|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
PHƯƠNG PHÁP CỦA
KRISHNAMURTI
(KRISHNAMURTI’S
METHOD)
Tác giả: DANIEL
ROSS CHANDLER Bản Dịch: www.thongthienhoc.com |
|
Ông Daniel Ross sống ở
Mỹ, thường xuyên đóng góp bài vở cho nhiều chủ đề khác nhau.
Trích Tạp
chí Nhà Thông Thiên Học. Bài viết tháng 5 năm 2012.
KRISHNAMURTI khích lệ
người ta nhận ra những bẩm tính tâm lư ngăn cản con người nhận thức chính
xác thực tại ngay tức khắc.
Khi thuyết tŕnh công
khai, ông chủ yếu không quan tâm tới một bài thuyết tŕnh đă được soạn kỹ
trước đó dành cho độc giả thụ động, im lặng lắng nghe hoặc là đồng ư hoặc là
không đồng ư. Krishnamurti không ủng hộ một triết lư tôn giáo, bè phái hoặc
một quan niệm thần học, ông cũng chẳng mưu t́m một sự đồng thuận trí thức
đưa người lắng nghe tới một kết luận chuyên biệt hợp lư. Thay vào đó, khi
ngỏ lời với thính giả khắp mọi châu lục, ông triển khai một phương pháp thực
chứng qua sự đối thoại và thảo luận. Ông chứng minh rằng lắng nghe tự nhiên
sẽ xảy ra khi thiên hạ giáp mặt trực tiếp với những vấn đề căn bản và những
thắc mắc cốt tủy liên quan tới sự tồn tại của con người. Song le, việc lắng
nghe bị ức chế khi thính giả phê phán, so sánh điều mà người thuyết tŕnh
tŕnh bày so với điều mà thính giả tin tưởng, hoặc khi thính giả chuyển dịch
thông điệp của người tŕnh bày thành ra tri thức trước đó của thính giả.
Lắng nghe có chất lượng chú trọng tới ‘cái đang là’ và lắng nghe có chất
lượng phát triển khi cái trí tịch lặng không c̣n ngăn cách với điều được
quan sát ngay trước mắt. Trong sự tịch lặng ấy, không có cái trung tâm nào
để cho người ta có thể liên hệ điều ḿnh lắng nghe hoặc nh́n thấy với trung
tâm đó; trải nghiệm trực tiếp ‘cái đang là’ tất yếu khơi dậy ư thức về vẻ
đẹp, trật tự và t́nh thương.
Krishnamurti khuyến khích
một qui tŕnh sáng tạo tự khám phá ḿnh một cách không đam mê, tự biên tự
diễn dựa trên niềm tin tính linh và sự giáo dục bắt nguồn từ sự tịch lặng,
trong đó cái trí được tự do. Needleman miêu tả thái độ giao tiếp của
Krishnamurti là một biểu hiện tự quan sát ḿnh của người thầy dạy. Needleman
phát biểu rằng:
“Không có điều ǵ về Krishnamurti lại thú vị hơn
công việc của ông từ lúc này sang lúc khác giao tiếp với những người đến
nghe ông nói. Những vấn đề mà ông nhắc tới là muôn thuở đối với con người:
chiến tranh, bạo lực, t́nh yêu, sự sợ hăi, thời gian. Nhưng tính độc nhất vô
nhị của ông là ở nơi nỗ lực của ông khi yêu cầu thính giả đó đây phải trải
nghiệm trực tiếp những vấn đề này, là những vấn đề để tự quan sát ḿnh một
cách vô ngă, đang xảy ra. Nếu không có cái việc thường xuyên đổi mới nỗ lực
kiểm chứng ngay tức khắc th́ người ta không thể theo dơi xuyên suốt qui
tŕnh tư tưởng của ông. Nó chỉ trở nên thanh nhă hoặc mặt khác, gián đoạn,
đầy những bước nhảy không ai đ̣i hỏi và những ư tưởng đặt kề sát bên nhau
một cách không chính thống. Thế là người ta đi đến kết luận hoặc là đồng ư
với ông hoặc là không đồng ư với ông [[1]]
Needleman biểu thị rằng:
Giờ đây nếu chúng ta thử nghiệm và chỉ nếu khi ta thử nghiệm - việc ta t́m
thấy cái ǵ không quan trọng - th́ ta có thể nói rằng ta đang giao tiếp với
Krishnamurti. Giao tiếp chỉ có thể được giữa hai con người chứ không phải
giữa hai tư tưởng hoặc ảnh tượng. Muốn giao tiếp với người khác phải có sự
vận động chung ngay tức khắc của một điều ǵ đó nhanh hơn (hoặc cao hơn) tư
tưởng. Không có qui tŕnh giao tiếp, bởi v́ qui tŕnh hàm ư có thời gian,
tức tương lai, nghĩa là việc mưu t́m điều có thể nhận ra được. Giao tiếp
vượt ngoài tầm thời gian bởi v́ giao tiếp vượt ngoài tầm tư tưởng
[[2]]
Khi khuyến khích nỗ lực tự biên tự diễn để quan sát ḿnh, Krishnamurti dạy
cho thính giả hăy trải nghiệm tư tưởng một cách nhanh chóng và ngay tức
khắc, không suy nghĩ thêm nữa, v́ thế cho nên liên tục bị lừa gạt. Ông vạch
rơ rằng một cái trí được giải thoát khỏi sự nhồi sọ chế định về tâm lư và xă
hội trở thành một cái trí mộ đạo; một nhóm người mưu t́m chân lư nghiêm túc
và chân thành mà nhận ra do bản chất của tâm và bản chất của xă hội ắt tạo
ra một cuộc cách mạng triệt để, và trải nghiệm của họ có thể khơi dậy một sự
thông hiểu hoàn toàn mới về tự do tâm lư và tinh thần với niềm xác tín rằng
mọi tổ chức xă hội đều tạo ra một chướng ngại làm thui chột cái tự do ấy.
Krishnamurti nhấn mạnh rằng giáo dục nên khuyến khích trẻ con và thanh thiếu
niên phát triển việc tự quan sát ḿnh ngay tức khắc. Một ví dụ chuyên biệt
gợi ư phương pháp của Krishnamurti có trong quyển Bàn về Giáo dục:
Khi bạn thâm nhập vào một tư tưởng đặc thù th́ bạn đang bắt đầu hiểu ra được
cái công cụ đang khảo sát tư tưởng ấy. Lúc bấy giờ, điều quan trọng không
phải là tư tưởng mà là người quan sát đang khảo sát cái tư tưởng ấy. Thế mà
người quan sát lại chính là cái tư tưởng đang bảo rằng: ‘Tôi không thích tư
tưởng ấy, Tôi thích tư tưởng này’. Thế là bạn đang tấn công cái cốt lơi của
tư tưởng chứ không phải chỉ cái triệu chứng đâu.[[3]]
Krishnamurti khăng khăng cho rằng các học sinh phải tự ḿnh chứng minh
phương pháp của ông và xác nhận những giáo huấn của ông thông qua việc giáo
dục thực chứng:
Đừng nh́n bằng
cái trí của bạn mà hăy nh́n bằng đôi mắt của bạn. Sau khi đă nh́n đủ mọi màu
sắc, h́nh dạng của đất, của những ngọn đồi, những tảng đá, bóng râm, th́ bạn
hăy đi từ ngoài vào bên trong rồi nhắm mắt lại, nhắm tịt mắt lại. Bạn đă
chấm dứt việc nh́n mọi vật ở bên ngoài và giờ đây khi mắt đă nhắm lại, bạn
có thể nh́n điều đang diễn ra ở bên trong. Hăy quan sát điều đang diễn ra
bên trong bạn chứ đừng có suy nghĩ, chỉ quan sát thôi, bởi v́ bây giờ không
có điều ǵ để nh́n thấy nữa, bạn đă nh́n thấy mọi vật xung quanh ḿnh rồi,
bây giờ bạn đang nh́n thấy điều đang diễn ra bên trong tâm trí ḿnh, và muốn
thấy được điều đang diễn ra bên trong tâm trí ḿnh th́ bên trong bạn phải
rất tịch lặng. Và khi làm như vậy th́ liệu bạn có biết điều ǵ xảy ra với
bạn chăng? Bạn trở nên rất nhạy cảm, rất tỉnh thức với mọi thứ bên ngoài và
bên trong. Lúc bấy giờ bạn ắt phát hiện được rằng bên ngoài chính là bên
trong, lúc bấy giờ bạn ắt phát hiện ra rằng chủ thể quan sát chính là đối
tượng được quan sát [[4]]
Cũng giống như phương pháp khoa học hiện đại, phương pháp giáo dục của
Krishnamurti nhấn mạnh tới sự kiểm chứng thông qua sự chứng minh; nhưng
triết lư của Krishnamurti mang tính phi nhị nguyên, c̣n triết lư của phương
Tây tất yếu có sự phân chia làm đôi giữa chủ thể nh́n thấy và đối tượng được
nh́n thấy.
Đối với người phương Tây th́ việc phân tích phương pháp của Krishnamurti
thật là gay go. V́ nhận thấy rằng giáo huấn đơn giản gây bối rối của vị đạo
sư thế giới tất yếu là có tính cách nghịch lư, cho nên Raiola có kết luận
một cách chính xác rằng việc khảo sát ví dụ hoặc triết lư của Krishnamurti
cũng ‘giống như ra sức nắm bắt cái bọt xà pḥng mà đứa trẻ đang thổi phồng
lên: ngay khi ta nghĩ rằng ḿnh đă nắm bắt được nó th́ ta ắt phát hiện ra
rằng bàn tay ḿnh đang rỗng tuếch’
[[5]].
Khó khăn này không ngăn cản Raiola nghiên cứu những nguyên tắc giáo dục và
việc thực hành học tập thực chứng theo sự rao giảng của John Dewy, Earl
Kelly và Krishnamurti. Khi Currie và Breadmore so sánh đối chiếu tương phản
những triết lư giáo dục do Maria Montessori và Krishnamurti tŕnh bày, th́
hai nhà khảo cứu này thấy rằng cả hai lư thuyết gia đều kết án khảo hướng
truyền thống về giáo dục. Currie và Breadmore phân tích những giáo huấn của
Montessori và Krishnamurti về cách thức trẻ con học tập và vai tṛ mà chúng
nắm giữ trong việc giáo dục; những thuộc tính, đặc trưng và quá tŕnh rèn
luyện của thầy cô giáo cùng với mối quan hệ thầy-tṛ; môi trường giáo dục
thích đáng mà không nhấn mạnh tới kỷ luật, cạnh tranh, lượng giá và những
phương pháp giáo huấn. Những nhà khảo cứu này kết luận rằng Montessori và
Krishnamurti chia xẻ những điều tương tự hơn điều khác biệt; và sự khác
nhau chính yếu là ở chỗ Krishnamurti coi thường việc phát triển và sử dụng
bất kỳ phương pháp đặc thù nào, c̣n Montessori toan tỉnh xây dựng một phương
pháp dựa trên nhận xét của bà về ‘đứa trẻ tự nhiên’. Currie và Breadmore
phát biểu rằng:
Khi mong muốn xây dựng một xă hội mới, Montessori và Krishnamurti không ủng
hộ việc giáo dưỡng tập thể hoặc việc nhà nước kiểm soát giáo dục. Chính v́
thế mà ta không thể mô tả cả hai tác giả này là những nhà tái thiết xă hội
theo nghĩa chính trị, mà đúng hơn là các nhà tái thiết tâm lư. Điều này có
nghĩa là cả hai đều nh́n thấy cái sự thay đổi trong xă hội vốn chỉ có thể
thật sự diễn ra một cách bền bỉ khi những cá thể hợp thành xă hội đă trải
qua một sự thay đổi tâm lư triệt để. Sự thay đổi này ắt làm phát triển ư
thức phê phán thông qua việc tự giáo dục. Cả hai đều viết rằng điều này đ̣i
hỏi trường học phải nhỏ, nơi đó trẻ con được chú ư tới từng cá thể và trường
được tự trị, không bị kiểm soát bởi bất kỳ đoàn thể chính quyền nào.
Krishnamurti nói thêm rằng trường học cũng không nên bị kiểm soát bởi bất kỳ
đoàn thể tôn giáo nào
[[6]]
Đặc biệt thú vị là nhận xét cho rằng Krishnamurti đă trải nghiệm một qui
tŕnh biến đổi triệt để. Khi thừa nhận rằng bậc đạo sư thế giới đă lừng danh
nhờ tŕnh bày một phiên bản độc nhất vô nhị miêu tả triết học và thần bí học
ở Ấn Độ thông qua một phong cách lắng nghe hớp hồn như thôi miên quần chúng.
White viết rằng, Krishnamurti đă báo cáo trong suốt cuộc đời ḿnh, ông phải
chịu một sự thanh tẩy tinh thần sâu sắc tên là “Qui tŕnh”. White giải thích
rằng
‘sự Thanh tẩy’ này được gọi là ‘Qui tŕnh’ và gợi ư với những người chứng
kiến theo đó ‘chơn ngă’ của ông đă rời bỏ thể xác để nhập vào cái dường như
là trạng thái tâm thức siêu việt. Trạng thái này thỉnh thoảng có kèm theo
những cơn đau dữ dội trên đầu và lưng. Trải nghiệm của Krishnamurti giống
như sự khơi dậy quyền năng kundalini được thực hành dưới một dạng nào
đấy trong nền tâm linh Ấn Độ. Cơn đau kèm theo trải nghiệm này chỉ diễn ra
trong một số trường hợp và không ngăn cản công việc giáo huấn của ông; thật
vậy, nó góp phần vào trạng thái cao cột trong đó Krishnamurti biết ḿnh hiệp
nhất với mọi sự sống và cái tự do không bị nhồi sọ chế định mà ông thử
nghiệm qua việc liên tục thuyết tŕnh với những quyển sách, băng ghi h́nh và
ghi tiếng do tổ chức mang tên ông xuất bản để truyền đạt tới cho hàng ngàn
người chịu ảnh hưởng của ông
[[7]]
Thông qua những cuộc thảo luận và nói chuyện được nhận xét ngay tức khắc,
đồng thời được ghi lại thành băng h́nh, băng tiếng để sau này giáo huấn,
Krishnamurti đă rao giảng và thực hành một ‘triết lư nhận thức’ vốn được
kiểm chứng bằng thực nghiệm qua việc ứng dụng bằng thực tiễn. Krishnamurti
đă giảng dạy và chứng tỏ rằng việc học tập cần phải thường xuyên quan sát và
lắng nghe.
Có một giáo huấn cốt tủy sơ cấp đó là vấn đề mà con người giáp mặt, không
phải là thế giới; thay vào đó là mối quan hệ của người với người khác cấu
thành vấn đề; và khi vấn đề của một người mở rộng ra hoặc khuếch đại lên th́
lúc bấy giờ vấn đề trở thành một vấn đề biểu kiến của thế giới. Muốn hiểu
được thực tại này ta cần phải tự biết ḿnh; trong nội bộ con người ta phát
hiện thấy nền tảng của sự hiểu biết cũng như thủy và chung của vạn vật. Muốn
là một con người tích hợp th́ ta phải hiểu trọn vẹn qui tŕnh tâm thức của
ḿnh, những chiều sâu ẩn tàng và những khía cạnh công khai. Tất yếu con
người chính là thế giới
[[8]]
. Khi con người bắt đầu hiểu được chính ḿnh mà không toan tính thay đổi bản
thân, th́ lúc bấy giờ người ấy ắt trải nghiệm sự chuyển hóa.
Cuộc đời và giáo huấn của Krishnamurti khẳng định rằng ông lao động vất vả
để tạo ra một thế hệ mới những con người chứng tỏ một phẩm tính mới về tâm
trí, một sự nhạy cảm mới, một xúc cảm mới hướng về môi trường. Vị đạo sư thế
giới làm việc để phát triển một tâm thức mới; vốn không phải là tâm thức cũ
được xào nấu lại thành ra tâm thức mới; thay vào đó ông khuyến khích một tâm
trí hoàn toàn mới không bị ô nhiễm bởi quá khứ, chứ không phải chỉ thay đổi
tâm trí vốn cấu thành một sự liên tục từ quá khứ chảy vào cái khuôn mới.
Krishnamurti dạy rằng khi một người gia nhập một tổ chức đ̣i hỏi việc chấp
nhận một tín ngưỡng dựa trên giáo điều, th́ cái trí đâm ra bị nô lệ và tư
tưởng không thể tự do được. Ông không chấp nhận điều ǵ là sự thật nếu chính
bản thân ông không khám phá ra sự thật đó. Dù chẳng bao giờ chống đối những
ư kiến cho người khác tuyên cáo; ông chỉ lờ đi những giả định, lập luận và
khẳng định của họ. Và cũng giống như nghệ thuật, học tập đ̣i hỏi ta phải dứt
khoát giải trừ việc dấn thân, hoặc đó là một sự phi cá nhân hóa quan trọng.
Krishnamurti bảo rằng một nghệ sĩ chân chính phải vượt lên tính hiếu danh và
tham vọng của bản ngă - không bao giờ có một chỗ đứng, một địa vị, không cầu
viện tới trí nhớ hoặc để cho trí nhớ thống ngự.
Điều chân thực được phát hiện qua sự nghi ngờ bằng cách khảo sát nhiều điều
hăo huyền, nghi vấn những giá trị truyền thống và phân tích những lư tưởng
được chấp nhận. Khám phá ra điều nào đúng vốn bắt nguồn từ việc t́m thấy
điều nào sai và đúng trong phạm vi một môi trường thấm nhuần đau khổ và áp
bức. Krishnamurti phát biểu rằng nghi ngờ thôi thúc việc thường xuyên t́m
hiểu, mặc dù nghi ngờ chẳng bao giờ tự nó cấu thành một cứu cánh. Sự thật
không phải là một sự thấu ngộ mà là thành tựu được; hoặc ta nh́n thấy sự
thật hoặc là ta không nh́n thấy nó; tuy nhiên ta không thể dần dần nhận thức
được sự thật.
Krishnamurti giải thích và minh chứng rằng con người chỉ có thể sống hạnh
phúc khi không bám víu hoặc chiếm hữu, coi đó là điều quan trọng của bản
ngă; và sự thông hiểu này cấu thành một phân khúc cốt tủy trong phạm vi giáo
dục chân xác. Ta không chỉ có thể, mà nên sống trong thế giới không tham
vọng, luôn luôn mai danh ẩn tích và hoàn toàn vô danh tiểu tốt. Một người
hạnh phúc và yêu thương không muốn chiếm hữu; người như thế không bị đe dọa
hoặc đàn áp bởi sự thành công; không bị địa vị làm bất đắc chí hoặc khống
chế, không bị uy quyền kiểm soát hoặc thao túng. Hạnh phúc nảy sinh khi điều
thiện và t́nh thương tồn tại, khi cái trí tịch lặng đang mưu t́m điều chân
thật, chứ không phải khi người ta đeo đuổi hạnh phúc.
Nhờ việc quan sát, người ta phải chết đi với tính liên tục của vạn vật
[[9]].
Krishnamurti dạy rằng yêu thương đ̣i hỏi ta phải chết đi mỗi ngày. Yêu
thương không phải là trí nhớ, cũng chẳng phải là tư tưởng; yêu thương không
phải là một điều ǵ đó tiếp tục thành một kỳ gian trong thời gian. Có yêu
thương th́ mới có sáng tạo. Hăy sống trọn vẹn và vui hưởng mọi giây khắc
dường như thể mỗi buổi sáng là một sự khởi đầu mới đ̣i hỏi ta phải chết đi
với mọi thứ ngày hôm qua; bằng không th́ người ta tồn tại một cách máy móc
chẳng trải nghiệm được t́nh thương và tự do.
------------------------------------
[[1]]
Needleman, Jacob, Những Tôn
giáo Mới, Tủ sách Bỏ túi của Simon và Schuster, New York, 1972,
trang 143.
[[5]]
Edward D. Raiola, ‘Con Mắt của người Chứng kiến: Những viễn cảnh về
việc Học tập Thực chứng, Niên
san các Tài liệu Bradford, 1986, trang 36.
[[6]]
Jan Currie và Jim Breadmore, ‘Montessori và Krishnamurti: So sánh
Triết lư Giáo dục của họ và các Trường Thực hành ở Mỹ và Ấn Độ’, tài
liệu được tŕnh bày trong hội nghị thường niên của Hiệp hội Giáo dục
So sánh và Quốc tế Úc, Hamilton, New Zealand, 21-24 tháng tám, năm
1983, trang 7.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS