|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
MINH TRIẾT CỔ TRUYỀN
TRONG ÁO NGHĨA THƯ
(The Ancient Wisdom
of Upanishats)
Tác giả Annie Besant
Bốn bài thuyết tŕnh tại Hội
nghị Thường niên lần thứ 31
của Hội Thông Thiên Học, ở
Adyar, tháng 12 năm 1906.
|
|
Nhà Xuất bản Thông Thiên Học Benares
và Luân đôn năm 1907.
MỤC LỤC
Bài Thuyết tŕnh thứ
nhất:
Brahman là Tất cả
Bài Thuyết tŕnh thứ
nh́:
Ishvara
Bài Thuyết tŕnh thứ
ba:
Jīvātmās
Bài Thuyết
tŕnh thứ tư:
Ṿng Sinh tử Luân hồi.
LỜI NÓI ĐẦU
Chẳng cần nói ǵ
nhiều khi đưa tập sách này ra giới thiệu với thế giới. Đó là một toan tính,
một toan tính rất khiêm tốn để lấy ra một vài giọt nước từ những giếng cổ
truyền của Minh triết Āryan, và hiến dâng chúng để giải khát cho những linh
hồn đang mệt mỏi, đang đi qua sa mạc để mưu cầu Chân lư.
Áo nghĩa thư là độc nhất vô nhị
trong kho tài liệu kinh điển thánh thiện của thế giới. Nó đứng riêng ra là
ngọn hải đăng trên đỉnh núi, chỉ ra con người có thể leo cao xiết bao, Ánh
sáng của Tự ngă có thể soi sáng nhiều xiết bao thông qua cái lớp vỏ đựng
bằng đất sét, Thượng Đế có thể nói chân thật xiết bao thông qua con người.
Đối với một người như tôi th́ dường như đó là một giả định phải nói về
chúng, phải viết về chúng, thế nhưng có thể nó giúp đỡ cho một số những
huynh đệ của tôi ngay cả theo cách này.
Chính tôi đă dịch
thuật, nhưng tôi thiết tưởng ta thấy nó là chính xác mặc dù kém vụng về hơn
so với những điều đă được dịch thuật, được biết ở phương Tây. Tôi đă dứt
khoát không dịch một từ ngữ là tapas.
Trong tiếng Anh không có một từ ngữ nào diễn tả được ư nghĩa của nó; người
ta đă đưa ra nhiều cách dịch: khổ hạnh, sám hối, hạnh đầu đà, sùng tín - tất
cả đều có trong đó nhưng nó có ư nghĩa nhiều hơn tất cả những thứ ấy. Nó có
từ nguyên là tap tức là đốt cháy.
Nó có nhiệt ở bên trong, có lực đốt cháy thiêu rụi tất cả. Bên trong nó có
lửa tư tưởng tức là lửa sáng tạo. Bên trong nó có lửa ham muốn, lửa đốt ngấu
nghiến. Ta có thể định nghĩa nó là “một hoạt động thể chất, kiên cường, bền
bĩ, được kiểm soát nghiêm nhặt và được điều khiển bởi ư chí để đi tới một
cứu cánh đă định và được tư tưởng tập trung khống chế. Nhờ
tapas Brahmā đă sáng tạo ra các
thế giới; nhờ tapas Vishnu đă có
được địa vị cao siêu, nhờ tapa
Mahādeva trở thành đấng Jagat Guru. Nhờ
tapas mọi đấng Rishi đă có được
những quyền năng siêu nhân và giành được những lợi ích từ bàn tay của ngay
cả Chư thiên không sẵn ḷng. Do đó tôi đă giữ cho từ ngữ này ở nguyên dạng
và nó dần dần sẽ trở thành một bộ phận của kho từ vựng Thông Thiên Học cũng
giống như karma và
dharma đă như thế rồi.
Như vậy, xin mong
sao quyển sách nhỏ này sẽ tiến hành sứ mệnh của ḿnh và thu hút được một số
người để nghiên cứu về cội nguồn của nó.
ANNIE
BESANT
Benares, năm 1907
BÀI THUYẾT TR̀NH THỨ NHẤT
BRAHMAN LÀ TẤT CẢ
Thưa các Huynh đệ:
Hôm nay tôi không
thể bắt đầu diễn thuyết vào cuộc Đại hội đầu tiên mà tôi đă từng bắt đầu,
đưa ra bài diễn thuyết mà không có vị Hội trưởng Sáng lập thân thương ở bên
cạnh ḿnh. Tôi không thể bắt đầu mà không gởi tới cho căn pḥng chữa bệnh
của ông một thông điệp yêu thương, một thông điệp đồng cảm kính cẩn đối với
người phục vụ trung thành nhất và trung kiên nhất của các Chơn sư Thánh
thiện; trong ṿng 31 năm, ông đă mang ngọn cờ của Hội mà không nao núng, bất
chấp mọi khó khăn, mọi rắc rối về những người bạn đă phản bội, về những kẻ
thù đă đả kích, nhưng ông chẳng bao giờ nao núng, chằng bao giờ bị dao động,
chẳng bao giờ lay chuyển được ḷng trung thành của ông đối với các Chơn sư.
Và do đó mong sao các Chơn sư sẽ ở với ông, mong sao các Chơn sư sẽ tiếp dẫn
ông khi ông rời bỏ chúng ta bước vào một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Năm vừa qua tôi có
nói chuyện với các bạn về Chí Tôn Ca,
là quyển sách giáo khoa của các tín đồ trên thế giới. Năm nay tôi xin cố
gắng nói chuyện với các bạn về tinh túy của
Áo nghĩa thư, sách giáo khoa của
đạo sĩ Jñāna. Những quyển sách này là một bộ phận kỳ diệu nhất của kinh Phệ
đà mầu nhiệm, những quyển sách này có chứa đựng Vedānta, là cứu cánh, là mục
đích của kinh Veda; những điều này chúng ta cần phải nghiên cứu chỉ trong
ṿng có vài tiếng đồng hồ ngắn ngủi. Những quyển sách ấy nói cho ta biết về
Brahman tức là Thượng Đế của Vũ trụ, của Con người: bản chất của Thượng Đế,
bản chất của Vũ trụ, bản chất của Con người; và chúng coi những Chân lư vĩ
đại căn bản này theo một ư nghĩa trừu tượng triết học và siêu h́nh nhất.
Chúng chỉ giáng xuống vào phần cụ thể để tŕnh bày một số minh họa nào đó,
một số ẩn dụ tương tự nào đó, một điều ǵ đó để làm minh giải hơn việc tŕnh
bày những tư tưởng mà ta không nắm bắt được, và có thể bị thất tung do phạm
vi của chúng có tầm mức quá rộng lớn về nội hàm, cho nên những từ ngữ ấy
được tŕnh bày không thể nói lên hết cái tinh túy cốt lơi của Brahma Vidya,
tức là Minh triết Thiêng liêng, tức Thông Thiên Học. Tôi xin nói trong mức
độ mà từ ngữ có thể tŕnh bày, bởi v́ ngay cả thông qua
Áo nghĩa thư th́ chúng ta cũng
chỉ có thể tŕnh bày Brahma-Vidyā dưới dạng tŕnh bày trí thức. Từ ngữ không
thể làm được điều ǵ hơn nữa. Brahma-Vidyā chân thực là tri thức về Tự ngă,
th́ không phải là vấn đề về từ ngữ, không phải là vấn đề về giáo huấn. Điều
đó không thể được một bậc Đạo sư thánh thiện nhất ban cho một đệ tử có khả
năng ưu tú nhất. Nó không thể được truyền thụ từ miệng này sang tai kia, từ
trí này sang trí nọ, thậm chí từ Tự ngă này sang Tự ngă kia. Ta có thể tŕnh
bày những cuộc khai tâm khác về đường lối rực rỡ của minh triết, những sự
khai tâm hầu như không thể tin được về sự đẹp đẽ; nhưng cái sự khai tâm tối
cao nhất về tri thức của Tự ngă ắt phải được mỗi Tự ngă thực hiện cho riêng
ḿnh, khi đă sẵn sàng gợi mở ra vào trong sự viên dung của Thiên tính của
chính ḿnh. Không ai khác nữa có thể tŕnh bày nó; không ai khác nữa có thể
truyền thụ nó; chỉ có đấng Brahman ở bên trong mới có thể biết được đấng
Brahman ở bên ngoài. Điều này khiến cho cuộc Điểm đạo cuối cùng tối hậu và
cao siêu nhất chính là do Tự ngă được điểm đạo. Không điều ǵ nữa có thể ban
cấp nó, cũng không điều ǵ nữa có thể giữ lại nó.
Thế c̣n Brahma-Vidyā
nghĩa là ǵ? Đó là chân lư trung tâm của
Áo nghĩa thư. Đó là tự tính trong
bản chất của Tự ngă Vũ trụ và Tự ngă Đặc thù; Tattvamasi, ngươi là CÁI ĐÓ.
Đây là chân lư tối hậu, đây là mục tiêu của mọi minh triết, của mọi ḷng
sùng tín, của mọi hoạt động đúng đắn: Ngươi là CÁI ĐÓ. Không điều ǵ kém hơn
Minh triết của Áo nghĩa thư;
không điều ǵ nhiều hơn điều ấy - v́ chẳng có ǵ nhiều hơn điều đó. Đây là
chân lư cuối cùng của mọi chân lư; đây là trải nghiệm tối hậu của mọi trải
nghiệm.
Cách đây không lâu,
khi đọc trong một tạp chí lỗi lạc tiếng Anh [Tạp
chí Hibbert số tháng 10, năm 1906.
Tác phẩm đă dẫn của William Tally
Seeger] tôi đă lướt qua một bài tên là
Giá trị có Tầm quan trọng Sống c̣n
trong ư niệm về Thượng Đế của Ấn
giáo, và trong đó điều này được nhận xét, và quả thật người ta có nhận
xét hoàn toàn đúng là: Brahman thật đáng nghi ngờ nếu trong bất cứ quốc gia
nào khác hơn Ấn Độ mà có một tỉ lệ lớn như vậy về những người trí thức được
tôn kính đă đồng ư - và hành động theo đó - cho rằng hạnh phúc lớn lao nhất
tối hậu công dụng mà họ có thể ứng dụng cho bản thân ḿnh đó là việc mưu cầu
cần mẫn và dũng cảm t́m kiếm Thượng Đế, c̣n tất cả những ǵ khác trên cuộc
đời này xét về tầm quan trọng đều được coi là phụ thuộc. Thế mà tác giả đă
không hề nói quá lời. Chính tư tưởng trung tâm của đầu óc Ấn giáo và kết quả
của nó th́ thật là rất đáng chú ư. Đó là v́ cái tự tính trong bản chất của
Tự ngă Vũ trụ và Tự ngă Đặc thù được nêu ra trong Mahāvākya mà tôi có trích
dẫn: Tattvamasi, ngươi là CÁI ĐÓ, tức là tri thức về đấng Brahman, về Thượng
Đế, là tri thức khả hữu cho con người. Nếu không được như vậy th́ bạn có thể
có đức tin, bạn có thể có lập luận, bạn có thể có lư luận, bạn có thể có một
điều khả hữu hợp lư; nhưng bạn không thể có kiến thức.
Đó là v́ theo định
luật của thiên nhiên, nếu bạn nh́n xung quanh ḿnh trên thế giới bên ngoài
th́ bạn chỉ có thể biết được điều mà bạn có thể được giải đáp qua thể chất,
qua tâm trí của ḿnh nếu có thể như vậy. Bạn chỉ có thể biết được điều mà
bạn chia xẻ. Nếu bạn có thể nh́n thấy th́ bạn chỉ nh́n thấy, bởi v́ bên
trong đôi mắt th́ chất dĩ thái đang rung động mà những rung động của nó ở
bên ngoài bạn th́ chính là ánh sáng. Nếu bạn có thể nghe thấy th́ đó chỉ là
v́ bên trong tai bạn có rung động của không khí và chất dĩ thái ở bên ngoài
chính bạn tạo ra âm thanh. Chỉ khi bạn có trong bản thân, trong cơ thể của
chính ḿnh cái điều giống hệt như cái ở bên ngoài ḿnh th́ bạn mới có thể
biết được. Thế th́ làm sao mà bạn biết được Tinh thần thế giới, nếu không
phải là bạn chia xẻ được bản chất của Ngài nơi tự thân ḿnh? Bởi v́ Ngài ở
nơi bạn, cho nên bạn có thể biết Ngài ở bên ngoài bạn. Bởi v́ đúng như kinh
Áo nghĩa thư có tuyên bố, Brahman
là Ākāsha bao xung quanh bạn, và cũng cái Ākāsha ấy bên trong tâm hồn bạn,
do đó bạn có thể biết chứ không chỉ là tin. Và thế là bài báo mà tôi vừa
trích dẫn ấy tiếp tục nhấn mạnh tới chính cái điều có thể biết được:
Brahman. Đối với tín đồ Ấn giáo có giáo dục th́ tác giả bảo rằng các thuộc
tính có ư nghĩa nhất của những thực thể có ngă thức là tính chủ quan của
chúng. Ông có thói quen khẳng định rằng ư niệm Thượng Đế luôn luôn được
tŕnh bày cho tâm trí nơi chính cái hành vi cũng như chính ư niệm về Tự ngă.
Nói rơ ra th́ ở đây người ta suy diễn rằng ta t́m thấy được Thượng Đế, không
phải nhờ vào bất kỳ công dụng khách quan nào của tâm trí; không phải nhờ vào
lập luận của bản thể học, vũ trụ học hoặc viễn đích học - tất cả những lập
luận này được sử dụng ở phương Tây để chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế -
nhưng phải thâm nhập vào tất cả những lớp của tâm trí mà những qui tŕnh văn
minh của nhân loại đă đè nén lên bản chất thiêng liêng hơn của con người.
Ông bảo rằng đó là giá trị trong ư niệm về Thượng Đế của Ấn giáo. Chỉ có một
tâm thức nhất như và đó là tâm thức Thượng Đế. Sự bộc lộ của tâm thức ở bất
cứ nơi nào đều là sự bộc lộ của tâm thức Thượng Đế. Có thể nơi vị Thiên thần
mạnh mẽ nhất đang cai trị một thái dương hệ, và phóng ra ánh quang huy của
ḿnh rộn ràng qua hàng triệu dặm trong không gian. Đó có thể là tâm thức
đang yên ngủ trong hạt cát mà gió đang thổi thốc lên và quét đi quét lại, v́
nó là hạt cát quá nhẹ để chống lại nó. Tất cả đều là tâm thức của Thượng Đế,
v́ không có ǵ khác nữa. Và cũng giống như tâm thức bộc lộ từ hạt cát lên
tới cái cây, từ cái cây lên tới con thú, từ con thú lên tới con người, từ
con người lên tới Thiên thần, chỉ có Thượng Đế bộc lộ những quyền năng ẩn
tàng của ḿnh trong những lớp vỏ vật chất mà Ngài muốn che giấu ḿnh khỏi
đôi mắt phàm tục. Không có ǵ khác nữa, v́ Brahman là Tất cả. Không có tâm
thức ngoại trừ tâm thức của Ngài xao xuyến qua không gian xa xôi nhất, linh
hoạt trong nguyên tử nhỏ nhất; và khi ta ngộ ra được điều này th́ vấn đề mà
phương Tây thường nghe nói: liệu có một Thượng Đế không, liệu điều đó đă mất
hết ư nghĩa của nó. Vấn đề mà ta thường nghe nói ở phương Đông: tại sao
Brahman lại để cho vũ trụ bước vào tồn tại cũng mất hết mọi ư nghĩa của nó?
Không có điều ǵ khác nữa ngoại trừ Brahman. Ngài là Tất cả và Vũ tụ ở nơi
Ngài. Sự biểu lộ của nó chỉ là một biểu lộ của chính Ngài. Ở đó không có
điều ǵ và trước đó không có điều ǵ, không có điều ǵ thêm nữa vào trong
Ngài. Các thực thể trong vũ trụ nghĩ rằng có một điều ǵ đó khác nữa, khác
với bản thân tôi và với Ngài, nhưng chỉ có Ngài bất biến. Đó không phải là
Ngài và một vũ trụ mà Ngài trên cương vị là một vũ trụ. Đó không phải là vấn
đề sáng tạo cộng thêm vào. Và khi ta hiểu rơ được điều này th́ ta mới bắt
đầu hiểu được sự mầu nhiệm của một số đoạn trong
Áo nghĩa thư khi người ta bảo
rằng, ta không thể chứng minh bằng cách chứng tỏ, bằng bất cứ lư luận nào về
sự tồn tại của Tự ngă. Không có sự ngập ngừng về điều đó, không có sự nghi
ngờ nào, không có sự né tránh nào. Người ta có viết rằng, Tự ngă này không
thể đạt được bằng các giáo huấn, bằng trí thông minh, bằng cách nghe đi nghe
lại. . . Tự ngă này cũng không thể đạt được bằng sự không có sức mạnh, bằng
việc không chú ư, cũng không phải bằng
tapas hoặc thậm chí bằng việc
thiếu sót các tố chất [Mundaka
III, ii 3, 4]. Māndūkyopanishat
thậm chí có nói c̣n mạnh mẽ hơn nữa, v́ nó tuyên bố rằng Tự ngă vốn vô h́nh,
không thể lập luận được, không thể sờ mó được, không xác định được, không
quan niệm được, khôn tả [Tác phẩm đă
dẫn. 7], thế th́ quả thật là không có bằng chứng sao? À, không đâu! Tôi
chưa chấm dứt đường lối này; mà cũng không đạt được bằng giáo huấn, bằng lư
luận, bằng bất cứ thứ ǵ ở bên ngoài bạn. Người ta có thể có bằng chứng chắc
chắn về Tự ngă của chính ḿnh và bằng chứng ấy ở trong bạn. Đó là bằng chứng
duy nhất: Bản ngă. Nhưng thế cũng đủ rồi. V́ Tự ngă của ta đối với mỗi người
trong chúng ta là điều chắc chắn nhất trong mọi điều chắc chắn, là điều
khẳng định nhất trong mọi điều khẳng định, là điều ổn định nhất trong mọi
điều ổn định; đó là Tự ngă, Tự ngă bên trong ta, bên trong bạn và bên trong
tôi. Bạn nghi ngờ Tự ngă của bạn ư, nhưng không thể được. Không bằng chứng
nào có thể khiến cho nó mạnh mẽ hơn; không bằng chứng nào có thể làm lung
lay sự chắc chắn của bạn về sự tồn tại của chính bạn. Trong chính nỗ lực để
bác bỏ sự tồn tại của Tự ngă của bạn, th́ chính Tự ngă của bạn lại đang cân
nhắc cái điều bác bỏ ấy. Nó vượt ngoài tầm lư trí. Tại sao vậy? Không phải
v́ nó không thể lư luận được, nhưng bởi v́ nó là nền tảng mà mọi lư luận đều
xuất phát từ đó. Đây là đức tin chân thực, là Shraddhā chân chính, là sự
chắc chắn không thể lay chuyển về sự tồn tại của Tự ngă bên trong chúng ta;
và v́ vậy nghe nói đức tin vượt ngoài tầm lư trí, và không dựa trên lư trí,
không dựa trên kiến thức. Nó vượt lên trên và vượt ngoài tầm tất cả những
điều đó. Không ai có thể nghi ngờ thực tại về sự tồn tại của chính ḿnh, và
trong điều đó th́ sự tồn tại của Thượng Đế được khẳng định. Và v́ vậy người
ta viết rằng đây là bằng chứng duy nhất chắc chắn, tức Tự ngă.
Thế mà nếu cái sự
chắc chắn về sự tồn tại của Tự ngă khát khao bản chất thiêng liêng mà ta có
thể đạt được, th́ chỉ có một phương pháp duy nhất là:
tham thiền và sinh hoạt cao thượng.
Người ta viết rằng Tự ngă này thật sự phải đạt được bằng sự trung kiên về
chân lư, bằng tapas, bằng tri
thức toàn bích, bằng sự sống độc thân [Mundaka
III, i. 5]. Bằng sự đúng đắn toàn bích, sự vô dục toàn bích, trí tuệ toàn
bích, sự tự chủ toàn bích. Đây là những phương thức giúp cho ta chứng minh
về Thiên tính vốn là ư thức về Thiên tính của Tự ngă bên trong ta mà ta phát
hiện được.
Nhưng nói cho thật
nghiêm xác th́ đây chỉ là những điều hỗ trợ, những điều phụ thuộc, những
phương thức để dẹp tan những chướng ngại chứ không phải là chuyện thật sự
thực chứng Chân ngă. Bởi v́ Moksha tức giải thoát, vốn là tri thức hay là sự
thực chứng về Tự ngă không phải là điều mà ta đạt được như một số người
thường mơ mộng viễn vông. Nó đă vốn thuộc về bạn rồi, bởi v́ bạn vốn có bản
chất Thượng Đế, chỉ có điều bạn không biết đấy thôi. Cũng giống như một
người có thể sở hữu một viên ngọc trai vô giá và đeo nó xung quanh cổ lủng
lẳng trước ngực, mà có thể quên rắng ḿnh đă đặt nó nơi đó, có thể nghĩ rằng
ḿnh đă đánh mất nó, có thể t́m kiếm nó với hi vọng t́m thấy được nó, có thể
lật hết túi này ra tới túi kia, có thể xé toạc hết lớp vải này tới lớp kia,
có thể điên cuồng chạy đi t́m kiếm nó, rồi lại bảo rẳng tôi đă đánh mất viên
ngọc trai của ḿnh, nó ở đâu rồi? Cũng giống như vậy đối với việc mưu cầu Tự
ngă nơi ngoại giới. Con người đang mưu t́m viên ngọc trai của ḿnh ở nơi nó
không tồn tại. Nó vốn ở với y, gần kế với tâm hồn y, và bạn chỉ việc trợ
giúp nó để t́m thấy nó chứ không phải mưu t́m, mà phải nói rằng: Hăy thấy
rằng viên ngọc trai của bạn ở trên chính thân thể của bạn, và không cần phải
đi t́m. Nó luôn luôn ở đó và như vậy, Moksha cũng luôn luôn ở với bạn. Chúng
ta chỉ cần dẹp bỏ những chướng ngại ngăn cản ta thực chứng được Thiên tính
của chính ḿnh và chúng ta ắt giải thoát. Sự chia rẽ mà ta mơ thấy đó chính
là Māyā, hăo huyền; không có sự biệt lập; bạn là nhất như, là Tự ngă nhất
như, là Đấng Tối Cao, là Tự ngă Vũ trụ. V́ vậy người ta bảo rằng Moksha
không đạt được bằng các công tŕnh. Hăy xoay chuyển đôi mắt vào bên trong
chứ không phải ra bên ngoài, v́ đối với một người đang nh́n đăm đăm vào bên
trong th́ người ta có viết rằng: Nhờ vào sự an ổn của các giác quan, y chứng
kiến được sự hoành tráng của Tự ngă [Katha
ii 20].
Ta hăy nghĩ xem điều này có ư nghĩa
ǵ đối với thế giới. Con người luôn luôn e sợ rằng sự thăng tiến của kiến
thức theo một chiều hướng nào đó. Sự Chỉ trích, sự Chỉ trích Cao cấp mà
nhiều người mộ đạo e sợ xiết bao, nó có ǵ là quan trọng đâu? Liệu điều chỉ
trích có thể làm được cái ǵ? Nó chỉ có thể dẹp bỏ được sách vở chứ không
thể dẹp bỏ được Tự ngă. Sự Chỉ trích Cao cấp mà Âu châu thường nói rất nhiều
có thể xé toạc được sách vở ra thành mảnh vụn. Tuy nhiên những sách vở cho
dù linh thiêng đến đâu, cho dù quí báu đến đâu, cho dù cổ truyền đến đâu, nó
cũng có thể bị xé toang ra thành từng mảnh. Nhưng thế th́ sao? Sự Chỉ trích
Cao cấp không thể xé toạc Tự ngă ra thành từng mảnh. Bằng chứng về Tự ngă
vốn ở bên trong ta chứ không phải ở bên ngoài ta, không phải ở trong sách
vở, cho dù chúng linh thiêng và dễ thương đến đâu đi nữa. Sách vở đều xuất
phát từ Tự ngă. Tự ngă có thể tạo ra những sách vở khác; sách vở chỉ là
thành quả của Tự ngă để bộc lộ Thiên tính của nó nơi con người, và cho dù
sách vở có ra sao đi chăng nữa, th́ chúng không phải là nền tảng của đức tin
của ta. Sự chỉ trích không thể đụng chạm tới Tự ngă, mà bằng chứng của Tự
ngă là ở bên trong ta.
Và Khoa học nó có
thể làm được điều ǵ? Mong sao Khoa học sẽ xuyên thấu tới ngôi sao xa nhất;
Brahman c̣n vượt quá điều đă vượt quá đó. Cứ để cho Khoa học phân tích
nguyên tử nhỏ nhất, th́ Brahman c̣n nhỏ hơn cả nguyên tử nữa. Thế th́ liệu
Khoa học có thể làm được ǵ? Nó chỉ có thể t́m ra một vẻ đẹp mới mẻ nào đó
của Brahman trong một thế giới chẳng có ǵ ngoại trừ Đấng Tối Cao. Cứ để cho
nó t́m kiếm thỏa thích; cứ để cho nó mặc sức nói: Chỉ có chân lư mới chinh
phục chứ điều giả trá th́ chẳng được đâu. [Mundaka
III, i.6]. Và Khoa học sẽ tăng trưởng từ những điều sai lầm của ḿnh và hiểu
được Vũ trụ vốn là Brahman. Nó chẳng thể t́m thấy điều ǵ bác bỏ CÁI ĐÓ là
Tất cả. Sự thật này - Brahman là Tất cả - chính là Magna Carta, tức là bản
Đại Hiến chương về tính tự do của trí thức. Cứ để cho con người suy nghĩ; cứ
để cho người ta nói năng. Đừng để ư tới việc liệu y có sai lầm hay chăng; sự
hiểu biết thêm nữa sẽ khiến cho y đi tới sự đúng đắn. Y không thể đi lang
thang vượt ra ngoài Tự ngă, v́ Tự ngă ở khắp mọi nơi. Y không thể đánh mất
Tự ngă, v́ Tự ngă ở bên trong y. Cứ để cho trí năng mặc sức bay bổng lên cao
và lên cao măi đến mức mà cánh của nó c̣n có thể vỗ được; c̣n vượt xa ngoài
tầm khả năng của nó, vượt xa qua những mức mà nó xuyên thấu, phía Bắc, phía
Nam, phía Đông, phía Tây, nơi Thiên đỉnh và Thiên để, th́ Brahman vẫn vượt
xa khắp mọi nơi, đó là Tự ngă vô hạn. Trí năng không thể đi vượt ra ngoài Tự
ngă, mà nó chỉ là một biểu lộ của Tự ngă, v́ vậy nó không thể làm lung lay
sự chắc chắn vĩnh hằng về Tự ngă tự tại.
Chính điều này là
Chân lư trung tâm của Áo nghĩa thư
mà tôi và bạn nên phấn đấu theo đuổi trong những ngày tháng ngắn ngủi để
hiểu được một điều ǵ đó, mặc dù rất nhỏ; một điều ǵ đó mà chúng ta phải
học hỏi về cái Chân lư thấm nhuần vạn vật này; một Chân lư không thể làm cho
ta chói mắt, cho dù nó rực rỡ, chói lọi và vinh diệu đến đâu đi nữa, v́
chúng ta thuộc bản chất của nó, chúng ta là những tia của nó, ánh sáng của
nó là ánh sáng của ta. Thế th́ đâu có ǵ thích hợp khi ta nên cố gắng
rèn luyện tâm trí ḿnh để ḥa hợp với cái Chân lư nhất như ấy, và cầu
mong sao cái ánh sáng thắp sáng cho mọi người sẽ đến với thế giới. [Phúc
âm của thánh John i, 9].
Ánh sáng ấy có thể soi chiếu từ bên trong ta và ở bên ngoài ta, và cho ta
cũng có thể thấy được?
Hỡi đấng Pūsan, hỡi đấng Bảo toàn Tất cả, xin hăy mở miệng Chân lư của ngài, hiện nay đang bị che giấu bởi một bức màn che bằng vàng, để cho chúng con là những người yêu thích Chân lư có thể nh́n thấy được. [Brhadāranyaka V, xv. I].
Tâm thức của Tự ngă, tâm thức Thượng
Đế, tâm thức Brahman, được phản ánh qua ba h́nh thức trong Vũ trụ. Cả ba này
được tổng kết lại nơi cái được gọi là cái thứ tư, mặc dù thật ra cái thứ tư
là tổng kết của cả ba, được ḥa lẫn vào Thực tại Nhất như. V́ thế liên quan
tới ba và Một này ta đọc thấy có cái là bốn: Tự ngă ấy là âm tiết tối cao,
là cái bàn chân không có số đo bao gồm các bộ phận, các bộ phận của cái bàn
chân, là những chữ cái A U M gồm ba bộ phận. [Māndūkya
8].
Chữ Aum không có bộ
phận, là âm tiết nhất như; là Brahman không có bộ phận, là Nirguna Brahman,
là tổng kết: là cái thứ tư theo
Māndūkyopanishat, cái thứ tư ấy vốn không có bộ phận, không có hành
động, biểu lộ thành yên nghỉ, thành phúc lạc mà không có nhị nguyên; thế th́
chữ Aum ấy quả thật là Tự ngă [Tác
phẩm đă dẫn 12] v́ nó cho ta thấy cả tính tam bội lẫn tính nhất nguyên
của nó.
Nhận xét riêng rẽ từ
chữ cái một th́ A, U và M không c̣n là một âm tiết nữa mà là ba. Nhưng liệu
chúng ngụ ư là ǵ? Māndūkyopanishat
nói cho ta biết rằng đây là ba trạng thái tâm thức. Thế mà có nhiều ư nghĩa
đối với ba chữ cái này, v́ bất cứ ở đâu ta thấy có một bộ ba th́ những chữ
này có thể là biểu tượng cho các bộ phận của tam nguyên ấy; và ngày mai
chúng ta ắt thấy rằng theo Áo nghĩa
thư th́ ba chữ cái này có thể được coi là tượng trưng cho Chính
Ishavara, là Māyā của Ngài và mối quan hệ của Ngài với công tŕnh của Ngài.
Bây giờ chúng ta chỉ coi chúng là ba trạng thái Tự tại, ba loại h́nh tâm
thức, là Brahman phản ánh trong thế giới, và
Māndūkyopanishat cho ta biết ba
trạng thái này là ǵ. Sau khi bảo rằng: Đấng Toàn Thể này quả thật là
Brahman; Tự ngă này là Brahman; Ngài, Tự ngă này gồm bốn phần.
Áo nghĩa thư tiếp tục tŕnh bày
ba sự phản chiếu trong thế giới biểu lộ, và như ta vừa nói cái thứ tư là sự
biểu lộ trong yên nghỉ. Ba thứ này [Tác
phẩm đă dẫn 2-5, 9-11] là Vaishvānara, là tâm thức thức tỉnh; điều mà
bạn và tôi hiện nay đang xử dụng, đôi khi được gọi là Tự ngă Sinh động tức
Anh hồn; có lẽ chúng ta gọi nó là Prānātmā, là tự ngă cá nhân, điều tồn tại
bất cứ khi nào có tâm thức thể hiện nơi vật chất trên cơi trần; đó là
Vaishvānara, thấm nhuần tất cả, Vaishvānara là chữ A. Thế rồi trong các thế
giới tinh vi lại có tồn tại Taijasa, tức tâm thức siêu thức tỉnh mà các nhà
tâm lư phương Tây gọi là tâm thức mơ mộng - đây là một cụm từ vụng về và gây
hiểu lầm, tuyệt nhiên không tương đương với svapna của người phương Đông ngụ
ư, svapna là một trạng thái cao hơn và có thực hơn ư thức tỉnh táo, trong
khi không một người Tây phương nào coi cái ḿnh gọi là mơ mộng th́ cao hơn
và có thực hơn trạng thái tỉnh thức - đó là tồn tại trong mọi thế giới tinh
vi, cho dù có bao nhiêu đi nữa th́ đó cũng là Tự ngă đă được biệt lập ngă
tính, là Jīvātmā, là Chơn thần. Đó là tŕnh độ thứ hai của tâm thức Thượng
Đế; Taijasa là chữ U. C̣n cái thứ ba, khi được bộc lộ qua sự rực rỡ tột cùng
trong thế giới cao nhất hơn tất cả, thế giới của Thượng Đế, nơi mà chính
đấng Ishvara phô bày các quyền năng của Ngài, đó là Prājña; Ngài biết hết,
toàn bích về tri thức, Ishvara là Đấng chủ quản, là Đấng điều khiển, là Đấng
bảo dưỡng Tất cả, là Saguna Brahman, là Đấng Tối cao, Pratyāgatmā, Antarātmā
của tất cả; đó là trạng thái thứ ba và là chữ M. Những sự phân chia này được
chọn theo trong lộ tŕnh của các bài thuyết tŕnh này: Đấng Brahman không có
bộ phận, tức Tổng thể; thế rồi biểu lộ cao nhất chính thực là đấng Brahman
biểu lộ với các thuộc tính, là Saguna, là đấng Ishvara Tối Cao; thứ ba là
các Jīvātmās, rải rác trên mọi thể giới trong đó có tồn tại tâm thức - và
tất cả đều là tâm thức - thế rồi thứ tư là sự biểu lộ của cái mà tôi đă gọi
là Prānātmā, tức là anh hồn, là trạng thái tâm thức tỉnh thức thông thường
của con người, của những con thú, của cây cỏ, của đất đá trong ṿng sinh tử
luân hồi, của mọi chúng sinh. Mọi điều này đều là biểu lộ của Đấng Nhất Như,
và được tổng kết nơi Đấng Nhất Như. V́ thế cho nên, ta thấy trong
Shvetāshvataropanishat có nói:
Đây quả thật được hát lên thành Đấng Brahman tối cao, trong đó bộ ba vốn
được xác lập minh bạch và bất diệt . . . Ta nên biết điều này là vĩnh hằng,
là Tự ngă đă được xác lập; quả thật, không có ǵ thêm nữa để ta biết. Đấng
vui hưởng [tức Jīvātmā] khác với đối tượng của sự vui hưởng [Māyā của vũ
trụ] và Đấng điều khiển tức Ishvara đều được biết, người ta tuyên bố Tất cả
là đấng Brahman tam bội này [Tác phẩm
đă dẫn i,7,12]. Những thứ này được tổng kết nơi Đấng Nhất Như – A, U và
M được phát âm thành một âm tiết duy nhất - đó là Brahman.
Thế mà cái đường lối
này bàn tới cái gọi là các Linh Từ vốn quen thuộc với mọi học viên thời xưa.
Nếu ta xét Chhāndogyopanishat,
coi đi coi lại, th́ ta thấy có những từ ngữ trong đó được rút gọn về ba chữ
cái, mỗi chữ cái đều có ư nghĩa, và toàn thể chứa đựng một vài sự thật vĩ
đại nào đấy. [Xem tác phẩm đă dẫn
VIII iii 5,…]. Và cái lối kiến tạo các từ ngữ này không chỉ hạn chế vào
Áo nghĩa thư. Ta thấy nó trong
mọi tôn giáo lớn của quá khứ. Ai Cập cũng có nó; Syria cũng có nó; những
người Cổ Do Thái cũng có nó; tín đồ Ngộ đạo cũng có nó. Người ta xét một chữ
cái vốn truyền đạt một ư nghĩa; người ta thêm vào những chữ cái khác, mỗi
chữ cái đều có một ư nghĩa; toàn thể từ ngữ được tạo thành từ những chữ cái
này được gọi là một Linh Từ hoặc một Quyền Lực Từ. Chúng là những Quyền Lực
Từ chân thực, v́ chúng không được phát âm trên đầu môi chót lưỡi, mà bằng
tâm thức đang được bộc lộ, và khi nó ngộ ra được hết chân lư này tới chân lư
khác, và khi nó ngộ ra được th́ mỗi cái đều trở thành chân lư đó và là Đấng
chủ quản của nó, th́ nó khống chế được. Những từ ngữ ấy đều được biết rơ là
tồn tại mà mọi hội viên Tam Điểm đều biết, cho dẫu là các bậc Thầy của họ
cũng bị thất truyền về ư nghĩa của chúng.
Những kết quả suy ra
từ Quyền Lực Từ này, tức là thánh ngữ Aum, là những kết quả mạnh mẽ nhất, có
gây sức khống chế nhiều nhất, v́ Quyền Lực Từ biểu diễn qua ba chữ cái của
ḿnh mọi thứ đang tồn tại - đó là Brahman tam bội đang biểu lộ, là Đấng Nhất
Như đang vô hiện; khi được phát âm thành một bộ ba th́ nó có nghĩa là đấng
Brahman biểu lộ tam bội và khi được phát âm là một đơn vị, th́ nó có nghĩa
là Nirguna Brahman. V́ thế cho nên nó là Linh Từ Linh Thiêng nhất trong mọi
Linh Từ.
Bây giờ ta hăy xét
tới bằng chứng là Áo nghĩa thư
cung cấp cho ta biết Brahman là Tất cả. Trước hết ta hăy xét phát biểu dứt
khoát nêu ra trong Chhāndogyopanishat:
quả thật Aum là Tất cả, quả thật Aum là tất cả điều này. [Tác
phẩm đă dẫn II, xxiii, 3 (trong một số ấn bản là 4). Chúng ta đă thấy
rằng Aum có nghĩa là đấng Brahman không bộ phận; bây giờ chúng ta hiểu rơ
rằng nó có nghĩa là Tổng thể.
Taittrīyopanishat đưa ra hai phát
biểu thành một phát biểu duy nhất: Aum là Brahman; Aum chính là Tổng thể này
[Tác phẩm đă dẫn I, viii] v́ hai
điều này vốn đồng nhất với một điều thứ ba lại đồng nhất với nhau, cho nên
Brahman và Tổng thể là đồng nhất. Đó là bằng chứng của Minh triết Cổ truyền.
Không có ǵ khác nhau. Không có ǵ khác nữa. Brahman và Tổng thể phải là một
và cùng một thứ.
C̣n một chân lư khác nữa liên quan
tới Linh Từ kỳ diệu này do một Áo
nghĩa thư khác nêu ra: Hỡi Satyakāma, chữ Aum nhị phân này là đấng
Brahman Tối cao và Đấng Brahman Thấp. [Prashna
v, 2] Đó là Para-Brahman và Apara-Brahman. Tất cả mọi bí nhiệm đều ẩn tàng
trong đó. Điều này có nghĩa là ǵ - đấng cao, đấng thấp; đấng Tối cao, đấng
Thấp? Áo nghĩa thư tiếp tục giải
thích rằng khi các chữ cái được xét riêng rẽ, th́ các thế giới được biểu thị
đó là đấng Brahman Apara, tức Brahman thấp, c̣n khi từ ngữ này được phát âm
thành một âm tiết duy nhất th́ người ta biểu thị đấng Brahman Para, tức
Brahman Tối Cao.
Như vậy, Yama cũng
có nói tới các Nachiketa để giải thích cái bí mật về hai Đấng này, song chỉ
là Một. Ngài tuyên bố rằng: Các âm tiết này quả thực là Brahman, âm tiết này
quả thực là Đấng Tối Cao [Katha
ii 16]. Và Shri Shankara b́nh luận về điều đó nêu rơ rằng âm tiết thứ nhất
có nghĩa là Brahman thấp, c̣n âm tiết thứ nh́ nghĩa là Brahman Tối Cao.
Chúng ta quay trở
lại với Chhāndogyopanishat để học
hỏi thêm nữa về cái điều bí nhiệm này vốn là Tổng thể có viết rằng: Tổng thể
này chính là Brahman; nó được sinh ra từ đó, nó lại bị tan ră vào đó, nó
được cái đó duy tŕ [Tác phẩm đă dẫn
III, xiv 1]. Nó được biểu lộ thành Brahman, là yếu tố đầu tiên của Apara
Brahman, là Tự ngă, là Purusha, người ta có viết rằng: Ngài được xác lập nơi
Tự ngă tối cao, bất diệt. [Prashna
iv 3].
Có lẽ ví dụ tương tự
hay nhất mà trong trí óc ta có thể lĩnh hội được, và ta nghĩ tới những tư
tưởng xuất lộ trong trí ta, giống như Vũ trụ biểu lộ nơi Brahman, là đấng
Tổng thể. Trong tâm trí đều có chứa đựng mọi tư tưởng; mọi tư tưởng đều sinh
ra từ tâm trí và chúng lại biến mất vào trong tâm trí. Các vũ trụ xuất lộ
trong Brahman thành vô số những sự nối tiếp vô tận, một chuỗi không có bắt
đầu và không có lúc chấm dứt. Nó vốn bất biến, bởi v́ bao trùm tất cả, mọi
thứ đều chứa trong nó, xét theo nghĩa đen đó là vạn vật; mọi thứ đă từng có
trong quá khứ, mọi thứ đang có trong hiện tại và mọi thứ sẽ có trong tương
lai, tất cả những ǵ ta quan niệm được, tất cả những ǵ ta tưởng tượng được,
mọi thứ đều có thể tồn tại, cư ngụ trong cái Tổng thể vô lượng này; không có
điều ǵ khác nữa. Nó là tuyệt đối, bởi v́ không có điều ǵ khác nữa mà CÁI
ĐÓ có thể liên hệ được. Không có điều ǵ khác nữa ngoại trừ Brahman. Từ cái
viên dung vô lượng này giống như các làn sóng xuất phát từ đại dương, th́
các vũ trụ cũng xuất phát từ cái viên dung ấy và cũng giống như các làn sóng
phải lặng đi trở lại thành đại dương, th́ các vũ trụ cũng biến mất. Tất cả
những điều đă có, đang có, th́ đều hằng hữu trong đó, trong cái thực tại bất
biến của sự sống. Mọi thứ đă từng có thể yên ngủ trong đó, trong ḷng vô
biên của đấng cha lành vũ trụ. Không c̣n điều ǵ nữa. Mọi thứ có ở trong đó,
ở trong một thực tại đồng thời bất biến của sinh hoạt vĩnh hằng. Và như thế
kẻ minh triết có nói rằng mọi điều đối lập đều ở trong đó, để bắt buộc cho
tâm trí con người ngộ ra được rằng không điều ǵ bị bỏ sót, không có ǵ ở
bên ngoài CÁI ĐÓ, không có điều ǵ khác nữa. Bạn không thể nói về một vũ trụ
là được tạo ra, cho dù nó chưa bao giờ tồn tại, v́ tất cả ở trong CÁI ĐÓ vốn
bất biến. Mọi điều đối lập đều t́m thấy trong đó sự dung ḥa của ḿnh, việc
tiêu diệt lẫn nhau của ḿnh, mọi điều đối lập đều ḥa lẫn trong đó thành ra
cái này thành ra cái kia, v́ CÁI ĐÓ là tất cả và không có ǵ khác nữa.
Cứ suy gẫm về tư
tưởng này cho đến khi nó trở nên quen thuộc. Hăy biến nó thành một bộ phận
của tâm trí bạn. Hăy cố gắng quan niệm nó theo nhiều cách khác nhau. Chẳng
hạn như bạn có thể xét nó theo cái cách thức mà khoa học xem xét về vũ tru,
nó nói cho ta biết về một vũ trụ vô biên; ta t́m thấy càng ngày càng nhiều
thái dương hệ xa hơn nữa, và cái viễn vọng kính có độ khuếch đại mạnh nhất
th́ khoảng cách của ngôi sao xa nhất càng lớn hơn. Ta cứ đi xa măi xa măi,
vượt quá cái ngôi sao xa nhất mà khoa học có thể thấy được bằng viễn vọng
kính có độ khuếch đại mạnh nhất, th́ đấng Brahman vô biên c̣n vượt quá cả
những điều khả hữu mà chưa ai biết, vượt quá những khả năng vô tận của sự
biểu lộ; không có ǵ là bắt đầu hoặc chấm dứt đối với đấng Brahman; không có
ǵ vượt ngoài tầm đó. Ta cứ suy nghĩ đi suy nghĩ lại cho đến khi cái trí của
ta đâm ra choáng váng. Hăy suy nghĩ đi suy nghĩ lại cho đến khi một tác dụng
vô biên nào đó đă được cảm nhận. Mọi thứ đó chẳng qua chỉ là sự viên măn của
sự biểu lộ tự tại đang hằng trào dâng. Và nên nhớ rằng CÁI ĐÓ hằng hữu chứ
không biến dị. Các vũ trụ đều biến dị. Chúng đều được sinh thành, nhưng cái
VĨNH HẰNG là cái duy nhất bất biến. CÁI ĐÓ chẳng hề biết có hiện tại, quá
khứ và tương lai, v́ Tất cả đều hằng hữu và Tất cả đều là Brahman. Hăy để
cho sự sâu thẳm và sự rực rỡ của tư tưởng ấy cứ ngự trị trong tâm trí ta cho
đến khi nó trở thành bộ phận của Tự ngă chân thực nhất của bạn, và bạn chẳng
có thể nghĩ được điều ǵ khác ở bên ngoài CÁI ĐÓ hằng hữu. Tôi không dám
dùng từ ngữ tồn tại, và một lúc nữa bạn ắt hiểu tại sao cái từ ngữ rất tự
nhiên để sử dụng trong ngữ cảnh này lại không được tôi thốt ra. Chúng ta chỉ
có thể nói rằng nó hằng hữu chứ không nói được nó tồn tại. Vũ trụ, mọi điều
mà bất cứ điều ǵ vận chuyển bên trong nó, đều xuất phát từ Sự Sống [Katha
vi 2]. Và nó đưa ra một số ví dụ tương tự giống như: một con nhện phóng ra
rồi rút vào những sợi tơ của ḿnh; giống như cỏ được tạo ra từ đất; giống
như lông tóc mọc ra từ con người c̣n sống; cũng vậy Vũ trụ này đều biến dị
từ những điều Bất diệt [Mundaka
I, i 7]. Giống như từ một ngọn lửa cháy bùng đă xuất phát ra bởi hàng ngàn
tia lửa có bản chất giống như nó, cũng như vậy Hỡi Đấng thân thương, xuất
phát từ đấng Bất diệt, có nhiều sự tồn tại đă sinh ra rồi quả thật chúng lại
trở về vào trong đó [Như trên II,
i, 1]. Trong đấng Brahman bất diệt có ẩn tàng cả minh triết lẫn vô minh -
hữu hoại quả thật là vô minh, c̣n minh triết quả thật là bất diệt. Người nào
đă chế ngự được minh triết và vô minh th́ người ấy quả thật là người khác
rồi. [Shvetāshvatara v, 1].
Điều ǵ bắt nguồn từ
điều này? Cái vượt quá Vũ trụ biểu lộ, vượt ngoài Thượng Đế ẩn tàng bên
trong nó, th́ có Tự tại thuần túy, Tự tại trừu tượng hoặc nói cho đúng hơn
là Tự tính theo như H. P. B. gọi nó. Ta hăy lắng nghe những lời lẽ kỳ lạ của
Chhāndogyopanishat. Thoạt tiên
th́ Hỡi Đấng thân thương, quả thật là có sự tồn tại thuần túy, thật sự là
độc nhất vô nhị. Chúng bảo rằng: Trước khi có cái đó thật sự c̣n có phi hữu
thuần túy, thật sự là độc nhất vô nhị; hữu quả thật là bắt nguồn từ phi hữu
[Chhāndogyopanishat VI, ii 1].
Chính v́ thế mà tại sao H. P. B. đă dùng từ Tự tính chứ không phải là Tự
tại. Tự tính thuần túy là CÁI ĐÓ mà tất cả đều ở trong đó, nó muốn vĩnh
hằng, bất biến, tuyệt đối, đồng thời là đại dương dũng mănh mà Tự tại hữu
thể xuất phát từ đấy. Đó là v́ từ ngữ tồn tại có từ nguyên tiếng La tinh
ex-sistere, nghĩa là tồn tại ở
bên ngoài, là tồn tại dưới dạng biểu lộ, tồn tại sinh ra từ cái ǵ tạm gọi
như vậy. Từ đấng Tổng thể này mà phi hữu, hữu, sự sống, xuất phát từ đó. Nó
Hằng Hữu và khi bạn đă nói điều đó th́ bạn đă nói hết rồi.
Thế th́ làm sao ta
có thể nói về Nó được? Làm sao ta có thể diễn tả Nó được? Làm sao ta có thể
định nghĩa Nó được? CÁI ĐÓ vốn là vạn hữu, không có bộ phận, không phân chia
được, th́ phi hữu lại sinh ra hữu? Đôi mắt không nh́n thấy tới đó được,
giọng nói không đi tới đó được, tâm trí không vươn tới đó được. Chúng ta
không biết, cũng chẳng phân biệt được, th́ làm cách nào mà ta có thể được
dạy dỗ về CÁI ĐÓ. Quả thật CÁI ĐÓ vốn khác với điều đă biết, vượt ngoài tầm
điều chưa biết. Thế là
chúng ta đă được các bậc Huynh trưởng nói cho nghe, và các ngài đă giáo huấn
chúng ta. CÁI ĐÓ vốn không phải tồn tại qua giọng nói, nhưng nhờ CÁI ĐÓ mà
giọng nói mới tồn tại. CÁI ĐÓ biết bạn là Brahman, chứ không phải cái này
vốn được tôn thờ là cái này. CÁI ĐÓ vốn không suy nghĩ bằng tâm trí, nhưng
nhờ CÁI ĐÓ mà tâm trí suy nghĩ được. CÁI ĐÓ biết bạn là Brahman chứ không
phải cái này vốn được tôn thờ là cái này. CÁI ĐÓ vốn không nh́n thấy bằng
mắt nhưng nhờ CÁI ĐÓ mà mắt nh́n thấy. CÁI ĐÓ biết bạn là Brahman chứ không
phải cái này vốn được tôn thờ là cái này. CÁI ĐÓ vốn không nghe bằng tai,
nhưng nhờ CÁI ĐÓ mà tai nghe được. CÁI ĐÓ biết bạn là Brahman chứ không phải
cái này vốn được tôn thờ là cái này. CÁI ĐÓ vốn sinh hoạt không phải nhờ sự
sống, nhưng sự sống sinh hoạt nhờ CÁI ĐÓ. CÁI ĐÓ biết bạn là Brahman chứ
không phải cái này vốn được tôn thờ là cái này. [Kena
i, 3–8].
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS