Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

PHẬT GIÁO
        (BUDDHISM)
Tác giả C. W. Leadbeater
Bản dịch: www.thongthienhoc.com

Trích quyển THE INNER LIFE

 

Khi nghĩ tới Đức Phật ta không được quên rằng ngài rất cao siêu hơn mức chỉ là giáo chủ của một tôn giáo. Ngài là một chức sắc cao cấp của Quần Tiên Hội, cao cấp hơn hết ngoại trừ một đấng, và trong nhiều kiếp nhập thể trước kia ngài đă lập nên nhiều tôn giáo trước tôn giáo hiện nay mang tên ngài. Ấy là v́ ngài đă là Vyasa vốn cống hiến biết bao nhiêu cho Ấn độ giáo; ngài là Zoroaster nguyên thủy, từ đó mới có tục thờ cúng mặt trời và thờ lửa; ngài cũng là Orpheus, ca sĩ vĩ đại của người Hy Lạp.

 Trong kiếp cuối cùng của nhiều kiếp, khi ngài giáng sinh là Đức Cồ đàm th́ thoạt tiên dường như ngài không có ư định lập nên một tôn giáo mới. Ngài chỉ xuất hiện với vai tṛ là một người cải cách Ấn giáo - một tín ngưỡng đă cũ rích rồi, do đó xa rời dạng nguyên thủy giống như mọi tôn giáo khác. Xét về nhiều mặt nó đă trở nên cứng nhắc và ngay cả so với hiện nay th́ nó có vẻ c̣n ít linh động hơn nữa. Ngay cả bây giờ th́ tất cả chúng ta đều biết có đường ngăn cách tuyệt đối giữa các giai cấp, có sự cứng rắn như sắt thép về các h́nh thức và nghi lễ.

 Ngay cả hiện nay, ta cũng biết rằng không ai có thể được cải giáo sang Ấn giáo, cách duy nhất để gia nhập tín ngưỡng này là sinh ra trong giai cấp Bà la môn.

Ta hăy tưởng tượng một t́nh huống trong đó mọi thứ này thậm chí c̣n cứng nhắc hơn nữa, trong đó xúc cảm c̣n mănh liệt hơn nữa, trong đó mọi nhân sinh quan đều thay đổi rất nhiều so với người Aryan nguyên thủy; khi nó là một tôn giáo tràn đầy niềm tin và mang lại hy vọng cho mọi người. Chẳng bao lâu trước thời Đức Phật ư kiến chung dường như cho rằng ngoài người Bà la môn ra hầu như chẳng có ai có được cơ may cứu chuộc. Thế mà v́ số người Bà la môn luôn luôn là thiểu số, ngay cả hiện nay vào khoảng 13 triệu người trong số 300 triệu cư dân Ấn Độ, cho nên rơ ràng đó không phải là một tôn giáo mang nhiều hi vọng cho đa số mọi người, bởi v́ nó bảo họ rằng họ phải trải qua nhiều kiếp cho đến khi có thể được nhận vào giai cấp thiểu số độc quyền Bà la môn nhiên hậu họ mới có thể thoát khỏi ṿng sinh tử luân hồi.

Rồi tới Đức Phật giáng sinh, giáo huấn của ngài mở toang những cánh cổng thiên luật công bằng tử tế, v́ ngài dạy rằng người ta đă lệch lạc hoàn toàn so với h́nh thức tôn giáo xưa cũ. Ngài lập đi lập lại rằng một người mặc dù sinh ra trong giai cấp Bà la môn mà không sống cuộc đời phẩm hạnh Bà la môn th́ chẳng đáng tôn kính và cũng chẳng t́m ra đường giải thoát; c̣n người nào thuộc bất kỳ giai cấp khác mà sống cuộc đời phẩm hạnh Bà la môn th́ nên được coi là thuộc giai cấp Bà la môn và xét về mọi phương diện đều được mọi khả năng dường như thể y sinh ra trong giai cấp linh thiêng.

Tự nhiên là khi đứng trước những giáo huấn đẩy lùi mọi niềm hi vọng về cứu chuộc tối hậu vô cùng xa xăm vào tương lai th́ kẻ phàm tục ắt trở nên tuyệt vọng và do đó thờ ơ; mặt khác, sự khổ hạnh của người Bà la môn dành trọn cuộc đời cho những nghi lễ và tham thiền cũng không hợp thị hiếu của họ và quả thật hiển nhiên là họ không thể làm được như vậy. Nhưng Đức Phật rao giảng cho họ cái mà ngài gọi là trung đạo, ngài bảo rằng mặc dù một cuộc đời khổ hạnh và hoàn toàn tận hiến cho tôn giáo không dành cho họ, nhưng chẳng có lư do ǵ mà v́ như vậy họ lại rớt vào t́nh trạng thờ ơ và sinh hoạt gian tà. Ngài cho họ thấy rằng thế nhân vẫn có thể có một sinh hoạt cao siêu và mặc dù y có thể không tận tụy với siêu h́nh học và những lập luận chẻ sợi tóc làm tư, người ta vẫn c̣n lĩnh hội được đúng mức những sự kiện lớn của cơ tiến hóa để h́nh thành một sự dẫn dắt thỏa đáng cho cuộc đời ḿnh.

Ngài tuyên bố rằng sự cực đoan theo cả hai hướng đều phi lư như nhau; một đằng th́ cuộc đời của kẻ phàm phu bị hoàn toàn vây bủa bởi việc kinh doanh, theo đuổi những giấc mơ quyền lực và giàu sang, cuộc đời ấy thật điên rồ và khiếm khuyết v́ nó bỏ qua mọi thứ thật sự đáng được cứu xét; nhưng mặt khác, sự khổ hạnh cực đoan dạy con người hoàn toàn quay lưng với thế gian, độc quyền tận tụy một cách ích kỷ, ra sức cách ly bản thân với thế gian và thoát tục th́ cũng điên rồ không kém. Ngài chủ trương rằng trung đạo chân thực và mỹ lệ là tốt nhất và an toàn nhất; trong khi chắc chắn là cuộc đời tận hiến hoàn toàn cho tính linh là cao siêu nhất cho những ai đă sẵn sàng, nhưng người nào vẫn c̣n vướng ṿng tục lụy làm việc trong thế gian cũng có thể có một sinh hoạt tinh thần tốt đẹp và chân chính.

Giáo lư của ngài hoàn toàn dựa trên lư trí và cảm thức phân biệt phải trái b́nh thường; ngài không yêu cầu bất cứ ai mù quáng tin vào bất cứ điều ǵ, mà đúng hơn ngài bảo y hăy mở to mắt ra và quan sát xung quanh ḿnh. Ngài tuyên bố rằng bất chấp mọi phiền năo và khốn khổ của thế gian, cái hệ thống lớn lao mà con người là một bộ phận đời đời có sự công bằng, và định luật mà ta đang sống theo đó là một định luật tốt đẹp miễn là ta hiểu được nó và thích ứng ḿnh với nó. Ngài dạy rằng đời là bể khổ nhưng chính con người gây ra sự rắc rối cho bản thân, bởi v́ y triền miên chiều theo ham muốn cái mà y không có; ngài bảo rằng hạnh phúc và sự hài ḷng có thể đạt được tốt hơn qua việc hạn chế ham muốn thay v́ gia tăng sự chiếm hữu.

Để đạt được như vậy, ngài liệt kê giáo huấn của ḿnh một cách kỳ diệu nhất, sắp xếp mọi thứ dưới một vài tựa đề mà ta có thể dễ dàng học thuộc ḷng. Thật ra th́ điều này cấu thành một hệ thống những điều cần học thuộc ḷng được xếp theo thứ tự cẩn thận phân cấp. Đại khái th́ nó đơn giản đến nỗi bất kỳ đứa trẻ con nào cũng có thể nhớ và hiểu được Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo và những nguyên tắc sinh hoạt được gợi ư theo đó; thế nhưng nó được tiến hành một cách tinh xảo đến nỗi nó cấu thành một hệ thống triết lư mà kẻ minh triết nhất có thể nghiên cứu trọn đời, thế nhưng thấy nó càng ngày càng minh giải hơn cho những vấn đề của cuộc sống.

Ngài phân tích mọi thứ đến mức độ hầu như không thể tin được; ta có thể thấy như vậy qua việc nghiên cứu Thập nhị nhân duyên hoặc qua việc ngài liệt kê những bước trung gian giữa tư tưởng và hành động. Mỗi một trong Tứ Diệu Đế của ngài được biểu diễn chỉ bằng một từ ngữ thôi, thế nhưng bất cứ ai đă từng nghe tŕnh bày hệ thống này th́ mỗi một trong những từ ngữ nêu trên tất yếu khơi dậy một loạt những ư tưởng. Điều này cũng đúng với những từ ngữ biểu thị các bước trong Bát Chánh Đạo và những điều hoàn hảo vĩ đại mà Tiếng Nói Vô Thinh có nhắc tới. Tất cả những điều hoàn hảo này chỉ là minh triết, quyền năng và t́nh thương xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Đôi khi chúng được tính là sáu nhưng thường thường được tính là mười. Sáu điều hoàn hảo được tŕnh bày là nhân từ hoàn hảo, đạo đức hoàn hảo, kiên nhẫn hoàn hảo, nghị lực hoàn hảo, chân thực hoàn hảo và minh triết hoàn hảo; c̣n bốn điều kia đôi khi được thêm vào là: tuân phục hoàn hảo, quyết tâm hoàn hảo, tử tế hoàn hảo và xả bỏ hoàn hảo.[Lục độ và từ, bi, hỉ, xả].

Phật giáo hầu như đă biến mất khỏi Ấn Độ, thế nhưng nó c̣n để lại đằng sau những kết quả lâu bền và đâu đâu ta cũng thấy xứ sở này mang nặng dấu ấn giáo huấn của ngài. Trước khi ngài giáng sinh việc hiến tế bằng máu dường như phổ biến; ngay cả hiện nay chúng vẫn c̣n tồn tại, nhưng tương đối hiếm bởi v́ ngài dạy rằng không một đấng thiêng liêng cao cả nào lại thích những điều như thế và chư thần linh đúng hơn là muốn sự hiến tế bằng một cuộc đời thánh thiện.

Khi nh́n trở lại kư ảnh thời ấy chúng tôi thấy rằng ngài thuyết pháp hầu như ngay giữa khoảng trời khoáng đạt, và gần như luôn luôn ngồi dưới gốc cây, c̣n thính chúng ngồi trên mặt đất xung quanh ngài hoặc đứng dựa vào các cây, nam phụ lăo ấu lẫn lộn, c̣n đám trẻ con chạy chơi ṿng ṿng bên ngoài đám đông. Bực đại đạo sư có một giọng nói kỳ diệu nhất, oang oang và sang sảng một cách vinh diệu, ngài có một nhân cách ngay tức khắc khiến cho mọi người nghe ngài nói phải chú ư và ngài luôn luôn chinh phục được tâm hồn người ta ngay cả trong trường hợp hiếm có khi người ta không đồng ư với điều ngài dạy. Thính chúng bị kích động bằng sự nhiệt t́nh tôn giáo lớn lao; chúng tôi thấy họ thường xuyên hô lên “Sadhu, Sadhu”qua việc vỗ tay, khi bất cứ điều ǵ được thuyết pháp đặc biệt làm họ xúc động đồng thời họ giơ tay chấp lại lên cao với thái độ chào mừng.

  Ít ra th́ một phần ảnh hưởng này là do rung động vô cùng mạnh của hào quang ngài, nó có kích thước lớn đến nỗi thính chúng ngồi bên trong hào quang ngài và được chỉnh hợp với hào quang trong khi họ lắng nghe ngài thuyết pháp. Tác dụng từ điển của nó hầu như khôn tả và trong khi thính chúng chịu ảnh hưởng của nó th́ ngay cả những người ngu dốt nhất hầu như cũng có thể hiểu trọn vẹn bất cứ điều ǵ ngài nói, mặc dù thường thường sau khi họ ra khỏi ṿng ảnh hưởng của nó th́ họ thấy thật khó mà hiểu được nó giống như lúc nảy. Cái ảnh hưởng mầu nhiệm này cũng là do hiện tượng thường được miêu tả trong kinh sách Phật giáo: một số lớn thính chúng của ngài đạt quả vị A la hán. Khi đọc những bài tường tŕnh trong kinh điển Phật giáo ta thấy có một điều thường t́nh là sau bài giảng của Đức Phật th́ hàng trăm thậm chí hàng ngàn người đă chứng quả A la hán. V́ biết rằng đạt được quá vị cao như thế nghĩa là ǵ cho nên khi đọc điều ấy chúng tôi thấy nó có vẻ hầu như không thể tin được và chúng tôi giả định rằng đó chỉ là trường hợp ngoa ngoắc của Á Đông; nhưng về sau này khi nghiên cứu kỹ hơn th́ chúng tôi thấy rằng tường tŕnh như vậy thật sự là đúng. Kết quả dường như đáng chú ư đến nỗi ta cần phải điều tra thêm nữa về nguyên nhân của nó và chúng tôi đă thấy rằng để hiểu được mọi điều này th́ cần xét tới chẳng những kiếp này mà c̣n là công tŕnh của nhiều kiếp trước.

Chúng ta phải nhớ rằng Đức Phật Thích Ca là Phật của Căn chủng thứ tư, cho dẫu kiếp cuối cùng ngài khoác lấy nhục thân của Giống dân thứ năm. Ngài đă sinh trưởng nhiều lần trong đủ thứ giống dân Atlante và bao giờ cũng là một bậc đại đạo sư. Trong mỗi một kiếp này, ngài đă thu hút xung quanh ḿnh nhiều đệ tử, họ đă dần dần nâng lên tới mức tư tưởng và sinh hoạt cao hơn. Đến khi ngày giáng sinh lần cuối cùng đạt đỉnh cao nơi Ấn Độ th́ ngài đă sắp xếp mọi thứ đó cho những ai đă sinh ra trong nhiều lúc khác nhau và ở nhiều xứ khác nhau sao cho nhờ ảnh hưởng của ngài được hội tụ lại trong kiếp đó cùng một lúc. Vậy là thính chúng của ngài phần lớn bao gồm những người đă dọn ḿnh rốt ráo và có thể nói là những linh hồn chuyên biệt hóa cao độ; khi chịu ảnh hưởng từ điển mạnh mẽ phi thường của Đức Phật họ hiểu và theo kịp mọi từ ngữ ngài thốt ra khiến cho tác động lên họ với vai tṛ là các chơn ngă có bản chất kích thích kỳ diệu nhất. V́ thế cho nên họ hưởng ứng dễ dàng xiết bao và một số thật lớn những người ấy có thể và đă được nâng lên tới đỉnh cao chóng mặt như vậy, thật nhanh chóng.

Trong quyển ba của Giáo Lư Bí Truyền, ta ắt thấy có một tiết cực kỳ thú vị và gợi ư tên là Bí nhiệm của Đức Phật, nó đề cập tới sự kiện Đức Phật chuẩn bị các nội thể của ḿnh bằng loại chất rất cao cấp khi các loa tuyến phát triển trọn vẹn nhất. Các thể bồ đề, thể nguyên nhân và thể hạ trí của ngài được duy tŕ để cho các Đấng Cao Cả khác sử dụng v́ vô cùng khó tạo ra những nội thể khác tương đương với chúng. Đấng Kitô đă dùng chúng cùng với thể xác của Chúa Giêsu trong khi Chúa Giêsu chờ đợi trên các cơi cao khi ở bên trong các hiện thể của chính ḿnh. Shankaracharya cũng sử dụng những ‘dư y’ này. V́ thế cho nên mới xuất hiện ư tưởng không chính xác cho rằng Shankaracharya là một kiếp tái sinh luân hồi của Đức Phật. Đấng Kitô phục lâm cũng sẽ sử dụng những hiện thể này gắn liền chúng với một thể xác khác ngay cả hiện nay đang được chuẩn bị cho ngài rồi.

Phật giáo vẫn c̣n có số tín đồ lớn hơn bất kỳ tôn giáo nào khác trên thế giới và là ảnh hưởng sống động trong cuộc đời của hàng triệu đồng bào ta. Khi tôi ở Tích Lan và Miến Điện, tôi có so sánh những bản tường tŕnh này với cách thuyết giải về giáo lư của những người c̣n sống vốn là tín đồ Phật giáo. Những tu sĩ có học ở những nước này tiếp cận đề tài đó với kiến thức chính xác ít ra cũng tương đối với các nhà Đông phương học tiên tiến nhất, nhưng cách thuyết giải giáo lư của họ ít cứng nhắc và vô hồn hơn nhiều. Cho đến nay quyển sách hay nhất bằng tiếng Anh tŕnh bày cho ta một ư tưởng chân thật về tôn giáo ấy theo chủ trương của những người c̣n sống; đó là quyển Ánh Đạo Phương Đông của ngài Edwin Arnold; c̣n một quyển sách khác hay thứ nh́ là quyển Linh hồn của một Dân tộc của H. Fielding Hall. Một số nhà phê b́nh đă bảo rằng ngài đă vượt hơi quá mức ư nghĩa thuần túy theo nghĩa đen của những từ ngữ trong bản văn và đang cố gắng đưa những ư tưởng Kitô giáo vào đó. Tôi không nghĩ như vậy và tôi chắc chắn thấy rằng ông đă diễn tả xúc cảm và thái độ của Phật tử gần gũi hơn bất cứ tác giả nào khác.

Phật giáo ngày nay được chia thành hai Giáo hội lớn: phái Bắc truyền và phái Nam truyền; cả hai ít nhiều đều đi lệch giáo huấn nguyên thủy của Đức Phật mặc dù theo hai hướng khác nhau. Tôn giáo này đơn giản và trực diện hiển nhiên hợp với cảm thức phân biệt phải trái b́nh thường đến nỗi hầu như bất cứ ai cũng có thể dễ dàng thích ứng với nó mà không nhất thời phải từ bỏ đức tin và phép thực hành của những đức tin khác. Do hậu quả của việc này trong Giáo hội Bắc truyền ta có một dạng Phật giáo được thêm thắt rất nhiều. Nó dường như đă hấp thụ nhiều nghi lễ và tín ngưỡng của đức tin bản địa mà nó thay thế; chẳng hạn như ta thấy ở Tây Tạng nó bao gồm trọn cả một huyền giai những thần linh thứ yếu, chư thiên và quỷ thần mà hệ thống nguyên thủy của Đức Phật hoàn toàn không biết tới. Mặt khác, thay v́ thêm thắt vào giáo huấn của Đức Phật, Giáo hội Nam truyền lại đánh mất một điều ǵ đó trong giáo huấn của Đức Phật. Nó đă củng cố những khía cạnh duy vật và trừu tượng của triết lư Phật giáo.

 Nó dạy rằng ngoại trừ nhân quả ra không có thứ ǵ chuyển từ kiếp này sang kiếp kia, nghĩa là nơi con người không có bản ngă trường tồn mà trong kiếp tới y quả thật là một người mới vốn là kết quả nghiệp báo của kiếp trước và họ có trích dẫn nhiều lời pháp thoại của Đức Phật ủng hộ cho điều này. Quả thật là ngài thường rất nhấn mạnh chống lại sự trường tồn của phàm ngă và ngày đoan chắc đi đoan chắc lại với thính giả rằng không bất cứ điều ǵ mà họ biết liên quan tới một người có thể được chuyển sang một kiếp khác. Nhưng không đâu mà ngài chối bỏ chân ngă; thật vậy nhiều pháp thoại của ngài hoàn toàn khẳng định điều ấy, chẳng hạn như ta hăy xét một văn bản có trong kinh Sa môn quả (Samannaphalasutta) thuộc Trường bộ kinh (Digha Nikaya). Khi lần đầu tiên đề cập tới t́nh trạng và việc rèn luyện cái trí cần thiết để thành công trong sự tiến bộ tinh thần, Đức Phật mô tả cách thức ngài nhận biết được mọi bối cảnh mà ngài tham dự vào đó bằng bất cứ cách nào, chúng chuyển tiếp lần lượt qua trước mắt trí tuệ của ngài. Ngài minh họa điều này bằng cách bảo rằng:

“Nếu một người đi ra khỏi làng của chính ḿnh để tới một làng khác rồi từ đó tới một làng khác nữa, và từ đó trở lại làng của chính ḿnh th́ như vậy y có thể nghĩ rằng: Tôi quả thật đi từ làng của chính tôi tới làng khác. Ở đó tôi đứng một lúc; tôi ngồi theo kiểu này; tôi nói như vậy và thế là tôi vẫn c̣n im lặng. Từ làng đó tôi lại đi tới làng khác và ở đấy tôi cũng làm giống như vậy. Cùng một cái ‘bản ngă’ của tôi từ làng đó trở về làng của chính tôi. Tâu bệ hạ, cũng bằng chính cách đó khi tâm trí đă thanh khiết, đạo sĩ khổ hạnh biết được các kiếp trước của ḿnh. Ngài nghĩ rằng: Tôi đă có một tên gọi như thế, ở một chỗ như vậy, tôi sinh ra trong một gia đ́nh như thế, đó là giai cấp của tôi, đó là thức ăn của tôi và tôi trắc nghiệm khoái lạc và đau khổ bằng một cách nào đó, và cuộc đời của tôi mở rộng qua một nơi chốn khác; và ở đó tôi cũng có một những t́nh huống như vậy. Đă được cứu thoát ra khỏi chỗ đó, giờ đây cũng cái bản ngă của tôi lại sinh ra ở đây”.

Vấn đề này cho thấy rất rơ ràng giáo lư của Đức Phật liên quan tới chơn ngă luân hồi. Cũng trong quyển kinh nêu trên, ngài tŕnh bày những minh họa nhờ đó một bậc tu sĩ khổ hạnh có thể biết được những kiếp trước của người khác - cách thức ngài có thể thấy họ chết ở chỗ này và sau khi chịu phiền năo và hoan hỷ ở địa ngục và thiên đường cũng người đó được sinh ra trở lại ở một nơi nào khác đâu đó. Quả thật là trong kinh Phạm vơng (Brahmajala Sutta) ngài có đề cập tới đủ thứ khía cạnh của linh hồn và bảo rằng chúng không hoàn toàn tồn tại bởi v́ sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào ‘xúc’ nghĩa là tùy thuộc vào mối quan hệ. Nhưng khi chối bỏ thực tại tuyệt đối của linh hồn như thế ngài đă đồng ư với các bậc đạo sư vĩ đại khác của Ấn Độ, bởi v́ sự tồn tại chẳng những của linh hồn mà ngay cả của THƯỢNG ĐẾ NGÔI LỜI cũng chỉ có thật một cách tương đối.

 Những đầu óc chưa lăo luyện thường hiểu lầm những ư tưởng này, nhưng học viên nào cẩn thận nghiên cứu tư tưởng Á Đông ắt không thể không lĩnh hội chính xác điều này ngụ ư là ǵ: để thực hiện được giáo huấn của Đức Phật về vấn đề này cũng chính xác giống như giáo huấn mà giờ đây Thông Thiên Học ban ra. Không khó thấy biết bao nhiêu bản văn đă được nhấn mạnh hoặc xuyên tác đến nỗi dường như mâu thuẫn với nhau; và Giáo hội Nam truyền đă chọn lựa, nói cho đúng hơn là chối bỏ sự trường tồn của phàm ngă so với việc khẳng định tính liên tục của chơn ngă cũng giống như trong Kitô giáo, một số người đă đạt được thói quen chú trọng tới những văn bản đặc thù và bỏ qua những văn bản khác phủ nhận nó.

C̣n một điểm nữa giúp ta thấy rơ sự hiểu lầm rất tương tự, đó là việc thường xuyên khẳng định đi khẳng định lại, Niết Bàn tương đương với diệt vong. Ngay cả Max Müller, nhà Phạn ngữ học lỗi lạc của Đại học Oxford do bị si mê nhiều năm về vấn đề này đến cuối đời khi nghiên cứu sâu hơn và xa hơn nữa th́ ông mới đạt đến mức hiểu được rằng ḿnh đă sai lầm về điều đó. Việc miêu tả Đức Phật dành cho Niết Bàn vượt xa vô cùng so với sự hiểu biết của bất cứ người nào chỉ được rèn luyện và tẩy trược trong những phương pháp tư duy mà người ta ít có thắc mắc, v́ ngay từ đầu các nhà Đông phương học Âu Mỹ đă hiểu lầm do chỉ được rèn luyện theo những phương pháp tư duy trần tục thông thường; nhưng không ai đă từng sống ở Á Đông xen lẫn với các Phật tử mà có thể giả định trong một lúc rằng họ coi sự diệt vong là cứu cánh mà ḿnh đang nỗ lực đạt tới.

Quả thật việc đạt tới Niết Bàn có bao gồm sự tiêu diệt hoàn toàn khía cạnh hạ đẳng của con người, mà thật ra đó là tất cả những ǵ ta biết về y vào lúc này. Cũng giống như mọi thứ liên quan tới các hạ thể; phàm ngă vốn vô thường và sẽ biến mất. Nếu ta nỗ lực vỡ lẽ ra rằng con người ắt ra sao khi bị tước bỏ hết mọi thứ bao gồm phía dưới những thuật ngữ này, th́ thấy rằng đối với ta ở giai đoạn hiện nay thật khó mà hiểu được có thứ ǵ c̣n lại, thế nhưng sự thật là mọi thứ đều c̣n lại, nghĩa là trong cái tinh thần đă được vinh danh c̣n tồn tại lúc đó, mọi tinh túy của mọi phẩm chất vốn đă được phát triển trải qua những thế kỷ đấu tranh và căng thẳng trong các kiếp trên trần thế ắt cố hữu ở mức đầy đủ nhất có thể được. Con người đă trở nên hơn cả mức con người, bởi v́ giờ đây y ở trước ngưỡng cửa của Thiên tính, thế nhưng y vẫn c̣n là chính ḿnh cho dẫu nó là một bản ngă rộng lớn hơn xiết bao.

 Nhiều người đă định nghĩa về Niết Bàn và tự nhiên là không định nghĩa nào có thể thỏa đáng; có lẽ định nghĩa tốt nhất nói chung là sự an b́nh trong khi toàn tri. Cách đây nhiều năm khi tôi đang chuẩn bị một quyển dẫn nhập đơn giản vấn đáp giáo lư của tôn giáo này cho những thiếu nhi Phật giáo th́ vị Tu viện trưởng Sumangala đă cung cấp cho tôi định nghĩa hay nhất về Niết Bàn vốn đưa ra trước họ, đó là một t́nh huống an b́nh và có phước vượt cao trên t́nh trạng hiện nay đến nỗi ta không thể nào hiểu được nó. Chắc chắn là nó khác xa ư tưởng về diệt vong. Quả thật nhiều điều mà hiện nay ta gọi là con người đă biến mất, nhưng đó không phải v́ cá tính đă biến mất mà v́ cá tính bị ch́m lấp trong Thiên tính.

Chính Đức Phật đă từng một lần dạy rằng: “Niết Bàn không phải là hữu thể nhưng cũng không c̣n là phi hữu thể nữa”.

Có một sự khác nhau giữa Giáo hội Nam truyền và Giáo hội Phật giáo Bắc truyền,  đó là ở chỗ họ chọn theo những phiên bản kinh điển khác nhau. Người ta thường phát biểu rằng Giáo hội Bắc truyền chọn theo Đại thừa, c̣n Giáo hội Nam truyền theo Tiểu thừa, nhưng hiện nay cả điều này có thể được phát biểu an toàn chăng th́ c̣n tùy thuộc vào sắc thái ư nghĩa mà ta gán cho một từ ngữ bị tranh căi rất nhiều. Yana nghĩa là cổ xe và người ta đồng ư rằng nó phải được ứng dụng cho pháp (dhamma) bởi vai tṛ là chiếc bè đưa ta vượt qua biển sinh tử tới tận Niết Bàn, nhưng ít nhất có năm thuyết về ư nghĩa chính xác mà ta phải chọn theo nó.

1. Trước hết nó chỉ nhằm nói tới ngôn ngữ được dùng để viết ra pháp chế, theo giả thuyết ngôn ngữ Đại thừa là tiếng Bắc phạn c̣n ngôn ngữ Tiểu thừa là tiếng Nam Phạn - đối với tôi thuyết này dường không đứng vững. Quả thật là Giáo hội Bắc truyền dùng bản dịch tiếng Bắc phạn c̣n Giáo hội Nam truyền có kinh điển viết bằng tiếng Nam phạn, là ngôn ngữ mà Đức Phật đă tuyên thuyết khi c̣n tại thế. Người ta phát biểu rằng kinh điển tiếng Nam phạn mà chúng ta sở hữu hiện nay không phải dưới dạng nguyên thủy mà mọi kinh điển nguyên thủy ít ra tồn tại ở Tích Lan đă bị những kẻ xâm lược người Tamil phá hủy hết, sao cho những kinh điển tiếng Nam phạn của chúng ta có hiện nay đều được dịch lại từ một bản sao tiếng Elu, lúc bấy giờ là ngôn ngữ bản địa của Tích Lan.

2. Xét theo biểu kiến th́ người ta coi như Tiểu (Hina) nghĩa là tầm thường, dễ dàng hoặc nhỏ bé. V́ vậy một cách thuyết giải cho rằng Tiểu thừa là con đường tầm thường và dễ dàng đi đến giải thoát, là kiến thức và cách ứng xử được rút gọn đến mức tối thiểu cần thiết để được giải thoát, c̣n Đại thừa là giáo lư mang tính triết học hơn và đầy đủ hơn, bao gồm nhiều kiến thức mang tính truyền thống về các cơi cao trong thiên nhiên. Không cần nói cũng thấy rằng cách thuyết giải này xuất phát từ nguồn thông tin của Đại thừa.

3. Đứng trước sự tế nhị, lịch sự, vô song đối với các tôn giáo khác, Phật giáo chấp nhận hết tất cả là phương tiện giải thoát, mặc dù nó coi phương pháp do giáo chủ của ḿnh giảng dạy là đưa ra con đường ngắn nhất và an toàn nhất. Theo quan niệm này Phật giáo là Đại thừa c̣n Tiểu thừa bao gồm Bà la môn giáo, Bái hỏa giáo, Kỳ na giáo và bất kỳ tôn giáo nào khác vốn đang tồn tại vào lúc mà người ta đă tŕnh bày rơ định nghĩa.

4. Hai giáo lư này chỉ là hai giai đoạn của cùng một giáo lư, Tiểu thừa dành cho Thinh văn, c̣n Đại thừa dành cho những học viên tiến bộ hơn.

5. Từ ngữ Thừa được hiểu chính xác theo nghĩa gốc là ‘cỗ xe’ nhưng theo nghĩa thứ phát th́ nói cho đúng hơn nó gần tương đương với từ có nghĩa ‘đời sinh hoạt’ hoặc thiên chức theo tiếng Anh. Theo cách thuyết giải này th́ Đại thừa đưa ra trước con người ‘thiên chức lớn lao’ là trở thành một vị Bồ Tát và hiến ḿnh cho phúc lợi của thế gian, c̣n Tiểu thừa chỉ bộc lộ thiên chức nhỏ nhoi hơn là sống sao cho bản thân đạt được Niết Bàn.

Cũng có nhiều điều bàn luận về ư nghĩa chính xác của các thuật ngữ A đề Phật tức Bản Sơ Phật và Quan Thế Âm. Tôi không đặc biệt nghiên cứu những điều này theo quan điểm triết học, nhưng trong chừng mực mà tôi có thể thu thập ư tưởng từ việc bàn luận vấn đề này với những nhân vật tiêu biểu sống động trong tôn giáo ấy th́ A đề Phật dường như là đỉnh cao của một trong những đường lối lớn phát triển siêu nhân loại - cái mà ta có thể gọi là nguyên khí trừu tượng của chư Phật. Quan Thế Âm là một từ ngữ thuộc về Giáo hội Bắc truyền và dường như là hồng danh mà các Phật tử dành cho quan niệm về THƯỢNG ĐẾ NGÔI LỜI. Các học giả Âu Mỹ đă dịch nó là ‘Đấng nh́n xuống từ trên cao’ nhưng điều này dường như có bên trong bản thân một hàm ư không chính xác lắm, v́ nó luôn luôn biểu thị THƯỢNG ĐẾ NGÔI LỜI biểu hiện, đôi khi là THƯỢNG ĐẾ NGÔI LỜI của một Thái dương hệ và đôi khi c̣n cao hơn nữa, nhưng luôn luôn là biểu hiện. Chúng ta không được quên rằng trong khi các bậc giáo chủ của các tôn giáo lớn đều hiểu và biết được những sự việc mà ḿnh định danh th́ các tín đồ thường thường lại không hiểu; họ chỉ có các danh hiệu và chế biến nó thành ra những tṛ chơi trí tuệ cho nên dựng ra nhiều điều không chính xác và tiền hậu bất nhất.

Phật giáo thuộc Giáo hội Nam truyền bao gồm Tích Lan, Miến Điện, Xiêm la tức Thái Lan và Campuchia, nói chung vẫn giữ được cho tôn giáo ḿnh thoát khỏi những điều thêm thắt vốn đă trở nên nổi bật trong Giáo hội Bắc truyền ở Nhật Bản, Trung Quốc và Tây Tạng. Ở Miến Điện không có một h́nh ảnh nào xuất hiện trong các đền thờ ngoại trừ ảnh tượng của Đức Phật, mặc dù trong một số trường hợp có cả trăm ảnh tượng của ngài bằng những vật liệu khác nhau, ở những tư thế khác nhau, do đủ thứ tín đồ tŕnh bày. Ở Tích Lan người ta dường như đă nhượng bộ một cách nào đó cho xúc cảm b́nh dân hoặc có lẽ nhượng bộ chính quyền ngoại lai trong thời kỳ những vị vua người Tamil, v́ trong các đền thờ người ta thường thấy có ảnh tượng của một vài vị thần linh Ấn giáo mặc dù họ luôn luôn được đặt ở vị trí phụ thuộc và được coi là một loại tùy tùng của Đức Phật. Tuy nhiên ta không cần chê trách người Tây Tạng quá nhiều về sự kiện là có một vài điều mê tín dị đoan đă len lỏi vào trong Phật giáo của họ. Theo thời gian điều nêu trên xảy ra ở mọi nước và mọi tôn giáo. Chẳng hạn như ở Ư có nhiều nông dân ở vùng đồi núi vẫn c̣n theo cái mà họ gọi là tôn giáo cũ ngay cả thời nay nó vẫn c̣n tiếp tục thờ cúng tửu thần Bacchus, bên dưới một hồng danh của người Etrus có trước cả thời Đế quốc La Mă. Các linh mục Công giáo hoàn toàn nhận biết được sự tồn tại của tín ngưỡng cổ sơ này và đều nổi dậy chống lại nó nhưng vô ích.

 Trong Phật giáo Nam truyền, có bất kỳ loại nghi lễ nhỏ nhặt  - hầu như quả thật không điều ǵ tương ứng chút nào với việc phụng tự Kitô giáo. Khi thiên hạ đi lễ đền thờ buổi sáng th́ họ thường yêu cầu các vị sư đọc cho họ nghe tam quy và ngũ giới để rồi họ đọc lại theo sư, nhưng ngay cả điều này cũng khó ḷng có thể được gọi là một việc phụng tự công v́ nó được lập lại không phải một lần vào một lúc cố định mà dành cho mỗi nhóm người khi họ ngẫu nhiên tới đền thờ. Có một nghi lễ khác tên là Paritta hoặc Pirit (nghĩa là ‘ban phước’), nhưng lễ này không được cử hành trong chính đền thờ hoặc cử hành trong lúc đă định nào, mà được coi là nghĩa cử về phần kẻ phàm tục muốn tôn vinh bất cứ dịp đặc biệt nào bằng cách cử hành nghi lễ Pirit nghĩa là dựng nên rồi trang trí tỉ mỉ một đàn tràng tạm để cử hành nghi lễ. Nó bao gồm việc tụng niệm những câu kinh ban phước trong các kinh điển và điều này được tiến hành trong một số ngày nào đó, thường thường là bao gồm nửa tháng bằng cách để cho những vị sư tiếp sức nhau hết người này đến người kia cứ mỗi hai giờ đồng hồ.

 Đôi khi có một người bị ốm th́ người ta dàn xếp cho y một trong những nghi lễ Pirit này với ư định là nó sẽ giúp cho y được hồi phục. Đó quả thật là nghi lễ thôi miên mesmer v́ những vị sư ngồi thành ṿng tṛn và nắm trong bàn tay một sợi dây thừng chạy ṿng ṿng suốt ṿng tṛn; người ta ra lệnh cho họ tụng kinh, luôn luôn giữ cho ư chí ban phước nổi bật trong tâm trí ḿnh. Tự nhiên là khi nghi lễ tiến triển th́ sợi dây thừng này đâm ra được từ điển hóa rất mạnh và có những sợi dây nối liền sợi dây thừng với một b́nh nước khổng lồ, dĩ nhiên b́nh nước này thành ra tích trữ rất nhiều từ điển. Khi kết thúc nghi lễ, nước này được phân phối cho mọi người và người bệnh thường giữ một sợi dây nối liền với sợi dây thừng.

Phật giáo Nam truyền tŕnh bày một danh sách ngũ thông mà người nào tiến bộ trên Thánh đạo có thể đạt được. (1) Thần túc thông tức là năng lực đi xuyên qua không khí và những vật rắn chắc để đến tham quan cơi trời trong khi c̣n sống. Tuy nhiên có thể điều này chỉ có nghĩa là năng lực hoạt động tự do trong thể vía, bởi v́ hoàn toàn rất có thể rằng khi nói tới cơi trời người ta không thật sự ngụ ư cơi trí tuệ mà ám chỉ các cảnh cao của cơi trung giới. (2) Thiên nhĩ thông, hiển nhiên chỉ là quan năng thần nhĩ trên cơi trung giới. (3) Tha tâm thông tức năng lực hiểu thấu và đồng cảm với mọi thứ trong tâm trí người khác - dường như là việc đọc được tư tưởng hoặc có lẽ là thần giao cách cảm. (4) Túc mệnh thông, tức là năng lực nhớ được các kiếp trước. (5) Thiên nhăn thông nghĩa là thần nhăn. Trong một số danh sách c̣n có thêm Lậu tận thông tức là nhờ minh triết mà đạt được giải thoát. Điều này tất nhiên có nghĩa là thoát được ṿng sinh tử luân hồi, nhưng nó dường như có bản chất không giống những thần thông kia và có lẽ khó ḷng được xếp vào cùng một loại.

 Nghe đâu Ananda đă là đệ tử ưu ái của Đức Phật, cũng như thánh Gioan nghe đâu là môn đồ ưu ái của đấng Kitô; chắc chắn trong cả hai trường hợp này th́ sự thân thiết đặc biệt ấy là kết quả của mối quan hệ trong những kiếp trước. Ananda chắc chắn không được chọn lựa như vậy v́ ông là người tiên tiến nhất do bởi ngay cả sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn nghe đâu trong cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất được cử hành trong một hang động đào sâu trong một khối đá, điều kiện để được tham dự hội nghị này là không ai được gia nhập nếu không thể đi xuyên qua lớp đá; Ananda thấy ḿnh bị loại bỏ bởi v́ ông chưa đạt được quyền năng ấy. Nhưng nghe nói ông rất buồn phiền v́ bị loại bỏ khỏi một cơ hội lớn để phụng sự Đấng Thế Tôn đă nhập diệt, cho nên qua sự nỗ lực ư chí phi thường ngay lúc ấy ông phát triển được quyền năng c̣n thiếu sót và đắc thắng tham gia vào hàng ngũ các huynh đệ ḿnh mặc dù hơi trễ một chút.

 Điều này cho thấy rằng ngay cả những đấng tiên tiến nhất trong nhân loại cũng c̣n có những t́nh thân hữu đặc biệt, và v́ vậy việc yêu thương người này hơn người khác chẳng phải là không thích đáng. Quả thật là cái t́nh yêu thương mà giờ đây ta cảm nhận với người thân thương nhất th́ sau này ta ắt cảm nhận được với toàn thể thế giới, nhưng vào lúc ấy, ta ắt cảm nhận được t́nh yêu thương cả ngàn lần lớn hơn đối với những người gần gũi nhất với ḿnh. T́nh thương của ta ắt chẳng bao giờ giống nhau đối với tất cả, mặc dù tất cả đều được bao hàm trong đó. Ta không thể cảm nhận đối với người khác giống như ta cảm nhận đối với Chơn sư của ḿnh, v́ khi ngài trở thành một bậc THƯỢNG ĐẾ NGÔI LỜI, ta ắt là một bộ phận trong hệ thống của ngài và ngay cả măi sau này khi chính ta đă trở thành các đấng THƯỢNG ĐẾ NGÔI LỜI th́ ta ắt vẫn c̣n là một bộ phận của ngài, v́ lúc bấy giờ ngài ắt biểu diễn một hệ thống nào đó c̣n lớn lao hơn nhiều. Mặc dù luôn luôn có t́nh yêu thương lớn hơn dành cho một số người này so với những người khác, ta ắt giúp đỡ những người mà ta yêu thương ít hơn cũng đầy đủ như những người mà ta yêu thương nhiều hơn. Ta ắt luôn luôn làm hết sức ḿnh cho toàn thể, cũng giống như một bác sĩ trợ giúp bệnh nhân ḿnh như nhau cho dù bệnh nhân là bạn hay không; bởi v́ trước đó không biết bao nhiêu thời kỳ, không c̣n bất cứ điều ǵ giống như là việc không ưa hoặc thù ghét.

 Vào thời sinh tiền của Đức Phật, c̣n nhiều bậc đạo sư khác được gửi đến cho thế gian. Chẳng hạn như ta thấy có Lăo tử, Khổng tử và Pythagore, tất cả đều hoạt động trong những phạm vi khác nhau. Vào lúc đó việc biệt phái các vị đạo sư tới nhiều nơi trên thế giới mang lại lợi ích là tuôn đổ ghê gớm thần lực xuống thế gian.

 

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS