống nữa. Chỉ có quan niệm tiến hóa sự sống mới giúp
ta hiểu rốt ráo được vai trò mà giới động vật đóng giữ trong quá trình tiến
hóa.
Cho dù sự sống là gì đi chăng nữa, dù nơi loài khoáng
vật, thực vật, động vật hay nhân loại thì cơ bản chỉ có Sự Sống Nhất Như, đó
là một biểu hiện của bản chất và hành động của THƯỢNG ĐẾ; song le Sự Sống
Nhất Như này bộc lộ những thuộc tính của mình trọn vẹn hơn hoặc sơ sài hơn
tùy theo số lượng hạn chế mà nó phải khắc phục trong khi tiến hóa. Những hạn
chế đối với biểu lộ của nó là lớn nhất trong giới khoáng vật, nhưng từng
bước giảm dần trong giới thực vật, động vật và nhân loại. Trong khi các
thuộc tính đang tiến hóa thì Sự Sống Nhất Như trải qua lần lượt các hạn chế
này; sau khi cam chịu sự hạn chế trong vật chất thuộc giới khoáng vật, nhờ
vậy học được cách biểu hiện qua việc xây dựng những hình tướng kỷ hà do bị
kết tinh, Sự Sống Nhất Như lại chuyển sang giai đoạn kế tiếp trở thành sự
sống của giới thực vật. Vẫn giữ mọi năng lực mà nó đã học hỏi được qua vật
chất thuộc giới khoáng vật, giờ đây Sự Sống Nhất Như lại có thêm những năng
lực mới của loài thực vật và phát hiện được những cách thức mới mẻ để bộc lộ
chính mình. Khi đã tiến hóa đúng mức trong giới thực vật, Sự Sống Nhất Như
mang theo mọi kinh nghiệm thu hoạch được qua giới khoáng vật và thực vật để
kiến tạo nên các cơ thể trong giới động vật ngõ hầu bộc lộ nhiều hơn nữa
những thuộc tính ẩn tàng của mình qua các hình tướng phức tạp và mềm dẻo hơn
của sự sống động vật. Khi đã tiến hóa hết trong giới động vật, Sự Sống Nhất
Như chỉ còn giai đoạn kế tiếp để tự bộc lộ mình là trải qua giới nhân loại.
Xuyên qua mọi giai đoạn lớn này dưới dạng khoáng vật,
thực vật, động vật và nhân loại chỉ có Sự Sống Nhất Như đang tác động, hết
xây dựng rồi lại phá hủy, rồi lại tái tạo, cứ hì hục làm việc để kiến tạo
các hình tướng càng ngày càng cao cấp hơn. Rất lâu trước khi bắt đầu hoạt
động trong vật chất thuộc giới khoáng vật, Sự Sống Nhất Như này đã biến dị
thành ra bảy luồng lớn, mỗi luồng đều có những đặc trưng riêng bất biến và
đặc thù của mình. (Hình 56).
Nguồn Sống Nhất Như được tượng trưng trong sơ đồ này
bằng một tam giác bên trong vòng tròn. Mỗi một trong bảy luồng lớn lại biến
dị thành ra bảy biến thể. Nếu ta biểu diễn bảy luồng lớn bằng những con số
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 thì những
biến thể của mỗi luồng có ở trong bảng sau đây.
Ta ắt thấy rõ loại hình sự sống thứ nhất giờ đây có
bảy biến thể, biến thể thứ nhất có đặc trưng nổi bật chủ yếu của mình được
nhấn mạnh gấp đôi tức (1.1),
còn biến thể thứ nhì tới thứ bảy của nó đặc trưng nổi bật thay đổi theo đặc
trưng của sáu loại hình căn bản kia tức là (1.2,
1.3,
1.4,
1.5, 1.6,
1.7). Nguyên lý ấy cũng đúng đối với sáu loại hình căn bản
khác mà ta thấy qua bảng nêu trên. Các loại hình này được gọi là “Cung”.
Mỗi một trong 49 biến thể của Sự Sống Nhất Như cứ đi
theo sự phát triển đặc trưng của riêng mình xuyên suốt mọi giới sinh hoạt
lớn trong thiên nhiên là giới khoáng vật, giới thực vật, giới động vật và
giới nhân loại. Loại hình sự sống nào ở trong giới động vật thuộc về biến
thể 3.2 thì nó chuyển
từ giới khoáng vật sang giới thực vật cũng đều theo kênh đặc biệt là sự sống
3.2 thuộc giới thực
vật, khi đã đến lúc chuyển sang giới động vật thì nó xuất hiện ở đó vẫn dưới
dạng sự sống 3.2
thuộc giới động vật, và nó trải qua hình tướng động vật dành riêng cho sự
phát triển của loại hình sự sống này. Khi sự sống động vật ấy tiến tới giai
đoạn chuyển sang làm người thì nó ắt kiến tạo một cá thể thuộc loại hình
3.2 trong giới nhân
loại chứ không thuộc loại hình nào khác. Bốn mươi chín biến thể này của Làn
Sóng Sinh Hoạt Nhất Như cứ đi theo 49 kênh riêng biệt xuyên suốt mọi giới
lớn trong thiên nhiên chứ không có sự lẫn lộn nào từ loại hình sự sống này
sang loại hình sự sống khác.
Khi 49 luồng sinh hoạt này trong giới động vật đã sẵn
sàng chuyển sang giới nhân loại thì mỗi một trong bảy biến thể của mỗi loại
hình căn bản đều hội tụ lại trong những giai đoạn sinh hoạt động vật cao cấp
nhất tới một vài hình tướng động vật tiền định. Thiên cơ đã sắp xếp những
hình tướng động vật này để cho chúng tiếp xúc mật thiết với nhân loại dưới
dạng là những gia súc cưng; và do ảnh hưởng của sự chăm sóc được đổ dồn lên
chúng, sự sống động vật bộc lộ những thuộc tính ẩn tàng của mình, phát triển
chúng và “biệt lập ngã tính” để gia nhập giới nhân loại.
Ngày nay ta có một vài loại hình động vật ở ngay
ngưỡng cửa chuyển tiếp từ giới động vật sang giới nhân loại; những loại hình
như thế là chó, mèo, ngựa, voi và có lẽ cả khỉ nữa. Sự chuyển tiếp từ loài
thú sang loài người có thể diễn ra qua những cánh cửa này miễn là những ảnh
hưởng thích hợp được đưa vào tác động lên loài thú qua hành động của con
người. Trong khi sự sống nơi loài chó và loài mèo đã thuộc loại hình cao
nhất theo hai “Cung” riêng của chúng; thế nhưng sự chuyển tiếp chỉ xảy ra
khi một con chó hoặc một con mèo có thể đã phát triển trí thông minh và tình
luyến ái của mình qua tác động trực tiếp của con người.
Những động vật gia súc của ta đã được phát triển từ
những loại hình sơ khai hơn và dã man hơn thuộc sự sống động vật; con chó
thuộc dòng dõi của con chó sói, còn con mèo là dòng dõi của đủ thứ tạo vật
giống như mèo chẳng hạn như cọp, beo v.v. . . Trong giai đoạn hiện nay, các
luồng sống biểu lộ qua luồng sống loài chó đều hội tụ nơi con chó nhà nhằm
mục đích gia nhập vào giới nhân loại; cũng giống như vậy, các loại hình sự
sống thuộc loài mèo ngày nay hội tụ vào con mèo nhà. Trong những thời đại
tương lai, ta sẽ có những con gia súc khác nữa cũng ở trong nhóm những hình
tướng tạo thành bảy cánh cửa dẫn vào loài người.
Muốn hiểu được sự tiến hóa của loài thú thì ta cần
phải hiểu rõ hồn khóm là gì. Theo quan điểm Thông Thiên Học, cũng giống như
con người cá biệt không phải là thể xác mà là một thực thể tâm linh vô hình
sở hữu một thể xác, loài thú cũng giống như vậy. Động vật chân chính không
phải là thể xác; đó là sự sống vô hình tác động lên hình tướng động vật,
cũng giống như linh hồn con người tác động lên thể xác của y. Cái sự sống vô
hình vốn cấp năng lượng cho các hình tướng động vật này được gọi là Hồn
khóm.
Hồn khóm có một lượng vật chất trí tuệ nhất định nào
đó được tích chứa năng lượng của THƯỢNG ĐẾ. Vật chất trí tuệ này bao hàm một
sự sống xác định ở mức tiến hóa động vật và sự sống đó giữ lại mọi sự phát
triển khả hữu của tâm thức và hoạt động loài động vật. Trong những chu kỳ
trước kia, hồn khóm động vật này là hồn khóm thực vật và trong những chu kỳ
còn trước hơn nữa thì nó là hồn khóm khoáng vật. Điều này khiến cho hiện nay
vào giai đoạn mà ta đang xét hồn khóm động vật đã được chuyên biệt hóa cao
độ rồi do kết quả những trải nghiệm của nó trong vật chất thực vật và khoáng
vật. Ở giai đoạn tiến hóa hiện nay không có một hồn khóm động vật duy nhất
dành cho toàn thể giới động vật, cũng giống như không có một loại hình thể
chất duy nhất dành cho mọi con thú; và cũng giống như trong sự tiến hóa của
hình tướng ngày nay ta thấy chúng phân chia ra thành giới, phân giới, nhóm,
lớp, cấp, họ, dòng và giống; cũng vậy trong hồn khóm động vật ta cũng có
những sự phân chia tương tự.
Sơ đồ kế tiếp của ta, Hình 57 ắt cung cấp cho ta một
ý niệm về phương thức hoạt động của hồn khóm.
Ta hãy giả sử rằng trên cõi trí tuệ có tồn tại hồn
khóm của một số dòng giống sự sống động vật; hồn khóm này sẽ luân hồi đi
luân hồi lại trên trần thế qua các đại biểu động vật của mình. Sự sống của
hai con thú thuộc hồn khóm này sẽ khác hẳn nhau chừng nào chúng còn đang
sống; nhưng khi chúng chết đi thì sự sống của mỗi con lại trở về với hồn
khóm được hòa lẫn vào mọi sự sống khác cũng trở về như vậy để tạo thành hồn
khóm của cả dòng giống ấy. Khi nhìn vào sơ đồ nếu ta coi A và B là hai đại
biểu của hồn khóm trên cõi trần thì khi chúng sinh con đẻ cái – A sinh ra
a, b, c, d và
e, còn B sinh ra f và
g – thì sự sống làm linh hoạt các
cơ thể thế hệ mới ắt tiếp xúc trực tiếp xuất phát từ hồn khóm trên cõi trí
tuệ. Ta hãy giả sử rằng trong lứa con của A thì những con thú còn nhỏ được
biểu diễn là a, d và
e chết yểu do quá yếu sức hoặc bị
kẻ thù cùa dòng giống tiêu diệt; cũng vậy, một con của B được biểu thị là
g cũng chịu chung số phận. Khi
những con thú này chết đi thì sự sống của chúng trực tiếp trở về với hồn
khóm, đóng góp vào kho kinh nghiệm của hồn khóm một vài trải nghiệm mà chúng
gặt hái được trước khi chết. Bây giờ xét theo sơ đồ ta thấy
b lại sinh con đẻ cái thành ra
h, i và
j; còn c sinh ra
k và
l, và
f sinh ra
m, n và
o. Sự sống làm linh hoạt cơ thể
của thế hệ thứ ba cũng xuất phát trực tiếp từ hồn khóm, nhưng nó đã ghi khắc
lên mình những trải nghiệm thu thập được qua những thế hệ trước kia vốn đã
chết trước khi thế hệ thứ ba thụ thai. Khi mỗi con thú chết đi thì sự sống
làm linh hoạt hình tướng động vật ấy lại tuôn đổ trở về hồn khóm; sự sống
này khi trở về với hồn khóm lại thêm những ký ức bẩm sinh của mình là những
trải nghiệm mà nó thu hoạch được qua đủ thứ môi trường xung quanh trên cõi
trần. Chính việc ghi nhớ những kinh nghiệm quá khứ này biểu hiện thành bản
năng nơi loài thú; và tâm thức của hồn khóm từ từ thay đổi theo những đóng
góp mà nó nhận được từ những đại biểu trên trần thế sau khi chúng trở về hồn
khóm.
Hiển nhiên là
b, c và f sống sót bởi vì
chúng có thể thích ứng với môi trường xung quanh trong thiên nhiên vốn
thường xuyên thay đổi xung quanh chúng; còn
a, d, e và
g chết vì chúng không đủ mạnh để
thích ứng với môi trường xung quanh ấy. Những con
b, c, f sống sót vì chúng là con
thú mạnh nhất và thích ứng nhất trong một môi trường xung quanh đầy sự cạnh
tranh và đấu tranh; vì là con thích ứng nhất để sống còn cho nên chúng trở
thành những kênh dẫn tiếp nhận sự sống đang tiến hóa của hồn khóm; kế đó
chúng tạo ra dòng dõi của mình cũng có được cái phẩm chất thích ứng ấy để
sống sót vốn đã được phát triển để đối phó với một môi trường sẵn có.
Trong tác động này của thiên nhiên nhằm tuyển trạch
những hình tướng thích ứng nhất để sống còn, một vài thực thể trong thế giới
vô hình đóng một vai trò quan trọng mà sơ đồ của ta gọi là những “Nhà Xây
Dựng”. Những Thực thể Thông tuệ này thuộc về một giới cao hơn giới nhân loại
được gọi là Thiên thần hoặc Chư thiên. Một bộ môn của những “Đấng Quang
Minh” này có nhiệm vụ dẫn dắt các quá trình sống trong thiên nhiên; chính họ
hướng dẫn sự đấu tranh sinh tồn, giám sát và phát triển trong phạm vi trách
nhiệm của mình những đặc trưng có khuynh hướng nhắm tới những hình tướng lý
tưởng của dòng giống. Họ tổ hợp những gen của Mendel vốn có sự liên hệ mật
thiết với sự bộc lộ những đặc trưng ẩn tàng của sự sống ngự trong hình
tướng. Trước mắt những Nhà Xây Dựng này là một vài Loại hình lý tưởng vốn
phải được phát triển trong thiên nhiên để phục vụ tốt nhất những chủ đích
của Sự Sống; khi có trước mắt mình những Nguyên mẫu ấy,
họ giám sát và định hình các cơ thể ngay từ cõi vô hình để mang lại
sự toàn thắng của kẻ thích ứng nhất
vốn thật khó giải thích theo các thuyết tiến hóa bình thường.
Những thuyết sinh học hiện nay không giải thích thỏa
đáng được “ba vấn đề chủ yếu trong việc tiến hóa”: nguồn gốc của các giống
loài, căn nguyên của sự thích ứng và việc duy trì những khuynh hướng dài
hạn. Thuyết cho rằng “thiên nhiên mù quáng” có thể hoạt động với mục đích
trọn vẹn bằng một phương pháp thuần túy máy móc là thử và sai, thuyết này
không đủ sức thuyết phục. Về lầu về dài thì những sự thích ứng đều hướng
theo một cứu cánh nhất định. Quan niệm về hồn khóm cùng với sự tác động của
các Thiên thần Xây dựng cung ứng cho ta một sự giải thích hợp lý nhất. Chính
các nhà Xây dựng sử dụng phương pháp thử và sai để tác dụng dài hạn xuyên
suốt mọi thời đại, nhưng ngay từ đầu họ đã biết trước loại hình cuối cùng.
Sự đấu tranh để sinh tồn là phương pháp mà các nhà
Xây dựng chọn theo để trắc nghiệm những cơ thể sinh vật, để tìm ra trong cơ
thể nào phát triển qua sự đấu tranh ấy, những sự thích ứng xây dựng được các
loại hình càng ngày càng tiến gần tới Nguyên mẫu. Ta phải nhớ rằng khi bất
kỳ cơ thể nào chết đi thì sự sống
của nó không bị tan thành mây khói; sự sống ấy cùng với những trải nghiệm
của mình lại trở về với hồn khóm rồi lại từ đó xuất phát ra đi sau này cư
trú nơi một hình tướng khác. Vì
vậy khi ta thấy trong số cả trăm hạt giống có lẽ chỉ có một hạt giống tìm
được mảnh đất để sinh sôi nảy nở, còn 99 hạt giống kia bị phí phạm thì sự
phí phạm này cũng chỉ biểu kiến thôi, bởi vì sự sống của 99 hạt giống “không
thích ứng” sau này lại xuất hiện trong thế hệ mới dưới dạng con cháu của hạt
giống duy nhất “thích ứng”.
Với nguyên tắc đã biết trước tính bất diệt của Sự
Sống, các nhà Xây dựng bày trí một sự đấu tranh gay gắt để sinh tồn trong cả
giới thực vật lẫn giới động vật. Trong thiên nhiên hữu hình phương pháp này
tạo ra sự tàn bạo khốc liệt, thế nhưng xét theo khía cạnh vô hình thì có một
sự hợp tác thân hữu nhất giữa các nhà Xây dựng điều động sự tăng trưởng của
các hình tướng đang cạnh tranh với nhau. Tất cả đều có cùng chung một mục
tiêu là thực thi Ý chí của Thượng Đế vốn cho họ biết trước những Nguyên mẫu
nào phải được mô phỏng trong cơ tiến hóa của hình tướng.
Bây giờ ta phải tìm hiểu xem sự sống động vật biến dị
ra sao trong khi tiến tới việc biệt lập ngã tính. Nếu ta xét bất kỳ hồn khóm
nào, chẳng hạn như hồn khóm loài chó
(Hình 58) thì trước hết ta ắt nhận thấy rằng hồn khóm của nó tồn tại trên
cõi trí tuệ.
Ta hãy giả sử rằng nó biểu hiện dưới hình tướng
loài chó ở nhiều nơi khác nhau
trên thế giới. Sự khác nhau về khí hậu và những biến thiên khác về môi
trường xung quanh, ắt khiến cho các cơ thể
chó phản ứng khác nhau tùy theo
sự sống của mỗi con chó cá thể biểu lộ ở đâu trên thế giới; khi mỗi con chó
cá thể sống ở một xứ khác nhau chết đi thì nó mang về cho hồn khóm một loại
hình trải nghiệm và khuynh hướng đặc thù. Theo thời gian khi những trải
nghiệm này tích lũy lại thì trong hồn khóm nảy sinh ra những hạt nhân khác
nhau, mỗi hạt nhân tách rời các trải nghiệm và khuynh hướng đặc thù ra khỏi
hạt nhân khác. Nếu ta nghĩ rằng một trải nghiệm là một nhịp độ rung động của
sự sống ngự bên trong thì khi có một khối bao gồm hai nhịp độ rung động được
tạo ra, khối ấy ắt có khuynh hướng bị chia ly cũng giống như một cái ly bị
nứt khi ta đổ nước sôi vào nó, bởi vì nhịp độ rung động của các hạt phía
trong đột ngột được kích động nhanh hơn so với nhịp độ rung động của các hạt
ở phía ngoài. Cũng giống như vậy, ta ắt thấy rằng sau nhiều thế hệ thì hồn
khóm loài chó sẽ chia nhỏ ra
thành các hồn khóm chuyên biệt hóa gồm loài sói, loài chồn, loài chó nhà,
loài lang và các biến thể khác nữa. Tương tự, hồn khóm
loài mèo (Hình 58) tùy theo những
trải nghiệm đã được chuyên biệt hóa cũng được chia nhỏ thành hồn khóm loài
sư tử, loài cọp, loài mèo nhà v.v. . . Thật vậy, cũng giống như dòng được
chia nhỏ thành họ; hồn khóm từ từ được chia càng ngày càng nhỏ ra thành các
hồn khóm càng ngày càng bao gồm những đặc trưng và khuynh hướng chuyên biệt
hóa.
Trong quá trình chia nhỏ hồn khóm này, ta sẽ đi tới
mức mà một hồn khóm nhỏ đã được chuyên biệt hóa cao độ là sự sống ngự bên
trong chỉ một số nhỏ hình tướng trên cõi trần; khi điều này xảy ra và khi
các hình tướng ấy có thể được đưa vào chịu ảnh hưởng của con người thì có
thể chuyển tiếp từ loài thú sang loài người và đã gần đến lúc biệt lập ngã
tính.
Chẳng hạn như nếu ta xét hồn khóm nguyên thủy của
loài mèo thì theo thời gian ta ắt
có một hồn khóm nhỏ cấp năng lượng cho một lứa mèo nhà đã chuyên biệt hóa
cao độ. (Hình 58); ở giai đoạn này thì có thể có sự biệt lập ngã tính. Nếu
ta xét hai con mèo số 1 và số 2 thì ta có thể giả sử rằng kinh nghiệm của
chúng khác nhau. Ta cứ giả định rằng con mèo số 1 tìm ra được một tổ ấm nơi
nó được chủ đánh giá cao, rất quan tâm và chìu chuộng nó; còn con mèo số 2
sinh ra trong một căn nhà khác, nơi nó bị bỏ vào xó bếp và cấm không được
léo hánh lên phòng khách. Trong môi trường xung quanh thuận lợi như thế, con
mèo số 1 sẽ bắt đầu đáp ứng với những nhịp độ rung động cao mà tư tưởng và
xúc động của ông chủ bà chủ đã tác động lên nó; ngay cả trước khi nó chết
thì điều này ắt tạo ra một sự chuyên biệt hóa trong cái hồn khóm nho nhỏ vốn
là bộ phận của hồn khóm mà hồn của con mèo số 1 sẽ tách ra khỏi phần còn lại
của hồn khóm lớn. Trong trường hợp của con mèo số 2 thì khi nó chết đi sự
sống nơi nó lại trở về với hồn khóm lớn rồi ở đó hòa lẫn với mọi sự sống
khác cũng trở về quê cũ.
Khi con mèo số 1 trong lúc còn sống đã tách mình ra
khỏi hồn khóm lớn thì ta có thể hiểu được những giai đoạn tiếp theo của việc
biệt lập ngã tính qua sơ đồ sau đây. (Hình 59).
Tuy nhiên con thú mà ta đang xét không phải là con
mèo mà là con chó “Jack”. Jack là con chó phóc nhà nòi vốn rất tận tụy với
ông chủ bà chủ và cũng là bạn chí cốt của người viết tác phẩm này. Nếu ta
nhìn vào sơ đồ tưởng tượng ra hồn khóm có bao hàm con chó Jack trước khi nó
đến với chủ, hồn khóm có dạng hình chữ nhật, thì tình luyến ái đặc biệt chan
chứa đổ lên con chó Jack ắt có tác dụng được biểu hiện qua sơ đồ là thu rút
cái bộ phận hồn khóm chứa con chó Jack tiến lên thành hình nón bốc lên phía
trên. Khối lượng vật chất trí tuệ tượng trưng cho “hồn con chó Jack” lúc bấy
giờ từ từ tách rời khỏi phần còn lại của vật chất trí tuệ tạo thành hồn khóm
mà ta biểu diễn qua cột thứ ba của sơ đồ này.
Thế mà việc chuyên biệt hóa con chó Jack ra khỏi hồn
khóm của loài chó chẳng những nhờ vào những rung động cao siêu do ông chủ bà
chủ và bạn bè của con chó Jack phóng đến cho nó, mà còn do sự kiện một Chơn
thần tức một “Điểm Linh Quang của Thượng Đế” đang tìm cách tạo ra một Chơn
ngã hoặc một Linh hồn để bắt đầu cuộc hành hương làm người. Từ lâu rồi Chơn
thần này đã gắn kết vào một nguyên tử của mỗi một trong các cõi làm trung
tâm của cõi ấy giống như một kẻ “tha thiết” đã đặt cọc trước nhắm vào một
công trình trong tương lai. Những “nguyên tử trường tồn” này của Chơn thần
được phóng xuống nhập vào hồn khóm loài tinh hoa ngũ hành, rồi lần lượt là
hồn khóm của khoáng vật, hồn khóm thực vật và hồn khóm động vật, đi đến đâu
là tiếp thu bất cứ trải nghiệm nào có thể được. Khi các”nguyên tử trường
tồn” đến lúc tiếp xúc được với một bộ phận đã chuyên biệt hóa cao độ của hồn
khóm động vật, chẳng hạn như “hồn con chó Jack” thì từ trên cõi cao Chơn
thần lại phóng xuống một vài ảnh hưởng để hưởng ứng với công trình nơi ngoại
giới mà những người bạn, người chủ đã thực hiện cho “hồn con chó Jack”.
Trong sơ đồ của ta, những ảnh hưởng này được tượng trưng là lực từ Chơn thần
được tuôn đổ lên “hồn con chó Jack”. Trong sơ đồ thì Chơn thần được tượng
trưng là hình nón đảo ngược phía trên lớn còn đầu mút phía dưới trút xuống.
Mỗi ngôi sao trong hình nón ấy biểu diễn phẩm chất mà Chơn thần đang biểu lộ
trên mỗi một cõi đang hoạt động của mình.
Khi nhờ vào kết quả của những bức xạ mạnh hơn và
thiêng liêng hơn xuất phát từ Chơn thần mà “hồn con chó Jack” bứt ra khỏi
hồn khóm, thì xét theo hình tướng bên ngoài con Jack vẫn còn là một con chó,
nhưng thật ra nó đang ở giai đoạn trung gian, vì nó nhất định không còn là
chó nữa nhưng vẫn chưa là người. Giai đoạn này được minh họa trong cột thứ
ba của sơ đồ. Giai đoạn kế tiếp được minh họa trong cột cuối cùng của sơ đồ;
đó là khi thể nguyên nhân được hình thành do kết quả Chơn thần ào ào tuôn đổ
xuống từ các cõi cao.
Ta chỉ có thể diễn tả điều xảy ra bằng một ví dụ
tương tự, nếu ta tưởng tượng rằng “hồn con chó Jack” – trong cột ba được
biểu diễn bằng hình nón bên dưới đầu nhọn quay lên – giống như một dung
lượng hơi nước chưa có hình thù chính xác hoặc chưa được cố kết; nếu sau đó
ta nghĩ rằng mọi hơi nước này đều ngưng tụ thành một giọt nước, sau đó nếu
ta tưởng tượng rằng có không khí được thổi vào giọt nước để tạo thành một
bọt khí; thế thì đây là một điều gì đó tương tự như điều đã xảy ra cho “hồn
của con chó Jack” khi Chơn thần giáng xuống tạo ra thể nguyên nhân. Một linh
khí – vốn là năng lượng của Chơn thần – tuôn đổ vào vật chất trí tuệ mà đối
với con Jack đã tượng trưng cho cái hồn bé nhỏ của nó. Vật chất trí tuệ này
bèn sắp xếp trở lại thành ra một thể nguyên nhân, để trở thành hiện thể của
“Con trong Lòng của Cha” vốn đã giáng xuống để trở thành hồn người.
Ở đây ta nên lưu ý minh bạch rằng trong quá trình
biệt lập ngã tính ấy, con thú không trở thành con người giống như loài thực
vật tiến hóa thành loài động vật. Vào lúc biệt lập ngã tính, mọi điều từ
ngàn xưa đã là con thú thì nay trở thành cái
hiện thể chứa đựng Điểm Linh
Quang tức Chơn thần từ trên giáng xuống. Chơn thần này chưa thể tạo ra Chơn
ngã có thể có một Thể Nguyên Nhân, chừng nào mọi giai đoạn trước kia chưa
thành tựu được khi chưa trải qua giới động vật và những giới trước nữa.
Nhưng khi sử dụng được cái mà giới động vật đã dọn sẵn cho mình thì đó lại
thật sự là một luồng năng lượng và tâm thức khác hẳn xuất phát từ sự sống
của Thượng Đế, nhưng khác với sự sống ấy mà ta thấy ở các giới thấp hơn giới
nhân loại. Chính vì thế mà giữa con khỉ giống người cao cấp nhất và linh hồn
đã biệt lập ngã tính còn non trẻ nhất vẫn có một khoảng trống vô lượng về
tiến hóa; ở linh hồn đã biệt lập ngã tính mặc dù còn non trẻ nhất ta có sự
sống của Chơn thần (Ngội Một), còn nơi con khỉ giống người cao cấp nhất cho
đến nay ta chỉ có những biểu lộ cao cấp của sự sống động vật (Ngôi Hai).
Từ lúc “hồn con chó Jack” tách ra khỏi hồn khóm của
loài chó thì thật ra nó đâu còn là chó nữa, mặc dù nó vẫn còn khoác lấy hình
tướng con chó. Từ lúc cách ly ấy cho tới lúc thật sự tạo lập được thể nguyên
nhân còn có nhiều giai đoạn chuyển hóa nữa. Người nào hiểu được rõ quá trình
biệt lập ngã tính ắt có thể đẩy nhanh giai đoạn này sao cho những người bạn
mang lốt thú của ta, có thể nhanh chóng chuyển sang tiếp nhận cái Luồng lưu
xuất Thiêng liêng của Thượng Đế biến mỗi hồn thú thành một Hồn Người.
Một trong những đặc quyền lớn nhất của cuộc sống mà
loài người có được chính là hợp tác với Thiên cơ để đẩy nhanh quá trình biệt
lập ngã tính của loài thú cao cấp; nhưng đó là một đặc quyền do vô minh chỉ
có một số ít người hiện nay sẵn sàng chấp nhận. Bây giờ hầu hết mọi người
coi như đương nhiên là vật dưỡng nhân (loài thú chỉ tồn tại để phục vụ cho
mục đích của loài người); mặc dù quả thật chỉ có dự định để cho loài thú
cung ứng sức mạnh và trí thông minh của mình giúp ta phát triển nền văn
minh, thế nhưng chúng không chỉ tồn tại chủ yếu để phục vụ loài người mà
thực hiện mục đích của riêng mình theo Thiên cơ. Trong tương quan với loài
thú ta phải nhớ rằng trong khi chúng cống hiến sức mạnh cho ta thì bổn phận
đầu tiên của ta là chúng phát triển theo đường lối ấy là để đẩy nhanh quá
trình biệt lập ngã tính của mình. Thời nay, ta rèn luyện trí thông minh của
loài ngựa để tự hào về tốc độ của nó; rèn luyện loài chó để phát triển sự
tinh xảo của nó khi săn mồi; rèn luyện loài mèo để nó bắt chuột cho giỏi.
Mọi điều này hoàn toàn là sai lầm vì loài thú được đưa đến tiếp xúc với loài
người để cho ta giúp chúng cai nghiện bản năng dã man và kích động những
nhân tính cao siêu hơn. Mỗi hành động của con người chỉ nhằm mục đích lợi
dụng sự tinh xảo của loài thú để thỏa mãn những ham muốn của loài người đã
gây thiệt hại xiết bao cho sự sống động vật đang tiến hóa lên. Ta còn chưa
học được bài học là trong khi trí thông minh siêu việt cùng với việc kiểm
soát những lực trong thiên nhiên khiến ta khống chế được giới động vật, thì
sự khống chế ấy phải được vận dụng với ích lợi của giới động vật chứ không
phải vì ích lợi của chính ta.
------------------------
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS