|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
tiết 9
lực sắp tới
nó có thể có hay
không?
(TRÍCH GIÁO LƯ BÍ TRUYỀN 2) |
|
lực sắp tới
nó có thể có hay
không?
Ai
dám
bảo Lực là "Vật chất chuyển động” và là một biểu lộ của
Năng lượng; hay Vật chất và Lực đều là các trạng thái
biến phân hiện tượng của Vũ trụ Chất bản sơ chưa biến phân
duy nhất?
Câu này liên quan tới
Đoạn kinh (stanza) bàn về
Vô cực điện và
"bảy Phân thân của nó, nói cách khác, đó là nguyên nhân và
các hiệu quả của
Điện Vũ trụ. Đó là thuật ngữ Huyền bí học để chỉ
bảy thần lực chủ yếu
của Điện, các nhà vật lý học chỉ tri giác được các tác
dụng thuần là hiện
tượng (do đó thô trược nhất) của nó trên cảnh giới vũ trụ,
nhất là trên trần thế. Ngoài các thứ khác ra, chúng còn
bao gồm cả Âm thanh, Ánh sáng, Màu sắc v.v . . .
Nay vật lý học bảo
chúng ta như thế nào về các "Lực" này? Theo vật lý học,
Âm
thanh là một
cảm giác do tác động của các phân tử khí trời đối với
màng nhĩ, nó tạo nên các rung động tế nhị trong bộ máy
thính giác, bộ máy này chuyển các chấn động của chúng lên
não. Ánh sáng là
cảm giác do tác động
của các chấn động vô cùng nhỏ của ether lên trên vơng mạc
của mắt.
Chúng tôi cũng đồng ý như vậy. Tuy nhiên, đó chỉ là các
hiệu quả được tạo ra trong bầu khí quyển của
chúng ta và môi trường
ngay xung quanh đó; thật vậy, tất cả đều ở trong tầm tri
giác trần thế của chúng ta.
Jupiter Pluvius có biểu
tượng là các giọt nước mưa gồm có hai "nguyên tố" (người ta
tin như vậy) mà hóa học đã phân tích và tái hóa hợp. Nó đã
làm chủ được các phân tử hợp chất, nhưng các nguyên tử của
chúng vẫn còn ngoài tầm tay của nó. Nơi mọi Thần lực và
biểu lộ này, Huyền bí học thấy một chiếc thang; các nấc
dưới của nó thuộc về vật lý học
ngoại môn, các nấc cao
của nó lên mãi tới tận một Quyền năng vô hình, thông tuệ,
sống động; trên nguyên tắc, đó là nguyên nhân vô hình, song vô
cùng hữu thức của các hiện tượng sinh ra từ giác quan được
mệnh danh là một luật thiên nhiên nào đó.
Chúng tôi khẳng định rằng, Âm
thanh là một Huyền năng mãnh liệt; đó là một thần
lực phi thường mà điện lực do một triệu cái thác Niagaras
sản sinh ra cũng chẳng bao giờ hóa giải được cái tiềm năng
nhỏ nhất ấy khi được
Kiến thức Huyền linh điều động. Người ta có thể tạo ra
Âm thanh có một bản chất phi thường đến nỗi Kim tự tháp
Cheops cũng bị nâng lên lơ lửng trên không, hoặc một người
hấp hối, thậm chí một người đang trút hơi thở cuối cùng,
cũng được hồi sinh tràn đầy năng lượng và sinh lực mới mẻ.
Ấy là vì Âm thanh sản sinh ra, hoặc đúng hơn là thu hút các
nguyên tố lại để tạo ra một chất
ozone; việc chế tạo
chất này ở ngoài tầm tay của Hóa học, nhưng lại ở trong
tầm tay của Khoa luyện kim đan. Thậm chí nó có thể làm
hồi sinh một con người
hoặc một con thú mà thể dĩ thái chưa vĩnh viễn chia lìa
với thể xác vì tuyến từ điển đã bị cắt đứt.
Với tư cách là một người
đã ba lần được cứu mạng bằng quyền năng này, tác giả
có đủ uy tín để đảm bảo là bản thân mình có hiểu biết
chút ít về điều đó.
Nếu tất cả
các điều này có vẻ quá
phản khoa học đến nỗi chẳng ai quan tâm tới, thì xin khoa
học hãy giải thích xem các hiện tượng mới được tạo ra của
cái gọi là động cơ Keely nó tuân theo các luật cơ học và
vật lý đã biết nào? Cái vật tác dụng như là cái máy phi
thường phát ra lực vô hình nhưng khủng khiếp (năng lượng của
nó chẳng những có thể làm chạy một động cơ 25 mã lực, mà
còn có thể được nhân công dùng để nâng cao máy móc nữa) là
cái gì vậy? Thế nhưng điều này đã được thực hiện bằng
cách chỉ cần kéo một cái cung kéo vĩ cầm qua một bên âm
thoa (điều này đã được chứng minh đi chứng minh lại). Ấy là
vì Lực ether mà John
Worrell Keely (người xứ Philadelphia lừng danh ở Mỹ và Âu
Châu) tìm ra đâu có phải là
ảo giác. Mặc dù ông
đã không thể sử dụng được nó – ngay từ đầu, một số nhà
Huyền bí học đã tiên đoán và khẳng định như vậy – nhưng
nhà phát minh ấy đã phô diễn trong vòng một ít năm qua các
hiện tượng kỳ diệu, hầu như là một phép lạ theo nghĩa
siêu nhân chứ chẳng
phải là siêu nhiên.
[[1]]
Nếu Keely thành công, ông có thể đã biến toàn thể một đạo
quân thành ra các nguyên tử trong không gian trong vòng vài
giây, cũng dễ dàng như khi ông biến một con bò chết thành ra
tình trạng đó.
Nay xin độc giả hãy nghiêm chỉnh quan tâm tới cái mãnh lực
mới được khám phá mà nhà phát minh đã mệnh danh là "Lực
Liên Ether và các Lực”.
Theo thiển ý
của các nhà Huyền bí học (chẳng hạn như các bạn thân của
ông), ông Keely đã và vẫn còn ở trước thềm của một vài bí
nhiệm vĩ đại nhất của Vũ Trụ mà
chủ yếu trên đó xây dựng nên các Lực vật
chất và ư nghĩa Huyền bí của biểu tượng Vũ trụ Noăn. Xét Vũ
trụ biểu lộ và chưa biểu lộ như là
một đơn vị, Huyền bí học đã trình bày tượng trưng
cái quan niệm lý tưởng về vũ trụ bằng "Kim Noãn" với hai
cực bên trong. Chính cực dương đã tác động trong Thế giới
Vật chất biểu lộ; trong khi đó, cực âm lại đắm chìm trong
sự Tuyệt đối Bất khả tri của
Sat (Hữu thể).
[[2]]
Chúng ta không thể bảo rằng liệu điều này có phù hợp với
triết thuyết của ông Keely chăng; kể ra thì điều này cũng
chẳng có gì là quan trọng. Tuy nhiên, các ý tưởng của ông
về cấu tạo ether vật chất của Vũ trụ dường như cũng kỳ
lạ như các ý tưởng của chính chúng tôi, về phương diện này
thì cả hai dường như giống in nhau. Trong một tác phẩm có
giá trị của Bà Bloomfield-Moore (một mệnh phụ Mỹ mà các nỗ
lực không ngừng trong việc mưu tìm chân lý chưa bao giờ được
đánh giá quá cao), chúng ta thấy ông trình bày như sau:
Khi
giải thích về cách vận hành động cơ của mình, ông Keely đã
bảo rằng: "Khi quan niệm ra bất kỳ máy móc nào được kiến
tạo nên từ trước đến nay, người ta chưa bao giờ tìm thấy môi
trường cảm ứng một trung tâm trung ḥa. Nếu có điều đó, thì
những kẻ mưu tìm chuyển động trường kỳ đã không còn gặp
khó khăn nữa và vấn đề này ắt đã trở nên một sự kiện đã
định và hiện hành. Chỉ cần tác dụng lên cái dụng cụ đó
một xung lực sơ khởi vài cân Anh là nó vận hành hàng thế
kỷ. Khi nghĩ ra máy rung của mình, tôi không hề tìm cách
đạt được chuyển động trường kỳ, nhưng một mạch rung đã
được tạo ra, nó thật sự có
một trung tâm trung ḥa
được ether rung động của tôi làm cho linh hoạt. Trong khi đang
vận hành bằng chất đã nói, nó thực sự là một máy hầu
như độc lập với khối lượng (tức hình cầu),
[[3]]
chính tốc độ kỳ diệu của mạch chấn động đã khiến cho nó
như vậy. Thế nhưng, dù hoàn hảo như vậy, nó vẫn còn phải
được ether chấn động cấp dưỡng để cho nó trở thành một
động cơ độc lập . . . Mọi cấu trúc đều phải có một nền
móng với sức bền tỷ lệ với trọng lượng của khối mà chúng
phải đỡ, nhưng các nền móng của vũ trụ lại tựa trên một
điểm chân không nhỏ hơn một phân tử nhiều. Thật vậy, nói cho
đúng ra thì nó dựa trên một
điểm liên ether; muốn
hiểu được điều này phải có một tâm trí thật là vô hạn.
Việc nhìn vào trong lòng sâu thăm thẳm của một tâm ether thì
cũng giống in như là việc mưu tìm giới tuyến của không gian
bao la chứa ether trên trời; có điều dị biệt này: một thứ
là hoạt trường dương, còn một thứ là hoạt trường âm".
Chúng ta dễ dàng thấy rằng điều này chính là Giáo lý Đông
phương. Điểm liên ether của ông Keely chính là điểm trung ḥa
của các nhà Huyền bí học; tuy nhiên, muốn hiểu điều này
thì chẳng cần gì một tâm
trí vô hạn mà chỉ cần một trực giác chuyên biệt và năng
lực truy tìm chỗ ẩn của nó trong thế giới Vật chất. Dĩ
nhiên là chúng ta không thể tạo ra một
điểm trung ḥa, nhưng
chúng ta có thể tạo ra
một chân không liên ether – điều này có thể được chứng
minh do việc tạo ra các tiếng chuông trong không gian. Tuy
nhiên, ông Keely trình bày như là một nhà Huyền bí học vô
thức khi ông nhận xét trong thuyết hành tinh lơ lửng như sau:
Xét
về thể tích của hành tinh theo một quan điểm khoa học,
chúng ta ắt hỏi làm thế nào có sự dị biệt quá lớn về
thể tích của các hành tinh lại có thể tồn tại mà không
phá rối tác động hài ḥa luôn luôn đặc trưng cho chúng? Tôi
chỉ có thể trả lời câu hỏi này một cách thỏa đáng bằng
cách bắt đầu phân tích một cách lũy tiến, khởi sự từ các
tâm quay ether mà Tạo hóa
[[4]]
đã qui định cho năng lực hấp dẫn hay tích lũy của chúng.
Nếu bạn hỏi đâu là cái quyền năng ban cho mỗi nguyên tử
ether cái tốc độ quay phi thường (tức xung lực sơ khởi), như
vậy, tôi phải trả lời rằng tâm trí hữu hạn nào có thể
quan niệm ra được xem nó là cái gì? Chỉ có triết thuyết
tích lũy đã chứng tỏ rằng một quyền năng như thế đã được
ban ra. Có thể nói là diện tích của một nguyên tử ấy chịu
tác dụng của lực hút (tức lực hấp dẫn từ điển), lực
tuyển lựa (tức lực đẩy), mọi lực tương ứng và mọi lực
đối lập đặc trưng cho một hành tinh lớn nhất; do đó, khi sự
tích lũy tiếp diễn, chúng ta vẫn có sự cân bằng hoàn toàn.
Một khi trung tâm nhỏ bé này đã cố định, năng lượng cần để
bứt nó ra khỏi vị trí tất nhiên phải lớn đến mức làm
dịch chuyển được hành tinh khổng lồ nhất đang tồn tại. Khi
tâm trung ḥa nguyên tử dời chỗ, hành tinh cũng phải đi theo
nó. Tâm trung ḥa mang theo toàn bộ tải trọng của bất kỳ sự
tích lũy nào từ đầu, vẫn y nguyên như vậy, mãi mãi cân bằng
trong không gian vĩnh cửu.
Ông Keely đã minh họa ý niệm về một "tâm trung ḥa" như sau:
Chúng ta phải tưởng tượng rằng sau khi một hành tinh đã
tích lũy được bất kỳ một đường kính nào đó, chẳng hạn như
trên dưới 20.000 dặm, vì kích thước chẳng dính dáng gì tới
vấn đề này, phải có một sự dời chỗ của mọi vật liệu
(ngoại trừ một lớp vỏ dày 5.000 dặm) để lại một khoảng
trống giữa lớp vỏ này và một trung tâm có kích thước bằng
một quả banh bi-a thông thường; thế thì cần phải có một
lực để di chuyển khối trung tâm bé nhỏ này lớn cũng bằng
lực để vận chuyển lớp vỏ dày 5.000 dặm. Hơn nữa, khối
trung tâm bé nhỏ này sẽ chịu tải trọng của lớp vỏ ấy mãi
mãi, giữ cho nó cách đều; không một kháng lực nào (dù là
lớn đến đâu) có thể hội nhập chúng lại được. Chúng ta ắt
phải ngạc nhiên tột độ khi chiêm ngưỡng cái tải trọng vĩ
đại tựa trên điểm trung tâm này, nơi đó, trọng lượng không
còn nữa . . . Đó là một tâm trung ḥa theo quan niệm của
chúng tôi.
Đây cũng chính là điểm "trung ḥa" theo quan niệm các nhà
Huyền bí học.
Các điều
trên bị nhiều người tố cáo là "phản khoa học". Nhưng đó
cũng là số phận của bất cứ điều gì không được vật lý
học thừa nhận và không đi theo đường lối chính thống giáo
điều của nó. Nếu không chấp nhận lời giải thích của chính
nhà phát minh – các lời giải thích của ông hoàn toàn
chính thống theo các
quan điểm Huyền linh, nếu không muốn nói là theo quan điểm
của khoa học suy lý duy vật được mệnh danh là
chính xác, do đó cũng
là quan điểm của chúng ta nói riêng – thì làm sao khoa học
có thể giải đáp được các sự kiện đã được
chứng kiến, mà không ai còn có thể chối cãi được?
Huyền bí học chỉ tiết lộ một ít bí nhiệm có tầm quan
trọng nhất. Nó nhỏ cho chúng ra từng giọt một như là các
viên ngọc trai quí giá rải rác khắp nơi; ngay cả điều này
bắt buộc phải làm thế vì đợt sóng thần tiến hóa đang dần
dần, âm thầm và đều đặn mang Nhân loại tới buổi sơ khai của
Giống dân thứ Sáu. Ấy là vì một khi không còn được các kẻ
kế thừa chính thống coi sóc cẩn mật nữa, các bí nhiệm
này sẽ không còn tính cách Huyền bí nữa: chúng đã trở
thành của chung và có nguy cơ giáng họa hơn là ban phúc nếu
lọt vào tay bọn người ích kỷ như kiểu
Cain. Tuy nhiên, bất cứ
khi nào mà các bậc kỳ tài về tâm linh và trí tuệ
[[5]]
(chẳng hạn như người khám phá ra
Lực Ether) cất tiếng
chào đời, nói chung họ thường được trợ giúp hơn là mò mẫm
tìm đường; nếu để tự xoay xở, chẳng bao lâu họ sẽ trở
thành các bậc thánh tử vì đạo, hoặc biến thành mồi ngon
của các kẻ đầu cơ trục lợi, tán tận lương tâm. Nhưng họ
chỉ được trợ giúp với
điều kiện là họ sẽ
không trở thành (dù
là hữu thức hay vô thức)
một mối
nguy hiểm thêm nữa cho
thời đại họ: một mối
nguy cơ đối với người dân nghèo, nay vẫn ngày ngày chịu
cảnh người giàu bóc lột người nghèo. [[6]]
Cần phải bàn ra ngoài đề một chút để giải thích điều này:
Chừng 12 năm
về trước, một cuộc triển lảm bách niên Philadelphia, để trả
lời cho các câu hỏi khát khao của một nhà Thông Thiên Học
(một trong những người đầu tiên hâm mộ ông) tác giả đã lập
lại với những điều mà bà đã được thượng cấp chỉ dạy, đó
là kiến văn mà bà chẳng bao giờ có thể nghi ngờ.
Người ta đã
xác định rằng theo biệt ngữ của các tín đồ Do Thái Bí
giáo, người đã phát minh ra "Động cơ Tự hành” đó được gọi
là một "Thuật sĩ bẩm
sinh". Ông vẫn không hề ý thức được toàn bộ phạm vi áp
dụng các quyền năng của mình và chỉ thi thố những quyền
năng mà ông đã tìm ra và nhận biết được nơi bản thân mình –
thứ nhất là vì gán
cho chúng một nguồn gốc sai lầm nên ông chưa bao giờ hiển
lộng các quyền năng này được một cách viên mãn;
thứ nhì là vì ông
không đủ năng lực chuyển cho người khác những gì vốn là
một năng khiếu cố hữu
trong bản chất đặc biệt của riêng ông. Vì thế, không thể
thường xuyên chuyển nhượng cho bất cứ ai toàn bộ bí nhiệm
này để áp dụng vào thực tế.
[[7]]
Những người bẩm sinh có một năng khiếu như vậy cũng không
phải là thật
hiếm. Thường thường
trong hầu hết mọi trường hợp, họ cứ sống rồi chết đi mà
hoàn toàn không biết mình vốn sở hữu những quyền năng phi
thường. Ông Keely có các quyền năng được gọi là phi thường,
chỉ vì ngày nay ít ai biết tới chẳng khác nào ít ai biết
tới sự tuần hoàn của máu trước thời Harvey. Máu vẫn tồn
tại, nó đã từng tác động như hiện nay nơi người đàn ông
đầu tiên được sinh ra từ đàn bà; cũng thế, trong con người
có tồn tại cái nguyên
khí có thể kiềm chế và chỉ đạo Lực chấn động ether.
Dù sao đi nữa, nó vẫn tồn tại nơi mọi thế nhân có
Chơn ngã liên hệ nguyên
thủy (vì trực hệ)
với cái nhóm Thiền định
Đế quân được mệnh danh là "con
đầu lòng của Dĩ thái”. Xét về mặt tâm linh, nhân loại
được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm có liên quan tới một
trong các nhóm Thiền định Đế quân thoạt tiên đã tạo ra con
người tâm linh (xem các đoạn 1, 2, 3, 4, 5 trong phần giảng lý
Đoạn kinh 7). Vốn
được ưu đãi rất nhiều về phương diện này, và ngoài khí
chất tâm linh ra, xét về mặt trí thức, ông còn là một thiên
tài về cơ khí nữa; do đó ông Keely có thể được nhiều thành
quả kỳ diệu. Ông đã thành đạt được một vài điều – hơn mức
bất kỳ thế nhân nào chưa
được khai ngộ vào các Bí pháp tối hậu thành đạt trong
thời đại này mãi đến ngày nay. Những gì ông đã thực hiện,
chắc chắn là hoàn toàn đủ để cho chính khoa học phải đập
nát các thần tượng của mình, các thần tượng bằng vật
chất với chân bằng đất sét – như bạn bè ông đã nói với ông
một cách rất đúng như thế. Tác giả cũng chẳng hề bất
đồng ý kiến với bà Bloomfield-Moore; trong một tài liệu về
"Lực Tâm linh và Lực Ether," bà đã nêu rõ rằng với tư cách
là một triết gia, ông Keely:
Có tâm hồn dù cao cả, tâm trí đủ minh mẫn và khí phách cao
thượng để khắc phục được mọi khó khăn và cuối cùng xuất
hiện trên thế giới với tư cách là một nhà phát minh đại
tài nhất.
Bà còn trình bày thêm như sau:
Nếu Keely chẳng làm điều gì khác hơn là dẫn dắt các nhà
khoa học từ các địa hạt buồn tẻ mà họ đang lần mò tìm
kiếm, vào trong lãnh vực nguyên tố lực quang đãng (nơi mà
trọng lực và lực cố kết vẫn ám ảnh họ và không được
dùng tới; nơi mà từ cội nguồn nhất nguyên, có xạ ra năng
lượng vô hạn vào thiên hình vạn trạng) ông sẽ lừng danh muôn
thuở. Nếu để đập tan chủ nghĩa Duy vật, ông có thể chứng
minh được rằng có một nguyên khí bí nhiệm (mà vật chất,
dù được tổ chức hoàn bị đến đâu đi chăng nữa, cũng phải
hoàn toàn tuân phục) làm linh hoạt vũ trụ, thì ông sẽ là
một ân nhân tinh thần vĩ đại đối với nhân loại chúng ta hơn
bất kỳ người nào mà thế giới hiện đại đã phát hiện
được. Nếu trong lãnh vực chữa trị bệnh tật, ông có thể
dùng các lực tinh anh của thiên nhiên để thay thế cho các
tác nhân vật chất thô trược đã giết chết người ta nhiều hơn
cả chiến tranh, bệnh dịch và đói kém phối hợp lại, thì
ông sẽ đáng được nhân loại mang ơn. Ông sẽ làm được như vậy
và còn nhiều hơn nữa nếu ông và những người đã chăm chú
theo dõi sự tiến bộ của ông từng ngày một trong nhiều năm,
không có những kỳ
vọng quá lạc quan.
Trong tác
phẩm Các Bí Mật của
Keely
[[8]]
cũng vị mệnh phụ đó đã trình bày đoạn sau đây trích từ
một bài báo do tác giả của chính pho sách này viết cho tờ
Nhà Thông Thiên Học:
Trong Vật chất và Lực là
gì, tập sách thứ năm do Nhà xuất bản Thông Thiên Học
phát hành, tác giả đã cho rằng: "Các nhà khoa học vừa tìm
ra ‘trạng thái thứ tư của vật chất’, trong khi đó, các nhà
Huyền bí học đã thâm nhập qua trạng thái thứ sáu nhiều năm
trước; do đó, mặc dù không suy diễn mà cũng biết được sự
tồn tại của trạng thái cuối cùng tức trạng thái thứ
bảy". Kiến thức này bao gồm một trong các bí nhiệm của
Keely được gọi là "bí nhiệm phức hợp”. Nhiều người cũng
biết rằng bí nhiệm của ông bao gồm "sự gia tăng năng lượng",
sự cách điện ether, và sự thích ứng động lực cầu vào máy
móc.
Ấy chính là vì khám phá của Keely đã đưa tới việc hiểu
biết một trong các bí nhiệm Huyền bí nhất, một bí nhiệm
không bao giờ được phép lọt vào tay quần chúng. Đối với nhà
Huyền bí học, hình như chắc chắn là ông không thể đẩy mạnh
các khám phá của mình tới kết cuộc hợp lý được. Nhưng
thế cũng còn hơn hiện nay. Cho dù bị hạn chế như vậy, khám
phá này vẫn có thể tỏ ra có ích nhất. Ấy là vì:
Lần
hồi, với sự kiện tâm trì chí mà một ngày kia thế giới sẽ
tôn vinh, bậc thiên tài ấy đã miệt mài khảo cứu, khắc phục
mọi khó khăn lớn lao cứ xuất hiện mãi trên đường đi và hầu
như là các chướng ngại vật không thể vượt qua được (đối
với mọi người, ngoại trừ ông) để tiến thêm nữa. Nhưng thế
giới chưa bao giờ xác định được lúc nào sẽ sẵn sàng cho
sự xuất hiện của dạng lực mới mà nhân loại đang chờ đợi.
Thiên nhiên, bao giờ cũng tiết lộ các bí mật của mình một
cách miễn cưỡng, đang lắng nghe những lời yêu cầu của vị
chủ nhân của mình (tức sự thiết yếu). Các mỏ than trên thế
giới không thể chịu đựng mãi được sự bốc lột ngày càng
tăng. Hơi nước đã đạt đến mức giới hạn cực đại năng lực
của mình và không đáp ứng được các nhu cầu của thời đại.
Nó biết rằng mình sắp thất sũng. Điện lực thì cứ ngập
ngừng và tùy thuộc vào sự tiếp cận của cô em đồng nghiệp.
Máy bay th́ neo đậu, có thể nói đang chờ đợi cái lực khiến cho
sự phi hành không còn là một giấc mơ nữa. Khi người ta đã
dễ dàng từ nhà liên lạc với cơ quan bằng điện thoại, thì
những cư dân trên các lục địa riêng biệt cũng sẽ có thể nói
chuyện với nhau qua đại dương. Trí tưởng tượng bị tê liệt
hết khi ra sức tiên đoán các kết quả vĩ đại của khám phá
kỳ diệu này, một khi nó được áp dụng vào nghệ thuật cơ
khí. Khi chiếm lấy cái ngôi mà nó sẽ bắt hơi nước nhường
lại, lực động lực cầu sẽ thống trị thế giới với một
quyền lực mạnh mẽ về mặt văn minh đến nỗi mà không một tâm
trí hữu hạn nào có thể đoán được các thành quả. Trong
lời nói đầu của Tôn Giáo
Khoa Học, Laurence Oliphant đã cho rằng: "Một triển vọng
luân lý mới đang đón chờ nhân loại, đó chắc chắn là một
thứ nó rất cần. Triển vọng luân lý mới này tuyệt nhiên
không thể bắt đầu một cách rộng khắp như thế bằng các sử
dụng động lực cầu cho những mục đích có lợi trong sinh
hoạt.
[[9]]
Các nhà Huyền bí học đă sẵn sàng nhìn nhận mọi điều này
cùng với vị tác giả hùng biện. Chấn động phân tử nhất
định là "lãnh vực khảo cứu chính thống của Keely", các
khám phá của ông sẽ tỏ ra thật là kỳ diệu – song
chỉ có ông mới làm nên
chuyện. Đến nay, thế giới chỉ nhận được những gì có
thể phó thác một cách an toàn. Có lẽ lời khẳng định này
chưa hoàn toàn bắt đầu xác thực đối với nhà phát minh, vì
ông đã cho rằng ông tin chắc là mình sẽ hoàn thành được
mọi điều mà mình đã hứa hẹn, bấy giờ, ông sẽ công bố cho
thế giới; nhưng nó phải bắt đầu xác thực đối với ông trong
một tương lai không xa lắm. Điều mà ông đề cập tới công tác
của mình đã chứng minh hùng hồn cho sự việc đó:
Khi
xét tới sự vận hành của động cơ của tôi, để có được ngay
cả một quan niệm gần đúng về
qui trình thao tác của
nó, quý khách phải dẹp ngay
mọi tư tưởng về động cơ
vận hành dựa vào nguyên tắc hút khí và nén khí, dùng sự
bành trướng của hơi nước (hoặc
một thứ hơi tương tự nào khác)
tác động lên một vùng tiếp giáp, chẳng hạn như piston của
một động cơ hơi nước. Động cơ của tôi chẳng có một piston
mà cũng chẳng có bánh tâm sai, cũng chẳng có grain áp lực
nào tác dụng trong máy, bất chấp kích thước hoặc dung tích
của nó. Xét thật tỉ mỉ cả việc phát triển năng lực của
tôi lẫn mọi địa hạt ứng dụng của nó, cơ hệ của tôi
dựa vào chấn động
giao cảm. Để khơi hoạt hoặc phát triển thần lực của tôi,
không thể có cách nào khác được; động cơ của tôi cũng không
thể vận hành dựa vào bất kỳ một nguyên lý nào khác .
. . Tuy nhiên, đó là cơ hệ chính tắc, vì thế mọi thao
tác của tôi đều được điều động theo cách này – nghĩa là
tôi sẽ sản sinh ra năng lượng, máy sẽ chạy, khẩu đại bác
sẽ được điều động bằng
một sợi dây kim loại. Chỉ sau hàng năm làm việc không
ngừng và thực hiện hầu như là vô số các cuộc thí nghiệm
(bao gồm không những việc kiến tạo biết bao nhiêu là các
cấu trúc máy móc đặc biệt, mà còn có việc điều nghiên tỉ
mỉ nhất các đặc tính hiện tượng của chính chất ether được
tạo ra), tôi mới có thể không cần tới một cơ cấu phức tạp
nào mà vẫn làm chủ được
cái lực tinh anh và kỳ diệu tôi đang vận dụng.
[[10]]
Các đoạn mà chúng tôi in nghiêng dưới có liên quan trực tiếp
với khía cạnh Huyền bí của việc áp dụng Lực chấn động
mà ông Keely gọi là
"chấn động giao cảm”. "Sợi dây kim loại" đã là một bước từ
cảnh giới thuần Dĩ thái xuống Cõi trần. Nhà phát minh đã
tạo ra các phép mầu – từ ngữ "phép lạ" không phải là mạnh
quá – khi chỉ tác động qua Lực liên ether mà thôi, đó là
các nguyên khí thứ năm và thứ sáu của Tiên thiên khí
(Ākāsha). Từ một máy phát lực dài sáu bộ ông đã thu gọn
lại thành một máy phát lực "chỉ bằng một đồng hồ đeo tay
bằng bạc kiểu cổ", chính điều này là một phép lạ của
thiên tài về cơ học
chứ không phải về tinh thần. Bà Bloomfield-Moore, người bảo
trợ và một mực bênh vực ông, đã cho rằng:
Hai dạng lực mà ông đang thực nghiệm và các hiện tượng kèm
theo chúng, chính là các phản đề của nhau.
Một dạng lực được ông sản sinh ra và tác động xuyên qua ông.
Không ai đã từng lập lại điều mà ông thực hiện,
có thể tạo ra các kết quả giống như vậy. Đúng là
"ether của Keely" đã tác động, trong khi ether của Smith hay
Brown lại vẫn chưa hề có kết quả. Cho đến nay, Keely đã gặp
khó khăn trong việc tạo ra một cái máy, nó sẽ phát triển
và điều chỉnh "lực" mà không có sự can thiệp của bất kỳ
"ý chí năng” nào hoặc tác dụng cá nhân nào của người điều
hành, dù là vô thức hay hữu thức. Xét về những người
khác, ông đã thất bại về điều này,
vì trừ ông ra,
không ai có thể điều
động được cái "máy" của ông.
Xét về mặt huyền bí, đó là một thành tựu tiến bộ
hơn nhiều so với thành tựu mà ông tiên liệu về "sợi dây kim
loại", nhưng thành quả thu được từ các cảnh giới
thứ năm và thứ sáu
của Lực Dĩ thái sẽ không
bao giờ được phép phục vụ cho các mục đích thương mại, kinh
doanh. Phát biểu sau đây (của một người rất thân với nhà
phát minh đại tài) đã chứng tỏ rằng cơ cấu đó của Keely
có liên quan trực tiếp với việc tạo ra các thành quả kỳ
diệu của ông:
Một ngày kia, các cổ đông của "Công ty động cơ Keely" gài
một người vào trong phân xưởng của ông với mục tiêu trước
mắt là khám phá cho bằng được bí quyết của ông. Sau sáu
tháng quan sát cẩn thận, một ngày kia y vui mừng bảo J. W.
Keely: "Này, tôi biết cách làm cho nó chạy rồi". Họ bèn
ráp cái máy lại, Keely điều chỉnh cái vòi để phát lực và
cắt lực rồi bảo: "Đấy, thử đi". Người
kia hăm hở mở cái vòi phát lực, nhưng cái máy cứ
"ì" ra. Y bèn năn nỉ Keely: "Xin Ngài vui lòng làm lại cho
tôi xem một tí". Keely chiều ý hắn, thế là cái máy lại
chạy tức khắc. Người kia lại hì hục thử, nhưng không thành
công. Bấy giờ, Keely mới đặt tay lên vai y và bảo y thử lại
một lần nữa xem sao. Y bèn thử, kết quả là
máy lại phát lực ngay tức khắc.
Nếu sự kiện này mà đúng, thì vấn đề cũng dễ hiểu thôi.
Được biết ông Keely định nghĩa điện là "một dạng chấn động
nguyên tử nào đó". Như thế hoàn toàn đúng. Nhưng đó chỉ là
Điện trên cõi trần và do các tương hệ trần thế. Ông ước
tính rằng:
Có 100.000.000 chấn động phân tử trong một giây.
Có 300.000.000 chấn động liên phân tử trong một giây.
Có 900.000.000 chấn động nguyên tử trong một giây.
Có 2.700.000.000 chấn động liên nguyên tử trong một giây.
Có 8.100.000.000 chấn động ether trong một giây.
Có 24.300.000.000 chấn đông liên ether trong một giây.
Điều này đã minh chứng quan điểm của chúng ta. Chẳng rung
động nào có thể được tính toán (hay thậm chỉ ước tính)
một cách gần đúng bên ngoài "phạm vi của
Phân thân thứ 4 của Vô cực điện" (dùng một thuật ngữ
Huyền bí), tức chuyển động tương ứng với cấu tạo của chất
quang huy của Giáo sư Crookes (cách đây vài năm, người ta gọi
đại nó là "trạng thái vật chất
thứ tư" trên cõi
trần.
Nếu hỏi rằng tại sao ông Keely không được phép vượt qua một
giới hạn nào đó, thì cũng dễ trả lời. Ấy là vì cái mà
ông đã vô tình khám phá chính là Lực tinh đẩu kinh khủng mà
người Atlante đã biết và mệnh danh là
Mash-Mak (trong
Astra Vidyā, các Thánh
hiền Āryan đã gọi nó bằng một danh xưng mà chúng tôi không
tiện trình bày). Đó là
Vril trong Giống dân
sắp tới của Bulwer Lytton, cũng như là của các Giống dân
sắp tới của nhân loại chúng ta. Danh xưng Vril có thể là một
hư cấu, nhưng chính Lực đó lại là một sự kiện; ở Ấn Độ nghi
ngờ về sự tồn tại của nó thì cũng chẳng khác nào nghi
ngờ sự tồn tại của chư Thánh hiền, vì mọi mật thư đều có
đề cập đến nó.
Khi nhắm vào
một đạo quân từ Agniratha
[[11]]
được bố trí trên một phi thuyền, một khí cầu (theo các huấn
giáo trong Astra Vidyā),
Lực chấn động này sẽ khiến cho 100.000 người và các phần
tử tiêu tan thành tro bụi một cách dễ dàng. Nó được trình
bày một cách ẩn dụ trong
Vishnu Purāna trong
Ramāyana và các tác phẩm khác, trong chuyện thần kỳ về
hiền triết Kapila, Ngài "chỉ cần
liếc mắt một cái là
cũng đủ cho 60.000 đứa con của Vua Sagara tiêu tan thành tro
bụi", trong các Tác phẩm Nội môn, có giải thích về sự
kiện này và đề cập tới nó với danh xưng Kapilāksha – Mắt
của Kapila.
Các thế hệ
chúng ta phải được phép thêm cái Lực Quỷ quái này vào mớ
đồ chơi trẻ con của các kẻ chủ trương vô chính phủ, chẳng
hạn như melenite, mìn nổ chậm, lựu đạn, "giỏ hoa" và các
danh xưng vô thưởng vô phạt khác? Liệu cái tác nhân hủy diệt
này một khi lọt vào tay (chẳng hạn như) một Attila hiện đại
nào đó (một kẻ chủ trương vô chính phủ khát máu) có biến
Âu Châu thành ra trạng thái hỗn loạn sơ thủy chỉ trong vài
ngày, và chẳng ai sống sót để kể chuyện lại hay chăng?
Liệu lực này có thể biến thành tài sản chung của tất cả
mọi người không?
Điều mà ông Keely đã thực hiện thật là cực kỳ vĩ đại và
mầu nhiệm, ông rất cần minh chứng hệ thống mới của mình
để cho các nhà khoa học duy vật phải xấu hổ; dù muốn dù
không, nó cũng tiết lộ mọi bí nhiệm ẩn sau thế giới vật
chất, song không phải là cho mọi người. Chắc chắn là các
nhà Thông linh và các nhà Giáng ma (ở Âu Châu có số đông
hạng người đó) sẽ là những người đầu tiên có kinh nghiệm
cá nhân được các thành quả của sự thiên khải các bí nhiệm
như thế. Hàng ngàn người ấy sẽ đột nhiên thấy mình như lên
đến tận mây xanh (có
lẽ cùng với toàn dân), nếu một Lực như thế được hoàn toàn
khám phá ra và công bố. Toàn bộ khám phá này đã diễn ra
quá sớm tới hàng
ngàn – hay hàng trăm ngàn năm. Nó sẽ chỉ diễn ra đúng lúc
và đúng chỗ khi nạn đói kém khốn khổ, đã giảm bớt cũng
như là khi các đòi hỏi chính đáng của đa số cuối cùng
được chăm lo đến một cách ổn thỏa, khi giai cấp công nhân thấp
nhất chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, khi không có tiếng kêu
gào thảm thiết xin ăn vang lên khắp thế giới mà không ai
đoái hoài tới. Chúng ta có thể đẩy mạnh tiến trình này
bằng cách truyền bá giáo dục, mở mang thêm công tác di trú,
với các viễn ảnh tốt đẹp hơn,
trên một lục địa mới nào
đó có thể sẽ xuất hiện. Chỉ lúc bấy giờ, mới cần
tới Lực và Động cơ Keely (dưới
dạng nguyên thủy mà ông và các bạn đã từng chiêm
ngưỡng), vì lúc bấy giờ,
người nghèo sẽ cần nó hơn người giàu.
Trong khi đó, Lực mà ông khám phá ra sẽ tác động xuyên qua
các dây kim loại; nếu
ông thành công, nội điều này cũng sẽ biến ông thành nhà
phát minh đại tài nhất của thời đại trong thế hệ hiện nay.
Những điều mà ông Keely trình bày về
Âm thanh và
Màu sắc cũng đúng
theo quan điểm Huyền bí. Hãy nghe ông nói như thể ông đang
bảo dưỡng "các Đấng Thiên khải Thần linh", và suốt đời cặm
cụi thâm cứu Hậu thiên khí Bản sơ.
Khi so sánh độ tinh tế của khí quyển với độ tinh tế của
các luồng ether thu được do ông phát minh ra việc phân giải
các phân tử không khí bằng rung động, Keely cho
rằng:
Nó
cũng giống như bạch kim đối với khí hidrogen. Sự phân ly phân
tử không khí chỉ đưa chúng ta tới phân đoạn thứ nhất; liên
phân tử tới phân đoạn 2; nguyên tử tới phân đoạn 3; liên
nguyên tử tới phân đoạn 4; ether tới phân đoạn 5; liên ether
tới phân đoạn 6, tức sự liên hợp dương với ether ánh sáng.[[12]]
Trong
luận chứng dẫn nhập, tôi đã chủ trương rằng đó là lớp vỏ
chấn động của mọi nguyên tử. Khi định nghĩa nguyên tử, tôi
không tự giới hạn vào phân đoạn 6, nơi ether ánh sáng được
phát triển thành dạng thô trược nhất (trong mức độ minh
chứng của các cuộc khảo cứu của tôi). [[13]]
Tôi nghĩ rằng các nhà vật lý hiện đại sẽ cho các ý tưởng
này là một điều hoang tưởng ngông cuồng. Có lẽ chẳng sớm
thì muộn, thuyết này sẽ được soi sáng và được trình bày
một cách đơn giản để cho khoa học khảo cứu. Hiện nay, tôi
chỉ có thể so sánh nó với một
hành tinh nào đó trong không gian u tối, nơi mà ánh
sáng mặt trời khoa học chưa rọi tới . . . Tôi giả sử rằng
âm thanh cũng như mùi vị, là một chất liệu thực sự có một
độ tinh tế kỳ diệu, bất khả tri, nó xuất phát từ một vật
thể tạo ra nó bằng sự kích động, phóng ra các hạt vật
chất tuyệt đối (các cấu tử liên nguyên tử) với tốc độ
1.120 bộ một giây (trong
chân không lên tới 20.000 bộ một giây). Chất liệu phân tán
như vậy là một phần của khối bị xáo động; nếu chúng ta
cứ giữ cho sự xáo động này liên tục mãi, thì trong vòng
một chu kỳ thời gian nào đó, chất liệu này sẽ bị khí
quyển hấp thu hoàn toàn. Nói đúng hơn, nó sẽ đi qua bầu
khí quyển tới một điểm tinh tế siêu đẳng tương ứng với
tình trạng của phân đoạn chi phối việc nó giải thoát khỏi
chất lân cận . . . Trong khi truyền bá các (hợp) âm, các âm
thanh xuất phát từ các âm thoa (được cấu tạo để tạo ra các
ḥa âm ether) đã thấm nhuần hầu như hoàn toàn mọi chất liệu
ở trong tầm bắn phá nguyên tử của chúng. Việc đánh chuông
trong chân không sẽ giải phóng các nguyên tử này với tốc độ
và thể tích giống như ngoài khí trời. Nếu chúng ta giữ cho
sự xáo trộn của cái chuông cứ liên tục mãi trong vài triệu
thế kỷ, nó sẽ hoàn toàn biến trở lại thành các nguyên tố
sơ khai. Nếu căn buồng được nêm kín lại và đủ kiên cố, thể
tích chân không bao quanh chuông sẽ chịu một áp suất nhiều
ngàn cân Anh trên một inch vuông, do tác dụng của chất tế vi.
Theo như tôi lượng định, nói cho đúng ra thì âm thanh chính
là sự xáo trộn mức quân bình nguyên tử, phân giải các hạt
nguyên tử thực sự, chất được phóng thích như thế chắc chắn
phải thuộc một loại luồng ether nào đó. Trong tình hình
này, liệu có vô lý chăng khi giả sử rằng nếu chúng ta chặn
luồng này lại và tước lấy nguyên tố của vật thể đó, sớm
muộn ǵ nó cũng sẽ biến mất? Mọi vật thể (dù là động
vật, thực vật hay khoáng vật), xét cho cùng, đều được tạo
ra từ ether tế vi này; chúng chỉ quay về trạng thái hơi
thượng đẳng ấy khi được đưa vào một trạng thái quân bình vi
phân . . . Về mùi vị, chúng ta chỉ có thể có được một ý
niệm xác định nào đó về độ tinh tế vô cùng kỳ diệu của
nó bằng cách xét thấy một vùng khí trời rộng lớn có thể
được thấm nhuần trong nhiều năm bởi chỉ một hạt xạ hương
không thôi. Nếu đem cân hạt xạ hương ấy sau thời gian dài
dằng dặc đó, chúng ta sẽ thấy rằng nó cũng chẳng suy
suyển bao nhiêu. Cái đại nghịch lý vẫn liên kết với sự lưu
chuyển của các cấu tử mùi vị, chính là việc chúng bị
giam cầm trong một cái ly! Ở đây, chúng ta có một chất tinh
anh hơn nhiều so với cái ly chứa nó, song nó không thể thoát
ra khỏi cái ly được. Điều này cũng chẳng khác gì một cái
rây có các mắt lưới đủ để cho các viên đá hoa chui qua
được, thế nhưng vẫn giữ cho cát mịn không thể lọt qua; thật
vậy, đó là một bình phân tử chứa một chất nguyên tử. Đây
là một nan đề làm đau đầu những kẻ nào không có nhận ra
nó được nữa. Nhưng cho dù mùi vị vô cùng tinh tế, nó vẫn
có một quan hệ rất thô sơ với chất liệu của phân đoạn chi
phối một luồng từ khí (bạn muốn gọi nó là một luồng
thiện cảm cũng được). Phân đoạn này ở ngay phía trên âm
thanh. Tác dụng của dòng nam châm hơi trùng hợp với phần
nhận và phân bố của não người, bao giờ nó cũng làm giảm
giá trị lượng nhận được. Đó là một điều minh họa lớn lao
về việc trí tuệ kiểm soát vật chất, nó sẽ làm cho vật
chất giảm giá trị dần dần cho đến khi tiêu tan luôn. Cũng
vậy, nam châm dần dần mất hết năng lực của mình và trở nên
trì trệ. Nếu chúng ta có thể cân bằng và duy trì các quan
hệ giữa trí tuệ và vật chất, chúng ta sẽ sống mãi trong
thể xác, vì nó không bị suy vi. Nhưng rốt cuộc, sự suy vi
vật chất này sẽ đưa tới cội nguồn của một sự phát triển
còn cao siêu hơn nữa – đó là: ether thuần túy được phóng
thích ra khỏi phân tử thô; theo sự ước lượng của tôi, điều
này rất đáng được mong muốn. [[14]]
Có thể nhận
thấy là ngoại trừ một ít điểm bất đồng nho nhỏ, chẳng Cao
đồ hoặc nhà Luyện kim đan nào có thể giải thích các
thuyết này rành mạch hơn
dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, cho dù khoa học
ấy có cực lực phản đối quan điểm mới mẻ này đến đâu đi
chăng nữa. Xét về mọi nguyên lý cơ bản (nếu không muốn nói
là mọi chi tiết, đây chính là
Huyền bí học đơn thuần;
vả lại, nó cũng chính là
Vật lý học.
Cái "Lực
mới" (khoa học hiện đại muốn gọi nó là gì thì gọi) có
các hiệu quả không thể chối cãi được – điều này đã được
thừa nhận bởi hơn một nhà Tự nhiên học và Vật lý học đã
từng tới tham quan phòng thí nghiệm của ông Keely và đích
thân chứng kiến các hiệu quả kinh khủng của nó – là cái
gì vậy? Đó cũng là "cách thức chuyển động"
trong chân không, vì
không có Vật chất để sản sinh ra nó ngoại trừ
Âm thanh – chắc chắn
đó là "một cách thức chuyển động" khác, một
cảm giác do các chấn
động tạo ra, giống như Màu sắc? Nếu chúng ta tin chắc rằng
các chấn động chính là nguyên nhân xa hay gần của các cảm
giác như thế, thì ắt sẽ bác bỏ ngay cái thuyết khoa học
phiến diện cho rằng không
nhân tố nào được coi như là ở bên ngoài ta, ngoại trừ
chấn động ether hay khí trời.
[[15]]
Có thể nói là có một loạt nguyên nhân
siêu việt được khởi
động khi các hiện tượng này diễn ra,
nếu không được liên hệ
với tầm tri giác hẹp hòi của chúng ta, chúng sẽ chỉ
có thể được thấu triệt và truy nguyên ra bản chất khi vị
Cao đồ dùng tới các năng lực tinh thần. Theo như Asclepios
trình bày với Quốc vương, chúng là các "thể tính phi vật
thể” chẳng hạn như "xuất hiện trong gương" và "các sắc
tướng trừu tượng" mà
chúng ta trông thấy,
nghe thấy và ngửi
thấy trong các giấc mơ và các linh thị của chúng ta.
Các "cách thức chuyển động" như ánh sáng ether có liên quan
gì với các thứ này? Thế nhưng, chúng ta vẫn trông thấy,
nghe thấy, ngửi thấy và sờ thấy chúng, vì vậy trong các
giấc mơ, chúng cũng là các thực tại đối với chúng ta
giống như bất kỳ thứ nào khác trên cảnh giới Hão huyền
này.
[[1]]
Từ ngữ "siêu nhiên" có hàm ý vượt
trên hoặc ở bên
ngoài thiên nhiên. Thiên nhiên và Không gian đều là
một. Thế mà đối với nhà siêu hình học, Không gian
tồn tại bên ngoài bất cứ tác dụng nào của cảm
giác và thuần là một hiện tượng nội tâm, bất kể
chủ trương của Chủ nghĩa Duy vật cứ khăng khăng liên
kết nó với một dữ kiện cảm giác nào đó. Đối với
giác quan của chúng ta,
nó hoàn toàn có
tính cách nội tâm khi độc lập với bất cứ thứ
gì bên trong nó. Thế thì, làm sao mà bất cứ hiện
tượng nào, hoặc bất cứ thứ nào khác,
có thể bước ra bên
ngoài hoặc được thực hiện bên ngoài cái vốn vô biên
vô hạn? Nhưng khi chúng ta chỉ xem sự bành trướng
trong không gian như là một ý niệm có liên quan tới
một vài tác động (chẳng hạn như của các nhà Duy
vật và các nhà vật lý học); bấy giờ họ lại khó
lòng có quyền xác định và khẳng định rằng cái nào
có thể hoặc không thể
được tạo ra bởi các Lực của sự sản sinh ra
ngay cả trong vòng các không gian hạn hẹp, và họ chưa
có được ngay cả đến một ý niệm gần đúng xem các
Lực này là gì cả.
[[2]]
Khi đề cập tới
Chủ nghĩa Duy tâm, thật là sai lầm khi chứng tỏ
rằng nó dựa vào "các giả định bản thể học xa xưa
cho rằng các sự vật hoặc thực thể tồn tại độc lập
với nhau chứ không phải như là các điều kiện" liên hệ
(Stallo). Dù sao đi nữa, thật là sai lầm nếu triết
học Đông phương quan niệm như thế về Chủ nghĩa Duy tâm
và sự tri thức của nó, vì ngược lại mới đúng.
[[6]]
Điều trên được viết ra vào năm 1.886 khi mà người ta
đang hy vọng tràn trề là "Động cơ Keely” sẽ thành
công. Những điều mà tác giả tuyên bố lúc bấy giờ
đã được chứng minh là đúng, nay chúng ta chỉ cần
thêm một ít nhận xét liên quan tới sự thất bại của
các điều kỳ vọng của ông Keely, đến nay, chính nhà
phát minh cũng nhìn nhận thất bại này. Tuy nhiên,
mặc dù ở đây chúng ta dùng từ ngữ
thất bại, độc
giả nên hiểu nó theo một ý nghĩa tương đối, vì bà
Bloomfield-Moore đã giải thích như sau: "Ông Keely đã
nhìn nhận là vì bị thất bại trong việc áp dụng
lực chấn động vào cơ học theo các đường lối khảo
cứu thực nghiệm thứ nhất và thứ nhì. Ông bắt buộc
phải hoặc là thú nhận đã bị thất bại về
thương mại,
hoặc là thử tiến hành đường lối thứ ba, vẫn dựa
vào nguyên tắc đó, mưu tìm thành tựu qua một phương
tiện khác". "Phương tiện" này lại ở trên cảnh giới
hồng trần.
[[7]]
Chúng tôi biết rằng nhận xét này không thể được áp
dụng cho khám phá mới nhất của ông Keely, chỉ có
thời gian mới có thể chứng tỏ được cái giới hạn
chính xác của các thành tích của ông.
[[13]]
Đúng vậy, vì còn có phân đoạn
bảy, nó cũng
bắt đầu được liệt kê từ đầu đến cuối trên một cảnh
giới khác cao hơn.
[[15]]
Trong trường hợp này các nhà Bản thể luận người Mỹ
đâu có sai lầm, mặc dù các quan điểm của họ quá
nhân hình và Duy vật khiến cho các nhà Huyền bí học
khó chấp nhận được khi họ luận chứng thông qua bà
Bác sĩ M. S. Organ như sau:
Phải có các tính chất
thực thể tích cực trong các vật có một quan hệ cấu
tạo với các dây thần kinh cảm giác của động vật,
nếu không, làm sao chúng ta có tri giác được. Không
thể có bất cứ loại ấn tượng nào tác động lên não
bộ, dây thần kinh và trí tuệ – không có sự kích
thích hành động –
nếu không có một sự liên giao thực sự và trực
tiếp của một động lực có thực chất. [Dĩ nhiên là
"Thực chất" trong
phạm vi ý nghĩa rộng thông dụng của từ – trong
vũ trụ hão huyền
này chứ không phải trong
thực tại].
Lực này có thể là Thực Thể phi vật chất tinh anh
nhất [?]. Nhưng nó phải tồn tại; vì không giác quan,
yếu tố hoặc năng khiếu nào của con người có thể có
một tri giác, hoặc bị kích thích tác động, mà lại
không tiếp xúc với một lực thực chất nào đó. Đây
là luật cơ bản thấm nhuần toàn bộ thế giới hữu cơ
và trí tuệ. Theo ý nghĩa triết học chân chính,
chẳng hề có tác động độc lập vì mọi lực hay vật
chất đều có tương hệ với một lực hay chất khác.
Chúng ta có thể khẳng định một cách công bình, xác
thực và hữu lý rằng không chất nào có bất kỳ đặc
tính vị giác hay khứu giác cố hữu nào, mùi vị chỉ là
những cảm giác do các chấn động gây ra, vì thế, chúng
chỉ là các ảo tưởng của tri giác động vật . . . .
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS