Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lý

 HOME TÌM HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   HÌNH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS


CHƯƠNG  XIV

MỞ ĐẦU CĂN CHỦNG THỨ NĂM

Trích CON NGƯỜI từ đâu tới, Sinh hoạt ra sao và Rồi sẽ đi về đâu

Tác giả Annie Besant và C. L. Leadbeater

Bản dịch: www.thongthienhoc.com

 

CHƯƠNG  XIV

MỞ ĐẦU CĂN CHỦNG THỨ NĂM

 

Như ta đã từng phát biểu trong Giáo lý Bí nhiệm có nói rằng Căn chủng thứ 5 bắt đầu cách đây một triệu năm; điều này dường như nhằm nói tới việc Đức Bàn Cổ Vaivasvata của Căn chủng này bắt đầu tuyển chọn vật liệu. Ngài vốn là một Nguyệt tinh quân, bước đầu được Điểm đạo trên bầu G trong cuộc Tuần hoàn thứ 7 và Ngài cũng đạt quả vị La hán trên đó. Vậy là cách đây chừng một triệu năm, từ chuyến tàu bao gồm nhóm tái sinh 1.200 năm, Ngài chọn ra một số ít người mà Ngài hi vọng sẽ định hình cho giống dân của mình; do đó Ngài duy trì mối liên hệ với những người ấy. 400.000 năm sau, Ngài lại tuyển lựa ra một số nữa. Điều này khá giống như nhìn vào một đàn cừu để tuyển chọn ra những con thích hợp nhất. Trong số này có những con phải bị bỏ rơi dọc đường và do đó sự tuyển chọn thỉnh thoảng lại bị thu hẹp lại.

Sự cách ly một bộ tộc ra khỏi giống dân phụ thứ 5 nước da trắng (các câu Kinh trong Thiền định Chơn kinh miêu tả nó một cách thi vị là giống dân có nước da giống như mặt trăng) để sống ở vùng núi phía bắc đảo Ruta, là bước quyết định đầu tiên trong việc dựng nên Giống dân này và điều đó diễn ra vào khoảng năm 100.000 trước Công nguyên. Nhân tiện xin nói giống dân phụ thứ 5, nói chung nghiện miền sơn cước và người Kabyles ở vùng núi Atlas là những đại biểu trung thực nhất của nó thời nay. Tôn giáo của họ khác với tôn giáo của người Toltec sống ở vùng đồng bằng, và Đức Bàn Cổ lợi dụng điều này để cách ly giống dân phụ ấy. Lúc bấy giờ Huynh trưởng của Ngài là Đức Bồ Tát mà sau này trở thành Đức Phật Thích Ca đã lập nên một tôn giáo mới, người nào gia nhập tôn giáo ấy cũng bị cách ly, được lệnh sống riêng rẽ, cấm kết hôn chéo với các bộ tộc khác. Đệ tử của Ngài đi khắp các xứ khác để chiêu mộ thêm một số người nữa sau này gia nhập đoàn thể chính. Họ được dạy rằng một ngày nào đó họ sẽ viễn du sang một vùng đất khác, đối với họ trở thành vùng đất hứa để sống dưới quyền một vị Vua, một Đấng Chúa tể mà họ chưa hề biết mặt; như vậy là họ ở trong tình trạng đang dọn mình cho sự xuất hiện của một Đấng Cao Cả sẽ dẫn dắt họ; Ngài sẽ dìu dắt dân tộc mình đi tới một nơi an toàn khiến họ có thể thoát được thảm họa sắp đến, một thảm họa năm 75.025 trước Công nguyên .[[1]]

Một số chuyện kể của dân Hebrew có lẽ bắt nguồn từ những sự kiện này mặc dù sau này mới có sự cách ly những người mà lịch sử đã biết là dân Hebrew. Tổ tiên của họ theo sát nghĩa là một dân tộc ‘được tuyển chọn’, được cách ly vì một mục đích lớn.

Nguyên nhân trực tiếp của sự di cư là nguy cơ treo lơ lửng nhà Lãnh đạo Tà thuật sẽ khống chế giống dân phụ da trắng, cho nên Đức Bàn Cổ muốn triệt thoái dân của mình ra khỏi ảnh hưởng ấy. Thế là vào năm 79.797 trước Công nguyên, Ngài triệu tập họ tới bờ biển để cho họ có thể đáp tàu băng ngang qua biển Sahara rồi từ đó đi bộ tiến về phương Nam Ai cập đến Ả Rập. Một hạm đội nhỏ bao gồm 30 tàu được trang bị mà tàu lớn nhất dường như không quá 500 tấn trọng tải; có ba tàu chỉ là tàu một cột buồm mang theo đồ tiếp tế. Đó là những con tàu trông rất cồng kềnh; giương buồm chạy rất tốt theo một hướng gió nhưng chạy hướng khác rất tồi. Một số vừa có buồm vừa có mái chèo và những tàu này chắc chắn không thích hợp với những cuộc viễn du trên biển cả. Tuy nhiên chúng chỉ cần vượt qua vùng nước ở ngay cửa sông của biển Sahara (đó là những loại vùng cong cong nhô ra Đại tây dương) để rồi chỉ giương buồm đi theo vùng nước hầu như nằm trong đất liền. Hạm đội này chở theo chừng 2.900 người, để cho họ đáp xuống bờ biển ở đầu mút phía Đông biển Sahara để rồi quay về chỗ tập kết sẵn sàng cuộc hải hành khác. Cuộc viễn du được thực hiện làm ba lần và quốc gia nhỏ bé bao gồm 9.000 người, gồm đàn ông, đàn bà và con nít có thêm một ít người nữa từ nơi khác xuất hành đi bộ về hướng Đông [[2]].

Họ cũng mang theo một số con thú trông giống như loài lai giống giữa trâu bò và voi, có một thứ gì đó của loài heo, nhắc ta nhớ tới đúng hơn là một con mách; loại thú lai nữa giống này nữa giống khác. Những con thú này được dùng làm lương thực khi đồ tiếp tế đã cạn nhưng bình thường thì được coi là rất quí báu cho nên không được dùng làm lương thực như thế. Trọn cả qui trình lên tàu, đổ bộ xuống tàu, định cư để chờ đồng bọn rồi chuẩn bị chuyến du hành bằng đường bộ chiếm trọn mất vài năm; thế rồi Đức Bàn Cổ cùng với các quan chức khác được vị Thủ lãnh Quần tiên hội biệt phái dẫn dắt họ đi tới vùng cao nguyên Ả Rập nơi họ phải ở lại đó trong một thời gian.

[Vào thời kỳ này, dân Atlante đã chinh phục được Ai Cập và cai trị xứ sở ấy. Họ đã xây dựng nên các Kim tự tháp mà nhiều ngàn năm sau này mới được đặt tên theo Vua Cheops; khi xứ Ai Cập bị trận lụt nhấn chìm cách đây chừng 77.000 năm thì dân chúng cố gắng leo lên các Kim tự tháp dùng làm nơi trú ẩn khi nước dâng lên nhưng thất bại vì cạnh Kim tự tháp trơn trợt. Nền văn minh Atlantis vĩ đại bị tiêu diệt; rồi lại tới trận lụt, rồi bị đám dân giống như da đen cai trị, rồi tới một Đế quốc Atlante khác, rồi một vương triều Aryan (năm 13.500 trước Công nguyên) – tất cả những điều đó có lẽ xảy ra trước đêm mà lịch sử ghi nhận là nước Ai Cập. Nhưng chúng ta không đi theo lối mòn hấp dẫn này.] 

Chỉ cần nói rằng khi đám dân di cư của chúng ta băng ngang qua biên giới Ai Cập thì nền văn minh rực rỡ Toltec đang thời oanh liệt. Người cai trị xứ Ai Cập thời đó theo truyền thống của Toltec cho rằng các dân tộc khác tồn tại để người Toltec lợi dụng, cho nên ra sức mua chuộc họ cứ ở lại trên lãnh thổ của mình. Một số người bị cám dỗ và ở lại vùng lãnh thổ hạ Ai Cập, bất chấp mệnh lệnh của Đức Bàn Cổ cho nên chỉ ít lâu sau đó trở thành nô lệ cho dân Toltec đang chiếm ưu thế.  

Những dân di cư khác đến với Ả Rập qua con đường hiện nay là kênh đào Suez để rồi được Đức Bàn Cổ cho định cư theo từng nhóm ở đủ thứ thung lũng thuộc các vùng cao nguyên của xứ Ả Rập vĩ đại. Một giống dân gần như da đen ở rải rác trên xứ sở này và vùng thung lũng đó thật phì nhiêu khi được tưới nước. Nhưng dân di cư không thích nơi định cư mới của mình lắm, và trong khi đa số nhân dân được Đức Bàn Cổ Vaivasvata huấn luyện ở đảo Ruta, thậm chí vẫn còn cuồng tín trung thành với Ngài thì thế hệ trẻ hơn lại càu nhàu rất nhiều vì đó là một công trình tiên phong chứ đâu phải là ‘chuyện du hí theo sự chỉ đạo cá nhân của Cook’.

Chúng tôi thấy ở một trong các thung lũng đó có một số lớn nhóm người tái sinh 1.200 năm và 700 năm kể cả nhiều thành viên trong gia đình và lòng sùng tín của họ chắc chắn lên tới mức cuồng tín bạo động. Họ đề nghị giết hết những kẻ nào không hoàn toàn tận tụy với Đức Bàn Cổ và sẵn sàng đánh đuổi những kẻ bỏ chạy, đào ngũ sang định cư thoải mái ở Ai cập. Điều này khiến cho họ chọc giận đám người Ai Cập gây ra một cuộc tàn sát đáng kể mà đám người cuồng tín cố quét sạch.

 Mars và Corona dũng cảm chống cự với người Ai Cập tấn công xâm lược, trong khi một đội quân cánh hông trong đám đó có Herakles (một thanh niên còn độc thân) đã nhầm lẫn hướng tấn công của quân địch cho nên bị người Ai cập tiêu diệt. Đức Bàn Cổ Vaivasvata đem viện binh sang lật ngược thế cờ đẩy lùi quân Ai cập; dến lượt một đạo binh cánh hông của Ai Cập bị lực lượng hùng hậu tấn công trong đám lực lượng ấy có Sirius là cha của Herakles xông xáo giận dữ đi tìm đứa con trai của mình trong đám xác tử trận. Vì thông thạo địa hình của xứ này cho nên họ lùa quân Ai Cập vào một hẻm núi giống như miệng núi lửa với những dốc đá thẳng đứng có sẵn những viên đá bấp bênh; họ hân hoan lăn những tảng đá này xuống kẻ thù đang bị bao vây. Lần cuối cùng chúng tôi trông thấy Sirius nhân dịp này là khi y lao xuống dốc thẳng đứng trong khi các tảng đá ào ạt trút xuống, vung vẩy cây giáo, hát lên bài ca chiến thắng có bản chất chẳng lấy gì đáng khen để rồi trở thành một bộ phận trong khối người bị nghiền nát, máu đông cứng lại với những tảng đá nặng nề lấp đầy phần thấp nhất của hố miệng núi lửa.

Một số quân Ai Cập cuối cùng trốn thoát về tới Ai Cập, ngay tức khắc bị xử tử vì đã làm ô danh đại quân thất trận.

Sau đó là một thời kỳ thái bình cho đám kiều dân di cư và họ cày cấy nơi vùng thung lũng ấy, ở đây về mùa đông thì khá lạnh còn vào mùa hè thì nóng như thiêu như đốt. Họ mang theo đủ thứ hạt giống của Châu Atlantis và một số những thứ này thích hợp với nơi định cư mới của họ; họ trồng một số trái cây vô vị giống như quả táo; còn ở sườn bên phía nóng bức của thung lũng thì họ trồng một trái cây rất lớn, lớn bằng đầu người, dính nhừa nhựa và nói chung nát bấy, giống như quả chà là. Một loại hố núi lửa nơi mặt trời phản chiếu từ những tảng đá xuống được dùng làm vườn ươm cây, từ đó họ tạo ra một trái cây có kích cở bằng quả dừa mà họ có vẻ tự hào quá lố về quả ấy. Trái cây này rất bổ dưỡng, khi được nung trong nước nó cung cấp cho ta đường bằng cách làm cho nước bốc hơi, trong khi cặn trái cây cung cấp một loại bột mà thiên hạ dùng để làm ra một loại bánh mì sữa ngọt. Sirius lận trong người hai ổ bánh mì sữa ngọt này khi lao xuống sườn dốc tử sĩ.

Trong kiếp sau, Herakles xuất hiện là một thiếu nữ dong dỏng cao, mình dây trông khá lộng lẫy, treo lủng lẳng một cái nôi làm bằng vỏ cây trên một cây giống như cây me trong đó có một đứa em trai sơ sinh là Sappho đang khóc oe oe.

Việc tuyển lựa giống dân phụ thứ 5 của giống dân chính Atlante đã tăng trưởng và nhân lên cực kỳ nhanh chóng cho nên trong khoảng 2.000 năm, họ đã trở thành một quốc gia nhiều triệu dân; họ hoàn toàn cách ly với thế giới nói chung qua một dải cát mà chỉ những đoàn lữ hành mang theo nhiều nước mới băng qua nổi; chỉ có một lối đi độc đạo với cỏ và nước băng ngang qua đó, nơi mà thánh địa Mecca hiện nay còn tồn tại xung quanh đó. Thỉnh thoảng thì đám dân di cư lại rời bỏ đoàn thể chính, một số người định cư ở miền Nam Palestine, còn một số người ở miền Nam Ai Cập; đại diện của Đức Bàn Cổ khuyến khích những phong trào này vì vùng cao nguyên có kích thước giới hạn đã đông nghẹt người đến mức khó chịu. Loại người bất hảo nhất được tống đi làm dân di cư trong khi Đức Bàn Cổ duy trì những người đầy triển vọng nhất không cho trộn lẫn với những người khác trong nội bộ vành đai sa mạc của mình. Thỉnh thoảng người ta lại gợi ý cho một đoàn lữ hành dân định cư nên rời bỏ nơi đây đi làm kiều dân để lập nên một thành thị mới; loài ngựa được phát triển trong đám người di dân ấy. Đôi khi chính Đức Bàn Cổ cũng lâm phàm và đám hậu duệ của Ngài tạo thành một lớp người riêng biệt thuộc loại hình được cải tiến khá tốt. Nhưng thường thường thì Ngài không có mặt trên cõi trần mà điều khiển công việc thông qua những người phụ tá, trong số đó Jupiter và Mars là những khuôn mặt nổi bật nhất.

Dân chúng mang tính du mục và canh nông cho nên không định cư ở các thành thị lớn và vùng cao nguyên đặc nghẹt dân cư đến nỗi cuối cùng cách đây khoảng 3.000 năm nó giống như một làng duy nhất khổng lồ, bấy giờ Ngài biệt phái một số lớn dân sang Phi Châu để thành lập một đám kiều dân lớn nhằm làm giảm số dân định cư ở trung ương. Sau này thì đám kiều dân Phi châu cũng bị tiêu diệt sạch. Chỉ một vài năm trước thảm họa 75.025 trước Công nguyên, khi nhận được thông điệp của Đấng Thi hành Quần tiên hội; Đức Bàn Cổ mới tuyển lựa 700 người trong dòng dõi mình dẫn chúng lên phía Bắc. Một lần nữa Ngài biến giống dân này thành một giáo phái phi chính thống; sinh hoạt nghiêm túc hơn so với những người xung quanh cho nên đám người chính thống mà họ trà trộn vào đó chẳng có thiện cảm gì mấy với họ. Thế là Ngài khuyên họ nên theo Ngài đi tới nơi có thể sống yên bình, thoát khỏi sự hành hạ của đám người chính thống, nơi này phải đi xa mất nhiều năm mới tới. Xét theo biểu kiến thì ngay cả những phụ tá của Ngài cũng không được nhận vào hàng thân tín mà chỉ theo mệnh lệnh của Ngài; trong số những vị này có nhiều người nay là các Chơn sư, còn một số khác đã tiến hóa rời xa hệ thống trái đất.

Số người theo Ngài cũng nhỏ thôi, họ tạo thành một đoàn lữ hành đơn độc và Đức Bàn Cổ gởi một thông điệp cho nhà trị vì Đế quốc Sumiro Akkad xin được bình an đi qua lãnh thổ của ông ta, bao gồm nước Thổ nhỉ kỳ hiện nay ở vùng Châu Á, xứ Ba Tư và những xứ vượt ngoài nước đó. Ngài tới biên giới của Đế quốc ấy chẳng khó khăn gì và vị Hoàng Đế tỏ ra thân thiện; hộ chiếu của Ngài đưa Ngài thẳng vào xứ Turkestan, rồi từ đó Ngài phải ứng đối với một Liên bang các nước phong kiến Turania bao gồm xứ hiện nay là Tây Tạng. Ngài băng qua những rặng núi mà một trong số đó là rặng Thiên sơn hiện nay; các rặng này đánh dấu biên giới của biển Gobi và chạy dài tới tận Bắc băng dương. Ngài đã băng qua xứ Mesopotamia và Babylon, đi xéo về phương Bắc; những rặng núi mà Ngài phải băng qua không cao lắm; Liên bang Turania cho phép Ngài đi qua, một phần vì dân của Ngài không đông đến nỗi khiến người ta phải sợ và một phần vì Ngài nêu rõ rằng mình đang thi hành một sứ mệnh do Đấng Tối Cao phó thác. Sau một vài năm du hành, Ngài đã tới bờ biển Gobi nhưng vì nhớ kỹ thông điệp mà mình nhận được cho nên Ngài không ở lại vùng đồng bằng mà lại quay về vùng đồi núi ở phương Bắc nơi có biển cạn rộng mênh mông trải dài về hướng Bắc tới tận Bắc băng dương và thề là tới tận Bắc cực. Vào lúc đó Ngôi sao Lemuria đã bị vỡ ra thành nhiều mảnh và điểm gần nhất cách khoảng 1.000 dặm về phương Bắc. Ngài bổ nhiệm một số người theo mình đồn trú tại một mỏm đất nhìn ra phía Đông Bắc, nhưng đa số định cư ở một vùng lõm phì nhiêu giống như miệng núi lửa, một điều gì đó giống như chén rượu của Ma quỉ ở Surrey nhưng lớn hơn nhiều; đây không còn là vùng đất liền nữa mặc dù đứng từ đỉnh núi kế cận, họ có thể nhìn thấy biển. Từ mỏm đất này vốn vươn cao lên, họ có thể thấy biển Gobi và vùng đất mà sau này họ phải định cư ở đó. Đây phải là nơi định cư của họ cho mãi đến lúc sau cuộc đại tai biến lúc bấy giờ đã gần kề rồi. Bạch Đảo ở phía Đông Nam và hoàn toàn khuất tầm mắt mặc dù sau này khi ở đó có những đền thờ cao vòi vọi thì từ địa điểm này ta có thể nhìn thấy nó. Mỏm đất và vùng đất kề cận được tạo thành từ những bờ đá chìa ra vốn chẳng bị động đất gây thiệt hại bao nhiêu trừ phi toàn thể vùng đất này bị tách rời ra. Ngài ở lại nơi đây cho đến khi tai qua nạn khỏi và cần phải mất vài năm mới định cư ở đó được. Nhiểu người chết trên đường đi và sau khi đến nơi bản thân Ngài phải luân hồi để cải thiện mẫu hình này nhanh hơn nữa.

Như ta có nói trên kia, những người này đều thực sự là gia đình của Ngài, là con cháu mang dòng máu của Ngài và khi các thể xác chết đi thì Ngài tụ tập các Chơn ngã lại thành ra những Chơn ngã mới được cải tiến.

Con người Sắt thép tái sinh ở Atlantis lại nắm quyền trị vì xét theo biểu kiến cũng chẳng minh triết hơn so với những kinh nghiệm trước kia. Y lại chiếm được Kim môn thành và các loại hình cao cả của dân Atlante bị đàn áp rất nhiều.

Kim môn thành bị đột ngột hủy diệt do biển tràn vào qua những khe nứt khổng lồ vì bị nổ gas; nhưng không giống như tai biến khiến cho đảo Poseidonis chìm xuống trong vòng 24 tiếng đồng hồ, những cơn co quắp này tiếp diễn trong một thời kỳ tới hai năm trời. Những vụ nổ thêm nữa xảy ra tạo những khe nứt mới, các trận động đất làm đất đai rung chuyển vì mỗi vụ nổ lại gây ra sự xáo trộn thêm nữa. Rặng Hi mã lạp sơn được nâng lên cao một chút; vùng đất ở phía Nam Ấn Độ cùng với cư dân bị chìm xuống; Ai Cập bị chìm xuống nước, chỉ có các Kim tự tháp là trồi lên trên mặt nước; lưỡi đất trải dài từ Ai Cập tới vùng nay là Maroc và Algerie đã biến mất, hai xứ sở này vẫn còn sống sót dưới dạng hòn đảo nằm giữa Địa trung hải và Biển Sahara. Biển Gobi có dạng hình tròn, đất trồi lên hiện nay là vùng Tây bá lợi á, ngăn cách nó với Bắc băng dương; vùng Trung Á trồi lên và nhiều thác nước do những trận mưa không tiền khoáng hậu đào những rảnh nước sâu hút ngang qua vùng đất mềm nhão.

Trong khi những biến đổi địa chấn này đang tiếp diễn thì cộng đồng của Đức Bàn Cổ vẫn không bị rối loạn do bị tách rời hoàn toàn hoặc biến đổi trên bề mặt đất; nhưng dân chúng thường xuyên khiếp sợ trước những cơn dư chấn lập đi lập lại và hầu như bị tê liệt vì e rằng mặt trời (vốn bị khuất mắt hết một năm trời do một khối mây khổng lồ phần lớn cấu thành đất bụi mịn che khuất) vĩnh viễn biến mất. Thời tiết thật là hết chỗ nói. Mưa như thác đổ hầu như trút xuống liên miên; các khối hơi nước và mây bụi bao phủ quả đất làm cho bầu trời tối đen. Chẳng có thứ gì mọc được thoải mái và người ta bị thiếu đói nghiêm trọng. Do tình hình khó khăn ấy cộng đồng thoạt tiên bao gồm 700 người về sau tăng lên thành 1.000 người rốt cuộc giảm xuống chỉ còn 300 người. Chỉ những kẻ mạnh là còn sống sót, kẻ yếu bị diệt vong.

Vào cuối năm thứ 5 thì họ lại bắt đầu được định cư; vùng lõm giống như chén rượu đã trở thành một hồ nước; một số năm thời tiết ấm áp, nối tiếp những năm tháng xáo trộn; nhiều vùng đất trinh nguyên đã nổi lên và họ có thể cày cấy trên vùng đất ấy. Nhưng Đức Bàn Cổ đang già đi và nhận được lệnh đưa dân chúng về Bạch Đảo. Khi nghe mệnh lệnh là Ngài vâng lời ngay.

 Ở đó nhờ chính Thủ lĩnh Quần tiên hội, Ngài thấy trải ra trước mắt mình thiên cơ vĩ đại cho tương lai, kéo dài từ hàng ngàn năm tới hàng vạn năm. Dân chúng của Ngài phải sống trên vùng đất liền trên bờ Biển Gobi và họ phải gia tăng dân số cũng như hùng mạnh lên. Giống dân mới phải được gầy dựng nơi chính Bạch Đảo và khi nó đã gia tăng dân số thì một Thành thị hùng mạnh sẽ được xây dựng ở bờ đối diện để cho nó định cư ở đó theo gợi ý về kế hoạch của Thành thị. Có một rặng núi băng ngang qua bờ Biển Gobi cách xa chừng 20 dặm và những đồi núi thấp trải ra từ rặng núi ấy cho tới bờ biển; có bốn thung lũng lớn chạy từ bên trong rặng núi cho tới vùng biển hoàn toàn tách rời với nhau do có những đồi chen vào giữa. Ngài phải định cư một số gia đình ưu tuyển nơi những thung lũng ấy, phát triển trong đó bốn giống dân phụ riêng biệt để rồi sau đó phái chúng đi tới những nơi khác nhau trên thế giới. Ngài cũng biệt phái một số cư dân của mình đi sinh sản ở nơi khác, rồi lại đưa họ về để tạo thành những cuộc phối giống mới vì họ sẽ kết hôn, gia nhập vào dòng dõi của Ngài; khi loại hình này đã sẵn sàng thì Ngài lại phải nhập thể vào nó để ổn định nó. Đó là vì căn chủng cũng cần tới một sự phối giống nào đó chứ loại hình mẫu không hoàn toàn thỏa đáng.

Vậy là phải tạo lập nên một loại hình chính và nhiều loại hình phụ, những sự khác nhau phải bắt đầu vào thời kỳ tương đối sơ khai, vậy là được năm nhóm phát triển theo những đường lối khác nhau. Thật thú vị mà lưu ý thấy rằng sau khi chấn chỉnh dân tộc mình trong hàng thế hệ, cấm không cho kết hôn với những kẻ ngoại tộc thì sau này Ngài lại thấy cần phải du nhập một ít dòng máu ngoại lai để rồi cách ly đám hậu duệ ấy ra khỏi tổ tiên ngoại lai.

Vào khoảng năm 70.000 trước Công nguyên, Đức Bàn Cổ tiến hành cho định cư dân chúng, ra lệnh cho họ xây dựng các làng mạc ở vùng đất liền, gia tăng dân số ở đó trong chừng vài ngàn năm. Họ không phải bắt đầu từ khởi điểm giống như kẻ dã man vì họ đã là những người văn minh rồi và biết sử dụng nhiều loại máy móc tiết kiệm lao động. Ở một trong những thị trấn rải rác khá rộng dọc theo vùng bờ biển, chúng tôi lưu ý thấy có một số khuôn mặt quen thuộc. Mars vốn là cháu của Đức Bàn Cổ, lãnh đạo cộng đồng này cùng với vợ là Mercury và gia đình – trong số đó có Sirius và Alcyone – sống trong một căn nhà thoải mái bao quanh là vườn cây trái rộng rãi đẹp đẻ. [[3]]

Ở đó cũng có Corona và Orpheus là một nhà quí tộc già nua và oai vệ, có nhiều tư cách và được mọi người kính nễ. Jupiter là Thống đốc của một tỉnh – tạm gọi toàn thể nơi định cư của giống dân còn ấu trĩ này bao gồm 7.000 linh hồn bằng thuật ngữ ấy – nắm quyền mà Đức Bàn Cổ ủy thác cho mình, Đức Bàn Cổ là Vua được cộng đồng thừa nhận trị vì ở Shamballa.

Khi chúng tôi đang quan sát thị trấn ấy thì có một đám hỗn quân, hỗn quan phi ngựa tới mà hiển nhiên là tính cướp bóc, chúng cưỡi trên những con thú trông thật thô kệch, giống như ngựa mà cầm đầu là Vajra, chúng ào vào nhà Mars, vốn là anh của Vajra rồi chẳng bao lâu sau lại phi ngựa đi cũng ồn ào như khi đến; chúng tôi theo gót chúng tới một thị trấn khác cũng ở trên bờ biển Gobi nơi chúng tôi thấy Viraj là Thủ lĩnh. Con trai Viraj là Herakles thuộc về băng cướp ấy, trong số đó chúng tôi quan sát thấy cũng có Ulysses nữa.

Ở đây, ta thấy có nhiều khuôn mặt quen thuộc hơn; Cetus và Ulysses đang hiềm khích với nhau; thoạt tiên chúng cãi nhau về một con thú mà cả hai cho rằng mình đã giết chết, rồi cãi nhau về đất đai mà cả hai đều muốn chiếm, rồi cuối cùng tranh chấp một người phụ nữ mà cả hai đều ham muốn. Pollux và Herakles đều là những người bạn chí cốt, Pollux đã cứu mạng Herakles trong một trận cướp bóc khi Herakles ở trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc. Một trong các con gái của Herakles là Psyche, một cô gái vạm vỡ mới 14 tuổi đã khiến chúng tôi chú ý vì bồng trên tay đứa em nhỏ là Fides, khi bị một con dê lớn tấn công. Con dê có sừng lớn uốn cong ở dưới đáy nhưng có mũi nhọn, thế mà cô gái chẳng hề nao núng, cô nắm lấy sừng dê bẻ quặc nó lại rồi chụp lấy chân sau của con dê, cô nện mạnh nó xuống mặt đất. Đứa trẻ Fides dường như là cục cưng trong gia đình vì chúng tôi lưu ý thấy Herakles cõng nó trên vai.

Một vài năm sau Đức Bàn Cổ (lúc ấy đã rất già) gây ra nhiều kích động khi gởi mệnh lệnh tới cho Jupiter, Corona, Mars và Vajra; đến lượt họ tuân lệnh Ngài tuyển lựa một số trẻ con trong cộng đồng định cư để gửi chúng lên Shamballa; những đứa trẻ này là thành phần ưu tú nhất trong cộng đồng, rồi từ đó trở đi đã vươn lên tới quả vị Chơn sư. Đó là các con trai của Alcyone, tức Uranus và Neptune, và các con gái của Alcyone là Surya và Brihaspati; người ta cũng tuyển lựa những đứa trẻ trai là Saturn và Vulcan cùng với một bé gái là Venus. Một số phụ nữ được biệt phái đi theo chúng để chăm sóc chúng, những đứa trẻ được nuôi dưỡng ở Shamballa, đến đúng lúc thì Saturn cưới Surya, còn Đức Bàn Cổ tái sinh thành con trai lớn của họ để tái khởi động giống dân này ở mức cao hơn.

Đó là vì trong thời gian ấy mọi chuyện trên đất liền đã biến động. Chẳng bao lâu sau khi những đứa trẻ nêu trên được tiến cử đi thì dân Turania lại càn quét cộng đồng giống như trận lụt tàn phá; chính Đức Bàn Cổ đã cảnh báo các phụ tá của mình về biến cố này cho nên mới cứu đám trẻ con; dân chúng dũng cảm đẩy lùi quân xâm lượt nhiều lần nhưng hết đội quân này nối tiếp đạo quân khác. Cuối cùng thì đa số chiến sĩ đều tử trận và bãi chiến trường trở thành mọt lò sát sinh, nam phụ lão ấu đều chẳng ai toàn mạng. Người bạn cũ của chúng ta là Scorpio vốn là Thủ lĩnh của một bộ tộc, một lần nữa lại mua thù chuốc oán với Herakles qua mối thù truyền kiếp. Một số đứa trẻ nhiều triển vọng cũng bị thiệt mạng nhưng xét cho cùng thì cũng chẳng quan trọng lắm, vì tất cả đều tái sinh cùng với nhau, ông bà, cha mẹ, con cái, đều sẵn sàng trở lại khi Đức Bàn Cổ tạo dựng dòng dõi của mình. Mars trở lại sớm hơn, sinh ra ở Shamballa là em của Đức Bàn Cổ còn Viraj là chị Ngài.

Thế rồi mọi chuyện lại bắt đầu, nhưng ở một mức cao hơn; họ phát minh hoặc tái phát minh ra nhiều dụng cụ hữu ích và trong chừng vài ngàn năm thì đã có một nền văn minh phồn thịnh. Trong đám những người tiên phong lại có những bạn cũ của ta, lần này Herakles là con trai của Mars. Những người thuộc nhóm Phụng sự viên sinh ra lúc bấy giờ làm việc vất vả theo sự chỉ huy của các thủ lĩnh, ra sức thi hành ý chí của các Ngài. Cho dù họ thường ngu đần và dốt nát nên thường mắc nhiều lầm lỗi, nhưng họ luôn luôn trung thành và toàn tâm, toàn ý, điều đó khiến họ gắn bó mật thiết với những người mà mình phục vụ.

Người ta xây những căn nhà có kích thước lớn để làm nơi trú ngụ cho nhiều thế hệ (quả thật là đủ mọi thành viên trong gia đình tạm trú đại đồng đường), nhà được củng cố bằng một lối đi duy nhất dẫn vào đó với những cửa sổ trông ra một sân vườn lớn ở giữa nơi mà đàn bà, con nít có thể sinh hoạt an toàn. Sau một thời gian thì người ta xây những bức vách kiên cố xung quanh làng mạc và thị trấn để phòng ngự thêm nữa vì bọn dã man Turania thường xuyên lượn lờ nơi ngoại vi của cộng đồng, khủng bố đám cư dân bằng những tiếng gào rú dã man và những trận đột kích. Vành đai làng mạc bên ngoài ở trong tình trạng báo động triền miên, những người sống ở ven biển tương đối được thanh bình hơn.

Khi giống dân lai tăng trưởng tới mức trở thành một quốc gia nhỏ thì người Turania lại quyết tâm tấn công một lần nữa. Cuối cùng lại tàn sát một lần nữa chỉ để lại một ít trẻ con và các bảo mẫu được cứu thoát đưa lên Shamballa. Thật đáng lưu ý khi thấy rằng ngay cả những kẻ Turania khát máu cũng không dám tấn công Bạch Đảo vì chúng kính trọng sâu sắc nơi này. Thế là Giống dân kiểu mẫu vẫn được bảo tồn cho dầu đại đa số dân chúng bị tiêu diệt hết hai lần và vào mỗi dịp ấy thì Đức Bàn Cổ cùng với những người phụ tá lại nhập thể ngay khi có thể được, tẩy trược nó thêm nữa để tiến gần tới loại hình vốn là mục tiêu của mình.

 

-------------------------------



[[1]] Thường được gọi là thảm họa năm 80.000 trước Công nguyên.

[[2]]  trong số 9.000 người này thuộc giống dân phụ thứ 5;  thuộc giống dân Akkad và  thuộc giống dân Toltec, mỗi giống dân đều chọn loại tốt nhất.

[[3]] Xem phụ lục số 3


 HOME TÌM HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   HÌNH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS