| 
			 | 
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
| 
			 | 
			
			MÔI TRƯỜNG CỞI MỞ CỦA 
			MỤC TIÊU THỨ BA 
			
			CỦA HỘI THÔNG THIÊN HỌC 
			
			(THE OPEN FIELD OF 
			THE THIRD OBJECT) 
			
			Tác giả: N. SRI RAM 
			Được in lại từ Tạp chí
			Nhà Thông Thiên Học số 
			tháng 12 năm 1964. 
			 
 | 
			 | 
	
	
	MÔI TRƯỜNG CỞI MỞ CỦA MỤC TIÊU 
	THỨ BA
	
	CỦA HỘI THÔNG THIÊN HỌC
Mục tiêu thứ ba của Hội là: “Khảo cứu những định luật 
	chưa giải thích rơ trong Thiên nhiên và những quyền năng ẩn tàng trong con 
	người”. Trước hết từ ngữ “chưa được giải thích rơ” trong câu ấy có đúng 
	chăng? Liệu có nên thật sự là “chưa được khám phá” chăng? Từ ngữ “chưa được 
	giải thích rơ” hàm ư rằng ta đă nhận diện được những định luật này rồi. Ta 
	nhận thức được sự tồn tại của chúng nhưng chưa giải thích được chúng bởi v́ 
	chúng có một vài điều lờ mờ hoặc có bản chất phức tạp rắc rối; c̣n từ ngữ 
	“chưa được khám phá” chỉ có nghĩa giả định rằng hiện nay có những định luật 
	mà ta chưa biết.
Môi trường của Mục tiêu thứ ba gợi ư một môi trường 
	rộng mở để cho ta thám hiểm và ta có thể quan niệm là nó bao gồm mọi thứ 
	không quen thuộc hoặc dường như là phép lạ, chẳng hạn như những hiện tượng 
	lạ mà bà Blavatsky thi triển trong lúc sinh thời. Trong tác phẩm đầu tiên
	Vén Màn Bí Mật Nữ Thần Isis, bà 
	xếp vào đó một lănh vực lớn bao trùm hầu như mọi thứ không thể giải thích 
	được vào lúc ấy và thiếu mức b́nh thường: đủ thứ thần nhăn, tùy ư bỏ xác rồi 
	du hành tới khoảng cách xa, những thành tích về khinh thân, trắc tâm, giải 
	mă được những điều bí mật của quá khứ, giao tiếp với người chết và những 
	thực thể khác không mang xác phàm, hiện h́nh, để cho vật chất đi xuyên qua 
	vật chất v.v. . . Có lẽ ta bao gồm trong những việc nghiên cứu ấy ngay cả cơ 
	sở lư luận của khoa chiêm tinh học, không phải là thuật chiêm tinh hoặc thực 
	hành khoa chiêm tinh, mà nói cho đúng hơn là toàn bộ lư thuyết làm nền tảng 
	cho ư nghĩa của các cung hoàng đạo và các hành tinh, vị trí và mối quan hệ 
	của chúng, việc gán cho chúng một số ảnh hưởng đối với cuộc đời ta và những 
	diễn biến xảy ra. Mọi điều đó vượt ngoài tầm điều mà ta có thể tự ḿnh trực 
	tiếp nh́n thấy; nhưng trong khi đây có thể là một đề tài nghiên cứu thú vị 
	th́ tôi thiết tưởng thật ra nó không thể được xếp vào việc Thông Thiên Học 
	mô tả là Minh triết Thiêng liêng. Ta không được lẫn lộn tri thức (ngay cả về 
	khía cạnh huyền bí của Thiên nhiên) với Minh triết vốn bắt nguồn từ những 
	chiều sâu thẳm của một một bản chất nào đó nơi chính chúng ta. Chắc chắn là 
	thú vị và hữu ích khi biết cách làm đảo ngược lại lực hấp dẫn. Dường như có 
	các nhà khoa học ở cả Mỹ lẫn Nga đều đang làm việc về chính vấn đề này. 
	Nhưng ngay cả khi người ta t́m ra bí mật ấy th́ nó cũng không nhất thiết 
	khiến cho y minh triết theo đúng nghĩa chân thực nào.
Mặc dù Mục tiêu thứ ba nói tới những định luật và 
	quyền năng, nhưng ta phải mô tả nhiều công tŕnh được thực hiện nhờ vào 
	những quyền năng này. Chẳng hạn như kho tài liệu liên quan tới các cơi trung 
	giới và trí tuệ, thể phách, các luân xa v.v. . . đọc giống như mô tả một cơi 
	phi thường nào đấy cùng với những hoạt động diễn ra ở đó.
Đôi khi người ta bảo rằng ngày nay ta không chú ư 
	nhiều đến Mục tiêu thứ ba, nhưng ta phải vỡ lẽ ra rằng muốn khảo cứu như vậy 
	th́ đ̣i hỏi thiên hạ phải được rèn luyện để được đảm đương việc đó. Thế mà 
	sự thông thạo của họ và những khám phá của họ không dễ ǵ chứng minh cho 
	người khác được. V́ vậy, bao giờ cũng có chỗ cho người ta nghi ngờ và dị 
	nghị. Một người có thần thông hoặc có thần nhăn có thể bảo rằng “tôi thấy 
	việc này, việc kia”, nhưng y có thể chỉ thấy những phóng chiếu của điều đă 
	có sẵn trong tiềm thức của chính y, tạo ra những h́nh tư tưởng từ các ư 
	tưởng của chính ḿnh rồi h́nh dung chúng ra. Chỉ những người được rèn luyện 
	cần thiết và có những quan năng thiết yếu mới có thể đảm đương việc khảo cứu 
	theo đúng nghĩa, phân biệt với việc chỉ nghiên cứu những điều mà người khác 
	nói về đề tài này. C̣n về phần những người thấu thị hoặc những người khảo 
	cứu tinh thông ở nhiều mức khác nhau, họ có nói điều ǵ th́ chúng ta cũng 
	không có khả năng kiểm chứng, ta phải phán đoán chúng theo lư trí và sự hiểu 
	biết của riêng ḿnh. V́ vậy, công việc là Mục tiêu thứ ba, theo nghĩa khảo 
	cứu điều chưa được giải thích và c̣n ẩn tàng, chỉ có thể được đảm đương bời 
	những cá nhân dựa trên trách nhiệm của chính họ hoặc đôi khi do một toán, 
	chứ không phải do Hội xét chung. Huynh C. W. Leadbeater hoặc ngay cả bà 
	Blavatsky cũng không được ủy quyền chính thức để đảm đương bất cứ nhiệm vụ 
	nào như thế; họ đảm nhiệm bất cứ điều ǵ ḿnh làm theo đường lối tự nguyện 
	và công bố những kết quả nghiên cứu của ḿnh v́ lợi ích của mọi người.
Dĩ nhiên ta có thể thuyết giải Mục tiêu thứ ba là bao 
	gồm những hoạt động chẳng hạn như do Hội Khảo cứu Thông linh tiến hành. 
	Nhưng dường như Hội Thông Thiên Học không có ư định bắt chước công việc của 
	một đoàn thể như thế, cũng giống như bắt chước các hoạt động của các nhà 
	khoa học, mặc dù hoạt động của các nhà khoa học cũng chẳng dính dáng ǵ tới 
	sự thật hoặc các khía cạnh của sự thật. Tôi thiết tưởng chúng ta cũng chẳng 
	minh triết khi chính thức khai trương các lớp dạy Yoga để khơi dậy 
	Kundalini, kích thích các luân xa hoặc làm bất cứ điều ǵ thuộc cái loại có 
	thể gây tai hại nhiều cho những người hữu quan, mặc dù có những người nghĩ 
	rằng đây là những điều mà chúng ta nên làm. Với vai tṛ là một Hội, ta không 
	có việc phải dấn thân vào những hoạt động thuộc bản chất thần linh học, cho 
	dẫu nhờ đó ta có thể thu được một số kết quả tốt đẹp.
Nếu mục đích cốt lơi của Hội là nhân ái và tinh thần 
	th́ ta phải kiên định với mục tiêu ấy chứ không gây ra sự lẫn lộn trong tâm 
	trí thiên hạ về tính linh và thần thông. Ta phải cẩn thận không được gán cho 
	Hội một tính cách không thuộc về nó, đồng nhất nó với việc theo đuổi thần 
	thông thuộc đủ loại.
Ở Đông phương, nhất là ở Ấn độ, các bậc đại đạo sư 
	coi việc có thần thông nói chung là một của nợ hơn là một vốn quí trên con 
	đường tiến bộ tinh thần. Việc đó ra sao đi chăng nữa th́ tùy thuộc rất nhiều 
	vào người có thần thông và cách thức y sử dụng thần thông, y thuộc loại 
	người nào và có động cơ thúc đẩy ra sao. Trong bất cứ trường hợp nào việc
	mưu t́m thần thông thường có động 
	cơ thúc đẩy hướng về điều giật gân ngay cả khi không thực sự ích kỷ, điều đó 
	khiến cho người ta lơ đễnh đối với việc phát hiện sự thật về chính ḿnh, tức 
	là tự tri. Cố nhiên ta có thể xem xét và bàn luận điều mà một cá nhân nêu ra 
	do dùng thần thông và mọi người quan tâm đều có thể tham gia vào việc bàn 
	luận ấy. Nói cách khác, với vai tṛ là một Hội, ta chỉ có thể khảo cứu ở mức 
	độ trí thức, nghĩa là nghiên cứu và bàn luận; có nhiều Chi bộ đă dấn thân 
	vào công việc ấy. Cái loại nghiên cứu này quả thật là mở rộng phạm vi quan 
	sát và suy nghĩ của khoa học và triết học.
	Nó đă Tăng trưởng và Thay đổi 
	như thế nào?
Ở đây tôi xin nêu ra đủ thứ phiên bản mà chúng ta đă 
	có trong quá khứ về Mục tiêu thứ ba này, v́ chúng soi sáng cho tư tưởng của 
	những người lănh đạo Hội khi triển khai Mục tiêu thứ ba. Nó ắt cung cấp cho 
	ta một chút sự minh giải về điều thực sự xảy ra đằng sau cách diễn tả hiện 
	nay. Khi Hội khai trương năm 1875, điều lệ Hội chỉ đề cập tới Mục tiêu duy 
	nhất như sau: “Các Mục tiêu của Hội là thu thập và truyền bá kiến thức về 
	những định luật chi phối vũ trụ”. Tuyệt nhiên không đề cập tới T́nh Huynh 
	Đệ; theo tài liệu ghi chép lại th́ ư tưởng T́nh Huynh Đệ xuất hiện lần đầu 
	tiên trong lịch sử Hội vào năm 1878. Đại tá Olcott là Hội trưởng Sáng lập có 
	ghi lại sự kiện thoạt đầu người ta không nghĩ tới T́nh Huynh Đệ. Thật vậy, 
	toàn bộ vấn đề liệu T́nh Huynh Đệ hay Huyền bí học theo nghĩa b́nh thường 
	nên là Mục tiêu sơ phát của Hội, đây là vấn đề được bàn căi rộng răi giữa 
	các Chơn sư và những người nhận thư tín, nghĩa là ông Sinnett và ông Hume. 
	Vào năm 1878, các hoạt động bắt đầu ở Anh với việc tạo lập một đoàn thể tên 
	là Hội Thông Thiên Học Anh quốc và Hội ấy cho phát hành một thông tư trong 
	đó nêu rơ Hội Thông Thiên Học Anh được thành lập “với mục đích phát hiện bản 
	chất và quyền năng của Tinh thần và linh hồn của con người qua việc khảo cứu 
	và thực nghiệm” – đây là một công tŕnh đầy tham vọng mà xét theo biểu kiến 
	người ta đă chọn mà không có một ư niệm rơ rệt nào về nội hàm của nó. Vào 
	tháng hai năm 1880, Đại hội đồng của Hội nêu ra một vài Mục tiêu tương ứng 
	với Mục tiêu thứ ba hiện nay, nội dung như sau:
Một là “giữ cho linh hoạt các trực giác tinh thần nơi 
	con người”. Người ta không nêu rơ làm cách nào để toan tính thực hiện việc 
	ấy.
Hai là “chống đối và hóa giải sự ngu tín dưới bất cứ 
	dạng nào cho dù đó là tệ nạn bè phái thiếu khoan dung trong tôn giáo hoặc 
	tin vào phép lạ hay bất cứ điều ǵ mang tính cách siêu nhiên. Việc nêu trên 
	được thực hiện sau khi đă khảo cứu đúng mức và chứng minh được tính phi lư 
	của tính ngu tín.
Ba là “t́m cách có được sự hiểu biết về mọi định luật 
	Thiên nhiên và góp phần truyền bá nó; nhất là khuyến khích nghiên cứu những 
	định luật này mà con người hiện đại vốn hiểu biết ít nhất cho nên gọi đó là 
	Khoa học Huyền bí”.
Tôi cũng chẳng biết liệu cụm từ “tất cả” được diễn tả 
	cố ư hay bởi v́ tất cả chúng ta đều có khuynh hướng nói một cách thiếu định 
	tính vượt mức ta thực sự ngụ ư.
Vào năm 1883 cũng như năm 1884, nhiều Chi bộ chọn 
	theo những mục tiêu này thích hợp với những ư tưởng và sự tăng trưởng của 
	ḿnh. Xét theo biểu kiến th́ họ có thể làm như vậy, bởi v́ Hội quốc tế chưa 
	được tổ chức đúng mức để dẫn dắt họ, hoặc vào lúc đó chưa có những mục đích 
	được ấn định và được đồng thuận nói chung. Chẳng hạn như có Hội Thông Thiên 
	Học Hi mă lạp sơn vốn tự coi ḿnh là một đoàn thể khá cao siêu. Nó bao gồm 
	ông A. P. Sinnett và ông A. O. Hume với mục tiêu được phát biểu như sau: Một 
	là “T́nh Huynh Đệ đại đồng”; xét theo biểu kiến điều này được nêu ra để 
	nhượng bộ các Chơn sư cứ khăng khăng đ̣i hỏi mục đích sơ phát là Tinh Huynh 
	Đệ. Hai là “Hiệp nhất Chơn thần cá thể với Đấng Vô Cực và Tuyệt Đối”; đây là 
	một mục đích khá đáng khen nhưng khiến ta đâm ra nghi ngờ liệu những người 
	phát biểu như vậy có ư niệm ǵ chăng về bản chất thật của điều được tiếp 
	điển. Ba là – điều này nghe ra hầu như tầm thường sau khi đă có mục đích thứ 
	nh́ rất vĩ đại – “nghiên cứu những bí nhiệm ẩn tàng trong Thiên nhiên và 
	phát triển các thần thông tiềm tàng nơi con người”.
Chi bộ Luân đôn – vốn là một đoàn thể rất quan trọng 
	và rất tích cực vào thời kỳ đầu của Hội khi ông Sinnett liên kết với Chi bộ 
	- minh định Mục tieu thứ ba như sau: “Khảo cứu bản chất của hiện tồn ngỏ hầu 
	thấu hiểu và thực chứng được những tiềm năng cao siêu của con người và làm 
	sống lại việc nghiên cứu khoa học huyền bí 
	và triết học bí truyền”. Việc bao gồm cụm từ “bản chất của hiện tồn” 
	dường như là chỉ dẫn cho thấy trong nhiều nhóm khác nhau vào lúc đó có sự mơ 
	hồ về điều cần được khảo cứu. Ta cũng có thể nhận thấy sự phân biệt khoa học 
	huyền bí với triết học huyền bí, hoặc có lẽ người ta dùng những cụm từ này 
	để nhằm nói tới hai khía cạnh khác nhau của cùng một công việc.
Trong Báo cáo Thường niên năm 1885, mười năm sau khi 
	thành lập Hội, người ta xác định Mục tiêu thứ ba như sau: “Mục tiêu thứ Ba 
	mà một bộ phận hội viên Thông Thiên Học theo đuổi, đó là khảo cứu những định 
	luật chưa được giải thích của Thiên nhiên và thần thông của con người”. Mục 
	tiêu thứ Nhất rất giống như hiện nay, nhưng Mục tiêu thứ Nh́ thay v́ nói tới 
	đối chiếu tôn giáo, triết học và khoa học th́ lại nói tới “các triết lư và 
	tôn giáo của dân Aryan và những dân tộc Á đông khác”. Măi tới năm 1890 ta 
	mới thấy Mục tiêu thứ Ba được rút gọn gần giống như dạng hiện nay: “Khảo cứu 
	những định luật chưa được giải thích của Thiên nhiên và những thần thông 
	tiềm tàng nơi con người”. Về sau người ta bỏ đi từ “thần thông” và Mục tiêu 
	được tŕnh bày như dưới dạng hiện nay: “Khảo cứu những định luật chưa được 
	giải thích của Thiên nhiên và những quyền năng tiềm tàng nơi con người”. 
	Trong tác phẩm Kim chỉ nam của Hội 
	Thông Thiên Học, ông Jinarajadasa có b́nh luận như sau về đủ thứ phiên 
	bản nêu trên: “Đó chỉ là h́nh thức bên ngoài
	vốn phải được diễn tả thỏa đáng qua đủ thứ sự thay đổi”.
Trong Ch́a 
	khóa Thông Thiên Học, bà Blavatsky có phân biệt rơ ràng giữa nhà Thông 
	Thiên Học và nhà Huyền bí học. Bà bảo rằng “nhà huyền bí học quan tâm tới 
	những qui tŕnh ẩn tàng trong Thiên nhiên, mănh lực bí mật của mọi sự vật 
	trong Thiên nhiên”. Trong một bài báo mang tựa đề “Sự Tiến bộ gần đây về 
	Thông Thiên Học” – xét theo biểu kiến th́ bài này cũng được viết vào khoảng 
	thời gian đó – bà giải thích: “Mục tiêu thứ Ba mà một bộ phận hội viên Thông 
	Thiên Học theo đuổi đó là khảo cứu những định luật chưa được giải thích 
	trong Thiên nhiên và bản chất thông linh của con người. Có hai mục tiêu tổng 
	quát và một mục tiêu hạn chế đáng chú ư. Chỉ một bộ phận hội viên quan tâm 
	tới những tính chất huyền bí của vật chất và thần thông của con người”. Tôi 
	chẳng biết hiện nay có hội viên nào quan tâm tới các tính chất huyền bí của 
	vật chất hay chăng. Bà c̣n viết thêm “Hội xét chung không quan tâm tới ngành 
	nghiên cứu này và tự nhiên là trong số một vạn người th́ ta chỉ có cơ may 
	gặp một số rất ít người có đủ thời giờ, thị hiếu hoặc năng lực để đảm nhiệm 
	việc nghiên cứu tinh vi và gây bối rối như thế. Chúng tôi thiết tưởng nên 
	tuyên bố đường lối khảo cứu và tự khám phá bản thân này là Mục tiêu thứ Ba 
	trong ba mục tiêu của chúng tôi. Người ta đă viết ra những quyển sách về 
	triết học thần bí thời nay và thời xưa dành cho những ai quan tâm tới nó và 
	mọi người điều tra vốn có thể tiếp cận được các tác phẩm đó để được chúng 
	khích lệ”.
Theo những ǵ tôi vừa trích dẫn th́ ta nhận thấy rằng 
	bà không coi các tác phẩm triết lư thần bí trong quá khứ là lỗi thời so với 
	những tác phẩm sau này. Có người nghĩ rằng cái ta gọi là kho tài liệu Thông 
	Thiên Học đă hoàn toàn thay thế cho mọi tác phẩm trước kia mà đôi khi ta gọi 
	là “Thông Thiên Học lịch sử”. Cũng vậy, bà bao gồm việc “khám phá bản thân” 
	trong phạm vi của Mục tiêu thứ Ba. Đây là công tŕnh mà mọi người có thể dấn 
	thân vào đó.
	Các tiêu chuẩn Chân lư
Ở đây tôi muốn xét tới việc nghiên cứu Huyền bí học 
	th́ cần phải có cái loại tâm trí nào. Để đặc biệt nghiên cứu Huyền bí học 
	cũng như nghiên cứu bất cứ khía cạnh chân lư nào, th́ ta cũng phải có một 
	tâm trí trung thực theo nghĩa nghiêm xác nhất, nghĩa là cái trí không được 
	ngụy biện, không lờ đi sự thật không thích hợp với ḿnh, không coi trọng bất 
	cứ ư tưởng nào mang lại quyền lợi thiết thực cho ḿnh, không tự lừa gạt ḿnh 
	và không phóng chiếu ra những khái niệm dễ chịu đối với ḿnh. Tôi chẳng biết 
	có ai trong chúng ta có được một tâm trí như vậy chăng, nhưng đối với tôi 
	hoàn toàn rơ rệt rằng trước khi ta có thể nghiên cứu Huyền bí học với đầy 
	tâm huyết và đạt được thành công th́ ta phải có cái loại tâm trí ấy. Nếu một 
	người bị chế định theo một số đường lối nào đó th́ bất cứ ư niệm nào mà y 
	phóng chiếu ra đều rất có thể tham gia vào sự chế định ấy.
Ta cũng có thể xét tới vấn đề điều có thể được coi là 
	kiến thức có giá trị mà ta có thể ứng dụng được. Hiển nhiên là điều mà một 
	người nhận thức hoặc trải nghiệm chỉ là một mẩu tin tri thức đối với y thôi, 
	không nhất thiết tuyệt đối chứng minh được sự thật mà y chỉ có thể tưởng 
	tượng rằng nó chỉ đúng đến mức đó thôi. Tôi nh́n thấy một điều ǵ đó trông 
	có vẻ là rắn chắc và màu xanh lục, nhưng bản chất của sự vật thật ra có thể 
	khác với cái mà tôi nh́n thấy. Trong bất cứ trường hợp nào th́ nó cũng có đủ 
	thứ khía cạnh không hiển nhiên đối với tôi. V́ vậy, điều mà tôi nhận thức 
	hoặc trải nghiệm không phải là sự thật tuyệt đối hoặc một trải nghiệm đến 
	với tôi để làm bằng chứng th́ nó vẫn có ư nghĩa của riêng ḿnh. Hai là khi 
	ta ghi nhận một vài sự kiện cùng với các mối tương quan của chúng th́ những 
	suy diễn mà ta rút ra từ nhận thức của ḿnh hiển nhiên chẳng có giá trị trên 
	cùng b́nh diện với các nhận thức ấy. Với vai tṛ là một qui tŕnh tư tưởng 
	th́ nó có thể có giá trị hơn bởi v́ các tiên đề có thể sai trong khi việc lư 
	luận vẫn đúng. Ba là ta có thể tạm thời chấp nhận những phát biểu xuất phát 
	từ cái mà ta có thể coi là các nguồn tin hiểu biết. Về vấn đề này ắt có thắc 
	mắc xét về những vấn đề hữu quan th́ liệu nguồn tin có thật sự hiểu biết 
	chăng. Nếu tôi muốn biết một điều ǵ đó về t́nh h́nh ở Bắc cực, th́ tự nhiên 
	là tôi phải chấp nhận phát biểu của những người đă ở vùng đó trên địa cầu, 
	miễn là tôi coi những người ấy là đáng tin cậy. Cũng giống như thế, rất 
	nhiều hội viên chấp nhận nhiều phát biểu trong thư của các Chơn sư bởi v́ 
	chúng ta có lư do để nghĩ rằng những nguồn tin này là có khả năng hiểu biết 
	cao đối với những vấn đề hữu quan. Ngoài mọi điều nêu trên ra cũng thật là 
	chính đáng khi ta tha hồ - nếu đây là từ thích hợp – dựng nên một giả thuyết 
	giải thích những điều phù hợp với các sự kiện và minh giải được các sự kiện. 
	Trong Khoa học hiện đại người ta thường dựng nên các giả thuyết, các thuyết, 
	các chương tŕnh rồi sau đó mới cải chính. Khi ta cân nhắc một thuyết th́ 
	trong tâm trí của chính ḿnh, ta không được đặt nó ngang hàng với sự thật 
	tuyệt đối. Nó giải thích được một số sự kiện cho nên tôi thấy dường như cân 
	nhắc nó dựa trên cơ sở ấy là hoàn toàn chính đáng, có điều nó không được hạn 
	chế việc ta tự do tiến tới một sự thật tuyệt đối hoặc rộng lớn hơn.
Thế rồi người ta có thể nói thêm rằng có điều mà ta 
	gọi là trực giác, một thuật ngữ đă được thấu hiểu nhiều. Trực giác chân thực 
	hoặc là một nhận thức không bị méo mó xuất phát từ tâm thức tổng thể hay là 
	do tâm thức tổng thể sáng tạo ra. Việc bao gồm trực giác là một dạng tri 
	thức đối với tôi có vẻ là hợp khoa học. Việc này tùy thuộc chuyện ta ngụ ư 
	ǵ qua thuật ngữ đó. Trước khi quan năng trực giác chân thực có thể bước vào 
	tác động th́ phải có việc ngừng suy tư ao ước và tâm trí phải bị tẩy sạch 
	khỏi những ư tưởng tiên kiến. Cũng giống như trong sinh hoạt trên cơi trần, 
	ta phải có sự điều độ chừng mực; cũng vậy, trong suy tư ta phải có sự khắc 
	khổ chứ không lệch lạc đi vào những con đường dễ chịu. Khi ta tưởng tượng 
	bởi v́ ta thích tưởng tượng, chạy theo đủ thứ hoang tưởng th́ nó trở thành 
	một loại buông thả; nhưng muốn đến với sự thật th́ ta phải có cái phẩm chất 
	khắc khổ vốn quét sạch khuynh hướng rớt vào điều nhất thời dễ chịu và thoải 
	mái.
	Định luật về các phạm trù khác 
	nhau
	
Các định luật trong thiên nhiên có thể thuộc nhiều 
	lớp khác nhau. Trước hết có những định luật về đủ mọi cấp vật chất, cho dù 
	chúng thuộc loại được các giác quan của ta nhận biết hay là chúng tồn tại 
	vượt ngoài tầm hạn hẹp này. Rồi đến những định luật thuộc về bản chất của sự 
	sống, các đặc trưng, tác động và sự tiến hóa của nó. Thế rồi lại có những 
	định luật về tâm trí, tâm lư và tâm thần. Ngoài ra tôi c̣n muốn nêu lên 
	những định luật về sự hài ḥa vốn là trọn cả một ngành với toàn bộ đề tài 
	này, bao gồm trực giác về sự hài ḥa và bất ḥa trong nhiều địa hạt khác 
	nhau. Khi lắng nghe âm nhạc, bạn tự nhủ: “Hay quá! Thật là hài ḥa”. Làm 
	cách nào mà bạn xác lập được sự hài ḥa để cho chính ḿnh được thỏa măn? 
	Không có một cách thức cụ thể nào để chứng minh cho người khác thấy sự hài 
	ḥa mà bạn trải nghiệm. Chính nhờ vào nhận thức trực giác mà người ta biết 
	hoặc cảm nhận được sự hài ḥa trong các âm thanh, màu sắc hoặc sự vận động 
	của bất cứ thứ nào khác nữa. Tôi cũng xin nói thêm là có một điều chẳng hạn 
	như các định luật về bản thể nội tâm, tức Tinh thần của chính ta. Điều này 
	nghe ra có vẻ thần bí và mơ hồ. Bây giờ tôi xin giải thích tôi ngụ ư ǵ. Có 
	thể có những định luật khi tác động ắt bao gồm nhiều mức hiện tồn khác nhau, 
	chẳng hạn như định luật Nhân quả, vốn xét theo một khía cạnh th́ mang tính 
	máy móc và bất biến, thế nhưng xét theo khía cạnh khác th́ nó mang tính đạo 
	đức và bao hàm khái niệm công bằng. Bằng cách nào đó, hai khía cạnh này được 
	phối kết thành Nhân quả theo như ta hiểu.
Tôi có nói tới định luật về Tinh thần. Ta có thể thắc 
	mắc: “Chẳng phải bản chất và tác động của Tinh thần đă được đồng nhất hóa 
	hoàn toàn với tự do đấy ư? Liệu ta có thể nói tới định luật khi đề cập tới 
	tự do? Nhưng ta hăy cứu xét sự kiện này: Tác động của nguyên lư Tinh thần 
	nội tại nhất bao giờ cũng sinh ra một sự sáng tạo toàn bích; và điều toàn 
	bích hoặc được kiến tạo toàn bích luôn luôn thể hiện một định luật. Chẳng 
	hạn như có một bản hợp âm âm nhạc toàn bích hay là một cái b́nh được định 
	h́nh toàn bích. Nghệ sĩ chỉ cần nh́n vào h́nh dạng của cái b́nh hoặc lắng 
	nghe âm nhạc là đă bảo được rằng nó toàn bích. Cũng chính cái óc nghệ sĩ ấy 
	đă khiến cho nó bước vào tồn tại. Nhưng nếu bằng một loại tâm trí khác, ta 
	khảo sát cấu tạo của cái b́nh hoặc sự phối âm của âm nhạc th́ ắt ta t́m thấy 
	một vài định luật cụ thể được thể hiện trong kết cấu. Không cần phải trải 
	qua một qui tŕnh tư tưởng, nghệ sĩ đă thể hiện được một dạng định luật qua 
	sự sáng tạo mà ḿnh tạo ra và định luật được thể hiện ấy luôn luôn là luật 
	hài ḥa. Đó là một định luật mà ta không nghĩ ra được. V́ vậy ta có thể nói 
	tới một sự sáng tạo của tinh thần vốn tuân theo định luật bản thể của nó.
Đâu đâu trong Thiên nhiên cũng có các định luật, 
	nhưng lại có sự tự do; Thiên nhiên – kể cả con người – là sự pha trộn của 
	Tinh thần và Vật chất. Hoặc nếu dùng từ Bắc phạn xúc tích ư nghĩa th́ đó là
	Purusha và
	Prakriti. Prakriti là điều bước 
	vào hiện tồn qua một qui tŕnh, c̣n 
	Purusha vốn nhất như, không biến dị một cách vĩnh hằng; đó là năng lượng 
	luôn luôn tồn tại, nhưng định kỳ lại cấp điện cho gốc rễ vật chất. Atman, 
	tức nguyên khí tinh thần đại đồng vũ trụ, vốn là cơ sở của năng lượng ấy 
	hiện diện ở khắp mọi nơi, nó ở mọi điểm và mọi biểu lộ của nó đều có một 
	khía cạnh vĩnh hằng. Biểu lộ này bị hạn chế bởi v́ muốn biểu lộ ra th́ 
	Atman, tức điểm linh quang của Thượng Đế phải được hiện thân trong lớp vỏ 
	nào đấy, cho nên tác động, ánh sáng của nó bị hạn chế và bị lớp vỏ ấy làm vỡ 
	vụn ra. Ta có thể tŕnh bày biểu tượng điều có bản chất vĩnh hằng là một 
	ṿng tṛn, cho dù lớn hay nhỏ. Nhưng ṿng tṛn ấy phải được cầu phương trong 
	nội bộ sự hạn chế của hiện thể vật chất. Mọi sự việc trong Thiên nhiên đều 
	như thế. Có lẽ đủ thứ h́nh khối Platon thật sự là những giai đoạn trong sự 
	sấp xỉ h́nh cầu vốn là một dạng h́nh tṛn và nghe đâu là h́nh kỷ hà toàn 
	bích.
	Các quyền năng liên quan tới 
	trạng thái hiện tồn
	
Bây giờ ta hăy xét tới các quyền năng tiềm tàng nơi 
	con người. Nếu chúng thật sự tiềm tàng th́ làm sao mà ta khảo cứu hoặc quan 
	sát chúng được? Ta không thể khảo cứu điều mà ta không thể quan sát, mà 
	tuyệt nhiên ta không đụng chạm tới được. Các quyền năng này bằng cách nào đó 
	phải được đưa ra khỏi trạng thái tiềm tàng trước khi ta có thể nh́n thấy 
	chúng, nghiên cứu hoặc xử trí chúng bằng bất cứ cách nào. Có lẽ ta không nên 
	xét theo nghĩa đen nhiều quá mà chỉ hiểu các cụm từ này theo nghĩa tổng quát 
	thôi. Các quyền năng tiềm tàng nơi con người vốn tiềm tàng trong Thiên nhiên 
	và tồn tại dưới dạng một trong những sự sấp xỉ của Thực tại Tố hậu, Tinh 
	thần sâu kín nhất. Ở mỗi mức đều có một sự sấp xỉ vốn là một mức hiện tồn 
	nào đấy. Nói chung ta có thể phân chia các bản chất này thành ra thông linh 
	và tinh thần.
Ta có thể coi cấu tạo của con người bao gồm một cái 
	đáy và một cái đỉnh; đỉnh là một điểm không có kích thước mà ta có thể coi 
	như biểu diễn tâm thức, cho đến nay chưa bị qui tŕnh thời gian nào đụng 
	tới, trong cái giây khắc không ai nắm bắt được đó, nghĩa là hiện tại vốn 
	phân chia quá khứ với tương lai. Có những mức hoặc các b́nh diện trung gian 
	của đáy và đỉnh. Khi có mối quan hệ trực tiếp giữa đỉnh (nghĩa là điểm không 
	có kích thước hoặc chiều đo) và đáy (mà ta có thể coi là nền tảng của vạn 
	vật tức Akasha) th́ mối quan hệ 
	ấy mang tính tinh thần. Nhưng khi mối quan hệ là với một trong các mức trung 
	gian th́ nó có thể là tinh thần hoặc thông linh tùy theo trường hợp. Có 
	những quyền năng thích hợp với mỗi lớp hiện tồn.
Điều này được H. P. Blavatsky nêu ra một cách nổi bật 
	trong một bài viết về sự tiến bộ tinh thần, trong đó bà nhắc tới thần thông 
	và công việc của Hội Thông Thiên Học. Bà nêu rơ rằng để trở thành một Chơn 
	sư có các quyền năng mầu nhiệm th́ người ta phải trở thành “một con người 
	mới, toàn bích về mọi mặt hơn mức hiện nay, và nếu thành công th́ năng lực 
	và quan năng của y sẽ được gia tăng nhanh chóng tương ứng về tầm mức và sức 
	mạnh, cũng giống như trong thế giới hữu h́nh ta thấy rằng mỗi giai đoạn 
	trong qui tŕnh tiến hóa đều được đánh giá bởi sự gia tăng năng lực. Chính 
	v́ thế mà bậc Chơn sư được phú cho các quyền năng mầu nhiệm như người ta 
	thường miêu tả, nhưng điều cốt lơi mà ta cần phải nhớ đó là các quyền năng 
	này tự nhiên đi kèm theo sự tồn tại trên b́nh diện thông thường của con 
	người”.
Thiên hạ thường nghĩ tới việc trau dồi quyền năng này 
	hay quyền năng khác, họ muốn tác động lên tùng thần kinh thái dương hoặc một 
	trung tâm lực nào khác trong hạ thể, nhưng cách thức lại khác hẳn. Cái gọi 
	là quyền năng thật sự là thành quả của cái cây sống động vốn chính là con 
	người. H. P. B. nói thêm:
“Người ta đă sáng lập Hội không phải để dạy những con 
	đường mới mẻ hoặc là dễ dàng nhằm có được các ‘quyền năng’; sứ mạng duy nhất 
	của Hội chỉ là thắp lên trở lại ngọn đuốc chân lư, nó bị tắt ngúm quá lâu 
	đối với mọi người ngoại trừ chỉ một số rất ít, và sứ mạng ấy là giữ cho chân 
	lư ấy sống động bằng cách tạo lập một mối quan hệ huynh đệ trong nhân loại 
	vốn là mảnh đất duy nhất mà hạt giống tốt có thể được gieo trồng trong đó.
“Về vấn đề này chúng tôi xin cảnh báo mọi hội viên 
	cũng như những người khác đang mưu cầu tri thức tinh thần là hăy đề pḥng 
	những người rêu rao dạy cho người khác những phương pháp dễ dàng để đạt được 
	thần thông; quả thật thần thông tương đối dễ đạt được bằng những phương tiện 
	nhân tạo nhưng nó mờ nhạt đi ngay khi kích thích thần kinh đă cạn kiệt. 
	Thuật thấu thị chân chính và quả vị cao đồ chân chính luôn luôn có kèm theo 
	sự phát triển thần thông đúng thực mà một khi người ta đạt được rồi th́ 
	chẳng bao giờ bị mất đi”.
Trong Thư của 
	các Chơn sư có một số phát biểu liên quan tới những bí mật của huyền bí 
	học áp dụng cho các loại thần thông cao cấp. Vào lúc ấy, những người liên 
	lạc thư tín với các Chơn sư phàn nàn rằng các Chơn sư có vẻ miễn cưỡng đưa 
	ra những sự kiện mà ḿnh biết. Thế rồi Chơn sư trả lời rằng:
“Sự thật là chừng nào kẻ sơ cơ c̣n chưa đạt tới điều 
	kiện cần thiết để có được mức độ giác ngộ mà y có quyền và thích hợp để có 
	được, th́ hầu hết nếu không phải là mọi điều bí mật đều không thể trao 
	truyền được”.
Những bí mật ấy không thể được diễn tả nên lời, thậm 
	chí không thể được truyền bằng bất cứ phương tiện thần giao cách cảm nào, 
	khi tâm trí của người khác chưa sẵn sàng để tiếp nhận những điều bí mật ấy. 
	Nếu chẳng phải như vậy th́ các Chơn sư chỉ việc xuất bản một quyển Sổ tay về 
	thuật mà người ta có thể dạy được trong các trường học. Xét theo biểu kiến 
	đó là quan điểm mà rất nhiều người cần phải cứu xét. 
	Mục tiêu thứ Ba: Tầm cỡ và Giới 
	hạn của nó. 
	
Để tổng kết những ǵ mà tôi đă nói th́: Việc nghiên 
	cứu Huyền bí học nói chung th́ có thể mang lại nhiều điều tốt đẹp. Đó là 
	việc nghiên cứu Thiên nhiên, xét theo toàn thể chứ không chỉ những điều xuất 
	hiện trên bề mặt mà c̣n là những định luật và các qui tŕnh ẩn tàng. Khi 
	người ta tiếp thu nó một cách đầy tâm huyết th́ nó có thể soi sáng một cách 
	kỳ diệu, bởi v́ lúc bấy giờ thay v́ chỉ nh́n thấy khía cạnh hời hợt của các 
	sự vật th́ người ta nh́n xuyên suốt qua nó, thấm nhập vào tâm của sự hiện 
	tồn, thấy được điều ẩn đằng sau bề mặt, mở rộng ra phía sau dáng vẻ bên 
	ngoài. Tất cả chúng ta có thể dấn thân vào việc nghiên cứu ấy nhưng muốn 
	“khảo cứu” những định luật và quyền năng ẩn tàng th́ phải có năng lực cần 
	thiết. Việc phát triển năng lực đó là chuyện cá nhân chứ không phải công 
	việc của Hội, Hội không thể mở các trường để phát triển điều đó. Việc mưu 
	t́m quyền năng thật nguy hiểm v́ nó dựng nên việc tự cho ḿnh là quan trọng, 
	muốn được hưởng thụ và áp chế cho dù đó là quyển năng trong thế giới này 
	hoặc quyền năng thuộc một tính cách khác.
Bất cứ ai tuyên bố ḿnh vận dụng thần thông đúng thực 
	th́ điều đó có thể đáng xem xét và tùy thuộc vào người ấy. Nhưng ta nên xét 
	nó bằng một chút sự phân biện. Khi ta không chấp nhận một phát biểu hoặc bác 
	bỏ nó th́ chỉ cần nh́n vào nó hoặc chiêm ngưỡng nó th́ ta ắt biết được phản 
	ứng của chính ḿnh. Nếu ta hưởng ứng sự thật của nó th́ ta hăy ghi nhận sự 
	kiện ấy. Đây quả thật là thái độ cần thiết để theo đuổi Mục tiêu thứ Ba; đối 
	với nhiều đầu óc th́ Mục tiêu thứ Ba cực kỳ mơ hồ bởi v́ ngừoi ta chưa lọc 
	lựa ra được mọi hàm ư của điều ḿnh tin hoặc từ chối không tin, người ta 
	cũng chẳng có ư niệm rơ rệt nào về việc Huyền bí học là ǵ và liệu ta có thể 
	chấp nhận điều ǵ và không chấp nhận điều ǵ. Ta cần hiểu rơ trong tâm trí 
	ḿnh có những mục đích và theo đuổi việc ǵ cho dù liên quan tới Mục tiêu 
	thứ Ba của Hội hoặc bất cứ thứ nào khác.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS