|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
Tủ sách Adyar Tập sách số 77
NHỮNG TÁC PHẨM CỦA TÔI (My Books) Bản dịch: www.thongthienhoc.com |
|
Tác giả H. P. Blavatsky
Được in trong Tạp chí Lucifer, tháng 5, năm 1891 – Quyển VIII
Xuất
bản năm 1917
Nhà
Xuất bản Thông Thiên Học, Adyar, Chennai [Madras] Ấn độ
Cách
đây một thời gian, có một nhà Thông Thiên Học là Ông R ------
đi du lịch bằng xe lửa cùng với một nhà quí tộc người Mỹ, ông
này bảo ông ta rằng ḿnh thật ngạc nhiên xiết bao khi thấy ông kia tới viếng
thăm Tổng hành dinh ở Luân đôn của chúng tôi. Ông bảo rằng ḿnh đă hỏi bà
Blavatsky xem đâu là tác phẩm Thông Thiên Học hay nhất để cho ḿnh đọc, và
ông tuyên bố ư định t́m cho được bộ sách
Vén Màn Bí Mật Nữ thần Isis khi
ông sửng sốt nghe bà trả lời: “Đừng có đọc bộ ấy,
chỉ toàn là rác rưởi”.
Thế mà
theo chỗ tôi nhớ, tôi không nói “rác rưởi” mà thực chất tôi nói như sau:
“Dẹp đi, bộ Nữ thần Isis không
thỏa măn ông đâu. Trong số mọi tác phẩm mà tôi đứng tên th́ tác phẩm đặc thù
này theo đúng nghĩa đen là tồi nhất và lộn xộn nhất”. Và tôi có thể đă nói
thêm cho rơ sự thật là khi được phân tích cẩn thận theo một quan điểm thuần
túy phê phán về văn chương th́ bộ Nữ
thần Isis đầy những lỗi in ấn và trích dẫn sai. Nó có chứa đựng những
lời lập đi lập lại vô ích, nhiều đoạn lạc đề gây bực bội và đối với bạn đọc
thoáng qua không quen với đủ thứ khía cạnh của ư tưởng và biểu tượng siêu
h́nh th́ nó cũng có nhiều điều mâu thuẩn biểu kiến. Nhiều thứ chứa trong tác
phẩm này lẽ ra không nên có; cũng như nó c̣n có những lỗi lầm thô thiển do
nhiều sự chế biến khi đọc bản thảo nói chung và khi sửa từ ngữ nói riêng.
Cuối cùng v́ những lư do mà giờ đây tôi sẽ giải thích, tác phẩm ấy cũng
không có hệ thống và đúng như nhận xét của người bạn, thật ra nó có vẻ như
là một mớ các đoạn văn độc lập chẳng dính dáng ǵ tới nhau đă được xào xáo
lên trong một sọt rác để rồi được ngẫu nhiên rút ra và xuất bản.
Đó,
bây giờ cũng là ư kiến chân thành của tôi. Toàn thể ư thức về sự thật đáng
buồn này chỉ chớm nở nơi tôi, khi lần đầu tiên sau lúc nó được xuất bản vào
năm 1877, tôi có đọc xuyên suốt tác phẩm này từ trang đầu tới trang cuối ở
Ấn độ vào năm 1881. Và từ thời điểm đó cho tới nay, tôi không ngừng nói điều
mà ḿnh suy nghĩ về nó và đưa ra ư kiến trung thực của ḿnh về bộ
Nữ thần Isis bất cứ khi nào tôi
có dịp làm như vậy. Điều này được thực hiện đến nỗi một số người hết sức ghê
tởm khi cảnh báo tôi rằng, tôi đang phá hoại việc bán nó. Nhưng v́ mục tiêu
chính yếu của tôi khi viết ra nó không phải là nổi tiếng và trục lợi cá nhân
mà là một điều ǵ đó cao siêu hơn hẳn, cho nên tôi chẳng màng tới những lời
cảnh báo như thế. Trong hơn 10 năm, “tuyệt tác” bất hạnh này, “tác phẩm đồ
sộ” – mà một số nhà điểm sách đă gọi nó - với những sự biến hóa xấu xí một
từ ngữ này thành một từ ngữ khác, do đó làm biến đổi hoàn toàn ư nghĩa.
[Bằng chứng là từ ngữ “hành tinh” thay cho từ ngữ “chu kỳ” được viết trong
nguyên bản do một bàn tay chẳng biết của ai đă sửa lại (quyển I, trang 347,
đoạn 2), việc “sửa đổi” cho thấy Đức Phật dạy rằng
không có tái sinh trên hành tinh này!!
khi ở trang 346 đă có điều khẳng định ngược lại, và người ta c̣n bảo Đức
Phật đă dạy cách “tránh” luân hồi;
việc dùng từ ngữ “hành tinh” thay cho
cơi, “Monas” thay cho Manas,
và ư nghĩa của trọn cả ư tưởng này bị hi sinh cho h́nh thức ngữ pháp, và
biến đổi do sự thay thế bằng những từ ngữ sai và đánh dấu chấm câu sai v.v.
. .] Cùng với những lỗi in sai và những dấu chấm câu sai đă khiến cho tôi lo
lắng và phiền năo hơn nhiều so với bất cứ thứ ǵ khác trong suốt cuộc đời
dài của ḿnh vốn đă từng nhiều chông gai hơn là hoa hồng.
Nhưng
bất chấp những lời thú nhận cũng quá dũng cảm đó, tôi xin đoan chắc rằng bộ
Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis có
chứa đựng cả đống những thông tin tân kỳ và cho đến nay chưa bao giờ được
tiết lộ bàn về các đề tài huyền bí. Sự thật như thế được chứng minh bởi sự
kiện tác phẩm này được đánh giá cao bởi tất cả những ai đủ thông minh để chỉ
nhận biết cái lơi chứ không quan tâm nhiều tới lớp vỏ và ưa thích ư tưởng
hơn là h́nh thức, bất chấp những khuyết điểm nho nhỏ của nó. Khi sẵn ḷng
đưa đầu chịu báng, tôi sẽ chứng minh rằng đó là thay cho người khác - cái
tội gồm mọi khiếm khuyết thuần túy về mặt văn chương và ngoại diện của nó,
th́ tôi vẫn bảo vệ ư tưởng và giáo huấn trong đó mà không sợ bị tố cáo là
ngạo mạn, bởi v́ các ư tưởng và giáo huấn trong đó không phải của tôi, đúng
như tôi đă luôn luôn tuyên bố; và tôi đoan chắc rằng cả hai thứ đó đều có
giá trị lớn nhất đối với các thần bí gia và học viên Thông Thiên Học. Quả
đúng như vậy, khi bộ Nữ thần Isis
được xuất bản lần đầu tiên th́ có một số tờ báo hay nhất của Mỹ đă không
tiếc lời khen nó – ngay cả đến mức ngoa ngoắc mà bằng chứng là những điều
trích dẫn dưới đây:
“Vén
Màn Bí Mật Nữ Thần Isis,
một
tuyệt tác bàn về những điều bí nhiệm của khoa học và thần học cổ truyền cũng
như hiện đại. Tác giả H.P.Blavatsky, Thư kư Thông tín của Hội Thông Thiên
Học. Bộ sách gồm hai quyển, in trên giấy royal 8.vo, vào khoảng 1500 trang,
đóng b́a cứng, giá 7 đô la rưởi. Ấn bản lần thứ 5.
“Tác
phẩm đồ sộ này bàn về đủ thứ có
liên quan tới pháp thuật, bí pháp, thuật phù thủy, tôn giáo, thần linh học;
quả có giá trị là một bộ bách khoa từ điển”-
Tạp chí Bắc Mỹ.
“Ta
phải thừa nhận rằng bà ấy là một phụ nữ đáng chú ư, đă đọc nhiều, chứng kiến
nhiều và suy nghĩ nhiều hơn so với hầu hết những người đàn ông khôn ngoan.
Tác phẩm của bà đầy dẫy những đoạn trích dẫn bằng cả tá ngôn ngữ khác nhau,
không phải với mục đích hiếu danh khoe khoang tài bác học mà chỉ để chứng
minh cho những quan điểm đặc thù của bà . . . Các trang sách của bà có nhiều
chú thích cuối trang xác lập một số nhân vật có thẩm quyền đối với bà, là
những tác giả thâm thúy nhất trong quá khứ. Đối với một số lớn các bạn đọc
th́ tác phẩm đáng chú ư này tỏ
ra là hấp dẫn miệt mài đ̣i hỏi những người suy tư phải chú ư đầy tâm huyết
và xứng đáng được đọc bằng óc phân tích”. – Báo
Buổi chiều Boston.
“Dáng
vẻ bác học thật là ghê gớm. Tham chiếu và trích dẫn từ những tác giả ít ai
biết nhất và bí ẩn nhất bằng đủ thứ tiếng, rải rác lại trích dẫn những tác
giả trứ danh nhất mà hiển nhiên không phải chỉ là cưỡi ngựa xem hoa” – Báo
Độc lập New York.
“Tác
phẩm đáng chú ư nhất trong mùa này” – Báo
Nhà Quảng cáo Thương mại.
“Dành
cho những bạn đọc chưa bao giờ làm quen với tài liệu bàn về thần bí học và
thuật luyện đan; bộ sách này sẽ cung cấp cho ta tài liệu nghiên cứu một cách
thú vị - đó là một kho thông tin kỳ diệu” –
Bưu báo Buổi chiều.
“Chúng
sẽ cung cấp bằng chứng về nhiều khảo cứu đa diện của chính tác giả và chứa
đựng một số lớn những câu chuyện thú vị. Những người nào ưa thích phép lạ ắt
thấy chúng có đầy những thú vui giải trí” – Báo
Mặt trời New York.
“Một
tác phẩm tuyệt vời xét về cả mặt nội dung lẫn h́nh thức. Ta có thể có một ư
niệm nào đấy về tính hiếm có và qui mô nội dung của sách khi chỉ nội bảng
Chỉ mục thôi cũng gồm tới 50 trang, và chúng tôi cũng đánh bạo nói rằng
trước kia chưa bao giờ có ai đă biên soạn được một Chỉ mục về các đề tài như
thế. Nhưng quyển sách này thật là kỳ diệu và chắc chắn nó sẽ được trang bị
cho các thư viện bởi v́ đề tài độc nhất vô nhị mà nó chứa đựng . . .
chắc chắn sẽ tỏ ra hấp dẫn tất cả những ai quan tâm tới lịch sử, thần
học và những điều bí nhiệm về thế giới thời xưa” –
Họa báo Hằng ngày.
“Tác
phẩm này là thành quả của quá tŕnh giáo dục đáng chú ư của bà và xác nhận
rơ rệt lời bà tuyên bố có tính cách một bậc Cao đồ về khoa học huyền bí,
thậm chí đứng ở hàng ngũ bậc đạo trưởng trong khi tŕnh bày kiến thức thần
bí của ḿnh” – Báo Diễn đàn New York.
“Người
nào đọc sách cẩn thận ắt phải biết mọi thứ về những điều phép lạ và thần bí,
ngoại trừ có lẽ là những mật khẩu. Bộ
Nữ thần Isis sẽ bổ sung cho bộ
Anacalypsis. Bất cứ ai thích đọc tác giả Godfrey Higgins ắt cũng vui
mừng với bà Blavatsky. Các tác phẩm của họ rất giống nhau. Cả hai đều ra sức
nói mọi thứ mang tính ngụy kinh và khải huyền. Thật là dễ tiên đoán việc
tiếp nhận tác phẩm này. Cùng với những đặc điểm nổi bật, tính táo bạo, tính
đa nội dung với đủ thứ đề tài kỳ diệu mà nó làm ta lưu ư rồi xử trí, tác
phẩm này là một trong những tác phẩm đáng chú ư nhất của thế kỷ” – Báo
Người đưa tin New York.
Những
kẻ thù đầu tiên mà tác phẩm của tôi phải chạm trán chính là những nhà Thần
linh học; lư thuyết căn bản của họ là các vong linh người chết giao tiếp
đúng với người đó th́ đă bị tôi làm xáo trộn. Trong ṿng 15 năm vừa qua –
ngay từ khi tác phẩm này được xuất bản lần đầu tiên – cả một trận mưa rào
lời buộc tội xấu xa đă không ngừng được trút lên đầu tôi. Mọi lời buộc tội
phỉ báng, từ thuyết vô luân cho tới thuyết “gián điệp Nga”, xuống măi tới
việc tôi hành động dựa vào sự giả vờ giả vịt, là một kẻ chuyên môn đi lừa
đảo và nói dối như cuội, quen thói say sưa, là đặc sứ của Giáo hoàng, được
trả tiền để phá hoại Thần linh học và hiện thân của quỉ Sa tăng. Bất cứ sự
nói xấu nào mà người ta có thể nghĩ ra cũng đều được áp dụng vào sinh hoạt
riêng tư và công cộng của tôi. Sự thật là tuyệt nhiên không có một lời buộc
tội nào đă được chứng minh; từ ngày mùng 1 tháng giêng cho tới ngày 31 tháng
12, suốt năm này qua năm khác, tôi đă sống như trong một nhà kiếng xung
quanh là bạn bè và kẻ thù – không điều ǵ có thể ngăn chặn miệng lưỡi độc
ác, độc hại và hoàn toàn vô lương tâm này. Chính những người đối đầu tích
cực với tôi đă từng nhiều lần bảo rằng: (1) Bộ
Vén Màn Bí Mật Nữ thần Isis chỉ
là sự cách tân của Eliphas Levi và một vài nhà luyện kim đan thời xưa; (2)
tôi đă viết ra nó theo lời đọc của những Quyền năng gian tà và các vong linh
của những thầy tu Ḍng Tên; và cuối cùng (3) là bộ sách hai quyển của tôi đă
được biên tập từ những bản thảo (trước đó chưa nghe ai nói tới) mà Nam tước
De Palm – ông đă được hỏa táng và danh tiếng của ông cũng bị chôn vùi hai
lần – để lại, do tôi t́m ra trong rương của ông! [Nhà quí tộc người Áo này
vốn hết sức nghèo túng ở New York, được Đại tá Olcott cho tá túc và cấp
dưỡng nuôi nấng ông trong những tuần lễ cuối cùng trên đời này – chẳng để
lại bản thảo nào ngoại trừ những hóa đơn đ̣i tiền. Di sản duy nhất của Nam
tước là một va li cũ, trong đó những “người thi hành di chúc” t́m thấy một
pho tượng thần Cupid bằng đồng thau tơi tả, một vài Huân chương nước ngoài
(đồ bắt chước làm giả bằng bột và vàng giả, v́ vàng thật và kim cương đính
trên đó đă bị tháo gỡ bán rồi); và một vài cái áo sơ mi của Đại tá Olcott mà
vị cựu viên chức ngoại giao này đă tự ư lấy mặc không xin phép]. Mặt khác,
các bạn tôi mặc dù không khôn ngoan nhưng vẫn tử tế đă cho lan truyền nơi
nước ngoài điều thực sự đúng thật; một cách hơi nhiệt t́nh đôi chút về mối
quan hệ của vị Thầy Đông phương của tôi và các Huyền bí gia khác với tác
phẩm này. Kẻ thù đă chộp lấy điều đó và nói ngoa ngoắc hết mức về sự thật.
Người ta bảo rằng toàn bộ Nữ thần
Isis đă được các vị Cao đồ vô h́nh đọc cho tôi từ trang b́a đầu tới
trang b́a cuối từng chữ một. Và v́ những khiếm khuyết của tác phẩm tôi quá
rành rành ra đó, cho nên hậu quả của mọi câu chuyện ngồi lê đôi mách đầy ác
ư này là theo suy luận của kẻ thù tôi và những người phê b́nh, th́ hoặc là
những người linh hứng vô h́nh này không tồn tại và cũng chính là một phần
của “sự bịp bợm” của tôi hay là họ thiếu tài khéo
ngay cả của một người viết văn b́nh thường có tài.
Thế mà không ai có quyền bắt tôi chịu trách nhiệm về điều bất cứ ai có thể
nói, mà chỉ chịu trách nhiệm về điều chính miệng tôi nó ra hay là được in
công khai với chữ kư của ḿnh. Sau đây là điều tôi xin nói và quả quyết:
Ngoại trừ những sự trích dẫn trực tiếp và nhiều điều in sai, lỗi lầm và đánh
dấu chấm câu sai đă được nói trước kia cùng với bố cục tổng quát của bộ
Vén Màn Bí Mật Nữ thần Isis mà
tôi tuyệt nhiên không chịu trách nhiệm th́: (a) - mọi lời mang thông tin có
trong tác phẩm này hoặc những tác phẩm sau này của tôi đều xuất phát từ giáo
huấn của các vị Thầy Đông phương của tôi; (b) – nhiều đoạn trong những tác
phẩm này do tôi viết ra theo lời đọc của các Ngài. Nói như vậy cũng chẳng có
ǵ là tuyên bố chuyện siêu nhiên bởi v́ thực thi việc đọc như thế không có
ǵ là phép lạ. Bất cứ người nào có trí thông minh trung b́nh, nhất thời tin
chắc vào nhiều khả năng của thuật thôi miên (bây giờ đă được khoa học chấp
nhận và đang được khoa học khảo cứu ráo riết) cùng với các hiện tượng chuyển
di tư tưởng, đều thừa nhận dễ dàng rằng ngay cả khi một đối tượng được thôi
miên, vốn chỉ là một đồng tử vô trách nhiệm mà nghe được tư tưởng thầm kín
của người thôi miên ḿnh; - vậy là người này có thể truyền tư tưởng của ḿnh
cho đối tượng bị thôi miên – thậm chí đối tượng bị thôi miên có thể lập lại
được những từ ngữ mà người thôi miên đọc thầm trong trí từ một quyển sách –
th́ lời quả quyết của tôi chẳng có ǵ là không thể được. Không gian và quăng
cách không tồn tại đối với tư tưởng; và nếu hai người có quan hệ hỗ tương
hoàn hảo về mặt tâm linh từ điển, và một trong hai người này là bậc đại Cao
đồ về Khoa học Huyền bí th́ việc chuyển di tư tưởng và đọc cho viết trọn cả
trang sách trở thành dễ dàng và dễ hiểu ở khoảng cách cả chục ngàn dặm cũng
chẳng khác nào việc chuyển di hai từ ngữ băng ngang qua một căn pḥng.
Cho đến nay, ngoại trừ một số ít trường hợp rất hiếm có, tôi đă tránh không
đáp trả bất cứ sự phê b́nh nào về các tác phẩm của ḿnh, thậm chí c̣n bỏ mặc
không bác bỏ mọi lời nói xấu trực tiếp, bởi v́ trong trường hợp bộ
Nữ thần Isis tôi thấy hầu như mọi
lời phê b́nh đều đúng đắn, c̣n đối với những “lời nói xấu và lời nói dối”
th́ tôi khinh bỉ những kẻ nói xấu, đến nỗi tôi chẳng thèm chú ư tới chúng.
Nhất là trường hợp liên quan tới vấn đề phỉ báng bắt nguồn từ Châu Mỹ. Tất
cả đều xuất phát từ cùng một người và cùng một nguồn tin mà mọi người Thông
Thiên Học đều thừa biết; trong ṿng 12 năm vừa qua, người ấy đă tấn công tôi
về mặt cá nhân một cách không mệt mỏi [và tôi ắt không nêu đích danh người
ấy ra. Có những tên tuổi rất ô danh về mặt đạo đức cho nên không thích hợp
để cho các báo chí đứng đắn nhắc tới. Những lời lẽ và hành vi của người này
xuất phát từ cái lớp vỏ của Vũ trụ vật chất cho nên phải quay về đó chứ
không đụng chạm tới tôi], mặc dù tôi chưa bao giờ nh́n thấy hoặc hội kiến
với tạo vật này. Tôi cũng không có ư định trả lời người ấy ngay bây giờ.
Nhưng v́ giờ đây bộ Nữ thần Isis
đă bị đả kích ít nhất tới lần thứ 10, cho nên đă đến lúc những người bạn
đang băn khoăn và bộ phận công chúng có thể đồng cảm với Thông Thiên Học ắt
được quyền biết trọn cả sự thật - và chỉ có sự thật thôi. Không phải là tôi
t́m cách bào chữa cho bản thân về bất cứ điều ǵ ngay cả trước mọi chuyện
hoặc “giải thích mọi chuyện”. Không phải như thế đâu. Tôi quyết tâm đưa ra
những sự kiện không thể chối căi được và không căi vào đâu được chỉ bằng
cách minh định những hoàn cảnh đặc thù mà nhiều người thừa biết nhưng giờ
đây hầu như đă bị quên lăng, tôi viết tác phẩm đầu tay bằng tiếng Anh của
ḿnh trong những hoàn cảnh ấy. Tôi xin tŕnh bày theo đúng thứ tự.
(1) Khi tôi đến Mỹ vào năm 1873, tôi đă không nói tiếng Anh – thứ tiếng mà
tôi học hội thoại trong thời thơ ấu – hơn 30 năm. Khi tôi đọc tiếng Anh th́
tôi hiểu được, nhưng tôi khó ḷng mà nói được ngôn ngữ này.
(2) Tôi chưa bao giờ học trường Cao đẳng nào và điều tôi biết là do tôi tự
học; tôi chưa bao giờ tự cho là ḿnh có khả năng học giả theo nghĩa khảo cứu
hiện đại; thật vậy, tôi hầu như chẳng đọc được bao nhiêu tác phẩm khoa học
nào của Âu châu, chẳng biết được bao nhiêu về triết học và khoa học Âu Mỹ.
Một số ít điều mà tôi đă nghiên cứu và học được trong lănh vực này khiến tôi
ghê tởm với thuyết duy vật, những hạn chế, cái óc giáo điều hẹp ḥi dứt
khoát và cái vẻ cao đạo của nó đối với những triết lư và khoa học cổ đại.
(3) Măi cho tới năm 1874, tôi chưa bao giờ viết một từ nào bằng tiếng Anh và
tôi cũng chưa xuất bản bất cứ tác phẩm nào bằng bất cứ thứ tiếng nào. V́ thế
cho nên –
(4) Tôi tuyệt nhiên không có ư niệm ǵ về qui tắc viết văn. Thuật viết sách,
chuẩn bị chúng đem in và xuất bản, đọc và sửa bản thảo in thử đều là những
chuyện bí mật kín như bưng đối với tôi.
(5) Khi tôi khởi sự viết điều mà sau này phát triển thành bộ
Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis, tôi
chẳng có ư tưởng nào giống như người lên cung trăng rồi đáp xuống Mặt trăng.
Tôi không có kế hoạch, cũng chẳng biết liệu nó sẽ là một tham luận, một tập
sách nhỏ, một quyển sách hay là một bài báo. Tôi biết rằng ḿnh phải viết
nó, thế là đủ rồi. Tôi khởi sự công việc này trước khi quen thân với Đại tá
Olcott và vài tháng trước khi Hội Thông Thiên Học được thành lập.
Vậy là mọi người đều thấy ngoại duyên để trở thành tác giả của một tác phẩm
khoa học và Thông Thiên Học bằng tiếng Anh thật là tràn trề hi vọng. Tuyệt
nhiên tôi đă viết đủ tài liệu để lấp đầy bốn quyển sách giống như bộ
Nữ thần Isis trước khi tôi đưa
cho Đại tá Olcott xem tác phẩm của ḿnh. Cố nhiên ông bảo rằng ngoại trừ
những trang mà các vị Thầy đọc cho tôi viết th́ toàn bộ những thứ khác phải
được viết lại. Thế là chúng tôi phải bắt đầu công tŕnh vất vả về văn
chương, cùng nhau làm việc mỗi buổi chiều. Tôi sao chép lại một số trang mà
ông đă sửa phần tiếng Anh, c̣n những trang khác không cần phải sửa nát bét
th́ ông thường đọc lớn lên từ những trang bản thảo của tôi, diễn tả chúng
bằng tiếng Anh theo từng chữ một khi tiếp tục đọc cho tôi viết từ cái bản
thảo hầu như không ai giải mă nổi của tôi. Tôi biết ơn ông về tiếng Anh
trong bộ Nữ thần Isis. Cũng lại
chính ông gợi ư rằng nên chia tác phẩm này ra thành từng chương và quyển đầu
tiên dành riêng cho KHOA HỌC, c̣n quyển thứ nh́ dành riêng cho THẦN HỌC.
Muốn làm như vậy nội dung phải được xào xáo lại và nhiều chương cũng thế.
Những đoạn lập lại bị gạch bỏ đi và chúng tôi chú ư tới sự mạch lạc về văn
chương của các đề tài. Khi tác phẩm đă sẵn sàng rồi th́ chúng tôi đệ tŕnh
nó cho Giáo sư Alexander Wilder, ông là một tác giả nổi tiếng về triết
thuyết Platon ở New York, sau khi đọc nội dung Giáo sư Wilder giới thiệu tác
phẩm này cho ông Bouton xuất bản. Xếp hàng thứ nh́ sau Đại tá Olcott, chính
Giáo sư Wilder đă giúp tôi nhiều nhất. Chính ông đă thực hiện bảng Chỉ mục
tuyệt vời, sửa những từ ngữ tiếng Hi lạp, tiếng La tinh và tiếng Hebreux,
gợi ư những đoạn trích dẫn và viết phần lớn Lời Dẫn nhập “Đứng Trước Bức
Màn”. Nếu trong tác phẩm Nữ thần Isis
không công nhận điều này th́ tôi không có lỗi, mà v́ chính Tiến sĩ Wilder đă
bày tỏ mong ước là tên tuổi của ông không nên được chường ra, ngoại trừ
trong phần Chú thích cuối trang. Tôi chưa bao giờ giấu giếm điều này và mọi
người trong số nhiều người quen biết tôi ở New York đều biết rơ điều ấy. Khi
tác phẩm đă chuẩn bị sẵn sàng th́ tác phẩm được đem đi in.
Từ lúc đó trở đi mới thật sự bắt đầu khó khăn. Tôi chẳng có ư niệm ǵ về
việc sửa bản in thử. Đại tá Olcott chẳng có nhiều thời giờ rảnh để làm điều
đó; kết quả là ngay từ đầu tôi đă làm cho nó lộn xộn lên. Trước khi chúng
tôi làm hết ba chương đầu tiên th́ đă phải thanh toán một hóa đơn 600 đô la
về việc sửa bản in thử và thay đổi đi, thế là tôi bỏ luôn việc đọc bản in
thử. Bị nhà xuất bản hối thúc, Đại tá Olcott làm bất cứ điều ǵ ḿnh có thể
làm được, nhưng không có thời giờ ngoại trừ vào lúc buổi chiều, c̣n Tiến sĩ
Wilder ở xa tít tại thành phố Jersy; kết quả là bản in thử và các trang của
bộ Nữ thần Isis phải qua tay một
số người sẵn ḷng nhưng không cẩn thận lắm, rồi cuối cùng bỏ mặc cho ḷng tử
tế của người đọc bản in thử thuộc nhà xuất bản. Liệu người ta có lấy làm lạ
chăng sau điều này nếu Bàn Cổ “Vaivaswata” trong những quyển sách được xuất
bản lại biến thành “Viswamitra”, c̣n 36 trang Chỉ mục bị mất luôn không khôi
phục được, và các dấu chấm câu được đặt vào những chỗ không cần thiết (chẳng
hạn như một số các câu văn của tôi) và bị thiếu vắng hoàn toàn trong nhiều
đoạn trích dẫn từ nhiều tác giả khác?
Nếu bị chất vấn tại sao không sửa những lỗi lầm chết người này trong
ấn bản kỳ sau th́ tôi xin trả lời: Cũng đơn giản thôi; bản in được đúc khuôn
và mặc dù tôi có muốn làm thế nào đi chăng nữa th́ tôi cũng không thể đưa nó
vào thực tiễn được, bởi v́ bản in là tài sản của nhà xuất bản; tôi đâu có
tiền để trả chi phí và rốt cuộc th́ nhà xuất bản vẫn bằng ḷng cứ để cho mọi
chuyện y như thế, bởi v́ bất chấp mọi khiếm khuyết sờ sờ ra đó, tác phẩm này
giờ đây đă được in lại tới 7 – 8 lần mà vẫn c̣n có nhu cầu.
Và bây giờ có lẽ do hậu quả của mọi điều ấy lại có một lời buộc tội mới: tôi
bị tố cáo là hoàn toàn đạo văn trong chương Dẫn Nhập “Đứng Trước Bức Màn”!
Được thôi, nếu quả thật tôi có phạm phải tội đạo văn th́ tôi ắt chẳng ngần
ngại ǵ thừa nhận là ḿnh có “vay mượn”. Nhưng ngược lại, với lời tố cáo là
có những “đoạn song hành”, v́ tôi không làm như vậy cho nên tôi thấy ḿnh
chẳng có ǵ phải thú nhận, cho dẫu việc “chuyển di tư tưởng” – theo cách gọi
hóm hỉnh của báo Pall Mall – đang thịnh hành, và giờ đây đang chiếm ưu thế.
Từ ngày báo chí Mỹ la ó chống lại Longfellow – ông vay mượn từ một bản dịch
tiếng Đức nào đấy lúc đó chẳng ai biết
bản anh hùng ca Phần lan là Kalevala, rồi xuất bản nó thành bài thơ
tuyệt vời của chính ḿnh là bài Hiawatha, mà lại quên thừa nhận nguồn gốc
cảm hứng ḿnh, th́ báo chí ở lục địa Mỹ đă lập đi lập lại lời buộc tội khác
trong trường hợp giống như thế. Năm nay đặc biệt nở rộ những sự “chuyển di
tư tưởng” như vậy. Ở đây ta có Ngài Thị trưởng Thành phố Luân đôn lập lại
từng từ một bài giảng đă bị quên lăng xưa cũ rồi của ông Spurgeon và thề là
ḿnh chưa bao giờ đọc hay nghe nói tới nó. Đại đức Robert Bradlaugh viết một
quyển sách và ngay tức khắc báo Pall Mall tố cáo nó là sao chép từng chữ một
tác phẩm của một người nào khác. Ông Harry de Windt, người du hành tới các
xứ Đông phương và thật sự là hội viên Hội Địa Hoàng Gia đă t́m thấy nhiều
trang trong tác phẩm vừa được xuất bản của ḿnh một cuộc du hành tới Ấn độ,
băng ngang qua Ba tư và Baluchistan, trong Hàn lâm viện Luân đôn lại được
song hành với những trích đoạn từ quyển xứ Balochistan của tác giả A. W.
Hughes, giống hệt nhau về mặt văn chương và từ ngữ. Trên tạp chí Tuần báo
nước Anh, bà Parr chối căi rằng tác phẩm tiểu thuyết Sally của bà không hề
được vay mượn một cách cố ư hoặc vô ư từ tác phẩm Sally của cô Wilkins và
tuyên bố rằng ḿnh chưa bao giờ đọc câu chuyện vừa nêu, thậm chí chưa bao
giờ nghe nói tới tên tuổi của tác giả này v.v. . . Cuối cùng mọi người nào
đă đọc quyển Đời Chúa Giê su của Renan ắt thấy rằng ông đă đạo văn qua việc
tiên liệu, một số đoạn miêu tả được tŕnh bày bằng những câu thơ trôi chảy
trong tác phẩm Ánh đạo Thế gian. Thế nhưng ngay cả Ngài Edwin Arnold, với
thiên tài được công nhận là đa năng đâu cần phải vay mượn những h́nh ảnh nào
khác cũng không chịu cám ơn Viện sĩ Hàn lâm Pháp về những bức tranh núi
Tabor của ḿnh, và Galilee viết bằng văn xuôi mà ông đă thi vị hóa một cách
thanh nhă qua bài thơ cuối cùng của ḿnh. Thật vậy ở tŕnh độ văn minh của
ta vào cuối thế kỷ này, người ta cảm thấy vô cùng vinh hạnh khi được đặt vào
một nhóm người đông đảo và đầy tiếng tăm như vậy, ngay cả với vai tṛ là một
kẻ đạo văn. Nhưng tôi không thể đ̣i hỏi một đặc quyền như thế chỉ v́ lư do
tôi đă nói rồi, là trong số trọn cả Chương Dẫn Nhập “Đứng Trước Bức Màn” tôi
chỉ có thể khẳng định một vài đoạn trong phần Chú giải Thuật ngữ đính kèm
theo đó là của tôi, c̣n phần viết về triết thuyết Platon mà hiện nay người
ta tố cáo “trắng trợn đạo văn” là do Giáo sư A. Wilder viết ra.
Nhà quí tộc này hiện nay vẫn c̣n sống loanh quanh ở New York, cho nên người
ta có thể hỏi lại xem liệu phát biểu của tôi có đúng thật hay chăng. Ông là
một học giả vĩ đại và đáng kính đến nỗi ông chẳng chối căi điều ǵ hoặc e sợ
điều ǵ . Ông cứ
khăng khăng đ̣i có một Chú giải Thuật ngữ để giải thích danh xưng và từ ngữ
bằng tiếng Hi lạp và tiếng Bắc phạn đầy dẫy trong tác phẩm này để đính kèm
vào phần Dẫn Nhập; bản thân ông cũng cung cấp được một ít. Tôi xin ông cung
cấp cho tôi một bảng tóm tắt ngắn gọn về các triết gia thuộc trường phái
Platon và ông đă tử tế làm điều ấy. Vậy là từ trang 11 xuống măi tới trang
22, bản văn là của ông ngoại trừ một vài đoạn chen vào đó ngắt quăng phần
tường thuật về trường phái Platon để cho thấy nó đồng nhất với những ư tưởng
trong các kinh điển Ấn giáo. Thế mà những người nào biết cá nhân Tiến sĩ A.
Wilder hoặc qua tên tuổi đều hiểu triết gia lỗi lạc trường phái Platon này
là một học giả lớn đă biên tập biết bao nhiêu tác phẩm bác học. [A. Wilder,
Bác sĩ Y khoa, biên tập Tục thờ Rắn và thờ Shiva của Hyde Clarke và C.
Staniland Wake; Nghệ thuật Cổ truyền và Thần thoại học của Richard Payne
Knight, người biên tập cũng đính kèm vào đó một bài Dẫn Nhập, những Chú
thích được dịch ra tiếng Anh và một Chỉ mục mới được hoàn chỉnh; Tục thờ
cúng Biểu tượng Cổ truyền của Holder M. Westropp và
C. Staniland Wake có phần Dẫn Nhập, Chú thích bổ sung và Phụ lục của
người biên tập; cuối cùng là các Bí pháp Eulesi và Bacchus; một Luận văn của
Thomas Taylor, người đă từng dịch Plato, Plotinus, Porphyry, Jamblichus,
Proclus. Aristotle v.v. . . Bác sĩ Alexander Wilder biên tập có thêm phần
Dẫn nhập, Chú thích, Đính chính và Chú giải Thuật ngữ; ông c̣n là tác giả
của đủ thứ tác phẩm bác học, tập sách và bài báo, ở đây chúng tôi không có
chỗ để liệt kê. Ông c̣n là tổng biên tập của tờ “Hàn lâm viện Xa xưa”, tạp
chí ra từng tam cá nguyệt một của New York và là người dịch các Bí pháp của
Jamblichus]. Ông Wilder đâu có điên ǵ mà buộc tội ḿnh là “đạo văn” từ bất
cứ tác phẩm nào của tác giả khác. Trong phần Chú thích cuối trang tôi có
tŕnh bày tên tuổi của một vài tác phẩm thuộc trường phái Platon và các
trường phái khác mà ông đă biên tập. Lời buộc tội thật là rất phi lư!
Sự thật là Tiến sĩ Wilder ắt hẳn đă quên đặt dấu ngoặt kép trước những đoạn
văn mà ông sao chép của đủ thứ tác giả trong phần Tổng kết; hoặc là v́ chữ
ông viết rất khó đọc cho nên ông đă không đánh dấu chúng rơ rệt đúng mức.
Sau khi đă trải qua hầu như là 15 năm th́ không thể nhớ hoặc kiểm chứng được
các sự kiện. Cho tới nay tôi cứ tưởng rằng bản luận văn này về các triết gia
thuộc trường phái Platon là của ông và chưa bao giờ nghĩ thêm nữa tới nó.
Nhưng giờ đây kẻ thù đă bới lông t́m vết những đoạn không được đánh dấu
trích dẫn và lu loa hơn bao giờ hết “tác giả của bộ
Vén Màn Bí Mật Nữ thần Isis” là
một kẻ đạo văn và bịp bợm. Rất có thể người ta c̣n lu loa nhiều hơn nữa v́
tác phẩm ấy là một kho vô tận những điều trích dẫn không đúng, những lỗi lầm
và sai sót mà tôi không thể biện bạch
là “có lỗi” theo nghĩa b́nh
thường. Thế th́ những kẻ nói xấu cứ việc tiếp tục để rồi 15 năm nữa trôi
qua, họ cũng thấy giống như thời kỳ trước là cho dù họ làm ǵ đi chăng nữa
th́ họ không thể phá hoại Thông Thiên Học, thậm chí cũng chẳng làm hại được
tôi. Tôi chẳng có tính hiếu danh của người viết văn, và những năm tháng bị
hành hạ và chưởi rủa bất công đă khiến tôi hoàn toàn chai đá với điều mà
công chúng có thể nghĩ về cá nhân tôi.
Nhưng xét v́ những sự kiện nêu trên và xét v́:
(a) Ngôn ngữ trong Nữ thần Isis
không phải của tôi; mà (ngoại trừ phần tác phẩm mà tôi đă từng khẳng định
rằng có người đọc cho tôi viết) có thể gọi là chỉ một loại bản dịch những sự
kiện và ư tưởng của tôi sang tiếng Anh.
(b) Nó không được viết cho công chúng – tôi chỉ coi công chúng luôn luôn là
thứ yếu – mà để cho các nhà Thông Thiên Học và các hội viên Thông Thiên Học
sử dụng, bộ sách Nữ thần Isisi
được tặng cho những người ấy.
(c) Mặc dù từ đó trở đi tôi đă học được tiếng Anh tới mức có đủ khả năng
biên tập hai tạp chí – Tạp chí Nhà Thông Thiên Học và Tạp chí LUCIFER – thế
những măi cho tới bây giờ, tôi cũng chưa từng viết một bài báo, một xă luận,
ngay cả chỉ một đoạn văn mà không đưa phần tiếng Anh cho người khác rà soát
lại và sửa chữa tỉ mỉ; xét v́ mọi điều đó và c̣n nhiều hơn nữa, giờ đây tôi
yêu cầu những người thiện nam tín nữ vô tư và trung thực xét xem liệu có
công bằng hoặc thậm chí công tâm chăng khi chỉ trích những tác phẩm của tôi
– nhất là bộ Nữ thần Isis – giống
như tác phẩm do một người bản địa Mỹ hoặc Anh viết ra. Điều mà tôi khẳng
định trong đó là của chính ḿnh chỉ là thành quả của việc tôi học hỏi và
nghiên cứu trong một bộ môn cho đến nay Khoa học c̣n bỏ lơ chưa khảo cứu, và
thế giới Âu Tây hầu như chẳng biết ǵ hết. Tôi sẵn ḷng từ bỏ cái vinh dự là
viết đúng ngữ pháp tiếng Anh trong đó, vinh dự trích dẫn từ những tác phẩm
khoa học mà thỉnh thoảng tôi có dịp dùng làm những đoạn để đối chiếu với
Khoa học cổ truyền hoặc bị Khoa học cổ truyền bác bỏ, và cuối cùng tôi cũng
xin từ bỏ cái vinh dự về kết cấu tổng quát của bộ sách, nhường nó cho bất cứ
ai đă giúp đỡ tôi. Ngay cả đối với bộ
Giáo Lư Bí Truyền th́ cũng đă có khoảng sáu nhà Thông Thiên Học bận rộn
biên tập nó, họ đă giúp tôi sắp xếp đề tài, chỉnh đốn tiếng Anh không hoàn
hảo và để chuẩn bị nó đem in. Nhưng không một ai trong số đó đă từng rêu rao
từ đầu tới cuối cái vinh dự là
tác giả của giáo lư căn bản, các kết luận triết học và các giáo huấn trong
đó. Tôi chẳng dám bịa ra bất cứ điều ǵ trong đó mà chỉ tŕnh bày nó đúng
như tôi đă được giảng dạy; hoặc đúng như tôi đă trích dẫn Montaigne trong bộ
Giáo Lư Bí Truyền, quyển I, trang
46: “Ở đây tôi chỉ làm ra một bó hoa gồm những đóa hoa tinh tuyển Đông
phương và bản thân chẳng đóng góp điều ǵ ngoại trừ cái sợi dây cột bó hoa
lại”.
Liệu có bất cứ ai trong những người giúp đỡ tôi sẵn sàng tuyên bố rằng tôi
đă không trả đúng giá cái sợi dây ấy?
Ngày 27 tháng 4 năm 1891.
TUYÊN BỐ
Chúng tôi kư tên dưới đây vốn là hội viên Thông Thiên Học (và thành viên
Nhóm Nội môn trường Bí giáo) tuyên bố như sau bất chấp lợi hại đối với danh
dự và tiếng tăm của ḿnh:
“Chúng tôi đă khảo cứu tỉ mỉ mọi lời buộc tội và đả kích chống lại tính t́nh
cá nhân và sự trung thực của H.
P. Blavatsky. Chúng tôi thấy trong đại đa số trường hợp th́ những điều đó
hoàn toàn sai lầm và trong một số ít trường hợp c̣n lại đó là những ví dụ về
những xuyên tạc thô thiển nhất những sự kiện đơn giản. Hơn nữa v́ biết rằng
những lời buộc tội đạo văn thiếu phương pháp và thiếu chính xác hiện nay và
trong tương lai c̣n được đưa ra chống lại tác phẩm văn chương của bà, cho
nên chúng tôi đưa ra những phát biểu sau đây v́ lợi ích của mọi hội viên
Thông Thiên Học và để cung cấp thông tin cho mọi người khác:
Các tác phẩm của H. P. Blavatsky – v́ bà kém kiến thức về Anh văn và thiếu
phương pháp văn chương – đă luôn luôn được duyệt lại, sao chép lại hoặc bố
trí lại trong các bản thảo và những bản in thử đă được sửa chữa bởi những
“người bạn” thân cận nhất sẵn có vào lúc ấy (một vài người đôi khi cung cấp
cho bà những đoạn tham chiếu, trích dẫn và cố vấn). V́ thế cho nên có nhiều
lỗi lầm, sai sót, thiếu chính xác v.v. . . đă len lỏi vào những tác phẩm ấy.
Tuy nhiên, những tác phẩm này được giới thiệu thuần túy với ư định đưa ra
một vài ư tưởng cho thế giới Âu
Tây chú ư, chứ c̣n về phần bà không có cao vọng khoe khoang tài học giả hoặc
văn chương trác tuyệt.
Để ủng hộ những quan điểm này, đă có vô số điều trích dẫn và điều tham chiếu
(trong nhiều trường hợp bà không có khả năng kiểm chứng được). Và đối với
những điều ấy bà chưa bao giờ rêu rao bất cứ điều ǵ là tân kỳ hoặc khảo cứu
sâu sắc.
Sau khi đă quen biết lâu dài và thân mật với H. P. Blavatsky, chúng tôi luôn
luôn thấy bà lao động vất vả v́ lợi ích và giáo huấn cho hội viên Thông
Thiên Học và những người khác chứ khộng phải v́ bản thân, và bà là người đầu
tiên không màng tới việc những người khác có thể coi bà là “bác học”. Tuy
nhiên khi được giáo huấn thêm nữa, nhờ được tiếp nhận từ chính bà chúng tôi
biết được một sự thật là H. P. Blavatsky có một “tri thức” sâu sắc hơn ngay
cả mức bà có thể tŕnh bày trong những tác phẩm công khai.
Do tất cả những nhận xét ấy, suy ra một cách hợp lư rằng không một lời buộc
tội nào có thể làm lung lay niềm tin của chúng tôi vào nhân cách của H. P.
Blavatsky và tính đáng tin cậy của bà trên cương vị là một đạo sư. Do đó
trong tương lai chúng tôi không có ư định phí phạm thời giờ vào những sự bác
bỏ vô ích hay là tự cho phép ḿnh bị xao lăng lập lại phát biểu hiện nay của
chúng tôi.
Tuy nhiên chúng tôi dành quyền được khởi tố trước pháp luật khi cần thiết.
G.R.S. Mead, W.R.Old, Laura M.Cooper, Emily Kislingbury, E.T.Sturdy,
H.A.W.Coryn, Constance Watchtmeister, Alice Leighton Cleather, Claude
F.Wright, Archibald Keightley, Isabel Cooper-Oakley, Annie Besant.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS