Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

TIẾT 6 - NHỮNG ĐIỀU NGUY HIỂM CỦA PHÁP THUẬT THỰC HÀNH

(GLBT 5)

TIẾT 6 – NHỮNG ĐIỀU NGUY HIỂM CỦA PHÁP THUẬT THỰC HÀNH

Pháp thuật là một Quyền năng Nhị phân - Nhất nguyên là Nền tảng Thực sự của Huyền bí học - Các Vũ trụ Khởi nguyên luận liên quan mật thiết với các Con số và các H́nh Kỷ hà học - Sự hiểu biết Vũ trụ dựa vào Toán học chân chính - Lư do tại sao các nhà Hóa học và Vật lư học Hiện đại lại tránh né Huyền bí học - “Tam Mẫu” của cổ nhân chẳng qua chỉ là Ánh sáng, Nhiệt và Điện -  Kinh Kabalah có bản chất Tam Điểm - Thánh kinh Thiên Chúa giáo là tác phẩm Huyền bí học Cổ truyền cuối cùng và mới đây nhất - Moses làu thông Huyền bí học - Moses tŕnh bày các Chân lư được tiết lộ cho ḿnh bằng một Lối văn bóng bẩy tài t́nh.

TIẾT 6 - NHỮNG ĐIỀU NGUY HIỂM CỦA PHÁP THUẬT THỰC HÀNH

PHÁP THUẬT là một quyền năng hai mặt: chẳng có việc ǵ dễ hơn là việc chuyển nó thành thuật phù thủy; chỉ cần một tư tưởng ác cũng đủ rồi. Do đó trong khi Huyền bí học lư thuyết thật là vô hại, thậm chí c̣n có thể có lợi nữa, th́ Pháp thuật thực hành tức quả của Cây trường sinh và Tri thức [[1]], hoặc nói cách khác là “Khoa học về Thiện vả Ác”, thật là đầy dẫy những nguy hiểm ngặt nghèo. Để nghiên cứu Huyền bí học lư thuyết, nhất định là có một số tác phẩm mà ta có thể đọc một cách có ích, ngoài những tác phẩm như Các Thần lực Tinh anh trong Tự nhiên v.v. . . kinh Zohar, Sepher Yetzireh, Thánh thư Enoch, kinh Kabbale của Franck và nhiều bộ đại luận bí truyền Hermes. Những tác phẩm này chỉ có lác đác khi được viết bằng tiếng Âu Tây, nhưng có đầy dẫy những tác phẩm bằng tiếng La tinh do các triết gia thời Trung cổ (thường được biết là các nhà Luyện kim đan và môn đồ phái Hoa hồng Thập tự) viết ra. Nhưng ngay cả việc nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm này cũng có thể tỏ ra là nguy hiểm đối với môn sinh không được ai hướng dẫn. Nếu môn sinh sử dụng chúng mà không có ch́a khóa đúng đắn, nếu v́ thiếu năng lực trí tuệ nên môn sinh không thích hợp với Pháp thuật và v́ thế không thể phân biệt được Chánh đạo với Tà đạo, th́ y nên nghe lời khuyên của chúng tôi và nên dẹp sự nghiên cứu này qua một bên. Y sẽ chỉ chuốc lấy cho bản thân và gia đ́nh những nỗi thương đau phiền muộn mà không bao giờ ngờ chúng từ đâu tới cũng như như đâu là các quyền năng mà trí y đă khơi hoạt khi măi mê nghiên cứu những điều này? Có nhiều tác phẩm dành cho những môn sinh cao cấp, nhưng các tác phẩm này chỉ có thể thuộc quyền sử dụng của những đệ tử hữu thệ, những kẻ đă tuyên đọc lời thề ràng buộc măi măi; do đó họ được giúp đỡ và che chở. Trong tất cả những trường hợp khác, cho dù những tác phẩm này có dụng ư tốt đến đâu đi chăng nữa th́ chúng cũng chỉ có thể làm cho kẻ bất cẩn lầm lạc và vô h́nh trung dẫn y tới Ma thuật hay thuật Phù thủy - nếu không phải là một điều ǵ c̣n tồi tệ hơn nữa.

Những văn tự, mẫu tự và số mục thần bí trong các tiết và phân tiết của kinh Đại Kabalah có lẽ là những phần nguy hiểm nhất trong đó và đặc biệt là các số mục. Chúng tôi bảo rằng nguy hiểm v́ chúng tạo ra những kết quả và hiệu quả một cách mau chóng nhất, cho dù người thực nghiệm có muốn hay không, thậm chí cho dù y có không biết đi chăng nữa. Một số môn sinh ưa nghi ngờ phát biểu này, chỉ v́ sau khi vận dụng các số mục ấy, họ đă không thể nhận thấy bất kỳ biểu lộ hoặc kết quả khủng khiếp nào trên cơi hồng trần. Ta sẽ thấy những kết quả như thế là ít nguy hiểm nhất: chính những nguyên nhân đạo đức mà ta đă tạo ra cùng với nhiều loại biến cố đă phát triển đến mức thành ra một cuộc khủng hoảng bất ngờ, mới minh chứng cho sự thật của những ǵ mà nay ta đang phát biểu (miễn là các môn sinh thế tục có khả năng phân biện được điều này).

Đối với các môn đồ Do Thái bí giáo Thiên Chúa và Do Thái, khởi điểm của cái ngành chuyên môn Huyền bí học được biết là “Khoa học về sự Tương ứng”, số mục, văn tự hay mẫu tự, có bài kư là hai câu thơ bị thuyết giải sai lạc. Hai câu thơ này bảo rằng Thượng Đế:

đă xếp thứ tự vạn vật theo số mục, kích thước và trọng lượng; [[2]]

Ngài đă tạo ra nàng trong Thánh linh, đă thấy nàng đánh số thứ tự nàng và đo lường nàng. [[3]]

Nhưng các Huyền bí gia Đông phương có một bài kư khác: Nhất nguyên Tuyệt đối, x, trong số mục và đa nguyên”. Các môn sinh Minh triết Ẩn tàng của cả Tây phương lẫn Đông phương đều coi sự thật này là công lư. Có điều là các môn sinh Đông phương có lẽ thành thật hơn khi thú nhận như vậy. Thay v́ che giấu môn học của ḿnh, họ lại công khai phô bày nó ra, cho dù họ đă cẩn thận giấu kín nỗi ḷng và tâm hồn ḿnh khi đứng trước đám công chúng phàm phu tục tử không biết đánh giá sự vật, họ bao giờ cũng sẵn sàng lạm dụng những chân lư thiêng liêng nhất để phục vụ cho các mục tiêu ích kỷ của chính ḿnh. Nhưng Nhất nguyên chính là cơ sở thực sự của Huyền bí học (hữu h́nh cũng như siêu h́nh). Thậm chí ngay cả Éliphas Lévi, môn đồ Do Thái bí giáo Tây phương thông thái, mặc dù có khuynh hướng là môn đồ ḍng Jesus hơn, cũng đă chứng tỏ điều này. Ông bảo rằng:

Nhất nguyên Tuyệt đối là duyên do tối cao và tối hậu của vạn vật. V́ thế, duyên do này không thể là một ngôi, vậy mà cũng chẳng thể là ba ngôi; nó là Duyên do và chủ yếu là Duyên do [[4]].

Ư nghĩa của Nhất nguyên trong Đa nguyên nơi “Thượng Đế” hay Thiên nhiên vũ trụ này, chỉ có thể được giải ra nhờ vào những phương pháp siêu việt, những số mục cũng như là những sự tương ứng giữa linh hồn và Đại hồn. Những danh xưng trong kinh KabalahThánh kinh chẳng hạn như Jehovah, Adam Kadmon, Eve, Cain, Abel, Enoch, đều có liên hệ mật thiết - bằng những quan hệ h́nh học và thiên văn học - với sinh lư học (tức tục sùng bái sinh thực khí) hơn là với thần học hoặc tôn giáo. Cho dù đến nay vẫn chẳng có mấy ai sẵn ḷng thừa nhận điều này, nhưng nó sẽ được chứng tỏ là một sự kiện. Nếu tất cả những danh xưng này đều là biểu tượng của những điều ẩn tàng cũng như là của những thứ đă biểu lộ trong Thánh kinh cũng như kinh Phệ đà th́ các bí nhiệm riêng biệt của chúng lại khác hẳn nhau. Câu châm ngôn của Plato “Thượng Đế h́nh học hóa vạn vật” được cả người Āryan lẫn người Do Thái chấp nhận; nhưng trong khi người Āryan áp dụng Khoa học về sự Tương ứng của ḿnh để che giấu những chân lư thiêng liêng và cao cả nhất của Thiên nhiên; th́ người Do Thái lại chỉ dùng sự lanh trí của ḿnh để giấu giếm một trong những bí nhiệm của sự Tiến hóa - đối với họ đó là bí nhiệm thiêng liêng nhất - đó là bí nhiệm về sự sinh hóa, thế rồi họ bèn thần thánh hóa các cơ quan sinh dục.

Ngoài điều này ra mọi vũ trụ khởi nguyên luận (từ cái xưa nhất đến cái mới nhất) đều dựa vào, liên kết và liên hệ mật thiết với các số mục và các h́nh kỷ hà học. Khi bị một Điểm đạo đồ tra hỏi, các h́nh và con số này sẽ cung cấp cho ta những trị số dựa vào những giá trị toàn phần của Ṿng tṛn - theo lối nói của các nhà Luyện kim đan th́ đó là “trú sở bí mật của Đức Thánh linh hằng vô h́nh” - chúng cũng sẽ cung cấp cho ta mọi chi tiết Huyền bí khác liên quan tới những điều bí nhiệm khác, cho dù đó là các bí nhiệm về địa lư nhân văn, nhân loại học, vũ trụ hay tâm linh. Một Huyền bí gia - ông đă tỏ ra vô cùng sáng suốt khi muốn được giấu tên - viết rằng: “Khi liên kết các Ư niệm với các Số mục, ta có thể tác dụng vào các Ư niệm giống như tác dụng vào các Số mục và đạt tới khoa Toán học về Chân lư”.

Bất kỳ môn đồ Do Thái bí giáo nào quen thuộc với hệ thống số mục và h́nh học của Pythagoras có thể chứng tỏ rằng các quan điểm siêu h́nh của Plato đều dựa vào những nguyên lư toán học nghiêm xác nhất. Tác phẩm Pháp thuật bảo rằng “Toán học chân chính là một điều mà mọi khoa học cao cấp đều liên hệ tới; toán học thông thường chẳng qua chỉ là một bóng ma hư ảo, tính không thể sai lầm của nó mà người ta thường hết lời khen ngợi chỉ là do những điều mà các tư liệu, điều kiện và tài liệu tham khảo dùng làm cơ sở” . . .

Chỉ có học thuật vũ trụ luận số mục mà Pythagoras được các vị Đạo trưởng Ai Cập truyền thụ cho ở Ấn Độ, mới có thể dung ḥa được hai đơn vị tinh thần và vật chất; và khiến cho mỗi thứ biểu diễn thứ kia theo toán học. Chỉ có những con số linh thiêng của vũ trụ khi phối hợp một cách bí truyền với nhau mới có thể giải được bài toán vĩ đại này, giải thích thuyết bức xạ và chu kỳ phân thân. Trước khi phát triển thành những đẳng cấp cao siêu, các đẳng cấp thấp kém phải được phân thân từ các đẳng cấp tinh thần cao siêu, và khi đạt tới khúc quanh chúng bèn bị tái hấp thụ vào vô hạn. [[5]]

Sự hiểu biết về Vũ trụ và mọi điều bí nhiệm đều dựa vào khoa học và toán học chân chính này. Đối với kẻ nào quen thuộc với chúng th́ trên đời này thật chẳng có ǵ dễ dàng bằng việc chứng tỏ rằng các cấu trúc Phệ đà lẫn cấu trúc Thánh kinh đều dựa vào định luật căn bản là “Thượng Đế trong Vũ trụ” và “Vũ trụ trong Thượng Đế”. Do đó, định luật này cũng như mọi điều khác nữa thường trụ trong hằng vô lượng thời - chỉ có thể được biểu lộ chính xác trong các môn Toán học siêu việt thuần túy nhất mà Plato đă đề cập tới, nhất là trong môn H́nh học ứng dụng siêu việt. Khi được tiết lộ cho con người - chúng tôi không e ngại ǵ đâu và dứt khoát sẽ không rút lại lời nói - dưới dạng h́nh học và biểu tượng học, Chân lư đă vươn vai lớn nhanh và phát triển thành một khoa biểu tượng học bổ sung do con người phát minh ra để cho quần chúng nhân loại có thể hiểu rơ hơn. Những người này đă phát triển và tiến hóa tuần hoàn quá trễ nên không thể được chia xẻ những điều hiểu biết nguyên sơ, và nếu không được báo trước như vậy th́ họ ắt không tài nào lĩnh hội được chúng. Nếu sau này mà giáo sĩ đoàn - bao giờ cũng quỷ quyệt và tham quyền cố vị - nhân h́nh hóa và làm bại hoại các lư tưởng trừu tượng, cũng như là những Đấng thiêng liêng có thật vốn tồn tại trong Thiên nhiên và là những Đấng Chăm sóc, Bảo vệ cho chu kỳ khai nguyên của ta, th́ trăm tội đều phải đổ lên đầu bọn tự xưng là lănh đạo, chứ không phải là đám quần chúng.

Nhưng đă tới lúc mà những quan niệm thô thiển về các tổ phụ thời Trung cổ không c̣n thỏa măn được kẻ sùng đạo biết suy tư nữa. Nhà Luyện kim đan và thần bí gia thời Trung cổ nay đă biến thành nhà hóa học và vật lư học hoài nghi; hầu hết những vị này đều phải xa ĺa chân lư v́ những ư niệm thuần túy thần nhân đồng h́nh, thái độ duy vật thô bỉ của những h́nh thức tôn giáo mà thiên hạ tŕnh bày với họ. Do đó, nếu thế hệ tương lai đă dần dần được nhập môn những chân lư ẩn đằng sau các tôn giáo công truyền, kể cả tôn giáo của chính họ, hoặc là bị bỏ mặc cho tha hồ phá sập đôi chân bằng đất sét của h́nh tượng mạ vàng cuối cùng. Không một thiện nam tín nữ có học thức nào sẽ quay ngoắt mặt đi khi thấy điều nào nay bị gọi là “mê tín dị đoan” mà họ tin là dựa vào những câu chuyện khi dỗ con nít và sự dốt nát, miễn là họ chỉ cần hiểu được cơ sở xác thực ẩn đằng sau mọi “điều mê tín dị đoan” đó. Nhưng một khi mà họ biết chắc rằng trong Huyền bí học, hầu như không có một lời khẳng định nào mà không dựa vào sự kiện triết học và khoa học trong Thiên nhiên, th́ họ ắt sẽ theo đuổi việc nghiên cứu các khoa học này một cách hăm hở không kém (nếu không phải là hơn nhiều) so với khi họ ra sức né tránh chúng. Điều này không thể được hoàn thành trong một sớm một chiều, v́ để mang lại lợi ích cho nhân loại, những chân lư như thế phải được tiết lộ dần dần và hết sức thận trọng, v́ tâm trí của công chúng c̣n chưa sẵn sàng đón nhận chúng. Cho dù nhiều kẻ vô thần thời nay có thể có thái độ tâm trí cần thiết đối với khoa học hiện đại, song thiên hạ bao giờ cũng ưa bám víu lấy những thú tiêu khiển cũ chừng nào mà họ vẫn c̣n nhớ tới chúng. Họ chẳng khác nào Hoàng đế Julian vốn được gọi là kẻ Bỏ đạo v́ ngài yêu chân lư đến nỗi không chịu chấp nhận điều ǵ khác nữa - mặc dù trong cơn linh hiển cuối cùng, ngài đă thấy vị Thượng Đế thân thương của ḿnh là những h́nh bóng tái mét, hốc hác, tiều tụy, xác xơ, lông lá, mờ mờ ảo ảo, nhưng ngài vẫn bám lấy chúng. Thế th́ cứ để mặc xác cho thiên hạ bám lấy chư Thần linh của ḿnh, cho dù có thể thuộc về bất kỳ cơi nào. Huyền bí gia chân chính ắt sẽ mắc tội phản bội nhân loại ghê gớm nếu y phải đập tan măi măi những thần linh cũ kỹ trước khi y có thể thay thế chúng bằng chân lư rốt ráo và thuần túy - và đây là điều mà đến nay y vẫn chưa thể làm được. Tuy nhiên, độc giả vẫn có thể được phép học hỏi ít ra là phần vỡ ḷng của chân lư đó. Nếu y không thể học được chân lư rốt ráo về bản chất của chư thần linh th́ ít ra y cũng có thể được cho biết chư thần và nữ thần của người ngoại đạo - mà Giáo hội tố cáo là ma quỉ - không phải là ǵ. Nếu y biết chắc rằng “Tres Matres” của Hermes cũng chính là Tam Mẫu (Three Mothers” trong kinh Sepher Yetzireh, rằng đó không phải là những nữ thần quỉ cái mà là ánh sáng, nhiệt và điện, th́ bấy giờ tầng lớp trí thức ắt sẽ không c̣n khinh thường họ nữa. Sau đó th́ bậc giác ngộ trong phái Hoa hồng Thập tự có thể chiêu mộ được các tín đồ ngay cả trong các Hàn lâm viện Hoàng gia. Lúc bấy giờ, có lẽ các hàn lâm viện này sẵn sàng (hơn mức hiện nay) thừa nhận các đại chân lư của vật lư học cơ sở, nhất là khi các hàn lâm viện sĩ thông thái đă biết chắc là theo thuật ngữ của Hermes, “Tam Mẫu” tượng trưng cho toàn thể các thần lực hay tác nhân vốn được người ta gắn cho một địa vị trong hệ thống “tương quan các lực”. [[6][ Ngay cả thuyết đa thần của người Bà la môn “mê tín dị đoan” và kẻ sùng bái ngẫu tượng cũng vẫn có lư do tồn tại, v́ ba Huyền nữ (Shaktis) của ba vị đại Thần linh (Brāhmā, Vishnu và Shiva) đều đồng nhất với “Tam Mẫu” của tín đồ Do Thái độc thần.

Toàn bộ nền văn học thần bí và tôn giáo thời xưa đều có tính cách biểu tượng. Thánh thư Hermes, kinh Zohar, kinh Ya-Yakav, Tử vong kinh của Ai Cập hay là kinh Phệ đà, Áo nghĩa thư Thánh kinh Thiên Chúa giáo đều đầy dẫy biểu tượng kư chẳng khác nào những điều thiên khải tại vương quốc Nabatheang của thần bí gia Qū-tāmy người Chaldea. Chẳng có ai rỗi hơi mà thắc mắc hỏi xem bộ kinh nào là xưa nhất, hết thảy chỉ là những bản thuyết giải khác nhau của tài liệu nguyên sơ duy nhất bao hàm tri thức được tiết lộ từ thời tiền sử.

Bốn chương đầu của Sáng thế kư bao hàm phần tổng quát của tất cả những phần c̣n lại trong Ngũ kinh Cựu Ước, đó chỉ là những bản thuyết giải khác nhau của cùng một sự việc với những áp dụng ẩn dụ và biểu tượng khác nhau. Sau khi đă khám phá ra rằng Kim tự tháp Cheops (với đủ mọi kích thước) phải được bao hàm từng li từng tí một trong cấu trúc của đền thờ Solomon, sau khi đă thấy rằng các danh xưng của Shem, Ham và Japhet trong Thánh Kinh xác định

Các kích thước của Kim tự tháp liên quan tới thời kỳ 600 năm của Noah và thời kỳ 500 năm của Shem, Ham và Japhet . . . từ ngữ “Các Con trai của Elohim và các Con gái của H-Adam - hơn nữa c̣n là các thuật ngữ thiên văn học [[7]]

người soạn ra tác phẩm rất kỳ diệu đă nêu trên - chúng tôi lấy làm tiếc mà phải nói rằng đây là một quyển sách mà người Âu Tây rất ít biết tới - dường như chẳng thấy trong khám phá của ḿnh có ǵ khác hơn là sự hiện diện của toán học và khoa đo lường trong Kinh thánh. Ông cũng đă đi tới những kết luận bất ngờ và khác thường đến nỗi mà những sự kiện đă khám phá ra chẳng bảo đảm được (những kết luận này) bao nhiêu. Ông dường như có cảm tưởng rằng v́ các danh xưng trong Thánh kinh Do Thái giáo đều toàn là các thuật ngữ thiên văn học, nên Thánh thư của mọi quốc gia khác đều “chỉ có thể như thế này, chứ không có ǵ khác nữa”. Nhưng đây chính là một sự “bé cái lầm” của vị tác giả thông thái và cực kỳ sắc sảo của Nguồn gốc các Kích thước nếu ông thực sự nghĩ như vậy. Tác phẩm Ch́a khóa giải Bí nhiệm Hebrew-Ai Cập chỉ giải được một phần nào những tài liệu viết bằng chữ tượng h́nh của hai quốc gia này, c̣n những tài liệu của các dân tộc khác vẫn cứ bị xếp vào một xó và chưa có ai buồn rớ tới. Ông cho rằng kinh Kabalah “chỉ là cái khoa học cao cả tạo thành nền tảng của giáo lư Tam Điểm”; thật vậy, ông coi giáo lư Tam Điểm là thực chất của kinh Kabalah, và kinh Kabalah là “cơ sở lư luận của Thánh kinh Hebrew”. Chúng tôi sẽ chẳng buồn căi lư với tác giả về vấn đề này. Nhưng nếu thế th́ v́ cớ làm sao mà công chúng lại khinh bỉ tất cả những kẻ nào đă thấy kinh Kabalah có một điều ǵ vượt xa cái khoa học cao cả mà người ta giả sử là tạo thành nền tảng của giáo lư Tam Điểm?

Với tính cách chấp nhất và phiến diện như vậy, kết luận đó quả đă mở đường cho những quan niệm sai lầm trong tương lai và hoàn toàn sai lầm. Với thái độ chỉ trích tàn nhẫn, nó đă làm hoen ố chính Khoa Huyền bí học.

Kinh Kabalah quả thật có “bản chất là giáo lư Tam Điểm” nhưng nó chỉ tùy thuộc vào khoa đo lường về một phương diện không mấy Bí truyền, v́ ngay cả Plato cũng chẳng hề giấu giếm rằng Thượng Đế bao giờ cũng h́nh học hóa vạn vật. Đối với kẻ chưa được điểm đạo - cho dù y có thiên tài và thông thái đến đâu đi chăng nữa - kinh Kabalah vốn chỉ bàn về lớp vỏ của Thượng Đế, hoặc chỉ là bức màn che khuất chân lư,

được xây dựng từ dưới lên trên với một sự áp dụng thực tế vào những công dụng hiện tại. [[8]]

Hoặc nói một cách khác, kinh này chỉ tiêu biểu cho một khoa học chính xác trên cơi trần. Đối với bậc đă được điểm đạo, Chúa trong kinh Kabalah bắt nguồn từ Giống dân bản sơ và (xét về mặt tinh thần) được sản sinh ra từ “Bảy đấng Trí sinh”. Sau khi đă giáng trần khoa Toán học Thiêng liêng theo Josephus th́ vào thời ông, đây là một từ đồng nghĩa với Pháp thuật - bèn che giấu chân tướng của ḿnh. V́ thế nên thời nay, điều bí mật quan trọng nhất mà nó tiết lộ chính là sự đồng nhất của các số đo thời cổ La Mă với số đo thời nay của Anh, tức là sự đồng nhất của “trượng” Hebrew-Ai Cập với phân Anh của hội Tam Điểm. [[9]]

Khám phá này thật là vô cùng kỳ diệu, và đă dẫn tới những sự tiết lộ thứ yếu thêm nữa về nhiều loại câu đố liên quan tới biểu tượng học và các danh xưng trong Thánh kinh. Nachanides đă chứng tỏ rằng vào thời Moses, người ta đă thừa biết rằng câu đầu tiên trong Sáng thế kư được tŕnh bày là “B’rash ithbara Elohim tức là “chư Thần linh [Elohim], trời và đất đă phát triển (hoặc tiến hóa) trong Cội nguồn Nguyên thủy tức Hỗn nguyên khí (Mūlaprakriti), Căn nguyên Vô thủy”; thế mà nay do Masora và sự quỉ quyệt của thần học, nó lại biến thành B’rashith bara Elohim tức là “Thoạt kỳ thủy, Thượng Đế đă tạo ra trời và đất” - chỉ nội tṛ ảo thuật chữ nghĩa này cũng đủ dẫn tới thuyết thần nhân đồng hành duy vật và nhị nguyên luận. Chẳng lẽ ta không thể t́m ra biết bao nhiêu thí dụ tương tự như vậy nữa trong Thánh kinh, tác phẩm Huyền bí cuối cùng và cận đại nhất thời xưa hay sao? Huyền bí gia không c̣n hồ nghi ǵ nữa rằng bất chấp h́nh thức và ư nghĩa bề ngoài, Thánh kinh - theo lối thuyết giải của kinh Zohar tức Midrash, kinh Yetzireth (Sáng tạo Thánh thư) và Giảng lư về Mười vị Sephiroth (của Azariel Ben Manachem, sống vào thế kỷ thứ 12) - chính là một phần Giáo lư Bí truyền của người Āryan, họ cũng giải thích kinh Phệ đà và tất cả những tác phẩm ẩn dụ khác cũng na ná như vậy. Khi dạy rằng Nguyên nhân Vô ngă Duy nhất biểu lộ trong Vũ trụ thông qua các Phân thân, chư Sephiroth, và dạy rằng toàn thể Vũ trụ chỉ là bức màn được dệt bằng chính chất liệu của Đấng Thánh linh, kinh Zohar nhất định là bản sao và phản ánh trung thực của bộ kinh Phệ Đà xưa nhất. Nếu chỉ được xét riêng mà không có sự giúp thêm của các kinh điển Phệ Đà và Bà la môn giáo, th́ Thánh kinh sẽ chẳng bao giờ chịu tiết lộ các bí nhiệm vũ trụ của Thiên nhiên Huyền bí. Những đơn vị đo lường như trượng, phân Anh v.v. . .  trên cơi hồng trần sẽ chẳng bao giờ giải quyết được những vấn đề của thế giới trên cơi Tinh thần, v́ Tinh thần chẳng bao giờ có thể được cân, đong, đo, đếm. Việc giải quyết các vấn đề này được dành cho “các thần bí gia và kẻ mơ mộng”, chỉ có những vị này mới hoàn thành được các công việc ấy.

Moses là một lễ sư đă được điểm đạo, tinh thông mọi bí pháp và tri thức Huyền bí của các thánh điện Ai Cập - v́ thế nên ông chẳng lạ ǵ Minh triết nguyên sơ. Ta phải t́m kiếm ư nghĩa biểu tượng và thiên văn của “Bí nhiệm vô hạn” Đại Kim tự tháp nơi Minh triết nguyên sơ ấy. Và v́ y đă quá quen thuộc với các bí nhiệm h́nh học vốn ẩn tàng trong ḷng nó có nơi hàng vô lượng thời dài dằng dặc - kích thước và tỷ lệ của Vũ trụ, kể cả trái đất bé nhỏ của ta - nên có ǵ đáng lấy làm lạ đâu khi y sử dụng kiến thức của ḿnh? Nội môn Bí giáo Ai Cập có lúc đă là Nội môn Bí giáo của toàn thế giới. Trong những thời kỳ dài đăng đẳng thuộc Giống dân thứ Ba, nó đă là di sản chung mà toàn thể nhân loại kế thừa của các bậc Huấn sư, các “Con của Ánh sáng”, Bảy Đấng nguyên sơ. Cũng có lúc mà Giáo lư Huyền môn (Tôn giáo Minh triết) không phải là có tính cách biểu tượng, v́ nó chỉ dần dần trở nên bí truyền; sự thay đổi này thật là cần thiết v́ có nạn lạm dụng và thuật Phù thủy của người Atlante. Đó là v́ chỉ có “sự lạm dụng” (chứ không phải sự sử dụng) năng khiếu thiêng liêng mới đưa những giống người thuộc Giống dân thứ Tư tới Ma thuật và thuật Phù thủy, và cuối cùng đâm ra “quên mất Minh triết”; c̣n những người thuộc Giống dân thứ Năm, những kẻ kế thừa chư Hiền triết thuộc Chu kỳ Tretā lại dùng các quyền năng của ḿnh để làm thui chột những năng khiếu đó của nhân loại nói chung và rồi tản mát đi với vai tṛ là “Căn chủng được Tuyển chọn”. Những người thoát khỏi trận Đại Hồng thủy cũng chỉ duy tŕ được một hồi niệm và một niềm tin dựa vào sự hiểu biết của các bậc tổ phụ ngay trước họ một đời, họ tin rằng có tồn tại một khoa học như thế mà nay “Căn chủng được Tuyển chọn” độc quyền nắm giữ (Enoch đă từng tán dương “Căn chủng” này). Nhưng hẳn lại có lúc mà con người một lần nữa sẽ trở lại nguyện vọng của ḿnh trong Chu kỳ thứ hai, khi chu kỳ thử thách tập sự của y đă qua rồi và y sẽ dần dần trở lại nguyên trạng của ḿnh (bán vật chất và tinh anh). Trong Phœdrus, Điểm đạo đồ Plato đă chẳng bảo ta tất cả những ǵ mà con người đă từng là và tất cả những ǵ mà ông có thể lại trở thành đấy ư.

Trước khi tinh thần con người ch́m vào thú dục và thể hiện bằng sự mất mát đôi cánh, th́ y đă sống trong đám chư Thần linh trên một cơi tinh thần thanh cao, nơi mà vạn vật đều chân thật và thanh khiết. [[10]]

Ở đâu đó, ông c̣n nói tới lúc mà con người không sinh con đẻ cái và sống như là các chơn linh thuần túy.

Xin các khoa học gia nào lăm le muốn chế nhạo điều này hăy đích thân giải đoán bí nhiệm về nguồn gốc của con người bản sơ.

V́ không muốn rằng đám dân (do ông tuyển lựa) cũng sùng bái ngẫu tượng một cách thô thiển như đám quần chúng phàm phu tục tử xung quanh họ, nên Moses dùng kiến thức về các bí nhiệm vũ trụ học của Kim tự tháp để dựa vào đó mà dựng nên hệ thống biểu tượng và h́nh tượng của vũ trụ Khởi nguyên luận trong Sáng thế kư. Đám dân ngu dễ lĩnh hội được điều này hơn là các chân lư bí hiểm được dạy cho đám trí thức trong các thánh điện. Trừ h́nh thức bên ngoài, ông chẳng chế ra bất cứ điều ǵ, cũng chẳng thêm thắt chút nào, mà chỉ noi gương các quốc gia thời xưa và các Điểm đạo đồ. Nếu ông che giấu chân lư mà các vị Đạo trưởng đă tiết lộ cho ông bên dưới h́nh tượng tài t́nh nhất, th́ ông chỉ làm thế để đáp ứng yêu cầu của đám dân Do Thái mà thôi. Cái giống dân cứng đầu cứng cổ ấy ắt sẽ chẳng chịu chấp nhận vị Thần linh nào trừ phi Ngài cũng có tính cách nhân h́nh như chư thần linh trên Thiên giới. Và chính ông cũng không thể tiên đoán được lúc mà các vị đại trí thức lănh đạo quốc gia bảo vệ được những lớp vỏ của trái cây Minh triết muốn phát triển nơi ông trên núi Sinai khi ông giao tiếp với Chơn ngă thiêng liêng của ḿnh. Moses đă hiểu rơ nguy cơ lớn lao khi giao phó các chân lư như thế cho kẻ ích kỷ, v́ ông thừa biết chuyện ngụ ngôn về Prometheus và vẫn nhớ kỹ thuở xa xưa. V́ thế nên ông mới che giấu chúng thoát khỏi cặp mắt soi mói của đám công chúng phàm phu tục tử và chỉ tŕnh bày chúng một cách ẩn dụ. Chính v́ thế mà nhà viết tiểu sử ông đă bảo rằng khi ông xuống từ núi Sinai,

 Moses không biết rằng da mặt ḿnh rực sáng . . . và ông che mặt bằng một chiếc khăn. [[11]]

 Thế là ông đă “phủ một bức màn” lên trên bộ Ngũ kinh Cựu Ước của ḿnh, đến nỗi mà - dùng niên đại kư chính thống - chỉ sau khi biến cố này đă diễn ra được 3.376 năm, th́ thiên hạ mới bắt đầu tin chắc rằng đó quả thật là “một bức màn che”. Chẳng phải Thánh dung của Thượng Đế hoặc của một Đấng Jehovah chói lọi qua bức màn che; thậm chí cũng chẳng phải khuôn mặt của Moses mà đúng thật là bộ mặt của những giáo sĩ Do Thái sau này.

Thảo nào mà Clemens đă viết trong Stromata rằng:

Những câu đố của người Ai Cập cũng chẳng khác nào câu đố của người Hebrew xét về mặt sự bí mật bao phủ chúng. [[12]] 


[[1]] Dựa vào sự tương ứng giữa những số mục và biểu tượng của một vài điều và nhân vật, một vài nhà biểu tượng học gán những “điều bí mật” này cho bí nhiệm về sự sinh hóa. Nhưng nó c̣n hơn thế nữa. H́nh tượng “Cây Tri thức Thiện và Ác” nhất định là bao hàm một yếu tố t́nh dục và sùng bái sinh thực khí, chẳng khác nào h́nh tượng “người Đàn bà và con Rắn”; nhưng nó cũng có một ư nghĩa tâm linh và tinh thần. Người ta dự tính để cho các biểu tượng có hơn một ư nghĩa. 

 

[[2]] Thánh thư Minh triết, xi, 21. Bản dịch Douay.

[[3]] Thánh thư Ecclesiasticus, i, 9. Bản dịch Douay.

[[4]] Giáo điều và Nghi lễ của Pháp thuật Cao cấp, i, 360-361.

[[5]] Nữ thần Isis lộ diện, quyển I, trang 6 -7.

 

[[6]] “Synesius có nhắc tới những quyển sách bằng đá mà ông t́m thấy ở đền thờ Memphis. trên một trong những quyển sách đó có các câu sau đây: ‘Một thế giới hoan hỉ trong thế giới kia, một thế giới chinh phục được thế giới nọ, một thế giới thắng lướt được một thế giới khác, thế mà hết thảy cũng chỉ là một’.”

[[7]] Nguồn gốc các Kích thước, trang x.

[[8]] Tạp chí Tam Điểm, số tháng 7 năm 1.886.

[[9]] Xem Nguồn gốc các Kích thước, trang 47- 50 và khắp nơi khác. 

[[10]] Xem bản dịch của Cary, trang 322-323. 

[[11]] Thánh thư về Miền đất hứa, ra xxxiv, 29, 33.

[[12]] Sách đă dẫn, quyển II, chương vii, trang 245. [Tiết này chủ yếu là giống như - thường là giống từng chữ một - một nửa của Tiết II trong bản thảo năm 1886]. 

 


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS