Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

“NHỮNG SỰ LUÂN HỒI” CỦA ĐỨC PHẬT

Trích Giáo Lư Bí Truyền Quyển 5

Tác giả H.P.Blavatsky

 

NHỮNG SỰ LUÂN HỒI” CỦA ĐỨC PHẬT

 

“NHỮNG SỰ LUÂN HỒI” CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Bồ-Tát đă trở thành Đức Phật do sự Tinh tấn và Công đức bản thân - Các Đức tính mà một vị Phật phải có - Sự Hi sinh v́ Nhân loại của Đức Phật -Bản chất của các Thế giới mà một vị Phật hoạt động trong đó - Những Tác phẩm Bí mật về Cuộc đời của những đại Hiền triết ở các tu viện Lạt ma Tây Tạng - Shankarāchārya bỏ xác vào năm 33 tuổi, giải thoát vị Bồ Tát đă dùng Phàm ngă của ḿnh - Điều Bí nhiệm Nghiệp quả về Đức Phật và Đức Shankarāchārya - Tsong Kha Pa là một Hiện thân của Đức Phật - “Địa điểm gồm Ba Bí mật”.

 

TIẾT 44

“NHỮNG SỰ LUÂN HỒI” CỦA ĐỨC PHẬT

Một tiết trong chương bàn về Như Lai (Tathāgata) [[1]] trong phần giảng lư đều Biểu diễn một năm trong cuộc đời của Đại triết gia ấy, xét theo khía cạnh lưỡng phân của một ông thầy công và tư, cả hai đều được đối chiếu và b́nh luận. Nó cho thấy bậc Thánh hiền đạt tới quả vị Phật thông qua một quá tŕnh dài nghiên cứu, tham thiền và Điểm đạo - bất kỳ Cao đồ nào khác cũng phải làm như vậy, không được bỏ sót một nấc thang trên “Thánh đạo Toàn bích” gian khổ. Vị Bồ Tát trở thành một Đức Phật và một Đấng nhập Niết Bàn nhờ vào nỗ lực và công đức tự thân, sau khi đă phải chịu mọi sự khắc nghiệt giống như mọi kẻ sơ cơ nào khác - chứ không phải nhờ vào một sự giáng sinh thiêng liêng như một số người lầm tưởng. Việc Ngài đạt tới Niết Bàn trong khi vẫn c̣n sống trong thể xác và trên trần thế, chỉ là v́ trong những kiếp trước, Ngài đă đạt được tŕnh độ cao trên “Con đường DZYĀN” (tri thức minh triết). Những năng khiếu trí tuệ và tri thức trừu tượng vẫn theo gót một Điểm đạo đồ trong kiếp sống mới của Ngài, nhưng Ngài phải hoạch đắc trở lại những quyền năng hiện tượng, trải qua mọi giai đoạn liên tiếp. Ngài phải hoạch đắc “bảy năng khiếu quư báu” [[2]], hết năng khiếu này tới năng khiếu khác. Trong thời kỳ tham thiền, bất cứ hiện tượng thế tục nào trên cơi hồng trần cũng đều không được phép nhập vào tâm trí Ngài hoặc băng qua tư tưởng Ngài. Zhine-Ihagthong (Tiếng Bắc phạn là Vipashya, sự tham thiền trừu tượng có tính cách tôn giáo) sẽ phát triển nơi y những năng lực kỳ diệu nhất độc lập với chính y. Một khi mà người ta đă hoạch đắc được bốn tŕnh độ nhập định, tức Sam-tan (Tiếng Bắc phạn là Dhyāna) th́ mọi chuyện đều trở nên dễ dàng. Đó là v́ một khi mà con người đă hoàn toàn dứt bỏ được ư tưởng về cá tính và ḥa nhập Biệt Ngă của ḿnh vào Toàn Linh Ngă, có thể nói là trở thành thanh thép được truyền thụ những tính chất cố hữu trong viên đá nam châm, Ādi Buddha (A đề Phật) tức Anima Mundi, th́ các quyền năng cho đến lúc đó c̣n ẩn tàng nơi Ngài mới được khơi hoạt, các bí nhiệm trong Thiên nhiên vô h́nh mới tỏ lộ ra và Ngài trở thành một Thonglam-pa (một nhà Thấu thị); thế là Ngài bèn trở thành một Thiền na Phật (Dhyāni Buddha). Ngài ắt biết được mọi Zung (Đà la ni – Dhāranī - một từ thần bí tức mantra) của Lokottaradharma (thế giới nguyên nhân cao nhất).

 Thế là, sau khi tịch diệt nơi ngoại giới, 20 năm sau, do t́nh thương bao la và “ḷng từ bi thương xót” nhân  loại phiêu bạt và vô minh, Đấng Như Lai đă từ chối nhập Đại Niết Bàn [[3]] để cho Ngài có thể trực tiếp trợ giúp người ta.

Một Giảng lư nói:

 

Sau khi đă đạt tới Con đường Giải thoát [Thar-lam] khỏi sự chuyển kiếp, người ta không c̣n có thể thực hiện Tulpa [[4]] được nữa, v́ “trở thành một Đấng nhập Đại Niết Bàn” chính là kết liễu ṿng Ku Sum [[5]] Thất phân. Ngài đă ḥa lẫn Dorjesempa [Vajrasattva] vay mượn của ḿnh vào trong Điều Nhất như Vũ trụ và hiệp nhất với nó.

 

Vajradhara, cũng tên là Vajrasattva (Tiếng Tây Tạng là Dorjechang và Dorjedzin tức Dorjesempa) là Đấng cai quản hoặc Chủ tŕ mọi Dhyān Chohans tức Thiền na Phật, là Đức Phật Tối cao; Ngài có tính cách cá biệt, song chẳng bao giờ biểu lộ ra ngoại giới, Ngài là “Nhà Chinh phục Tối cao”, “Đấng Chúa tể của mọi Bí pháp”, “Đấng Vô thủy Vô chung” - tóm lại là Thượng Đế của Phật giáo. Đó là v́, trên cương vị là Vajrasattva, Ngài chỉ là Thủ lĩnh (Tsovo) của các Thiền na Phật tức Dhyān Chohans và là Trí Thông tuệ Tối cao trong Thế giới thứ Hai; trong khi đó trên cương vị là Vajradhara (Dorjechang), Ngài chính là tất cả những ǵ nêu trên. “Hai Đấng này tuy hai mà một, song le tuy một mà hai”, và vượt trên các Ngài là “Chang, Minh triết Nhất như Vũ trụ Tối cao và Vô hiện, Vô danh”. Trên cương vị tuy một mà hai, Ngài (các Ngài) là Quyền năng vốn khắc chế và chinh phục điều Ác ngay từ khi c̣n trong trứng nước, chỉ cho phép nó khống chế những đối tượng sẵn ḷng làm ác trên trần thế, và không chi phối được những kẻ khinh thường và ghét điều ác. Xét về mặt bí truyền, ẩn dụ thật là dễ hiểu, xét theo công truyền, Vajradhara (Vajrasattva) là Thần linh mà mọi tinh linh ác độc đều thề với Ngài rằng chúng sẽ không ngăn cản việc truyền bá Chánh pháp (Phật giáo) và mọi ma quỷ đều run sợ khi đứng trước Ngài. V́ vậy, ta nói rằng nhân vật lưỡng phân này (trong Phật giáo Tây Tạng, giáo điều và giáo luật đă gán cho Ngài vai tṛ như vậy) có vai tṛ giống như Jehovah và Tổng Thiên thần Mikael, Metatron của các môn đồ kinh Kabalah của Do Thái giáo. Ta có thể dễ dàng chứng tỏ điều này. Mikael là “thiên thần của gương mặt Thượng Đế”, tức là kẻ đại diện cho Thầy ḿnh. “Gương mặt của ta sẽ đi cùng với con (bản dịch tiếng Anh là “sự hiện diện”) trước người Israel, Thượng Đế nói với Moses như vậy (Xuất hành, xxxiii, 14). “Thiên thần hiện diện của ta [của con]” trong tiếng Hebrew là “gương mặt của ta” (Isaiah, lxiii, 9) v.v. . .  Các tín đồ Công giáo La Mă đồng nhất hóa Đấng Christ với Mikael; xét về mặt thần bí học, Mikael cũng là “gương mặt” của Đấng Christ. Đây chính là địa vị của Vajradhara tức Vajrasattva trong Phật giáo Bắc tông. Đó là v́ Vajrasattva, xét theo Chơn ngă là Vajradhara (Dorjechang), chẳng bao giờ biểu lộ ngoại trừ đối với bảy Dhyān Chohans, các Nhà Kiến tạo nguyên sơ. Xét về mặt bí truyền, đó là Tinh thần của “bảy Đấng” xét theo tập thể, nguyên khí thứ bảy tức Ātman. Xét về mặt công truyền, ta có thể t́m thấy bất kỳ lượng truyện ngụ ngôn nào trong Kāla Chakra, tác phẩm quan trọng nhất phần Gyut [tức (D)gyu] của Kanjur, phần tri thức thần bí học [(D)gyu]. Nghe nói Dorjechang (minh triết) Vajradhara sống ở Vô sắc giới thứ hai, nó liên kết Ngài với Metatron, ở trong thế giới thứ nhất của các Chơn linh thuần túy, thế giới Briat của các môn đồ kinh Kabalah, họ gọi thiên thần này là El-Shaddai, Đấng Toàn năng và Đấng Đại hùng. Trong tiếng Hy Lạp, Metatron là Sứ giả, tức Đại Đạo sư Mikael chiến đấu với quỷ Sa tăng, con Rồng, chinh phục y và các Thiên thần của y. Vajrasattva - vốn đồng nhất với Vajrapāni, Đấng khắc chế các Tinh linh ác độc - chinh phục Rāhu, con Rồng Lớn luôn luôn ra sức nuốt chửng mặt trăng và mặt trời (nhật thực nguyệt thực). Trong huyền thoại Kitô giáo, “Cuộc Chiến tranh trên Trời” vốn dựa vào việc các thiên thần ác ôn đă khám phá ra những bí quyết (minh triết huyền diệu) của các thiên thần lương hảo (Enoch) và bí nhiệm về “Cây Sự Sống”. Bất cứ ai chỉ cần đọc các bản tường thuật công truyền về chư Thần Ấn Độ và Phật giáo - phiên bản chư Thần Phật giáo được rút ra từ phiên bản chư Thần Ấn Độ - đều thấy rằng cả hai cùng dựa vào một truyện ẩn dụ nguyên thủy, cổ sơ của Giáo lư Bí truyền. trong các văn bản công truyền (Ấn Độ và Phật giáo) chư Thần khuấy động đại dương để rút ra từ đó Nước Sự Sống - Nước Cam lộ Amrita - tức thuốc Trường sinh Tri thức. Trong cả hai văn bản, con Rồng đều ăn cắp một số Nước này, và bị Vishnu (tức Vajradhara tức Thần linh thủ lĩnh, có thể gọi Ngài bằng hồng danh nào cũng được) trục xuất ra khỏi thiên đường. Ta cũng thấy điều giống như vậy trong Thánh thư Enoch và nó được thi vị hóa trong Khải huyền của Thánh John. Và thế là ẩn dụ với mọi điều tô điểm hoang đường đă trở thành một giáo điều!

Sau này ta sẽ t́m thấy người ta có thể đề cập tới việc trong các Tu viện Lạt ma ở Tây Tạng có chứa nhiều quyển sách bí mật và nửa bí mật, tŕnh bày tỉ mỉ về cuộc đời của các Đại Thánh hiền. Nhiều phát biểu trong những quyển sách này cố t́nh gây lẫn lộn; trong những quyển sách khác, độc giả đâm ra bối rối, (nếu người ta không cung cấp cho y một manh mối) do cách người ta dùng một tên gọi duy nhất để bao quát nhiều cá thể vốn đi theo cùng một đường lối giáo huấn. Thế là ta có một loạt “Phật sống” nối tiếp nhau và người ta gọi hết đạo sư này đến đạo sư kia là Phật. Schlagintweit viết:

 

Có một Thiền na Phật và một Thiền na Bồ Tát thuộc về mỗi Đức Phật nhân gian, và con số vô hạn (vô lượng) Đức Phật nhân gian khiến cho ta cũng có vô lượng Thiền na Phật và Thiền na Bồ Tát. [[6]].

 

 [Nhưng nếu đúng như vậy - việc dùng hồng danh một cách công truyền và bán công truyền biện minh cho phát biểu này - th́ độc giả phải tùy thuộc vào trực giác của chính ḿnh để phân biệt giữa chư Thiền na Phật và chư Phật nhân gian. Và độc giả không được áp dụng cho vị PHẬT vĩ đại thuộc Căn chủng thứ Năm tất cả mọi điều được gán cho “Đức Phật” vốn được ghi trong những quyển sách mà - như ta đă nói - người ta thường xuyên đưa vào những bức b́nh phong.

 Ở một trong những quyển sách này, có một vài phát biểu kỳ lạ và tối nghĩa mà - cũng như trước kia - tác giả đă đưa ra và hoàn toàn chịu trách nhiệm riêng ḿnh, v́ một ít người có thể cảm nhận được một ư nghĩa ẩn tàng bên dưới những từ mà ư nghĩa biểu kiến gây hiểu lầm.] [[7]] Người ta đă nêu rơ rằng năm lên 33 tuổi, v́ đă mệt mỏi với xác phàm của ḿnh, Shankarāchārya đă “trút bỏ nó” trong cái hang mà Ngài đă nhập vào. Thế là Bồ Tát - vốn được dùng làm Phàm ngă của Ngài, bèn được giải thoát 

 

với gánh nặng của một tội lỗi mà Bồ Tát không hề phạm phải.

 

 Đồng thời người ta có nói thêm rằng:

 

 Nếu người ta tự ư trút bỏ xác phàm của ḿnh vào bất cứ tuổi nào, th́ trong kiếp sau, khi đến tuổi ấy người ta sẽ bị bất đắc kỳ tử dù không muốn như vậy. - Giảng lư.

 

Thế mà Nghiệp không thể ảnh hưởng đến “Mahā Shankara” (Shankara được gọi như vậy trong tác phẩm bí nhiệm), v́ trên cương vị là một Hóa thân, Ngài không có Phàm ngă của riêng ḿnh mà chỉ có một Bồ Tát - một nạn nhân sẵn ḷng hy sinh. Bồ Tát cũng chẳng có trách nhiệm về hành vi, cho dù là có tội hay không. Do đó người ta không hiểu được điều này, v́ Nghiệp không thể hành xử một cách bất công. Trong toàn bộ truyện này có bao hàm một bí nhiệm khủng khiếp nào đó mà một trí năng chưa được điểm đạo chẳng thể nào khám phá ra được. Thế nhưng, truyện này vẫn gợi ra thắc mắc tự nhiên: “Thế th́, Nghiệp trừng phạt ai bây giờ?” và bỏ mặc nó cho ai đó giải đáp. 

 Một ít thế kỷ sau, nghe nói Đức Phật thử ra sức lâm phàm một lần nữa nơi * * *, và lại nữa, 50 năm sau khi vị Cao đồ này tịch diệt, Đức Phật lại lâm phàm nơi một người mà người ta gọi là Tiani-Tsang. Người ta không tŕnh bày chi tiết, cũng chẳng giải thích hoặc cung cấp thêm thông tin. Người ta chỉ nêu rơ rằng Đức Phật cuối cùng phải thanh toán phần Dư Nghiệp của Ngài mà chính chư Thần linh cũng chẳng thể thoát khỏi, v́ Ngài bắt buộc phải chôn sâu thêm nữa một vài bí nhiệm mà Ngài đă tiết lộ nửa vời - do đó bị thuyết giải sai lạc. Những từ được dùng vẫn giữ nguyên giá trị khi được dịch ra. [[8]]

 

Ngài ra đời quá sớm tới 52 tuổi, là Shramana Cổ Đàm, con vua Zastang; [[9]], rồi ẩn cư quá sớm tới 57 tuổi, là Mahā Shankara, Ngài mệt mỏi với xác phàm của ḿnh. Hành vi cố ư này kích thích và thu hút Nghiệp Vương, Ngài giết chết h́nh tướng mới của * * * vào lúc 33 tuổi [[10]], tuổi của thể xác bị trút bỏ. Trong (thể xác) kế tiếp, Ngài chết vào năm hơn 32 tuổi một chút, và lại nữa, trong thể xác kế tiếp, Ngài chết vào năm 80 tuổi - một Hăo huyền, thực ra là vào năm 100 tuổi. Bồ Tát đă chọn Tiani Tsang [[11]], thế rồi Sugata lại trở thành Tsong-Kha-pa, thế là Ngài trở thành De-zhin-Shegs-pa [Như Lai, “Đấng đi theo đường lối và cách thức của các bậc tiền bối”]. Trên cương vị là * * *, Đấng Thế Tôn có thể mang lại lợi ích cho thế hệ của ḿnh, nhưng không cho hậu thế, và như vậy trên cương vị là Tiani-Tsang, Ngài trở nên chỉ lâm phàm v́ “tàn dư” [của Nghiệp trước kia của Ngài, theo như ta hiểu]. Một lần nữa, bảy Con đường và bốn Chân lư (Tứ Diệu Đế) lại bị che khuất. Từ đó Đấng Từ bi hạn chế chú tâm và sự chăm sóc giống như người cha của ḿnh vào tâm hồn của Bodyul, mảnh đất ương trồng các hạt giống chân lư. Từ đó, các “tàn dư” của Đấng Thế Tôn đă phù hộ và ở trong nhiều thể xác thánh thiện của các Bồ Tát nhân gian.

 

Trong quyển sách bí mật, người ta không cung cấp thêm một thông tin nào khác, chứ đừng nói tới chi tiết hoặc lời giải thích nào. Trong đó chỉ toàn là sự mờ mịt và bí nhiệm, v́ hiển nhiên là nó chỉ được viết cho những người đă được giáo huấn rồi. Thay v́ các tên gọi th́ người ta lại đặt vào đó nhiều dấu sao đỏ như ngọn lửa, và một ít sự kiện được đưa ra rồi lại bị cắt ngang. Ch́a khóa của câu đố được dành cho trực giác của đệ tử, trừ phi những “tín đồ trực tiếp” của Đức Phật Thích Ca - “những kẻ bị Giáo hội Tăng già chối bỏ cho chu kỳ kế tiếp” - và của Shankarāchārya, vui ḷng thêm vào nữa.

 Tiết cuối tŕnh bày một loại tổng kết 70 tiết - bao quát 73 năm trong cuộc đời Đức Phật [[12]] - từ đó đoạn chót được tổng kết như sau:

 

Xuất lộ từ - nơi chốn tuyệt diệu của Tam mật [Sang-Sum], bậc Thầy có ḷng từ bi vô song, (sau khi đă cử hành nghi thức - đối với mọi ẩn sĩ, và mỗi một ẩn sĩ này đă được đoạn tuyệt [[13]] nhận thức được bổn phận kế tiếp của ḿnh nhờ vào [quyền năng của] Hlun-Chub [[14]]. Đấng Sáng suốt nhất tham thiền và tự hỏi liệu điều này có giúp cho các thế hệ [tương lai] hay chăng. Điều mà họ cần là thấy được Hăo huyền khi đang ở trong một thể hăo huyền. Cái ǵ đây? . . . Đấng cao cả chinh phục được đau khổ và phiền muộn vùng lên và trở về sinh quán của ḿnh. Ở đó, Sugata được ít người hoan nghênh v́ họ không biết Shramana Cổ Đàm. Họ nói về Damze Yul [xứ sở của người Bà la môn: Ấn Độ] Đức Thích Ca [Đấng Đại Hùng] đă nhập Niết Bàn . . . Ngài đă ban Khoa học cho các Shuddhas [Shūdra]. . . Chính v́ thế, v́ sinh ra đời do ḷng thương xót, nên Đấng Toàn giác phải rút về - để rồi lại xuất hiện [xét về mặt Nghiệp quả] trên cương vị là Mahā Shankara; và do ḷng thương xót, Ngài xuất hiện là - và lại là - và lại là Tsong-Kha-pa . . .  Đó là v́ kẻ nào tự nguyện khiêm hạ ắt phải đi xuống, c̣n kẻ nào không yêu thương ắt để cho Nghiệp quả kéo ḿnh lên. [[15]] 

 

Xin thú nhận rằng đoạn này thật là mơ hồ và được viết cho một ít người đọc. Ta không được phép nói thêm nữa, v́ chưa tới lúc mà các quốc gia đă sẵn sàng nghe toàn bộ sự thật. Các tôn giáo cổ đều đầy dẫy những điều bí nhiệm, và việc chứng tỏ một số điều bí nhiệm này chắc chắn là sẽ gây ra việc bùng nổ hận thù, tiếp theo có lẽ là đổ máu và c̣n tệ hơn nữa. Ta chỉ cần biết rằng trong khi Đức Phật Thích Ca ḥa nhập vào Niết Bàn từ khi ngài tịch diệt, th́ Đức Thích Ca Mâu Ni có thể đă phải luân hồi - phàm ngă nội giới lưỡng phân này là một trong những bí nhiệm lớn nhất của thông linh thuật Bí truyền.

“Nơi chốn của ba điều bí mật” nhằm nói tới một nơi cư trú của các Điểm đạo đồ cao cấp và các đệ tử. Những “điều bí mật” là ba quyền năng mà ta biết là Gopī, Yasodharā và Uptala [[16]] Varnā là ba quyền năng mà Csomo de Köros tưởng lầm là ba người vợ của Đức Phật, v́ các nhà Đông phương học khác đă tưởng lầm Shakti (quyền năng của Yoga) - vốn được nhân cách hóa bằng một nữ thần - là vợ Đức Phật, hoặc tưởng lầm Draupadī (cũng là một quyền năng tinh thần) là vợ chung của năm anh em Pāndava.



[[1]] Theo nghĩa đen là “đấng bước trên [hoặc đi theo] con đường của các bậc tiền bối”.

[[2]] Trong Phật Giáo Tây Tạng, trang 53, Schmidt và Schlagintweit chấp nhận những điều quư báu này theo nghĩa đen và liệt kê chúng là “bánh xe, đá quư, người hôn phối vương giả, người thủ quỹ tốt nhất, con ngựa tốt nhất, con voi, lănh tụ tốt nhất”. Sau đó th́ người ta chẳng ngạc nhiên bao nhiêu nếu “ngoài một Thiền na Phật và một Thiền na Bồ Tát” ra, mỗi Đức Phật nhân gian c̣n được cung ứng “một nữ đồng sự, một Shakti” - trong khi mà thật ra “Shakti” chỉ là quyền năng của Linh hồn, năng lượng tâm linh của Thượng Đế cũng như của Cao đồ. Rất có thể là “người hôn phối vương giả”, năng khiếu thứ ba trong bảy “năng khiếu quư báu” đă khiến cho nhà Đông phương học thông thái phạm phải sai lầm nực cười này.

[[3]] Một Bồ Tát có thể đạt tới Niết Bàn và sống giống như Đức Phật, sau khi chết, Ngài có thể hoặc là từ chối việc luân hồi nơi ngoại giới, hoặc là chấp nhận luân hồi và tùy ư dùng nó v́ ích lợi của loài người. Ngài có thể giáo huấn loài người theo đủ kiểu trong khi Ngài c̣n ở lại trong vùng Devachan bên trong phạm vi hấp lực của trái đất ta. Nhưng một khi đă đạt tới Đại Niết Bàn tức “Vô dư Niết Bàn” - t́nh huống Pháp thân cao siêu nhất; trong trạng thái này, Ngài vẫn hoàn toàn ở ngoài mọi t́nh huống trên trần thế - Ngài sẽ không c̣n trở lại nữa cho tới khi bắt đầu một Chu kỳ thành trụ mới, v́ Ngài đă vượt ra khỏi chu kỳ sinh tử luân hồi.

[[4]] Tulpa [T’ul-Ku?] là sự lâm phàm tự nguyện của một Cao đồ trong một cơ thể sống, cho dù đó là cơ thể của một người lớn, một đứa trẻ con hoặc một đứa trẻ sơ sinh.

[[5]] Ku-sum là dạng thức tam phân của trạng thái Niết Bàn và kỳ gian riêng của nó trong “chu kỳ Vô hiện”, Con số bảy ở đây nhằm nói tới bảy Cuộc tuần hoàn thuộc Hệ thống thập phân của ta.

[[6]] Phật giáo Tây Tạng, trang 52. Việc dùng chung một tên gọi tổng quát này cũng được người Ấn Độ thực hiện đối với Shankarāchārya (chỉ xét một ví dụ thôi). Mọi người kế nghiệp Ngài đều mang tên Ngài, nhưng không phải là sự luân hồi của Ngài. Đối với “chư Phật” cũng vậy. 

[[7]] [Những từ trong ngoặc vuông được đưa ra để dẫn nhập những phát biểu sau đây vốn mâu thuẫn tự thân và gây lẫn lộn. H. P. B. có lẽ đă có ư định dùng đoạn trong ngoặc vuông này để làm sáng tỏ một chút xíu những phát biểu tiếp sau đây, v́ chúng được viết tới hai hoặc ba lần cùng với những câu khác nối tiếp chúng. Bản thảo cực kỳ lộn xộn, và mọi điều H. P. B. nói đều được ghi lại thành một đoạn lắp ghép ở đây, phần nói thêm trong đoạn trên được ghi trong ngoặc vuông để phân biệt với bản thảo -  A. B.] 

[[8]] Có nhiều tên chỉ được ghi nhận bằng những dấu sao.

[[9]] Vua Tịnh Phạn.

[[10]] Shankarāchārya cũng chết vào năm 32 tuổi, hoặc đúng hơn là biến mất không cho đệ tử ḿnh thấy, theo huyền thoại.

[[11]] Phải chăng “Tiani Tsang” đại diện cho Apollonius ở Tyana? Đây chỉ là một sự phỏng đoán. Một số điều trong cuộc đời của Cao đồ đó có vẻ ăn khớp với giả thuyết - một số điều khác th́ không.

[[12]] Theo giáo lư Bí truyền, Đức Phật thực ra sống được 100 tuổi, mặc dù việc Ngài bị thế giới người sống coi là đă chết rồi sau khi Ngài đă nhập Niết Bàn vào năm 80 tuổi. Xem bài Địa vị của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong Lịch sử, trong 5 năm Thông Thiên Học, trang 230.

[[13]] Đó là một nghi thức bí mật, thuộc về cuộc Điểm đạo cao cấp, và có ư nghĩa giống như ư nghĩa mà Clement ở Alexandria ám chỉ khi ông nói tới dấu hiệu nhận diện vốn có chung với ta, “giống như bằng cách tuyệt thông Christ”, (Strom, chương xiii). Schlagintweit tự hỏi nó có thể là ǵ. Ông nói “Biểu diễn điển h́nh của một ẩn sĩ bao giờ cũng là một người râu tóc xồm xoàm, không hề được cắt tỉa . . .  một nghi thức rất thường được tuyển chọn, mặc dù Tôi không thể nói rơ v́ lư do ǵ, đó là nghi thức Chod (“cắt  đứt” hoặc “hủy hoại”), các vị Lạt ma băn khoăn giữ kín bí mật sâu xa của nó”. (Phật giáo ở Tây Tạng, trang 163).

[[14]] Hlun-Chub là tinh thần bói toán nơi con người, tŕnh độ thấu thị cao nhất. 

[[15]] Mật nghĩa của câu này chính là: “Nghiệp tác dụng lên bậc Cao đồ cũng chẳng kém ǵ tác dụng lên bất cứ người nào khác, “chư Thần linh” có thể trốn thoát nó cũng chẳng hơn ǵ kẻ phàm phu tục tử. Bậc Cao đồ - sau khi đă đạt tới Thánh đạo và đạt được Pháp thân (Niết Bàn mà người ta không thể từ đó trở lại cho tới khi có Đại kiếp mới), Ngài thích dùng quyền chọn lựa một t́nh trạng thấp hơn t́nh trạng thuộc về ḿnh, nhưng t́nh trạng đó sẽ để cho Ngài tự do trở lại bất cứ khi nào Ngài nghĩ là nên làm như vậy và khoác lấy bất cứ phàm ngă nào mà Ngài có thể chọn lựa - phải được chuẩn bị để chuốc lấy mọi nguy cơ thất bại (có thể xảy ra) và một t́nh huống thấp hơn phần số của ḿnh (chắc chắn xảy ra) v́ đó là một định luật huyền bí học. Chỉ Nghiệp không mà thôi th́ nó tuyển lựa tuyệt đối công bằng và không thể sai lầm. Kẻ nào dùng quyền hành của ḿnh ứng xử với nó (Nghiệp) ắt phải chịu quả báo (nếu có). Thế là sự luân hồi đầu tiên của Đức Phật do Nghiệp tạo ra - và nó đă dẫn dắt Ngài lên cao hơn bao giờ hết; hai sự luân hồi tiếp sau là “do thương xót” và * * *.

[[16]] [Nên đọc là Utpala tức Utpalam, nghĩa là “một hoa sen xanh”; varna nghĩa là màu sắc].


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS