|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
Tủ sách Adyar Tập
sách số 30
SỰ GIAO TIẾP GIỮA CÁC
THẾ GIỚI KHÁC NHAU
(Communication Between Different Worlds)
Tác giả Annie Besant Bản dịch: www.thongthienhoc.com |
|
Xuất
bản năm 1909 và 1913
Nhà
Xuất bản Thông Thiên Học, Adyar, Chennai [Madras] Ấn Độ
Văn
pḥng Tạp chí Nhà Thông Thiên Học, Adyar, Madras, Ấn Độ
Hội Thông
Thiên Học khác với hầu hết phong trào tôn giáo ngày nay do khẳng định thời
nay vẫn tiếp tục có sự giao tiếp giữa những thế giới khác nhau mà nhân loại
đang sinh hoạt trong đó. Mọi tôn giáo đều khẳng định sự giao tiếp như vậy
trong quá khứ; tất cả đều rêu rao rằng Giáo chủ của ḿnh và nói chung là
những người liên quan, rồi trực tiếp đi theo Ngài đă có được sự giao tiếp
như thế khiến cho họ “tuyên cáo có thẩm quyền”; một số chẳng hạn như tín đồ
Ấn giáo và tín đồ Công giáo La Mă, đă nh́n nhận những trường hợp năm th́
mười họa rải rác qua những câu chuyện riêng của ḿnh có xác lập được sự giao
tiếp như thế, mặc dù ngày nay thật hiếm hoi nếu có. Nhưng Hội Thông Thiên
Học dứt khoát khẳng định rằng có tồn tại những quyền năng tiềm tàng nơi mọi
người và có những lực trong thiên nhiên cho đến nay công chúng chưa biết
tới, rồi cho đó là một trong những mục tiêu để nghiên cứu. Một số hội viên
đă thành công theo đuổi việc nghiên cứu này để khơi dậy những quyền năng ấy
và kiểm soát những lực ấy khi sử dụng những phương pháp do các Chơn sư MINH
TRIẾT dạy. Nhờ vào những giao tiếp này, thông thường người ta có thể xác lập
và tiến hành được việc giao tiếp như thế mà không gây ra những khó khăn và
bất lợi giống như những phương pháp của thần linh học. Tuy nhiên phương pháp
thần linh học vẫn là phương pháp duy nhất mà kẻ không lăo luyện có thể sử
dụng được ngay, v́ thế cho nên có giá trị lớn nhất nhằm dẹp bỏ thành kiến
của nhà khoa học và nhà duy vật, nhằm đưa ra những bằng chứng rành rành trên
cơi vật lư mà mọi người có được về sự liên tục ư thức sau khi chết. Đó là
dấu hiệu của một thời đại thay đổi do thế giới chuyển sang báo điềm đă tới
kỷ nguyên phá vỡ hàng rào sự chết, điều vô h́nh trở thành hữu h́nh, cơi vật
lư và cơi trung giới ḥa lẫn vào nhau.
Để hiểu rốt ráo đề tài trước mắt, chúng ta cần
lĩnh hội được một vài định luật chủ yếu trong thiên nhiên; khi ta đă thấy rơ
những điều này th́ có thể tương đối dễ dàng áp dụng chúng vào những trường
hợp đặc biệt mà ta đang chú ư. Phải nhớ rằng để việc nghiên cứu được hữu ích
th́ ta phải dẹp bỏ mọi sự sợ hăi những ǵ bất b́nh thường; học viên phải vỡ
lẽ ra rằng có nhiều điều xung quanh ḿnh mà ḿnh không thấy được và chúng
đâm ra ít nguy hiểm hơn (mặc dù đôi khi đáng báo động hơn) khi chúng chuyển
từ vô h́nh sang hữu h́nh. Điều mà ta không biết có thể nguy hiểm, chính sự
không biết ấy đầy dẫy sự sợ hăi. Đứa trẻ không quen với người lạ, gào thét
và giấu mặt vào áo mẹ trước cảnh tượng dễ sợ của một người đàn ông hoặc một
người đàn bà vô hại; khi đă quen gặp người ta th́ đứa trẻ không c̣n sợ hăi
nữa. Việc thấy một bóng ma
lần đầu tiên làm ta hốt hoảng; sau đó một thời gian th́ như vậy không c̣n
đáng báo động nữa so với mức thấy một người lạ đi ngang qua đường phố. Chính
việc ta không biết mới là nguy cơ thật sự và chỉ có việc trải nghiệm mới dẹp
bỏ được điều này. Một người biết suy tư và có lư trí, có sinh hoạt trong
sáng và trí thông minh lỗi lạc có thể tự rèn luyện ḿnh để giao tiếp b́nh
thường với những thế giới khác mà không có một chút nguy cơ đáng kể nào miễn
là y quen tự chủ, quyết đoán và có nghị lực; một người như thế có thể tiến
hóa một cách hợp lư và âm thầm; chẳng những tin chắc về thực tại của những
thế giới khác mà c̣n có thể trở thành một nguồn gốc an ủi và giúp đỡ những
người khác, làm giảm nhẹ thậm chí dẹp bỏ nỗi sợ chết của người ta, xoa dịu
nỗi đau tử biệt đối với người thân thương. Người như thế thường thường vẫn
được bảo vệ trong thế giới vật lư nơi mà nguy hiểm c̣n nhiều hơn thế giới
tinh vi, bởi v́ chất vật lư thô trược c̣n chống lại sự kiểm soát của tư
tưởng nhiều hơn chất tinh vi của các cơi cao. Khả năng tự vệ của con người
đối với nguy hiểm nhỏ nhất trong thế giới vật lư; nói cách khác sợ hăi là kẻ
thù nguy hiểm nhất bởi v́ nó làm tê liệt tư tưởng và ư chí. Tôi không bảo
trong thế giới tinh vi không có nguy hiểm; có đấy, nhưng ta càng biết nhiều
th́ ta càng an toàn và kẻ không biết th́ ở đâu cũng bị nguy hiểm.
Sự kiện căn bản đầu tiên, đó là mỗi cá nhân là một
tâm thức đơn nhất, một đơn vị tâm thức và những biến thể dưới dạng giao tiếp
đều bắt nguồn từ sự khác nhau của các hiện thể chứ không phải sự khác nhau
về tâm thức. Dĩ nhiên một tâm thức có thể ít nhiều đă phát triển, có thể đă
đưa vào biểu lộ ít nhiều quyền năng của ḿnh; một đơn vị tâm thức này có thể
khác nhiều với đơn vị tâm thức khác, nhưng cùng một đơn vị - nghĩa là cùng
một cá thể - vẫn như nhau trong mọi sự giao tiếp. Tuy nhiên bị hạn chế hay
không bị hạn chế bởi cái hiện thể đặc thù thô trược hay tinh vi mà sự giao
tiếp được thực hiện thông qua đó. Nếu ta so sánh hai đơn vị tâm thức, một
đơn vị tiến bộ c̣n một đơn vị chậm tiến th́ sự khác nhau về tiến hóa ắt nổi
bật trong mỗi thế giới mà các đơn vị này đang hoạt động trong đó; nhưng sự
biểu lộ của mỗi đơn vị ắt bị xác định bởi t́nh huống chất liệu của sự biểu
lộ và những t́nh huống này ắt du nhập một sự biến thái dưới dạng giao tiếp,
mặc dù không ảnh hưởng tới đơn vị trí tuệ đang biểu lộ. Ta cũng nên nhớ rằng
mọi tâm thức đều là những mảnh vụn, những bộ phận của một tâm thức duy nhất
thấm nhuần vạn vật; v́ thế cho nên chúng có đặc trưng căn bản là giống nhau
cho dù khác nhau về mức độ; tất cả đều có ba thuộc tính cốt tủy, đó là Ư
chí, Minh triết và Hoạt động; mặc dù Ư chí có thể chỉ đạt tới tŕnh độ phát
triển mà ta gọi là Ham muốn; Minh triết có thể chỉ biểu lộ dưới dạng phôi
thai là Nhận biết, c̣n Hoạt động có thể chỉ biểu lộ dưới dạng sự Lăng xăng,
không có sự khác nhau cốt tủy nơi những đơn vị tâm thức đang ra sức biểu lộ
trong các thế giới khác nhau; nhưng có sự khác nhau vô số về mức độ từ tâm
thức dũng mănh và sáng suốt của thiên thần seraph cao nhất cho tới tâm thức
mờ nhạt, thậm chí ít khi nào thoát khỏi t́nh trạng ṃ mẫm nơi giới khoáng
vật. Trong vũ trụ chỉ có một tâm thức duy nhất và tất cả cái gọi là tâm thức
cá biệt chỉ là những giai kỳ của nó.
Sự kiện căn bản thứ hai đó là những đơn vị tâm
thức này được hiện thân, nghĩa là có liên quan mật thiết tới những phần chất
liệu mà chúng tạm thời chiếm hữu. V́ mục đích nghiên cứu của ḿnh ta không
cần quan tâm tới những sự chiếm hữu cao nhất; ta có thể bằng ḷng thừa nhận
sự kiện rằng có những cấp độ chất liệu tinh vi hơn cấp độ mà ta bị hạn chế
trong đó ở đây; ta có thể biểu thị những cấp độ này bằng thuật ngữ chung là
thể tâm linh
mà không cần đặc thù hóa chúng thêm nữa. Những người có thể thoải mái sử
dụng thể tâm linh chắc chắn không cần có thêm bất cứ lời giải thích nào như
những lời được tŕnh bày trong bài này. Thế th́ ta chỉ quan tâm tới ba cấp
độ chất liệu đă xác định rơ rệt chúng đáp ứng với và là công cụ của tư
tưởng, ham muốn và hành động; đó là cấp độ trí tuệ, trung giới và vật lư.
Chất trí tuệ được tổ chức thành thể trí, chất trung giới được tổ chức thành
thể vía, c̣n chất vật lư được tổ chức thành thể vật lư với chức năng có thể
được chia thành bộ phận ether và bộ phận thô trược. Đây là những hiện thể,
những công cụ của đơn vị tâm thức, là phương tiện để cho đơn vị ảnh hưởng
tới và chịu ảnh hưởng của ngoại giới mà nó sinh hoạt trong đó; các hiện thể
này có thể được tổ chức cao cấp hoặc tồi tệ, có thể gồm có chất liệu tinh vi
và thô trược; cho dù chúng ra sao đi nữa th́ đó vẫn là phương tiện duy nhất
để đơn vị tiếp xúc với những thế giới xung quanh ḿnh và phương tiện duy
nhất để tự biểu hiện. Ba thể này - thể trí, thể vía và thể vật lư (xác) - có
thể tách rời khỏi nhau và trong những t́nh huống bất b́nh thường, hai bộ
phận của thể vật lư, trong một chừng mực nào đó có thể bị tách rời trong
sinh hoạt của cơi vật lư và hoàn toàn bị phân ly vào lúc thể vật lư chết.
Trong khi con người đang thức tỉnh và ở trạng thái tâm thức b́nh thường th́
lúc nào y cũng sử dụng ba thể này; khi đi ngủ y rời bỏ thể vật lư và chỉ
dùng hai thể là thể vía và thể trí; khi y chết, bộ phận thô trược của thể
vật lư bị rơi rụng, c̣n bộ phận tinh vi bám theo y trong một thời kỳ ngắn
(thường thường là vậy) để rồi cũng rơi rụng khỏi y giống như những bộ phận
thô trược; thế là y chỉ sử dụng thể vía và thể trí trong t́nh huống
sau khi chết
một thời kỳ dài ngắn tùy trường hợp; măi về sau thể vía cũng rơi rụng ra
khỏi y và y vẫn khoác lấy thể trí trong sinh hoạt lâu dài qua thể trí nơi
cơi trời; trung gian giữa trạng thái trung giới và tái sinh vào thế giới vật
lư. Khi thể trí cũng rơi rụng ra khỏi y th́ y thấy ḿnh ở ngưỡng cửa tái
nhập thể, tức là xây dựng những thể mới cho thời kỳ kế tiếp sinh hoạt trên
cơi vật lư.
Sự
kiện căn bản thứ ba, đó là con người đang sinh hoạt, hoạt động trong ba cơi
vào những thời kỳ thức tỉnh khi sinh hoạt trên trần thế. Ba cơi này là các
cơi gồm nhiều chất liệu vật lư, trung giới và trí tuệ, từ đó rút ra nhiều
chất liệu cho thể vật lư, thể vía và thể trí của ḿnh. Các cơi này không
tách rời khỏi nhau mà xuyên thấu và ḥa lẫn vào nhau, trong khi vẫn c̣n
riêng biệt với nhau. Cũng giống như chất hơi có thể đi xuyên qua nước nhưng
vẫn c̣n riêng biệt với nước, cũng vậy chất trung giới xuyên thấu lồng vào
chất vật lư trong khi vẫn c̣n riêng biệt với nó, và cũng vậy chất trí tuệ
c̣n tinh vi hơn nữa xuyên thấu lồng vào chất trung giới. Chất ether vật lư
xuyên thấu lồng vào chất hơi chất lỏng và chất đặc của thể vật lư, chuyển
động xuyên qua mọi bộ phận của nó mà không bị cản trở; cũng vậy chất siêu
vật lư xuyên thấu lồng vào chất vật lư, chuyển động không bị cản trở qua mọi
bộ phận của nó v́ chất siêu vật lư c̣n tinh vi hơn nữa. Đâu đâu thiên nhiên
cũng lặp lại chính ḿnh và ta có thể hiểu được nhiều về cơi siêu vật lư bằng
cách nghiên cứu cơi vật lư rồi lư luận bằng phép tương tự; nhưng ta phải
luôn luôn nhớ rằng cơi siêu vật lư là nguyên bản c̣n cơi vật lư là bản sao
chứ không phải ngược lại.
Trong khi ḥa lẫn vào cơi vật lư, cơi trung giới
không tận cùng chung với cơi vật lư, nó h́nh thành một h́nh cầu xung quanh
h́nh cầu quả đất và bán kính h́nh cầu trung giới này trải dài từ tâm điểm
của trái đất lên tới mặt trăng. Cơi trí tuệ tức cơi trời, lại là một h́nh
tṛn đồng tâm giống như vậy trải dài vượt xa giới hạn cơi trung giới mặc dù
xuyên thấu lồng vào cơi trung giới lẫn cơi vật lư. Tùy theo sự phát triển
của từng hiện thể một mà tâm thức của con người sẽ nhận biết được mỗi thế
giới; cũng giống như một người bị mù trong cơi vật lư không thể nh́n thấy
được thế giới vật lư mở rộng xung quanh ḿnh; cũng vậy một người bị mù trong
cơi trung giới không thể nh́n thấy cơi trung giới mặc dù cơi này luôn luôn
bao xung quanh y; cũng giống như vậy, một người mở được tầm nh́n trong cơi
trung giới mà bị mù trong cơi trí tuệ cũng không nh́n thấy được cơi trí tuệ
xung quanh ḿnh. Chất liệu trong mỗi thể phải được tổ chức để cho tâm thức
có thể dùng nó làm công cụ nhận thức; kẻ bị mù trên cơi vật lư ở giai đoạn
tiến hóa hiện nay chỉ là thiểu số; kẻ bị mù trong cơi trung giới là đại đa
số; nhưng cơ thể bị mù không làm thay đổi những thế giới mà các cơ thể hoạt
động trong đó - ngoại trừ đối với chính ḿnh. Vậy là con người sinh hoạt
trong ba thế giới và bất cứ lúc nào khi tâm thức tỉnh táo, mặc dù b́nh
thường y chỉ có ư thức phần thô trược nhất, khi ngủ và sau khi chết y sinh
hoạt trong hai thế giới nhưng thường thường chỉ có ư thức về cơi trung giới
và không phải lúc nào cũng vậy; ở một giai đoạn măi sau này của t́nh huống
sau khi chết,
người ta chỉ sinh hoạt trong một cơi và chỉ có ư
thức về môi trường xung quanh như vậy. Khi cơ tiến hóa tiến triển th́ cơi
trung giới sẽ trở nên nh́n thấy được đối với những người đang dẫn đầu làn
sóng tiến hóa b́nh thường của nhân loại, và ở một tương lai xa xăm th́ cơi
trí tuệ cũng trở nên thấy được sao cho con người trên trần thế ắt sinh hoạt
hữu thức trong ba cơi, v́ cả ba thể đă được tổ chức thành những hiện thể tâm
thức sẵn có để sử dụng b́nh thường.
Sự
kiện thứ tư và xét theo mục đích của ta là sự kiện căn bản cuối cùng, đó là
mỗi thể chịu ảnh hưởng của tâm thức hiện thân rồi ảnh hưởng tới tâm thức này
rất lâu trước khi nó được tổ chức đúng mức để truyền đạt tới cho tâm thức ấy
thông tin xác định về cái thế giới mà chất liệu của nó được rút ra từ đó. Ta
có thể để ư điều này một mức đáng kể nếu ta quan sát sự vận hành của ư thức
tỉnh táo nơi một cơ thể đứa nhỏ mới sinh. Ư thức đáp ứng với sự khó chịu của
cơ thể do thiếu thức ăn, đau đớn v.v. . . trước khi nó có khả năng thu lượm
qua cơ thể ấy bất kỳ ư niệm xác định nào về môi trường xung quanh hoặc lĩnh
hội được mối quan hệ của chính ḿnh với môi trường xung quanh. Thể vía và
thể trí đáp ứng với những sự thay đổi về tâm thức qua những biến đổi về rung
động nhiều thời kỳ trước khi chúng truyền đạt cho tâm thức những thông tin
xác định đang diễn ra xung quanh ḿnh trong cơi của riêng ḿnh. V́ thế cho
nên sự giao tiếp thường xuyên diễn ra giữa các thế giới mà con người b́nh
thường đang sinh hoạt trong đó, mặc dù người này không biết một chút ǵ về
sự truyền đạt của chúng; y chỉ có ư thức về một tư tưởng khi nó ảnh hưởng
tới óc phàm của y và cũng chẳng biết ǵ về nguồn gốc hoặc lộ tŕnh mà nó
phải đi theo trước khi nó đạt tới thể xác của y.
Ta hăy bắt đầu nghiên cứu về sự giao tiếp giữa
các thế giới khác nhau với những sự giao tiếp thường xuyên xảy ra hàng ngày,
vậy là ta hoàn toàn đứng vững trên tiêu chuẩn b́nh thường trước khi ta điều
tra điều bất b́nh thường. Cũng giống như có một thời khoảng không nhận ra
được đối với chúng ta giữa lúc đầu ngón tay chạm vào một miếng kim loại nóng
với lúc ngón tay rụt lại th́ có một làn sóng dây thần kinh cảm giác đi qua
từ ngoại vi lên tới bộ óc, rồi có một làn sóng hồi đáp đi qua dây thần kinh
vận động từ bộ óc ra tới ngoại vi; cũng vậy có một làn sóng rung động từ
chất vật lư đi qua chất trung giới và từ chất trung giới chuyển qua chất trí
tuệ tạo ra một sự thay đổi tương ứng trong tâm thức; đó là ư thức cảm nhận
được sự đau đớn của vết phỏng rồi ghi nhớ sự kiện này để chỉ đạo cho tương
lai. Sự giao tiếp ấy đă chạy vào bên trong cơ thể vật lư qua thể vía lên tới
thể trí tức là sự giao tiếp từ thế giới này sang thế giới kia. Sự thay đổi
về tâm thức cũng giống như vậy, ư chí tách rời ngón tay ra khỏi chất nóng,
nguyên nhân của rung động trong chất trí tuệ gây ra một rung động trong thể
vía, đến lượt rung động này ảnh hưởng tới óc phàm. Đó cũng là một sự giao
tiếp từ thế giới này sang thế giới kia. Trong mọi qui tŕnh suy nghĩ th́ có
một loạt những thay đổi tâm thức trong thế giới trí tuệ được đáp ứng bởi một
loạt rung động tương ứng trong thể trí; những rung động này gây ra một loạt
biến đổi rung động tương ứng trong thể vía được tâm thức củng cố - nên nhớ
rằng chỉ có cùng
một tâm thức trong mọi hiện thể - những thứ này gây ra những biến đổi rung
động tương tự trong bộ phận ether của thể vật lư; những rung động ether này
phần lớn là có tính chất điện, chúng ảnh hưởng tới các tế bào của óc phàm,
lập nên những biến đổi rung động trong đó; ở đây ta có sự giao tiếp b́nh
thường giữa các thế giới tiếp diễn lập đi lập lại liên tục, biến thiên qua
qui tŕnh đảo ngược khi cái phát khởi xuất phát từ bên ngoài; một điều ǵ đó
xảy ra nơi ngoại giới phát khởi một loạt biến đổi, một trong các giác quan
tiếp nhận một kích thích và lập nên một làn sóng thần kinh; làn sóng này
chuyển từ chất thô trược sang chất ether hoặc bắt đầu từ chất ether được đáp
ứng bằng một biến đổi tâm thức đi xuyên qua chất trung giới lên chất trí tuệ
tăng cường sự biến đổi tâm thức tiếp thu và ghi nhận sự giao tiếp ấy.
Cũng chẳng mất thời giờ khi ta biết rơ rằng sự giao tiếp thường xuyên chạy
lên chạy xuống cái thang bao gồm các thể của ta, mỗi thể là một bước thang
và mỗi bước thang là một thế giới khác nhau. Việc duy tŕ sự cân bằng trí
tuệ và khả năng lư luận phán đoán đứng trước điều bất b́nh thường trở nên dễ
dàng hơn nhiều khi ta hiểu ra rằng điều bất b́nh thường chỉ là sự mở rộng
của điều b́nh thường. Nếu một người cảm thấy rằng ḿnh đang giáp mặt với một
điều ǵ đó kỳ lạ và ḿnh chưa biết (một điều ǵ đó mà y có khuynh hướng coi
là siêu tự nhiên) th́ y thường mất cả khả năng phán đoán hoặc lư luận; nhưng
nếu y hiểu ra rằng hiện tượng trước mặt y chỉ là việc lập lại tinh vi hơn
của một diễn biến quen thuộc th́ lúc bấy giờ y có thể quan sát một cách
chính xác, lư luận một cách nhạy bén và sâu sắc. Cũng giống như ông Jourdain
sửng sốt khi thấy rằng trong việc giao tiếp đàm thoại b́nh thường ông đang
nói theo kiểu văn vần, th́ cũng như vậy học viên có thể sửng sốt khi thấy
rằng ḿnh đang liên tục giao tiếp từ thế giới này sang thế giới khác. Tâm
thức của bạn có thể chuyển chú tâm ra bên ngoài trong bất kỳ thế giới nào mà
nó có một hiện thể dùng làm cửa sổ; bạn có thể nh́n ra qua cửa sổ vật lư,
trung giới hoặc trí tuệ, nhưng cuộc sống luôn luôn như nhau khi bạn nh́n ra
và tiếp nhận các ấn tượng.
Ta hăy xét tới lớp giao tiếp kế tiếp. Một người có ư thức về một tư tưởng
hoặc nói cho đúng là một ấn tượng xuất hiện trong ư thức tỉnh táo một cách
khá mơ hồ và không xác định, y không thể liên hệ nó với bất cứ điều ǵ ở môi
trường vật lư xung quanh và nó có vẻ không bắt nguồn từ tâm thức của chính
ḿnh. Đối với y dường như nó xuất phát từ bên ngoài nhưng thiếu sự xác định,
sắc sảo mà y vẫn quen thuộc khi có sự hiện diện của những vật thể thực
hữu. Những ấn tượng chẳng hạn như tiên đoán, cảnh báo về nguy cơ, xuống
tinh thần hoặc lên tinh thần xét theo biểu kiến là vô cớ, cảm nhận về t́nh
trạng trí tuệ, đạo đức hoặc vật lư của bạn bè, cảm nhận về đau ốm, chết
chóc, bất hạnh, may mắn v.v . . ., những thông tin không xuất phát từ lời
nói hoặc thông điệp chữ viết rơ rệt được thốt lên; tuy nhiên lại gây ra sự
biến đổi trong tâm thức - đó là những cái ǵ vậy? Đó là do tác động lên thể
vía trong cơi trung giới, những tác động này lập nên những rung động trong
chất trung giới, thế là sinh ra những biến đổi tâm thức. Việc không có sự
xác định chính xác là v́ thể vía chưa được tổ chức cho nên nó không có khả
năng tiếp nhận ấn tượng rơ ràng. Thể xác đă trải qua qui tŕnh tổ chức trong
nhiều triệu năm cho nên có tiếp nhận hàng loạt rung động có được xác định rơ
nét, c̣n tâm thức trải qua cái thời kỳ bao la này học được cách liên hệ
những tác động với các đối tượng, phân tích và phối kết những ấn tượng tác
động lên cơ thể, nhờ vậy mà hiểu được ư nghĩa của chúng. Kinh nghiệm đă làm
thể xác tiến hóa thành một hiện thể đáng hâm mộ và là công cụ của tâm thức.
Nhưng thể vía lại khác hẳn. Nơi những người văn minh và có giáo dục thỏa
đáng th́ nó mới được tổ chức một phần nào, được tổ chức đúng mức để tiếp
nhận và mô phỏng hàng loạt rung động do cơi trung giới chuyển giao, nhưng
các giác quan đặc biệt của nó, những bánh xe xoay tít - luân xa - cho đến
nay nói chung chưa tiến hóa nơi những người như thế và v́ vậy họ không thể
tiếp nhận những ấn tượng được xác định rơ nét.
Khi nhắm
mắt lại ta có thể phân biệt được sáng và tối; nếu khi mặt trời đang chiếu
sáng trên mí mắt của bạn mà có một bàn tay chen vào giữa tạo ra một bóng râm
trên mí mắt th́ bạn ắt có ư thức về sự khác nhau đó, nhưng bạn không phân
biệt được bàn tay hoặc nếu có những bóng râm được chiếu lên một tờ giấy th́
đôi mắt mở to của bạn ắt nh́n thấy bóng râm ấy đang nhảy múa, nhưng nó chỉ
truyền đạt cho bạn một cách bất toàn cái câu chuyện mà bạn có thể lĩnh hội
được dễ dàng từ một vở kịch do người ta biểu diễn khi mắt bạn nh́n rơ người;
cũng giống như vậy thể vía của một người có giáo dục trung b́nh là như thế.
Nếu cách xa bạn có một diễn biến xảy ra mà bạn đặc biệt chú ư, mang tới cho
bạn niềm vui hoặc nỗi buồn hay là nếu có người nào đó tha thiết nghĩ tới bạn
th́ những rung động do điều đó gây ra trong chất trung giới ắt truyền qua
không gian như một thông điệp điện báo rồi tác động lên thể vía bạn lập nên
những rung động tương tự trong đó. Nhưng nếu các giác quan thế vía của bạn
chưa phát triển th́ thể vía không thể tạo ra một h́nh ảnh xác định rơ nét và
v́ vậy chỉ có một ấn tượng mơ hồ tác động lên tâm thức. Thể vía và giác quan
thể vía khác nhau cũng chẳng khác nào thể xác và giác quan thể xác, mặc dù
trong thể này có nhiều sự thay đổi hơn thể kia. Thể vía của người có giáo
dục đă phát triển khá nhiều về h́nh tướng và cấu tạo tổng quát, nhưng lại
được tổ chức tồi tệ xét về giác quan. Tuy nhiên trong thể vía vẫn có những
trung tâm phát triển rất nhiều liên quan tới các cơ quan thể xác dùng cho
cảm giác: có một trung tâm liên quan tới mắt, một trung tâm liên quan tới
tai v.v. . . Có khi những trung tâm này được kích động bởi những rung động
mạnh trong thể vía, lúc bấy giờ ta có hiện tượng thấu thị, nh́n thấy ma,
bóng ma, ảo ảnh về người c̣n sống hay người đă chết. Cũng có thể kích thích
các cơ quan thể xác là giác quan một cách khá ư không lành mạnh bằng cách
kích thích những trung tâm này thông qua các cơ quan thích hợp của chúng,
chẳng hạn bằng cách nh́n vào bầu pha lê, dùng gương thần và những phương
tiện tương tự. Bằng cách này người ta có thể mở rộng tầm nh́n trên cơi vật
lư hoặc ngay cả tầm nh́n ở các vùng thấp của cơi trung giới. Nhưng đây không
phải là có được các giác quan thể vía mà là sự kích thích không lành mạnh
các giác quan thể xác gây ra sự gia tăng bất b́nh thường tính nhạy cảm của
các trung tâm thể vía gắn liền với các giác quan thể xác. Theo định luật
thiên nhiên th́ sự phát triển phải bắt nguồn từ bên trên, các lực tiến hóa
tác động từ bên trên và tổ chức cái ở dưới. Sự sống tổ chức vật chất chứ vật
chất không tạo ra sự sống. Tâm thức hoạt động trong cơi trung giới tổ chức
các cơ quan cảm giác của thể xác; tâm thức hoạt động trong cơi trí tuệ tổ
chức các cơ quan cảm giác của thể vía v.v . . . Có sự hoạt động liên tục của
tâm thức để cải tiến và làm tinh vi các hạ thể của ḿnh. Khi sự tiến hóa của
bạn tiến triển từ giai đoạn mà nó đă đạt tới hiện nay đối với những người có
văn hóa và biết suy tư nhiều nhất, th́ có thể làm nhanh chóng việc phát
triển các giác quan thể vía bằng cách suy tư minh bạch và bền bỉ cũng như
tẩy trược ham muốn và hành động; khi những thứ này hoạt động th́ những giao
tiếp nhận được qua thể vía ắt trở nên rơ ràng và xác định, giống như những
giao tiếp nhận được qua thể xác. Bây giờ th́ chúng bị mờ đi v́ công cụ bất
toàn.
Khi tâm thức phát triển hết cơi này tới cơi kia, hết thế giới này tới thế
giới kia và tổ chức các hiện thể ở bên dưới thế giới mà nó đă xác lập trung
tâm của chính ḿnh, th́ xét theo mọi chủ đích thực tiễn các hạ thể hợp nhất
thành một thể duy nhất; nếu một người có trung tâm tâm thức được xác lập
trên cơi trí tuệ th́ thể vía và thể xác hoạt động như một thể đơn nhất và y
sống hữu thức trong cả hai thế giới. Trong tâm thức cao cấp của các Đấng ta
gọi là Chơn sư th́ mọi thế giới đối với các ngài chỉ là một thế giới duy
nhất mà ư thức tỉnh táo của các ngài bao giờ cũng hoạt động trên đó, các
ngài tập trung chú tâm vào bất cứ điểm nào mà không cần rời bỏ thể xác.
Những thế giới không được chú tâm vào th́ ở ngoài tiêu điểm, nhưng
chẳng phải là không thể thấy được. Khi ta chỉ dùng tầm nh́n trong cơi vật lư
thôi th́ những sự vật mà ta đang nh́n tới ắt rơ ràng và riêng biệt; những sự
vật xung quanh vẫn thấy được nhưng không xác định rơ rệt. Như vậy nếu một
người sinh hoạt trong hai thế giới th́ những sự vật trong cơi vật lư và cơi
trung giới ḥa lẫn vào nhau trong tầm nh́n b́nh thường của y, nhưng nếu y
muốn nh́n vào cơi vật lư th́ cơi trung giới ở ngoài tiêu điểm, nếu y nh́n
vào cơi trung giới th́ cơi vật lư ở ngoài tiêu điểm. Nhưng một sự giao tiếp
từ bất cứ thế giới nào cũng có thể đến với Chơn sư và khi chú tâm vào nó
ngài nh́n thấy thế giới xuất phát ra nó, và nếu muốn, ngài có thể đáp ứng
bằng cách gửi đi lời giải đáp qua hiện thể thích hợp. Đối với tâm thức của
ngài mọi hiện thể hoạt động như một thể duy nhất, nhưng mỗi hiện thể vẫn có
đó là công cụ hoàn hảo để hoạt động trong bất kỳ thế giới nào. V́ chưa đạt
tới tŕnh độ hoàn hảo cao siêu ấy, cho nên ta có thể phải di chuyển từ thế
giới này sang thế giới khác hoặc rời bỏ hiện thể này để hoạt động trong một
hiện thể khác, hoặc nếu ta đă trải qua tŕnh độ sơ cấp trong cơ tiến hóa cao
siêu th́ ta có thể phần nào thống nhất được các hạ thể của ḿnh và có thể
hoạt động trên một số cơi giống như các Chơn sư hoạt động trên mọi cơi biểu
lộ. Thế th́ khi chú tâm tới bất cứ thông điệp nào ta cũng có thể biết nó
xuất phát từ thế giới nào; đó chỉ là vấn đề phát triển các hạ thể; một tâm
thức duy nhất nhận được các ấn tượng từ bất kỳ thế giới nào mà nó đang sử
dụng một hiện thể được tổ chức hoàn hảo trong đó. V́ vậy toàn thể vấn đề chỉ
là tiến hóa, phát triển tâm thức, tổ chức các hiện thể.
Nhưng
có nhiều dạng giao tiếp không hoàn toàn tùy thuộc vào bản thân ta, những
h́nh tướng mà những người khác sử dụng để giao tiếp với ta không đ̣i hỏi sự
tăng trưởng về phần chính ta, những giao tiếp này xuất hiện với ư thức b́nh
thường của ta trong thể xác và bị vây quanh bởi ít nhiều khó khăn và nguy
hiểm v́ nó phóng thích những thần lực thường không được sử dụng trên cơi vật
lư do người đang giao tiếp thực hiện. Chính những thứ này mà ta sẽ xét tới
kế tiếp, ta chỉ nhận xét rằng chính việc ta muốn phát triển khiến cho cần
phải sử dụng những phương tiện này, các thần lực của các Đấng tiến hóa cao
hơn ta phải giáng xuống mức của ta v́ ta chưa thể vươn lên tới mức của các
ngài.
Ta có thể coi như đương nhiên là một qui tắc tổng quát khi một Đấng nào đang
hoạt động trên các cơi cao mà lại mất công tiêu tốn nhiều năng lượng để biểu
lộ trên cơi vật lư ở một chỗ cách rất xa nơi mà thể xác ngài sinh hoạt nếu
ngài có thể làm cái việc mà ḿnh cần hoàn tất không cần phải biểu lộ như
vậy. Ngài luôn luôn sử dụng số năng lượng thấp nhất cần thiết để hoàn thành
mục đích mà ngài đặt ra trước mắt ḿnh, ngài ắt dùng cách dễ nhất, phương
pháp dễ nhất, nếu các người mà ngài muốn giao tiếp chưa tổ chức được các
hiện thể cao để có thể tiếp nhận các giao tiếp trên cơi tinh vi th́ chắc
chắn là ngài không cần phải tiêu tốn năng lượng cần thiết để xuất hiện trên
cơi vật lư làm chi. Thế nhưng có khi điều này cần thiết và thời xưa th́
thường như vậy, v́ Chơn sư dạy dỗ trên cơi vật lư khi thể xác của ngài ở
cách xa cái nơi ban ra giáo huấn đó. Trong trường hợp như thế ắt có thắc mắc
phương pháp giao tiếp nào là tốt nhất?
Cổ nhân trả lời thắc mắc ấy một cách đơn giản và xác định. Họ đă bảo và quả
thật bảo rằng phương pháp giao tiếp tốt nhất là sử dụng một cơ thể thanh
khiết đă được rèn luyện cẩn thận và trông nom cẩn thận, có hệ thần kinh được
tổ chức cao cấp để cho chủ nhân ông chính thức của nó có thể dễ dàng ra khỏi
cơ thể và dành cơ thể này là đền thờ tạm đang trống rỗng để cho bậc Đạo sư -
thể xác của chính ngài đang ở cách xa - có thể bước vào và dùng nó làm hiện
thể của chính ḿnh. Một cơ thể được sử dụng như vậy th́ nó cần phải được giữ
ǵn một cách hết sức kỹ lưỡng, môi trường xung quanh phải đẹp đẽ và yên ổn,
không được phép có những rung động thô kệch hoặc xáo trộn quấy nhiễu bầu hào
quang. Những người thô tục và không thanh khiết không được phép tới gần cơ
thể ấy, chế độ ăn uống của nó phải mang tính không kích thích, nhiều chất
dinh dưỡng và không có mọi sản phẩm lên men và thoái hóa; phải cẩn thận tập
thể dục thể thao để giữ ǵn sức khỏe của nó. Trong những Đền thờ thời xưa
được chủ tŕ bởi những đấng bản thân là các Đạo đồ của các Bí pháp cao và
thấp th́ ta thấy có những cơ thể này, đó là các Trinh nữ lên đồng tức
Sybils. Những trinh nữ này thoạt kỳ thủy là những cô gái trẻ được nuôi dưỡng
hết sức cẩn thận trong khuôn viên Đền thờ và chỉ được phép tiếp xúc với
những người thanh thiết và cao thượng, cô Trinh nữ như thế ắt được chọn làm
phương tiện giao tiếp. Khi ngồi trên một ghế đẩu hoặc ghế dựa, cô lập với từ
trường của trái đất, cô gái ắt rời bỏ thể xác nếu cô đă được rèn luyện th́
tùy ư làm như vậy - hoặc bị đưa vào trạng thái xuất thần; lúc bấy giờ một
Chơn sư hoặc một Điểm đạo đồ cao cấp ắt chiếm lấy thể xác và thông qua đó
dạy dỗ các đệ tử tụ tập xung quanh. Đó là cách thức giáo huấn mà cổ nhân ưa
dùng, đó là phương thức tốt v́ nó ít gây ra xáo trộn về các lực vật lư thông
thường, nó chỉ cung cấp cho Đấng cao cả một hiện thể mà ngài có thể sử dụng
trong khi cô gái lên đồng không bị xáo trộn nhiều hơn mức giống như đi ngủ
b́nh thường. Đây là cách thức mà Pythagore thường sử dụng để giáo huấn đệ tử
trong nhiều kiếp.
Thời nay một cơ thể như vậy được gọi là cơ thể của đồng tử và việc thiếu
hiểu biết đă khiến cho chức vụ này bị thoái hóa; một người bẩm sinh nhạy cảm
được dạy dỗ để thụ động khiến cho ḿnh lâm vào t́nh trạng xuất thần, thể xác
bị chiếm lấy mà chẳng biết thực thể xuất nhập là ai, không thể phân biệt
hoặc có khả năng tự vệ. Người đồng tử như vậy thường làm ô nhiễm cơ thể bằng
rượu thịt, giao tiếp buông tuồng với mọi người, ngồi đồng với bất cứ ai,
sinh hoạt ở môi trường xung quanh nhầy nhụa. Kết quả tự nhiên là tầm thường
hoặc đáng ghê tởm. Người ta không thể chê trách đồng tử về điều này, chính
sự vô minh đă gây ra t́nh huống ấy. Nếu ông Stead có thể tiến hành kế hoạch
mà ông đă h́nh thành với cô bạn trên cơi trung giới là Ames Julia th́ ông đă
nâng cô đồng này lên một địa vị cao hơn hẳn, giữ cho người nhạy cảm ấy thoát
khỏi môi trường xung quanh gian tà và rào chắn pḥng lên đồng không cho
những đám bất khả xâm nhập kể cả trên cơi vật lư lẫn cơi trung giới. Thời
hiện đại Văn pḥng Julia là toan tính đầu tiên để khai mở những kênh
giao tiếp được giữ ǵn một cách cẩn thận có hệ thống giữa người sống trên
cơi trần và sống trong cơi siêu vật lư giao tiếp với nhau theo đường lối đặc
thù này, người vắng mặt cũng không bị loại trừ sử dụng nó nếu họ có thể đi
tới đó bằng thể vía.
Thời nay, bà H. P. Blavatsky phần lớn đă được Chơn sư của bà và các Chơn sư
khác sử dụng làm phương tiện giao tiếp. Bà có tư chất phi thường và hiếm hoi
nhất. Thể xác và hệ thần kinh của bà thuộc loại nhạy cảm nhất; bẩm sinh bà
đă là một đồng tử trong thời niên thiếu và xuân sắc, xung quanh bà có đầy
những hiện tượng đồng cốt phi thường. Nhưng bà có một trí thông minh sắc sảo
phi thường và ư chí sắt thép. Thật vậy, hiếm khi ta có được một tổ hợp như
thế và quả thật đó là lư tưởng đối với một huyền bí gia đến nỗi Chơn sư bảo
rằng không có sẵn một cơ thể như vậy trong ṿng 200 năm. Bà có tính t́nh
ngay thẳng và quyết đoán, việc rèn luyện huyền bí của bà thậm chí c̣n tích
cực hơn ư chí đă cứng rắn của bà. Trong suốt thời bà là Sáng lập viên của
Hội Thông Thiên Học, bà thường xuyên bước ra khỏi thể xác để nhường chỗ nó
phục vụ cho Thầy của chính ḿnh hoặc một trong các Chơn sư; khuôn mặt và
giọng nói của bà có khi thay đổi nhiều đến nỗi khán giả không quen phải bối
rối. Trong Hồi kư của ḿnh, Đại tá Olcott có bảo rằng hầu hết giáo
huấn huyền bí của chính ông là do phương thức cổ truyền này; bà ra khỏi thể
xác, một Chơn sư nhập vào rồi dùng bộ máy phát âm của bà mà dạy dỗ người đệ
tử háo hức sùng tín. Như tôi có nói ở trên, đây là phương thức tốt nhất
trong mọi phương thức giao tiếp, v́ nó gây ra ít xáo trộn nhất nhưng không
có mấy người thích hợp để được dùng làm một kênh dẫn như thế. V́ không hiểu
điều kiện cần thiết để cho cơ thể thích hợp được sử dụng bởi một Đấng ở mức
Chơn sư, thiên hạ đă không rèn luyện và giữ cho cơ thể ḿnh tốt đúng mức để
được sử dụng theo cách này và phần lớn điều được thực hiện thời nay không có
bản chất là mượn xác, mà đúng hơn là gợi linh hứng khi tâm trí người ta được
nâng lên trên mức b́nh thường nhờ tiếp xúc với tâm trí của Chơn sư và một số
tư tưởng của Ngài tuôn qua đó.
Đối lập hoàn toàn với phương cách giao tiếp này, xét về mặt nguy hiểm trong
khi phương cách kia an toàn, đó là việc hiện h́nh một thể xác. Các Chơn sư
cũng sử dụng phương pháp này, và vào thời kỳ đầu của Hội Thông Thiên Học th́
nó thường được sử dụng. Chơn sư quang lâm bằng ảo thân rồi làm cho nó cô đặc
ở chỗ mà Ngài chọn để xuất hiện bằng cách rút ra từ bầu không khí xung quanh
hoặc từ cơ thể của ai đó đang có mặt những hạt được kiến tạo vào cơ thể tinh
vi khiến cho nó nh́n thấy được và đôi khi sờ thấy được. Đại tá Olcott lần
đầu tiên thấy bằng cách này ở New York; năm 1889, tôi cũng lần đầu tiên thấy
Ngài ở Fontainebleau. Các Chơn sư và các đệ tử đă được điểm đạo xuất hiện
trước các hội viên Hội Thông Thiên Học bằng cách này. Ông Leadbeater,
Damodar, học giả Bhavani Shankar, ông Subbiah Chetty, là một số trong nhiều
nhân chứng khác về những sự xuất hiện như thế ở Adyar và chỗ khác.
Người ta ắt tự nhiên thắc mắc là: tại sao một phương tiện giao tiếp ấn tượng
và thỏa đáng như vậy lại nguy hiểm? Bởi v́ có một định luật nổi tiếng phổ
quát vũ trụ đó là: “Tác động và phản tác động bằng nhau và đối nghịch nhau”.
Bất cứ khi nào các lực của cơi cao được sinh ra để ảnh hưởng trực tiếp các
cơi thấp, th́ có một phản tác động bằng với tác động được sinh ra, và tác
động trực tiếp ở dưới đây của một Huynh đệ Quần Tiên Hội được nối tiếp bởi
một tác động trực tiếp tương tự ở đây của một Huynh đệ Hắc đạo. Trong một
bức thư thời buổi đầu, một trong những Chơn sư có giải thích phản tác động
nguy hiểm này đối với những hiện tượng lạ do H. P. Blavatsky gây ra, cùng
với những hậu quả phá hoại đối với những người xung quanh bà khiến cho nhiều
người trong chúng ta đă thấy định luật được xác nhận nhiều. Ở nơi đâu thần
lực được biểu lộ như vậy th́ có sóng gió và xáo trộn; những ai nhất thời có
vẻ được hưởng lợi nhiều nhất lại chính là những người ́ lưng gánh chịu lực
dội lại tất yếu. Họ chịu đau khổ thể chất hoặc tâm linh, mất thăng bằng hoặc
xáo trộn thần kinh. Sự căng thẳng thần kinh mà H. P. Blavatsky phải chịu do
hàng loạt hiện tượng lạ mà bà gây ra đă làm sức khỏe thể chất của bà sụp đổ
và bà già trước tuổi. Thật đáng chú ư điều đó, bởi v́ sự căng thẳng do tác
động của những thần lực trong cuộc đời làm đệ tử khiến cho ở Á Đông điều
kiện được nhận làm đệ tử là phải có thể xác khang kiện.
Tiểu sử của các nhà thấu thị và chư thánh đầy dẫy bằng chứng về tác động của
định luật này, nếu không được rèn luyện đúng mức th́ không một thể xác nào
có thể chịu đựng nổi sự căng thẳng của những trải nghiệm thông linh. Thuật
thấu thị và chứng cuồng thần kinh thường đi song song với nhau đến nỗi một
số người coi mọi biểu hiện thấu thị là do sự xáo trộn thăng bằng tâm thần và
quả thật trong nhiều trường hợp sự nhạy cảm về thông linh và quá căng thẳng
về thần kinh thường đi đôi với nhau. Từ lực, điện lực và các dạng rung động
khác được xác lập trên cơi vật lư do hiển lộ các lực tinh vi và trong phạm
vi mà người ta có được, nếu người ta không biết cách tự vệ th́ phải trả giá
cho sự hiện diện của các lực tinh vi bằng sự xáo trộn thần kinh và căng
thẳng trí óc.
Một phương tiện giao tiếp khác nữa là việc Chơn sư gửi thông điệp qua một đệ
tử. Đệ tử thường tŕnh bày thông điệp đó qua h́nh tướng của Chơn sư. Ấy là
v́ thể vía và thể trí được uốn nắn theo tư tưởng của chủ nhân ông, nếu người
đệ tử nhận thông điệp mà cố ư nghĩ tới Chơn sư th́ cơ thể y sẽ khoác lấy
h́nh tướng của ngài và người gửi thông điệp ắt xuất hiện dưới dạng người
chuyển giao thông điệp. Thể trí hoặc thể vía khoác lấy h́nh tướng đó, cho
nên vật liệu thô được xây dựng vào đó cũng theo khuôn mẫu, thế là dáng vẻ
của Chơn sư có thể xuất hiện mặc dù chính ngài không hiện diện.
Tương tự như vậy, một h́nh tư tưởng của Chơn sư có thể mang theo thông điệp
chuyển giao và việc này thường xảy ra hơn so với việc Chơn sư thật sự đi đến
bất cứ nơi chốn đặc thù nào. Hoàn toàn không dính dáng ǵ tới vấn đề Chơn
sư, người ta thường quan sát thấy rằng một người ắt thấy h́nh tướng của
người khác khi chỉ có h́nh tư tưởng của người ấy được gửi đi thôi chứ người
đó không đến viếng thăm bằng thể vía. Một người đă rèn luyện tâm trí đúng
mức có thể gửi một h́nh tư tưởng như vậy đi và nó khoác lấy h́nh tướng của
người gửi. Bản thân tôi thường nghe nói rằng tôi đă xuất hiện ở những chỗ
đặc thù và thực hiện một vài hành động nào đấy; những người nh́n thấy những
ảo thân đó không dễ dàng bị thuyết phục rằng tôi không đến viếng thăm họ
chút nào mà chỉ nghĩ tới họ thôi. Nếu người tiếp nhận đă được rèn luyện để
quan sát kỹ lưỡng th́ y ắt đă có thể phân biệt một h́nh tư tưởng với một
người; nhưng khi không được rèn luyện như thế người ta có thể trung thực bảo
rằng tôi nhận thấy bạn trong khi y chỉ nh́n thấy h́nh tư tưởng của
bạn thôi.
Vả lại người ta có thể phóng chiếu một h́nh tư tưởng rồi tiếp nhận nó là một
ngoại vật. Một Chơn sư có thể gửi đi một tư tưởng đến với một học viên và
vậy là tạo ra một sự thay đổi tâm thức của học viên ấy ở những mức cao của
cơi trí tuệ. Sự thay đổi tâm thức do Chơn sư gây ra ắt mang lại những rung
động tương ứng trong thể nguyên nhân của học viên, những rung động này được
mô phỏng lại theo cách thức b́nh thường trong thể trí và thể vía rồi được
chuyển xuống thể phách; một người dễ dàng chịu ảnh hưởng qua dây thần kinh
thính giác trong t́nh huống ấy có thể nghe tiếng nói của Chơn sư hoặc là bên
trong hay bên ngoài bộ óc; người dễ bị ảnh hưởng qua dây thần kinh thị giác
cũng có thể nh́n thấy h́nh tướng của Chơn sư; mỗi người có thể nghe thấy
hoặc nh́n thấy chính Chơn sư khi y vô ư thức tạo ra trong bộ óc thể phách
giọng nói hoặc h́nh tướng của ngài. Trong những trường hợp như thế sự giao
tiếp là có thực, nhưng h́nh thức mà nó khoác lấy trên cơi vật lư lại không
thực.
Trong sách Công vụ các Tông đồ người ta có nói rằng khi Chúa Thánh Thần
giáng xuống 12 Tông đồ th́ mỗi người trong đám đông tụ tập lại nghe thấy các
tông đồ nói bằng thứ tiếng của chính ḿnh. Đối với người không hiểu được
những vấn đề như thế mà bài này đang đề cập tới khi chuyện này dường như
không thể tin được. Tuy nhiên không phải như vậy. Ấy là v́ tư tưởng của các
Tông đồ khiến cho mỗi thính giả có một sự biến đổi tâm trí được mô phỏng lại
trong tâm trí của mỗi người; sự biến đổi ấy trở thành tư tưởng của mỗi người
và đạt tới bộ óc của mỗi người theo cách thức thông thường; ở đó nó khoác
lấy những từ ngữ mà mỗi người có thói quen hàng ngày chuyển dịch một cách vô
ư thức tư tưởng của chính ḿnh. Người ấy nghĩ rằng ḿnh nghe vị Tông đồ nói
bằng ngôn ngữ của chính ḿnh trong khi các Tông đồ nói bằng tư tưởng c̣n
người ấy dịch tư tưởng ra thành ngôn ngữ của chính ḿnh. Cũng giống như vậy
nếu một người hoạt động trên cơi trung giới thấy rằng ḿnh không thể giao
tiếp với ai đó mà ḿnh muốn giúp đỡ thông qua một ngôn ngữ thông thường, th́
nếu y đă học cách sử dụng thể hạ trí y bèn truyền tư tưởng tới cho tâm trí
của người bạn đồng hành rồi để cho người ấy dịch h́nh tư tưởng đó là ngôn
ngữ của chính ḿnh.
Người ấy
dịch mà cứ tưởng rằng người bạn nói chuyện với ḿnh trong khi y chỉ tiếp
nhận từ người bạn ấy một ấn tượng tâm trí và chính y đă dịch nó theo cách
thức quen thuộc của ḿnh. Cái tương tác thường dùng giữa tâm trí và bộ óc,
việc b́nh thường dịch h́nh tư tưởng ra thành từ ngữ được sử dụng bởi những
người hoạt động trên các cơi cao để cung cấp một phương tiện giao tiếp thuận
lợi với những người hoạt động trong các cơi thấp mà sử dụng một ngôn ngữ
người truyền đạt không biết. Như thế một Chơn sư Á đông không biết tiếng Anh
ắt “nói chuyện được bằng tiếng Anh” với một đệ tử Âu Mỹ. Thậm chí ngài có
thể viết tiếng Anh bằng cách rút ra từ bộ óc của đệ tử những từ ngữ mà ngài
cần tới.
Có một khả năng nữa mà ta không nên bỏ qua: việc một Huynh đệ Tà đạo đóng
vai Huynh đệ Chánh đạo hay đệ tử tà đạo đóng vai đệ tử chính đạo. Có thể xảy
ra việc để lừa gạt một người có ảnh hưởng rộng răi, do đó gây hại cho người
nào đó bị lừa gạt, một Huynh đệ Tà đạo có thể đóng vai một Huynh đệ Chánh
đạo và đưa ra một mệnh lệnh có ác ư. Trong trường hợp như thế mọi thứ trước
hết tùy thuộc vào trực giác của đấng mà nó t́m cách dẫn dụ sai lạc, thế rồi
vấn đề chuyển sang trực giác và phán đoán của người khác. Nếu có một khả
năng như vậy xuất hiện trước mắt Hội, mỗi hội viên phải tự ḿnh có ư kiến về
tính chân thực và đáng tin cậy của việc giao tiếp sau khi đă xét tới mọi
hoàn cảnh của trường hợp này, tri thức và tính t́nh của nạn nhân giả định
ảnh hưởng của sự giao tiếp đối với phúc lợi của Hội và mọi diễn biến phụ
thuộc khác. Đôi khi vấn đề chỉ có thể được quyết định tối hậu sau khi trải
qua một thời gian dài; thế là trong trường hợp sự ly khai của ông Judge thời
gian đă được chứng tỏ qua sự nối tiếp và tăng trưởng của Hội Thông Thiên Học
nguyên thủy; việc hội viên đưa ra được tài liệu có thêm sức sống và sức mạnh
so sánh với sự phân ly tái ly khai ra thành đủ thứ đoàn thể nhỏ hơn, sự suy
giảm số tín đồ, sự hiếm hoi của kho tài liệu và sự ảnh hưởng nhỏ bé đối với
công chúng. Thời gian chứng minh được mọi việc và phán quyết của nó không
thể kháng án. Cũng như vậy, đối với sự tranh căi do những biểu hiện của
Adyar gây ra. Các bạn hăy nắm chắc phần hồn của ḿnh một cách kiên nhẫn và
chờ đợi phán quyết ấy sau khi đă sử dụng sự phán đoán tốt nhất của ḿnh. Lửa
thời gian chứng tỏ mọi chuyện, nó thiêu rụi mọi thứ cặn bă để lại vàng ṛng
và sáng lấp lánh. Đấng Chúa tể của Luyện ngục quẳng mọi thứ trần tục vào
trong lửa của ḿnh; hăy chờ đợi kết quả mà không sợ hăi v́ muốn rằng cặn bă
của ta bị thiêu đốt và hi vọng rằng rốt cuộc vẫn có thể c̣n lại vàng ṛng
nào đấy.
Hiển nhiên là đối với những người xem xét đủ thứ phương tiện giao tiếp th́
không thể cho những người ở cách xa nơi có giao tiếp quyết định cái h́nh
thức mà sự giao tiếp có thể xảy ra, trừ phi những người này đă quán triệt
được các phương pháp khảo cứu huyền bí. Bản chất của những sự biểu hiện diễn
ra ở vào mùa đông năm 1906 - 1907 không thể được hội viên b́nh thường của
Hội quyết định v́ họ không thông thạo các hiện tượng huyền bí. Hội viên bắt
buộc hoặc là phải tin cậy vào sự trung thực và chính xác của những nhân
chứng khi xảy ra diễn biến đó, hoặc là có khả năng nghiên cứu chúng bằng
huyền bí học hoặc là tạm thời không phán đoán. Các dữ liệu không đủ để có
thể quyết định độc lập về vấn đề này. Và trường hợp đó cũng đúng đối với hầu
hết hiện tượng lạ lùng xảy ra trong lịch sử Hội. Nếu ta không thể chấp nhận
sự trung thực và thông thạo của nhân chứng và nếu ta không có khả năng
nghiên cứu quá khứ bằng tự thân ḿnh th́ ta bắt buộc tạm thời không phán
đoán. Việc cả tin một cách vô lư và không tin một cách vô lư đều là dấu hiệu
của một cái trí mất thăng bằng và khi thiếu bằng chứng thỏa đáng th́ tốt
nhất là ta nên kiêng cữ khẳng định lẫn phủ định. Rơ ràng là trong những vấn
đề như thế mỗi người phải tự ḿnh quyết định và không ai có quyền bảo bất kỳ
hội viên nào khác phải suy nghĩ ra sao. Một người có kiến thức nhất định có
thể khẳng định rằng một chuyện như thế đă xảy ra, nhưng y không thể rêu rao
quyền lực của ḿnh để áp đặt kiến thức của ḿnh lên người khác, coi đó là
bằng chứng thỏa đáng về diễn biến; y cũng không được chê trách họ nếu họ từ
chối sự thông thạo của y với vai tṛ là nhân chứng. Mỗi hội viên cần có được
sự hoàn toàn tự do vận dụng lư trí của riêng ḿnh đối với những vấn đề này
liên quan tới sự an toàn và tiến bộ của Hội.
Trong nhiều năm, việc thiếu vắng những giao tiếp được phép công bố là bằng
chứng về sự mất thăng bằng thiếu phán đoán, mất ư thức phân biệt phải trái
b́nh thường và thiếu b́nh tĩnh trong Hội nói chung. Thiên hạ đă đi tới chỗ
coi những giao tiếp của các Chơn sư là khả nghi và đă nghi ngờ, gây sợ hăi,
và v́ các giao tiếp ấy gây ra nhiều xáo trộn cho nên chúng bị giữ lại trừ
phi thật sự cần thiết. Trong thời kỳ đầu thường có nhiều giao tiếp v́ người
ta thường công nhận sự thật là các cánh cửa đă được mở ra. Giờ đây ít có
giao tiếp v́ chúng gây ra nhiều xáo trộn. Nếu ta tin điều mà hầu hết chúng
ta chấp nhận về lư thuyết, theo đó ta đồng thời sinh hoạt trong cả ba thế
giới và có liên hệ với những thế giới này qua việc rút chất liệu của chúng
vào hiện thể của ḿnh, th́ ta nên coi đó là tự nhiên chứ không phải thiếu tự
nhiên khi ta tiếp nhận những tác động từ một trong ba thế giới qua chất liệu
mà ta chiếm hữu. Tri thức của ta về ba thế giới và sự giao tiếp của ta với
chúng tùy thuộc vào tŕnh độ tiếp thu của ta chứ không tùy thuộc vào ngoại
giới.
Có một điều rất quan trọng cho sự tiến bộ của Hội đó là: cho dù quả đúng là
có sự giao tiếp giữa các thế giới này nhưng bản thân sự kiện cũng như bất kỳ
ví dụ đặc thù nào về nó không nên áp đặt lên các hội viên của Hội bằng uy
quyền hoặc là ngấm ngầm hoặc là công khai. Mỗi hội viên phải được tự do chấp
nhận hoặc bác bỏ dựa vào trách nhiệm của chính ḿnh đối với điều mà bất cứ
ai khác khẳng định. Nếu khi vận dụng sự thận trọng này mà một hội viên bác
bỏ điều đúng thực th́ đó là sự thiệt hại cho chính y thôi; chẳng thà y chịu
thiệt hại c̣n hơn là Hội bị tước bỏ cái quyền tự do giữ cho con đường tiến
bộ được thênh thang rộng mở. Nếu đa số hội viên bác bỏ một sự giao tiếp đúng
thực và quan trọng (giao tiếp của một Chơn sư) th́ Hội ắt chết đi không c̣n
là một tổ chức nữa, chỉ c̣n lại một thiểu số tiến hành công việc. Đây là
nguy cơ mà Hội Thông Thiên Học phải đương đầu sau khi có những biểu hiện ở
Adyar và việc Chơn sư muốn bổ nhiệm người kế nhiệm Đại tá Olcott. Nhưng đại
đa số hội viên đă tuân theo ư muốn của Chơn sư cho nên đă tránh được nguy cơ
này.
Nguy cơ như vậy có thể giáp mặt với chúng ta, nhưng ta không được đánh đổi
sự an toàn đối với nó bằng cách hạn chế quyền tự do của các hội viên tự ḿnh
suy nghĩ. Mỗi hội viên phải được tự do tin tưởng hoặc không tin tưởng. Không
ai có quyền bảo rằng: “Tôi tin điều này v́ vậy bạn phải chấp nhận nó”. Không
ai có quyền bảo rằng: “Tôi không tin điều đó v́ vậy bạn phải bác bỏ nó”.
Không có sự cưỡng chế khi bảo rằng: “Tôi biết rằng khi kết hợp những chất
này lại ắt tạo ra một hợp chất gây nổ”. Nếu có bất cứ ai tự nguyện kết hợp
các chất ấy lại th́ do kinh nghiệm của chính ḿnh y phát hiện ra rằng một
hợp chất như thế đă được h́nh thành. Một Chơn sư đă từng có lần nói rằng:
“Một lời cảnh báo không phải là đe dọa” khi người ta tố cáo ngài là dọa dẫm,
bởi v́ ngài có phát biểu một đường lối hành động nào đó mà người ta nên
theo. Các học viên lăo thành có thể thấy nguy cơ mà học viên c̣n non trẻ
không thấy, và đôi khi họ phải vận dụng kiến thức đó để phục vụ cho giới
trẻ; nhưng giới trẻ phải được tự do chấp nhận hoặc bác bỏ lời cảnh báo và
trong trường hợp bác bỏ th́ họ phải trả giá cho kinh nghiệm của chính ḿnh
bằng sự đau khổ, hoặc có thể tránh được qua sự kinh nghiệm của những bậc lăo
thành. Tiến bộ được thực hiện theo cả hai đường lối và phần lớn là do sự ḥa
lẫn hai phương pháp. Những định luật thiên nhiên không thay đổi v́ ta không
biết tới chúng và nếu ta phạm sai lầm cho dù một cách có lương tâm th́ ta
vẫn phải chịu đau khổ giống như ta chống lại định luật. Quyết định có lương
tâm ắt cải thiện tính t́nh của ta và tri thức của ta ắt gia tăng qua trải
nghiệm của ta. Những người đă thu thập được tri thức ấy có thể đúng đắn khi
hiến dâng chúng cho đồng loại mặc dù không thể áp đặt lên người khác, bằng
không th́ họ có thể bị chê trách tại sao “bạn biết chúng tôi đang vô minh
lao đầu vào nguy hiểm mà lại không cảnh báo chúng tôi?”
Với vai tṛ là hạt nhân của Giống dân Sắp tới Hội Thông Thiên Học phải
khuyến khích sự đa dạng ư kiến trong nội bộ để cho nó có thể thu thập mọi
hạt giống sự thật, cho dẫu chúng bị che khuất bên trong lớp vỏ sai lầm. Lớp
vỏ có thể rơi rụng đi và hạt giống vẫn c̣n đó để tăng trưởng. Hội chẳng bao
giờ bị tiêu diệt v́ sự đa dạng tư tưởng, miễn là chúng ta thực hành sự khoan
dung toàn bích và không cản đường sự tự do phát biểu tư tưởng. Nhưng ta đừng
khích lệ những sự phủ nhận trong khi làm nản chí những sự khẳng định, kẻo ta
sẽ tăng trưởng hướng về bóng tối hơn là hướng về ánh sáng.
Trong khi chúng ta tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và khuyến
khích sự bàn luận đầy đủ nhất về những sự khác nhau th́ ta không nên quên sự
nhă nhặn và dịu hiền, kẻo sự khác nhau về tư tưởng ắt trượt xuống thành thóa
mạ những người nào suy nghĩ khác với chính ta. Việc đả kích cá nhân và gán
cho những động cơ thúc đẩy gian tà là vũ khí tấn công được sử dụng bởi những
kẻ thiếu văn hóa và dung tục, cho nên không thể t́m được chỗ đứng trong diễn
đàn của Thông Thiên Học. Đối với sự tăng trưởng của tương lai th́ t́nh
thương cũng có tầm quan trọng chẳng kém tri thức và trí thức mà không có
t́nh thương th́ cũng chỉ vô dụng thôi đối với những Người Tiên Phong xây
dựng Giống dân Sắp tới./.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS