Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

tiết 6

người KHỔNG LỒ prometheus 

nguồn gốc ở Ấn Độ cổ sơ

(GLBT 4)


TIẾT 6 – NGƯỜI KHỔNG LỒ PROMETHEUS: NGUỒN GỐC Ở ẤN ĐỘ CỔ SƠ.

Cây Tần b́ trong Thần thoại Bắc Âu và Thần thoại Hi Lạp – Bảy Lửa Thiên giới – Sản phẩm Đầu tiên của Lửa – Dung lượng của Sọ, Thời xưa và Thời nay – Lửa đă tồn tại trên Trái đất từ khi có Trái đất – Người khổng lồ tiêu biểu cho Loài người Chủ động, Cần cù, có Trí tuệ - Aranī Nữ tính tức là Tiên thiên Huyền nữ Aditi, nghĩa là Chất liệu Nguyên thủy – Cái Khuôn tức Mẹ của chư Thiên – Ư nghĩa của Sáu Huynh đệ Krishna – Con Rắn trong vườn Địa đàng không giống như Ma quỉ trong Ki Tô giáo.

tiết 6

người KHỔNG LỒ prometheus 

nguồn gốc ở Ấn Độ cổ sơ

 

Trong thời hiện tại của chúng ta, không có chút ngờ vực nào trong tinh thần của các nhà biểu tượng ký lớn nhất ở Âu châu về vấn đề ý nghĩa rất lớn lao và bí nhiệm thuở xưa của danh xưng Prometheus. Trong khi trình bày lịch sử của Deucalion, mà những người cổ Hy Lạp (Bœotians) xem như tổ tiên của các căn chủng nhân loại, và y là con trai của Prometheus theo câu chuyện cổ tích có ý nghĩa, tác giả quyển Huyền Thoại về Cổ Hy Lạp nhận xét:

 

Vậy Prometheus là cái gì còn hơn cả khuôn mẫu nhân loại. Y là người sinh ra họ. Theo đường lối đó, chúng ta thấy Hephæstus nặn bằng khuôn người đàn bà đầu tiên và phú cho y sự sống, cũng thế, Prometheus nhồi đất sét ướt, y làm ra xác thân của người đàn ông đầu tiên mà y sẽ ban cho tia sáng thần hồn.[[1]] Sau trận Đại hồng thủy của Deucalion, người ta nói rằng Thần Zeus đã ra lệnh cho Prometheus và Athena sinh ra một căn chủng nhân loại mới bằng bùn lầy trong nước của trận Đại hồng thủy [[2]] và trong thời đại của Pausanias, bùn dẻo mà vị anh hùng đã sử dụng trong mục tiêu đó, còn được trình bày ở Phocis [[3]] (nước Hy Lạp cổ. LND). Trên nhiều đền đài cổ, chúng ta còn thấy Prometheus nắn thân xác con người một mình y, hoặc với sự tiếp tay của Athena. [[4]]

 

Tác giả đó nhắc chúng ta một nhân vật khác cũng huyền bí, song ít được biết nhiều bằng Prometheus, mà chuyện cổ tích nhận xét tương tự với Người khổng lồ. Danh xưng của vị tổ tiên và sinh thành thứ nhì này là Phoroneus, anh hùng của một bài cổ thi nay chẳng may không còn nữa là Phoroneidæ. Truyền thuyết của y được định vị ở Argolis, nơi mà một ngọn lửa vĩnh cửu được giữ gìn trên bàn thờ của y để nhắc nhở rằng y là người đã mang lửa đến địa cầu. [[5]] Vì thi ân cho nhân loại, như Prometheus, y đã tham dự vào tất cả những sự toàn phúc trên địa cầu. Plato [[6]] và Clemens của thành Alexandrinus [[7]] nói rằng Phoroneus là người đàn ông đầu tiên hay "cha của nhân loại". Gia hệ của y, mà con sông Inachos được phân cho y cùng với cha y, nhắc cho chúng ta nhớ rằng Prometheus đã tạo nên Người khổng lồ này con trai của Oceanid Clymene. Nhưng mẹ của Phoroneus là nữ thần Melia, một dòng dõi có ý nghĩa phân biệt với Prometheus. [[8]]

Theo Decharme, Melia là hiện thân của cây Tần bì, do đó, theo Hesiod, là nguồn gốc của căn chủng thuộc Thời đại đồ Đồng [[9]] và đối với người Hy Lạp, nó là cây trên thiên giới, cũng như đối với tất cả những thần thoại Āryan. Cây Tần bì theo tiếng Na Uy cổ sơ là Yggdrasil, mà các nữ thần Norns hằng ngày tưới bằng nước của vòi nước Urd, để cho nó không khô héo. Nó còn xanh tươi cho đến những ngày cuối cùng của Hoàng kim Thời đại. Rồi các nữ thần Norns – ba chị em lần lượt dò xét Quá khứ, Hiện tại và Tương lai – thông tri sắc lệnh của Orlog hay Số mệnh (Karma), nhưng con người chỉ biết đến Hiện tại.

 

[Nhưng khi] Gullweig (mỏ vàng) đến, chính y người đàn bà quyến rũ . . . bị ném vào lửa ba lần, mỗi lần thoát ra đều xinh đẹp hơn trước và làm cho tràn đầy tâm hồn của những vị thần và người với những dục vọng khôn nguôi, rồi các nữ thần Norns . . . ra đời và ban sự bằng an cho những giấc mơ của thời thơ ấu đã chết, và tội lỗi sinh ra với tất cả những hậu quả tệ hại của nó [và Karma]. [[10]]

 

Vàng được tinh luyện ba lần là – Manas, Linh hồn Hữu thức.

Đối với người Hy Lạp, cây Tần bì tượng trưng cho ý tưởng đó. Cành lá rậm rạp của nó là Bầu trời, nhuộm vàng ban ngày và lốm đốm những vì sao vào ban đêm – các quả của Melia và Yggdrasil, dưới bóng mát che chở của nó, nhân loại đã sống trong Thời đại Hoàng kim mà không có dục vọng cũng như không lo âu. Decharme phỏng đoán "Cây có một quả hay một cành rực lửa, nó là tia chớp".

Và ở đây, bước vào Chủ nghĩa duy vật đang chết của thời đại, lối diễn tả đặc biệt này của trí tuệ hiện đại, giống như gió Bắc bẻ cong mọi vật trên đường đi của nó và làm đông đặc mọi trực giác, không cho phép nó can dự vào những suy xét vật lý trong ngày. Sau khi thấy trong Prometheus chẳng có gì hơn là "lửa do sự ma xát", tác giả uyên bác của quyển Huyền thoại về Cổ Hy Lạp thấy trong "quả" ấy một chút ngờ vực hơn là sự ám chỉ về lửa thế gian và sự khám phá của nó. Nó không còn là thứ lửa giáng xuống từ sét làm bùng cháy nhiên liệu khô, và như thế, phát hiện tất cả những ích dụng vô giá của nó đối với người thuộc thời đồ đá thuở xưa – nhưng trong thời kỳ đó có cái gì huyền nhiệm hơn, mặc dù vẫn còn tính cách thế tục!

 

Một con chim thiêng đã xây tổ trên cành [của cây Tần bì trên thiên giới], đánh cắp cành này [hay trái cây] và ngậm trong mỏ mang đến địa cầu. Bây giờ chữ Hy Lạp . . .[[11]] nghĩa là cứng rắn tương đương với chữ Bắc phạn bhuranyu ("sự nhanh chóng") một hình dung từ của Agni được xem như kẻ mang tia sáng thiêng liêng. Phoroneus, con trai của Melia hay của cây tần bì trên thiên giới, do đó, tương ứng với quan niệm có thể xa xưa hơn quan niệm về pramantha [của người Ấn Āryan cổ] đã trở thành Prometheus của Hi Lạp. Phoroneus là con chim [được nhân cách hóa] mang tiếng sét trên thiên giới đến địa cầu. Những truyền thuyết liên hệ đến con chim của căn chủng Thời đại đồ Đồng và nó tạo ra với Phoroneus cha của các Argolians, hiển nhiên, đối với chúng ta, tiếng sấm ấy (hay tia chớp) như trong truyện cổ tích Hephæstus hay Prometheus, là nguồn gốc của nhân loại. [[12]]

 

Việc này vẫn không cung cấp cho chúng ta điều gì hơn là ý nghĩa bên ngoài của những biểu tượng và ẩn dụ. Bây giờ, giả sử rằng tên của Prometheus đã được biết rõ, nhưng các nhà thần thoại học và các nhà Đông phương học hiện đại không thấy về y những gì đã ở tổ tiên y nữa theo thẩm quyền của toàn thể tình trạng cổ điển xưa. Họ chỉ tìm thấy ở đó cái gì xa vời hơn được thích hợp với tinh thần của thời đại mệnh danh là yếu tố sinh thực khí. Nhưng danh hiệu của Phoroneus, cũng như của Prometheus, không mang một ý nghĩa hoặc cả hai, mà mang một loạt ý nghĩa Bí nhiệm. Cả hai liên hệ với bảy Lửa trên Thiên giới; với Agni Abhimānin, ba con trai của Ngài và bốn mươi lăm con trai của họ, tạo thành Bốn mươi chín Lửa. Phải chăng tất cả số này chỉ liên hệ với lửa trần và lửa tham dục? Phải chăng trí tuệ Ấn Āryan chẳng bao giờ vượt lên khỏi những quan niệm thuần túy cảm giác này; trí tuệ mà Giáo sư Max Müller tuyên bố là có tính chất tinh thần và thiên về huyền bí hơn cả trên địa cầu? Riêng con số của những ngọn lửa này phải gợi lên một sự ngờ vực về chân lý.

Người ta nói với chúng tôi rằng trong thời đại tư tưởng duy lý này, không được phép giải thích danh xưng của Prometheus như những người cổ Hy Lạp đã làm. Hình như những người sau này:

 

Căn cứ trên sự tương đồng bề ngoài của . . . [[13]] với động từ . . . [2] [tiên kiến] đã thấy ở y mẫu của con người "tiên kiến" vì sự cân xứng đó, một huynh trưởng đã nói thêm – Epi-metheus, hay "kẻ bàn bạc sau biến cố." [[14]]

 

Nhưng hiện nay, các nhà Đông phương học đã có quyết định khác về điều này. Họ biết ý nghĩa thực sự của hai danh từ hơn những người đã khám phá ra nó.

Truyền thuyết dựa trên một biến cố của một sự hệ trọng rộng lớn. Nó được tạo ra để tưởng niệm:

 

Một biến cố lớn phải gây cảm kích mạnh mẽ trên sự tưởng tượng của những nhân chứng đầu tiên, và từ đó kỷ niệm của nó không bao giờ phai nhạt trong ký ức quần chúng. [[15]]

 

Biến cố đó là gì? Khi gác qua một bên tất cả những sự tưởng tượng thi vị, tất cả những giấc mơ của Hoàng kim Thời đại, chúng ta hãy hình dung – các học giả hiện đại nói – trong thuyết duy thực thô bạo, trạng thái khốn khổ sơ khai của nhân loại mà sau Æschylus, Lucretius đã tạo một bức tranh nổi bật đối với chúng ta, và hiện nay khoa học đã công nhận sự thật đúng đắn: và rồi chúng ta có thể hiểu rõ hơn một đời sống mới thực sự bắt đầu đối với con người từ ngày thấy tia sáng đầu tiên do sự cọ xát hai mảnh gỗ, hay từ vân của một phiến đá lửa phát sinh. Con người làm sao có thể biểu lộ sự biết ơn đối với sự huyền bí và kỳ diệu mà từ đây y có thể tạo ra theo ý muốn và nó chẳng sinh ra sớm hơn và nó đã lớn lên, bành trướng và phát triển với một mãnh lực kỳ lạ.

 

Lửa thế gian này không có bản chất tương tự với lửa từ trên trời truyền ánh sáng và hơi ấm của nó xuống cho con người, hoặc lửa làm cho họ kinh hãi trong tiếng sét? Phải chăng nó không phát xuất từ một nguồn gốc giống nhau? Và nếu nguồn gốc của nó ở trên trời, phải chăng một ngày nào đó nó chẳng được mang xuống địa cầu? Nếu thế, ai là bản thể quyền lực, bản thể ban ân, Thượng Đế hay con người ai chinh phục được nó? Đó là vấn đề mà tính hiếu kỳ của người Āryan đã đặt ra trong giai đoạn đầu tiên của cuộc sinh tồn của họ, và lời giải đáp của họ được tìm thấy trong huyền thoại về Prometheus. [[16]]

 

Triết lý về khoa Huyền bí học đã khám phá hai nhược điểm trong tư tưởng trên và sẽ nêu ra. Tình trạng khốn khổ của Nhân loại do Æschylus và Lucretius mô tả không còn tồi tệ nữa, trong thời kỳ sơ khai của người Āryan như hiện nay. "Tình trạng" này bị giới hạn trong những bộ lạc dã man và cuộc sống của những người dã man hiện nay chẳng hạnh phúc hay bất hạnh chút nào hơn tổ tiên họ từ hàng triệu năm.

Một sự kiện được khoa học chấp nhận là "những dụng cụ thô sơ giống một cách chính xác với những dụng cụ được sử dụng trong cuộc sống dã man hiện nay", được tìm thấy trong các kết thạch của sông ngòi và những hang động "bao hàm một thời cổ sơ quan trọng" trên phương diện địa chất. Tác giả quyển Tín đồ Hỏa giáo Hiện đại nói rằng sự tương tự này lớn biết bao:

 

nếu việc sưu tập những chiếc búa và những đầu mũi tên bằng đá mà người Thổ dân Nam Phi sử dụng, được thấy trong cuộc Triển lãm Thuộc địa đặt bên cạnh một trong những bộ sưu tập của Bảo tàng viện Anh quốc về những vật lấy trong các Hang động của Kent và Dordogne, thì chỉ có một người thông thạo mới phân biệt được chúng. [[17]]

 

Nếu ở thời đại văn minh cao tột của chúng ta ngày nay có những người Nam Phi không thuộc hạng trí thức cao hơn chủng tộc của những người ở Devonshire và miền Nam nước Pháp trong thời đại cổ thạch khí, tại sao những người sau cùng ấy lại không thể sống đồng thời với và là người đồng thời của những chủng tộc khác cũng có nền văn minh cao trong thời đại của họ cũng như chúng ta đối với thời đại của mình? Sự kiện tổng số các kiến thức của nhân loại gia tăng hằng ngày, "nhưng năng lực trí tuệ không gia tăng với nó", được chứng tỏ khi so sánh với trí năng, nếu không phải là kiến thức vật lý của Euclid, Pythagoras, Pāninis, Kapila, Plato và Socrate với trí năng của Newton, Kant, cùng với Huxley và Hæckel hiện đại. Khi so sánh các kết quả của Bác sĩ J. Barnard Davis, nhà nghiên cứu sọ người đã đạt được với sự liên quan đến khả năng bên trong của cái sọ – thể tích của nó được lấy làm chuẩn để xét đoán khả năng tinh thần – Tiến sĩ Plaff tìm thấy năng lực này ở người Pháp (chắc chắn họ thuộc hạng cao nhất trong nhân loại) là 88,4 cubic inches, như thế là "kém hơn người Polynesians một cách rõ rệt, ngay cả trong khi họ ở trong nhiều thổ dân Papuans và Alfuras thuộc hạng thấp kém hơn cả, đã đạt đến 89 và 89,7 cubic inches", điều này chứng tỏ rằng phẩm tính chứ không phải lượng tính của bộ óc là nguyên nhân của năng lực tinh thần. Chỉ số trung bình của sọ trong các chủng tộc khác nhau bấy giờ được nhận thức như là "một trong những chỉ số đặc trưng nhất của sự dị biệt của các chủng tộc khác nhau", sự so sánh dưới đây rất rõ rệt:

 

Chỉ số chiều rộng của những người Scandinavians [là] 75; ở người Anh là 76; ở người Holsteiners là 77; ở người Bresgau là 80. Sọ của Schiller có chiều rộng là 82 . . . và sọ của những người Madurese cũng 82!

 

Sau cùng sự so sánh giống như thế giữa các xương sọ cổ xưa được tìm thấy, với xương sọ của người Âu châu đã đem ra ánh sáng những sự kiện lạ thường như sau:

 

Phần lớn những xương sọ cổ này thuộc thời đại thạch khí có một thể tích to lớn chứ không nhỏ hơn thể tích trung bình của sọ người hiện nay.

 

Khi tính kích thước bằng inch, bề cao, bề rộng, bề dài đo trên kích thước trung bình của nhiều xương sọ, chúng ta đạt được các kết quả sau đây:

     1. Xương sọ miền Bắc trong thời thạch khí... ... ………………..      18,877 inches

     2. Điểm trung bình của 48 sọ trong thời đại ấy ở Anh....................... 18,858 inches

     3. Điểm trung bình của 7 sọ trong thời đại ấy ở xứ Wales................. 18,649 inches

     4. Điểm trung bình của 36 sọ trong thời thạch khí ở Pháp............ ... 18, 220 inches

Điểm trung bình của những người Âu châu đang sống hiện giờ là 18,579 inches; của người Hottentots là 17,759 inches!

Những con số này chứng tỏ một cách hiển nhiên rằng:

 

Kích thước bộ óc của dân chúng xưa nhất được biết không ở mức độ thấp hơn kích thước những bộ óc của người dân trên địa cầu hiện nay. [[18]]

 

Ngoài ra, chúng chứng tỏ rằng "cái khoen khiếm khuyết" tan trong không khí. Tuy nhiên, không bao lâu nữa điều này sẽ được đề cập lại: chúng ta phải trở lại vấn đề trực tiếp của mình.

[Như chúng ta được biết Prometheus liên hệ với Æschylus], giống dân mà Jupiter hết sức muốn "tiêu diệt và gieo một giống mới thế cho họ" (v. 241), bị đau khổ về tinh thần chứ không phải vật chất. Lợi ích đầu tiên mà Prometheus hiến cho con người, như được nhắc đến trong bài Hợp ca, là tránh cho họ khỏi "thấy trước sự chết" (v. 256); y cứu "căn chủng hữu tử, khỏi bị tiêu hủy trong bóng tối Hades" (v. 244); và ngoài điều này ra, y còn chỉ cho giống dân ấy lửa (v. 260). Điều này chứng tỏ rõ ràng rằng huyền thoại Prometheus có tính cách lưỡng phân trong bất cứ trường hợp nào, nếu các nhà Đông phương học không muốn chấp nhận sự hiện hữu của bảy chiếc chìa khóa được giảng dạy trong Huyền bí học. Điều đó liên hệ đến sự mở mang tri giác tâm linh của con người, chứ không phải sự thấy hay khám phá ra lửa lần đầu tiên. Thật ra lửa chẳng bao giờ được "khám phá", mà đã có trên Địa cầu từ khởi thủy. Nó sinh ra trong tác động địa chấn của thời tiền sử, vì các phún xuất của núi lửa cũng thường xuyên và không có gì thay đổi trong những thời kỳ đó như sương mù của nước Anh hiện nay. Và nếu người ta nói với chúng ta rằng con người xuất hiện trên Địa cầu rất trễ, hầu như tất cả những núi lửa đã tắt ngấm và những xáo trộn về địa chất đã thay thế cho những tình trạng cân bằng hơn mọi vật, chúng ta sẽ trả lời như sau: Hãy để cho một giống dân mới – dù phát xuất từ thiên thần hay con dã nhân – hiện giờ xuất hiện một nơi nào đó trên Địa cầu, trừ phi có thể là sa mạc Sahara và sẽ có cả ngàn sự may mắn đối với sự không may để cho một hoặc hai năm trôi qua trước khi "khám phá được lửa", nhờ sét đốt cháy cỏ hay vật khác. Sự tin tưởng đó cho rằng con người cổ sơ sống lâu trên Địa cầu trước khi biết đến lửa là một trong những điều phi lý đau khổ nhất. Nhưng ông lão Æschylus là một Điểm đạo đồ và biết rõ điều gì mà ông nói ra. [[19]]

Không có một nhà Huyền bí học nào quen thuộc với biểu tượng ký và sự kiện rằng Minh triết đến với chúng ta từ Đông phương, trong phút chốc lại muốn chối bỏ việc cho rằng huyền thoại Prometheus đã xâm nhập vào Âu châu qua ngã Āryvarta (Ấn Độ). Có lẽ y cũng không chối rằng, theo một ý nghĩa, Prometheus tượng trưng cho lửa ma sát. Do đó, y thán phục sự minh mẫn của F. Baudry, kẻ mô tả một trong những trạng thái của Prometheus và nguồn gốc của nó ở Ấn Độ, trong "Những Huyền thoại của Lửa và Thức uống Thiêng liêng". [[20]] Ông chỉ cho độc giả tiến trình giả dụ để lấy lửa, mà ngày nay vẫn được dùng ở Ấn Độ để thắp sáng ngọn lửa thiêng. Đây là những gì ông nói:

 

Tiến trình này, như đã được mô tả trong kinh Veda, gồm có việc làm quay nhanh một que củi trong một cái lổ được khoét ở trung tâm một miếng gỗ. Sự ma sát gia tăng sức nóng dữ dội và kết thúc bằng việc bốc cháy những mảnh gỗ nhỏ tiếp xúc. Chuyển động của que củi không phải là chuyển động quay liên tục, mà là một chuyển động trái chiều, nhờ một sợi dây cột ở chính giữa que củi; người thực hành cầm một đầu trong mỗi tay và kéo nó một cách luân phiên . . . Tiến trình đầy đủ được gọi bằng chữ Bắc phạn là động từ manthāmi, mathnāni, có nghĩa là "cọ xát, lay động, lắc và đạt đến kết quả ma sát", và đặc biệt áp dụng vào chuyển động quay cọ xát như được chứng tỏ ở từ nguyên mandala của nó, có nghĩa là một vòng tròn. . . . Những miếng gỗ dùng để tạo ra lửa, mỗi cái có tên bằng Phạn ngữ của chúng. Thanh gỗ quay được gọi là pramantha; cái đĩa tiếp nhận nó được gọi là arani và aranī: "aranis kép" chỉ toàn bộ dụng cụ. [[21]]

 

Rốt lại, hãy xem những người Bà la môn nói về điều này như thế nào. Nhưng ngay khi giả sử rằng Prometheus, dưới một trong các trạng thái của huyền thoại về người, được xem như vị tạo ra lửa nhờ phương tiện của Pramantha, hay như một Pramantha linh hoạt và thiêng liêng, điều này hàm ý rằng biểu tượng ký không gì khác hơn là ý nghĩa sinh thực khí bị những biểu tượng ký hiện đại gán ghép? Dù sao, Decharme hình như đã thoáng thấy đúng sự thật vì ông củng cố một cách vô thức tất cả những gì khoa Huyền bí học dạy về Mānasa Devas, đã ban cho người có ý thức về sự bất tử của linh hồn mình – ý thức này tránh cho con người "thấy trước cái chết", và khiến cho y biết rằng mình bất tử. [[22]] Ông hỏi "Prometheus sở hữu tia sáng (thiêng liêng) như thế nào?"

 

Lửa lưu ngụ trên trời, chính người phải đi tìm nó trên đó, trước khi mang nó đến cho con người, và muốn đến gần các vị thần, chính người phải là một vị thần. [[23]]

 

Người Hy Lạp cho rằng đó là Giống dân Thiêng liêng, “con của người Khổng lồ Iapetos”, [[24]] c̣n người Ấn Độ cho rằng đó là một Thiên thần.

 

Nhưng lúc khởi thủy lửa thiêng chỉ thuộc về những vị thần; đó là một kho tàng mà các Ngài để dành cho chính mình . . . các Ngài canh chừng nó một cách đầy lòng ganh tị. . . . Hesiod nói "Người con trai cẩn thận của Iapetus đã gạt Jupiter để đánh cắp lửa không thể suy yếu đang rực sáng và giấu trong lỗ hỏng của một cây narthex". [[25]] Như thế món quà mà Prometheus ban cho con người là một sự chinh phục trên thiên giới. Hiện nay, theo tư tưởng Hy Lạp [đồng nhất với tư tưởng của những nhà Huyền bí học trên điểm này], do sự cướp lấy của Jupiter như thế, nhân loại đã xâm phạm đến tài sản của chư thần linh ắt phải được chuộc tội . . .  Hơn nữa, Prometheus thuộc về giống người Khổng lồ (Titan) nổi loạn chống lại các vị thần [[26]] và vị đứng đầu Núi Olympe rơi vào vùng Tartarus; cũng giống họ, người là một vị ác thần, bị kết tội phải chịu khổ hình. [[27]]

 

Đâu là sự nổi loạn hơn cả trong những sự giải thích ấy, đó là quan điểm duy nhất để nghiên cứu huyền thoại trọng đại hơn hết này. Những tác giả hiện đại có nhiều trực giác hơn cả, không thể hoặc không muốn nâng quan niệm của họ vượt trên bình diện của Địa cầu và của những hiện tượng vũ trụ. Người ta không thể phủ nhận ý tưởng đạo đức trong huyền thoại như đã được trình bày trong Thần phổ Hesiod đóng một vai trò nào đó trong những quan niệm Hy Lạp cổ đại. Người Khổng lồ không chỉ là một kẻ cắp lửa trên thiên giới. Y tượng trưng cho nhân loại – hoạt động, cần cù, thông minh, nhưng đồng thời đầy tham vọng, nhắm đến những quyền năng ngang bằng với quyền năng thiêng liêng. Do đó, chính nhân loại bị hình phạt trong hiện thân của Prometheus, nhưng đó chỉ là việc đối với người Hy Lạp. Với họ, Prometheus không phải là một tội nhân, trừ phi dưới con mắt của các vị Thượng Đế. Trái lại, trong mối tương quan với Địa cầu, chính y là một vị Thượng Đế, một  người bạn thân của nhân loại mà y nâng đỡ được văn minh và truyền thụ kiến thức về mọi ngành nghệ thuật, đó là quan niệm được tìm thấy ở Æschylus như một dẫn chứng thi vị nhất. Nhưng đối với tất cả quốc gia khác Prometheus là gì? Là Thiên thần Sa đọa, Satan, như Giáo hội đã muốn? Không là chi cả. Y chỉ là hình ảnh của những tác động kinh khiếp và độc hại của tiếng sét. Y là "ác hỏa" [[28]] và là biểu tượng của cơ quan sinh dục thiêng liêng của phái nam.

 

Giản lược vào sự biểu hiện đơn sơ nhất của nó, vậy huyền thoại mà chúng ta tìm cách giải thích chỉ là một hỏa thần [[29]] [thuộc vũ trụ].

 

Đó là ý tưởng đầu tiên (về sinh thực khí) ưu việt của người Āryan, nếu chúng ta tin ở Adalbert Kuhn [[30]] và F. Baury. Vì:

 

Lửa mà con người dùng là kết quả của tác động của pramantha trong aranī, những vị Āryas phải cho rằng [?] nguồn gốc của lửa thiêng giống như thế, và các Ngài phải [[31]] tưởng tượng [?] rằng một vị thần trang bị với pramantha, hay một pramantha thiêng liêng đã tạo ra một sự cọ xát dữ dội giữa các đám mây làm phát sinh tia chớp và tiếng sét. [[32]]

Theo sự chứng nhận của Plutarch, [[33]] thật ra ư tưởng này được xác minh rằng những nhà Khắc kỷ tin rằng tiếng sét là kết quả của sự vùng vẫy của những đám mây mưa dày đặc, còn tia chớp là do một đám cháy lớn gây nên bởi sự ma sát; trong khi Aristotle thấy trong sét chỉ là tác động chạm lẫn nhau của mây. Lý thuyết này là gì nếu không phải là sự chuyển dịch khoa học của việc tạo ra lửa do cọ xát? . . . Vậy tất cả khiến chúng ta tin rằng từ thời tối cổ, và trước sự phân tán của những vị Āryas, người ta tin rằng pramantha bắt lửa trong những đám mây dày đặc cũng như trong những aranis. [[34]]

 

Do đó, những ức đoán và những giả thuyết được trình bày như những sự thật đã hiển lộ. Những người bảo vệ đạo luật bỏ đi không áp dụng từ lâu của Thánh kinh, không thể giúp các tác giả viết bài khái luận theo các nhà truyền giáo hữu hiệu hơn những nhà biểu tượng ký duy vật đã thực hiện khi chắc chắn rằng các quan niệm tôn giáo của người Āryan căn cứ trên tư tưởng không vượt quá tầm mức sinh lý.

Nhưng vấn đề không phải như thế, và ngay cả tinh thần của triết lý Veda cũng đối nghịch với sự giải thích theo lối ấy. Vì nếu, theo sự thú nhận của chính Decharme thì:

 

Ý tưởng về sức mạnh sáng tạo của lửa đã được giải thích . . . bởi sự đồng hóa bản sơ của linh hồn nhân loại với tia sáng trên trời. [[35]]

 

– như hình ảnh thường được sử dụng trong Veda đã phô bày khi nói về Aranī, điều này có nghĩa là một cái gì cao hơn quan niệm tính dục thô tục và đơn giản. Chẳng hạn một bài Thánh ca về Agni (Hỏa thần) được trích dẫn trong kinh Veda:

 

Đây là pramantha; máy phát nhiệt đã sẵn sàng. Hãy mang nữ chúa của căn chủng đến (aranī nữ). Chúng ta hãy tạo ra lửa bằng sự cọ xát theo tập quán xưa.

 

Điều này không dở tệ hơn một ý tưởng trừu tượng do những hạng thường nhân diễn tả. Aranī nữ, "nữ chúa của căn chủng" là Aditi, Mẹ của các vị Thần hay là Shekinah, Ánh sáng Vĩnh cửu – trong Thế giới Tinh thần, trong "Thái uyên" và Hồng nguyên khí; hay là Hành chất Bản sơ di chuyển lần đầu tiên từ Đấng Bất Khả Tri trong Vũ trụ Biểu hiện. Nếu trong những thời đại sau này, chính đặc tính ấy được áp dụng cho Devakī, Mẹ của Đức Krishna, hay Thượng Đế hóa thân; và nếu vì lý do phân hóa dần và không thể ngăn cản nổi của những tôn giáo công truyền, bấy giờ, biểu tượng có thể được xem như mang một ý nghĩa tính dục, thì điều này chẳng có gì làm thay đổi sự thanh khiết bản sơ về hình ảnh. Tính cách chủ quan đã biến thành khách quan; Tinh thần sa đọa vào Vật chất. Sự phân cực phổ quát của vũ trụ về Hành chất Tinh thần đã biến hóa, trong tư tưởng con người, thành sự hợp nhất huyền bí của Tinh thần và Vật chất, song vẫn còn tính chất tính dục, và do đó đã khoác lấy một sắc thái thần nhân đồng hình mà người ta không hề thấy lúc bản sơ. Giữa các Thánh kinh Vedas và Purānas, có một sự cách biệt sâu xa mà chúng ta là những đối cực, cũng như nguyên khí thứ bảy, Linh thể (Ātmā) và nguyên khí đầu tiên hay thấp nhất, Thể xác, trong cấu tạo thất phân của Con người. Ngôn ngữ cổ sơ và thuộc về tinh thần của kinh Vedas thuần khiết được nhận thức từ mười ngàn năm trước (những câu chuyện của kinh Purānas) đã thấy một sự diễn đạt thuần túy thuộc về con người với mục đích mô tả những biến cố xảy ra cách đây 5.000 năm, lúc Đức Krishna lìa thế, từ đó, Thời kỳ Mạt pháp hay Kỷ nguyên Hắc ám đối với nhân loại đã bắt đầu.

Cũng như Aditi được gọi là Surārani, Tử cung hay "Mẹ" của các Suras hay các vị Thần, Kunti hay mẹ của Pāndavas được gọi là Pāndavāranī [[36]] trong thiên anh hùng ca Mahābhārata – và hiện nay, thuật ngữ này có tính cách sinh lý. Nhưng Devakī, kiểu mẫu đối nghịch của Đức Mẹ Thiên Chúa giáo La Mã, là hình thức thần nhân đồng hình sau này của Aditi. Vị sau này là Mẫu thần hay Devamātri của bảy Con (sáu và bảy Ādityas của thời Veda cổ sơ); bà Devakī, thân mẫu của Krishna, đã mang sáu bào thai do Jagad-dhātri tạo nên, "Vị Bảo dưỡng Thế gian", Đức Krishna thứ bảy, Thượng Đế được di chuyển từ Rohinī. Bà Mary, thân mẫu của Đức Jesus, cũng là mẹ của bảy con, năm trai và hai gái (có sự đổi phái tính sau này) trong Matthew của Phúc âm. [[37]] Khi thuật lại một cách vinh diệu bài kinh của những vị Thần đề cập đến Devakī, những kẻ sùng tín Đức Mẹ Đồng Trinh của Thiên Chúa giáo La Mã, không ai bác bỏ. Chúng ta hãy để cho độc giả phán xét.

 

Ngươi là Prakriti ấy [thể tính], vô cực và tế vi, xưa kia, người cưu mang Brahmā trong lòng. . . . Ngươi, hữu thể trường tồn, hàm tàng trong bản chất của ngươi thể tính của tất cả tạo vật, được đồng hóa với Tạo hóa; ngươi là thủy tổ của ba hình thái hy sinh, trở thành mầm giống của vạn hữu. Ngươi là sự hy sinh, từ đó sinh ra tất cả; ngươi là gỗ [Aranī] mà sự cọ xát sinh ra lửa.[[38]] Như Aditi, ngươi là tổ tiên của các thần. . . . Ngươi là ánh sáng [Jyotsnā, rạng đông của buổi sáng],[[39]] từ đó ngày bắt đầu; ngươi là đức khiêm hạ [Sannati, con gái của Daksha], mẹ của minh triết (chân chính); ngươi là sự điều ḥa [Nīti], tổ tiên của trật tự [Naya]; ngươi là tính nhũn nhặn, thủy tổ của tình thương [prashraya, do vinaya giải thích]; ngươi là dục vọng, từ đó phát sinh ra tình yêu. . . . Ngươi là mẹ của kiến thức [Avabodha]; ngươi là đức nhẫn nhục [Dhriti], mẹ sinh ra lòng dũng cảm [Dhairya]. [[40]]

 

Điều này chứng tỏ rằng Aranī chẳng khác gì "cái Bình tuyển trạch" trong Thiên Chúa giáo La Mã. Theo ý nghĩa xưa, nó hoàn toàn có tính cách siêu hình. Trong tinh thần cổ sơ, không có tư tưởng thiếu trong sạch nào len lỏi qua những ý kiến này. Ngay cả trong kinh Zohar – không thiếu tính cách siêu hình trong khoa biểu tượng của nó so với một hệ thống biểu tượng nào khác – tư tưởng của nó hoàn toàn trừu tượng. Do đó, kinh Zohar nói:

 

Tất cả những gì hiện hữu, tất cả những gì do cổ nhân tạo nên, mệnh danh là thiêng liêng, chỉ có thể hiện hữu xuyên qua nguyên lý âm và dương. [[41]]

 

Điều này chỉ hoàn toàn có nghĩa là Tinh thần thiêng liêng của Sự Sống luôn luôn kết hợp với Vật chất. Đó là Ý Chí Thiêng liêng tác động; tư tưởng này cũng chính là quan điểm của Schopenhauer.

 

Khi Atteekah Kaddosha, Đấng cổ sơ và từng ẩn trong những vật ẩn tàng muốn tạo nên vạn hữu, Ngài tạo nên tất cả dưới hình thái âm và dương. Sự minh triết này bao trùm vạn hữu khi nó biểu hiện.

 

Do đó, người ta trình bày Chokmah (Minh triết có tính dương) và Binah (Tâm thức âm tính hay Trí năng) như tạo ra vạn hữu giữa hai nguyên lý – tích cực và thụ động. Như con mắt của tay buôn ngọc lành nghề phân biệt dưới lớp vỏ thô nhám của con trai, hòn ngọc thuần khiết, trinh nguyên ẩn giấu tận bên trong và bàn tay y chỉ sờ đến vỏ trai để lấy vật chứa trong đó, cũng giống như con mắt của nhà triết học chân chính đọc thấy giữa các dòng chữ của kinh Purānas, những chân lý cao siêu của kinh Veda và chỉ sửa lại h́nh thức nhờ vào Minh triết của phái Vedānta. Tuy nhiên, các nhà Đông phương học của chúng ta chẳng hề thấy viên ngọc dưới lớp vỏ dày của con trai và theo đó mà hành động.

Qua tất cả những gì đã được đề cập đến trong Tiết này, người ta thấy rõ ràng rằng có một sự cách biệt sâu xa giữa con Rắn của Vườn Địa đàng và Ma quỷ trong Thiên Chúa giáo. Chỉ có chiếc búa tạ của Triết lý Cổ sơ mới có thể hủy diệt được giáo điều này.

 


[[1]] Apollodorus, I, 7, 1.

[[2]] Xem Metam., của Ovid., I, 8l. Elym. M., v, (chữ tượng hình).

[[3]] Pausanias, X, 4, 4.

[[4]] Sách đã dẫn, trang 264.

[[5]] Pausanias, II, 19, 5; cf. 20, 3.

[[6]]  Timæus, trang 22.

[[7]] Stromata, I, trang 380.

[[8]] Decharme, như trên, trang 265.

[[9]] Opera và Dies, 142-145. Theo Giáo huấn Huyền bí, ba thời đại Yugas đã trôi qua trong thời gian của Căn chủng thứ Ba, đó là Satya, Tretā và Dvāpara Yuga – tương tự với Hoàng kim Thời đại trong thời cổ sơ vô minh của nó; tương ứng với Ngân Thời đại, khi nó đạt đến sự trưởng thành; và tương ứng với Thời đại đồ Đồng khi phân chia thành hai phái tính, nó trở thành những vị bán thần dũng mãnh của thời cổ đại.

[[10]] Asgard and the God, trang 11-13.

[[11]] Chữ tượng hình. (LND)

[[12]] Sách đã dẫn, trang 266.

[[13]] Chữ tượng hình. (LND)

[[14]] Sách đã dẫn, trang 258.

[[15]] Sách đã dẫn, trang 257.

[[16]] Như trên, trang 258.

[[17]] Sách đã dẫn , trang 145.

[[18]]  Niên đại và Nguồn gốc Con người.

[[19]] Mưu toan hiện nay của vài học giả Hy Lạp (là những học giả kém cỏi và giả hiệu, họ muốn xuất hiện trong thời đại của các tác giả Hy Lạp cổ sơ!) hầu giải thích ý nghĩa thực sự trong những ý tưởng của Æschylus – cho rằng người chỉ là một tên Hy Lạp dốt nát thuở xưa không thể trình bày đúng chính những ý tưởng ấy – thật là một sự lố bịch phi lý!

[[20]] Tạp chí Đức, 1.861, trang 356 và tiếp theo. Xem thêm Ký ức về Hội Ngôn ngữ học, Quyển i, trang 337 và tiếp theo.

[[21]] Decharme trích, sách đã dẫn, trang 258-259. Có một miếng gỗ ở phía trên và phía dưới được dùng để tạo ra lửa thiêng này bởi sự cọ mòn ở những sự hao tán và chính Aranī chứa cái lổ. Điều này được chứng tỏ bởi một ẩn dụ trong kinh Vāyu và các kinh Purānas khác, nó nhắc chúng ta rằng Nimi, con trai của Ikshvāku đã không rời bỏ vị kế nghiệp và các nhà Hiền triết, e rằng rời Địa cầu mà không một nhà cai trị, đã đưa thân xác của vị vua vào trong lỗ hỏng của một Aranī – giống như một Aranī thượng – và từ đó sinh ra một hoàng tử tên là Janaka. "Đó là lý do của đường lối đặc biệt mà y được sinh ra trong đó và được gọi là Janaka". Xem thêm Tự điển Sanskrit, sub voce (Vishnu Purāna, bản dịch của Wilson, Quyển iii, trang 330). Mẹ của Krishna là Devakī, được gọi là vị "Aranī mà sự cọ mòn sinh ra lửa", trong một bài cầu nguyện gởi cho bà.

[[22]] Chơn thần con thú cũng bất tử như linh hồn con người, nhưng con thú không biết chi về điều này; nó sống một cuộc sống thú vật theo cảm giác giống như con người bản sơ, khi đạt đến sự phát triển thể chất ở Căn chủng thứ Ba, không có sự can thiệp của các Agnishvātta và Tổ phụ Mānasa.

[[23]] Sách đã dẫn, trang 259.

[[24]]  Thần phổ, trang 528

[[25]] Như trên, trang 565.

[[26]] Do đó các vị Thiên thần Sa đọa; các vị Asuras của Vạn thần miếu Ấn Độ.

[[27]] Decharme, sách đã dẫn, trang 259-260.

[[28]] Như trên, trang 263.

[[29]] Như trên, trang 261.

[[30]] Die Herabkunft des Feuers und des Gōttertranks (Berlin 1.859).

[[31]] Những chữ in nghiêng là của tác giả, chúng chứng tỏ tại sao hiện nay các ức thuyết trở thành định luật.

[[32]] Decharme, sách đã dẫn, trang 262.

[[33]] De Placitio Philosophorum, iii, 3.

[[34]] Baudry, Tạp chí Đức, 14 – 4 – 1.861, trang 368.

[[35]] Sách đã dẫn, trang 264-265.

[[36]] Xem Vishnu Purāna, Wilson, Quyển v, trang 96, chú thích.

[[37]] Chương xiii, 55-56.

[[38]] "Tử cung của Ánh sáng", "Cái Chậu Thiêng liêng" đều là thuộc tính của sự Trinh nguyên.

[[39]] Sự trinh nguyên thường được diễn đạt như "Sao mai", "Sao Cứu rỗi".

[[40]] Vishnu Purāna, của Wilson, Quyển iv, 264-265.

[[41]] Quyển iii, trang 290.

 


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS