Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

 
LIỆU TIẾNG NÓI VÔ THINH CÓ CHỈ DÀNH CHO THẦN BÍ GIA HAY CHĂNG?

Tác giả CHITTARANJAN SATAPATHY

Bản dịch: www.thongthienhoc.com

Tiến sĩ Chittaranjan Satapathy là Phó Hội Trưởng Quốc tế Hội Thông Thiên Học  Adyar.

Đây là bài thuyết tŕnh tại Hội nghị Nam Ấn Độ năm 2015

đăng trên Tạp chí Nhà Thông Thiên Học quyển 137.8

 

H.P.B. dành tặng bộ Giáo Lư Bí Truyền cho “mọi nhà Thông Thiên Học chân chính ở mọi nước và thuộc mọi giống dân, nó được ghi lại cho họ và hiệu triệu họ”. Trong trường hợp bộ Vén Màn Bí Mật nữ thần Isis, H.P.B. dành tặng nó cho “Hội Thông Thiên Học để nghiên cứu những đề tài” được bàn luận trong quyển sách ấy. Bà dành tặng quyển Ch́a khóa Thông Thiên Học cho “mọi môn đồ để họ học được rồi đến lượt ḿnh đem ra dạy người khác”. Mặt khác quyển Tiếng Nói Vô Thinh được dành “tặng cho một số ít người”. Bà không nêu rơ nó được dành tặng cho ai. Ngoài ra cũng không phải trường hợp đây là một quyển sách chỉ ngụ ư dành cho những người nào mà tác giả viết tặng. Rất thường khi có trường hợp một quyển sách được dành tặng cho một hoặc nhiều hơn nữa những người cần dùng, nhưng nó khả dụng cho bất cứ ai muốn mua và được đọc quyển sách đó.

 Trong lời nói đầu của quyển Tiếng Nói Vô Thinh minh định rằng quyển sách này được rút ra từ bộ Kim Huấn Thư và khi nói như vậy, bà cũng nêu rơ rằng Kim Huấn Thư là một trong những tác phẩm được trao tặng cho các học viên thần bí ở  Đông phương mà họ bắt buộc phải biết. Vào khoảng cuối lời nói đầu, bà phát biểu thêm rằng tốt hơn là nên tuyển chọn đúng đắn chỉ những bộ khảo luận nào thích hợp nhất cho một số ít thần bí gia chân thật trong Hội Thông Thiên Học để cho nó chắc chắn đáp ứng được nhu cầu của họ.

Có lẽ những lời nêu trên của H.P.B. đă thôi thúc một số người nghĩ rằng Tiếng Nói Vô Thinh là một tác phẩm có dụng ư dành cho “thần bí gia chân thật” trong Hội Thông Thiên Học. Chắc chắn theo cách diễn tả của ta, H. P. B. có thể kết luận rơ ràng rằng Tiếng Nói Vô Thinh và hai trích đoạn khác bao gồm trong sách này ắt thích hợp với các học viên thần bí. Bà cũng tiếp tục bảo rằng học viên thần bí là kẻ biết trân trọng lời của đấng Krishna mà bà trích dẫn từ Chí Tôn Ca, chương II, các câu kinh 11, 12.

“Bậc hiền triết không đau buồn về chuyện sống chết. Tôi chưa bao giờ tồn tại, cả bạn nữa, cũng như những người cai trị nhân loại nữa; bất cứ ai trong chúng ta cũng chẳng bao giờ ngưng tồn tại sau khi thân xác chết”.

Tuy nhiên theo đoạn nêu trên th́ thật khó mà kết luận rằng quyển sách này không thích hợp cho những người khác, hoặc nếu ai không phải là thần bí gia th́ không nên đọc sách này. Mặt khác, chính H. P. B. đă nêu rơ ở b́a quyển sách này: “Hằng ngày các Đệ tử đều sử dụng nó”, điều này dứt khoát cho thấy rằng quyển sách dành cho mọi người tầm đạo chứ không chỉ dành cho thần bí gia. Thật là một mất mát lớn lao nếu quyển sách nho nhỏ kỳ diệu này được viết bằng ngôn ngữ thi vị cao thượng với h́nh ảnh sống động mà lại ở ngoài tầm với của các học viên và đệ tử cư sĩ.

Trong chính cuộc đời của bà Blavatsky, quyển sách đă trở nên thông dụng trong đám nhà Thông Thiên Học. Tháng 2 năm 1890, bà có viết thư cho chị là Vera Petrovna de Zhelihovsky như sau: ‘Quyển Tiếng Nói Vô Thinh mặc dù nhỏ bé đang trở thành Thánh kinh của nhà Thông Thiên Học’. Ta không thể nói Thánh kinh chỉ dành cho thần bí gia chứ không dành cho tín đồ cư sĩ. Một nhà b́nh luận có phát biểu như sau: ‘Có lẽ cách tốt nhất để xem xét trong bộ khảo luận này là giả định rằng nó được viết cho kẻ hoàn toàn tân ṭng (sơ cơ) và có nhiều ư tại ngôn ngoại dành cho thần bí gia cao cấp hơn’ (Huynh O.M.). Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 bảo rằng: “Tôi tin rằng quyển sách này đă ảnh hưởng mạnh mẽ tới nhiều kẻ chân thành tầm đạo cầu theo minh triết và ḷng từ bi của Bồ Tát Đạo”. Tác giả người Nhật, D. T. Suzuki nói “Đây là Phật giáo Đại thừa chân chính”.

Chẳng có chỗ nào H.P.B. nêu rơ rằng quyển sách nên được sử dụng hằng ngày. Người ta càng đọc quyển sách nhỏ bé này (nó chỉ bao gồm 20 trang sách khổ A4) th́ người ta càng đạt tới chiều sâu thăm thẳm. Càng ngày nó càng biểu thị cho ta thấy rằng ta cần phải làm việc nhiều hơn nữa trong kiếp này và những kiếp vị lai. Khi ta tiến hành nghiên cứu quyển sách, nó soi chiếu cho ta thấy rằng ta đang ở đâu và nó vạch ra thêm nữa con đường mà ta tiến tới. Nó không cung cấp cho ta bất kỳ lời hứa giả tạo nào và nó biểu thị những khó khăn trước mắt không làm ta nản chí và vạch rơ điều ǵ chờ sẵn ta ở cuối Thánh đạo. Đôi khi nó mô tả thánh đạo là một con đường gai góc đầy những hầm hố, đôi khi nó lại ám chỉ Thánh đạo là một cái thang mà chân thang nhúng trong bùn lầy c̣n đỉnh thang mất hút trong ánh sáng vinh quang. Đôi khi nó mô tả Thánh đạo băng ngang qua sông đi tới tận bờ bên kia. Radhaji thường nêu rơ rằng thật ra không có con đường nào dẫn ta từ nơi này tới nơi kia ở ngoại cảnh, v́ tất cả đều diễn tiến trong nội tâm ta.

Có lẽ đă đến đúng lúc để thuật lại một giai thoại trong quyển sách của Mark Lee ‘Gơ vào cái Cánh cửa Mở ngỏ’: Những năm tháng của tôi với J. Krishnamurti. Có người nào đấy bảo rằng trong quyển sách Những Ngọn nến nơi Mặt trời, Emily Lutyens (vợ của Edwin Lutyen) bảo rằng chỉ trong một thời gian ngắn 15 ngày, Rukmini Arundale đă trải qua năm cuộc điểm đạo. Krishnamurti ngồi bật dậy và hỏi : “Thế bạn có biết điểm đạo là ǵ chăng? Chắc chắn bạn không biết, thậm chí trải qua cuộc điểm đạo thứ nhất nghĩa là ǵ? Ông tiếp tục nói một cách nghiêm chỉnh:

“Đệ tử tới gần Sư phụ, ngài ngồi ở cuối một hang động trông giống một đường hầm dài dằng dặc. Một giọng gay gắt nổi lên: Ngươi muốn cái ǵ? Ngươi chẳng thích làm với bất cứ điều ǵ, hăy cút đi”. Nếu đệ tử kiên tŕ và tha thiết th́ một lúc sau y sẽ trở lại, cũng giọng nói ấy vang lên nói y hệt như cũ. Bất chấp lời quở trách, đệ tử cứ một thời gian th́ lại tới với thầy. Thế rồi một ngày kia y sửng sốt khi phát hiện ra ở lối vào hang động có một h́nh điêu khắc của chính y; có lẽ là ánh mắt thật độc ác, hàm nhô ra và nét mặt phô bày ḷng tham lam và keo kiệt. Bất chấp sự méo mó ấy, y vẫn ngộ ra được rằng h́nh tượng ấy chính là ḿnh. Khi y nh́n đi ngắm lại h́nh ấy với một xúc cảm khó chịu và áy náy nôn nao, th́ tiếng nói bên trong lại vọng ra từ cuối đường hầm: “Hăy nghĩ xem cái thực tướng của mi, hăy cút đi làm chuyện khác c̣n hơn”. Đệ tử quay lại, suy gẫm, thay đổi rồi kiên tŕ đến với thầy. Khi y thay đổi mềm mỏng hơn, dịu dàng hơn, dứt bỏ mọi điều yêu ghét và dính mắc th́ h́nh tượng y cũng dần dần thay đổi. Không c̣n có sự trả lời từ bên trong hang động nữa. Bây giờ chỉ có sự giao tiếp với cái h́nh ngồi bên ngoài đường hầm. Quy tŕnh này tiếp diễn cho tới khi bỏ hết, hầu hết những thứ được thêm thắt vào bản ngă. Thế rồi một ngày kia tiếng nói điểm danh y. Trong giọng nói có đầy tràn t́nh yêu thương và thầy bảo rằng: “Con hăy vào đây” và thầy đón tiếp học tṛ. Đây là cuộc điểm đạo thứ nhất. (Tường tŕnh trực tiếp của Tiến sĩ S.Balasundaram trong tác phẩm Sư phụ không phải là Thầy.)

Chúng ta thật có may mắn mới được nghe tường tŕnh về quy tŕnh đầu tiên ra sao theo lời của người như Krishnaji, là người hiểu biết về vấn đề này. Trong mỗi một của ba Trích đoạn được xuất bản với nhan đề Tiếng Nói Vô Thinh, H. P. B. ra sức cung cấp cho ta một quan điểm hết sức tỉ mỉ về quy tŕnh liên quan tới sự tiến bộ của người tầm đạo. Mọi điều trong quyển sách này đều không dễ hiểu. Do chính bản chất của chúng, những giáo huấn bí truyền chẳng bao giờ cụ thể lắm. Nghe đâu việc thấu hiểu trọn vẹn một tŕnh độ chỉ xảy ra khi người tầm đạo đă leo lên tới tŕnh độ đó và gần kết thúc. Hiểu được nghĩa đen của giáo huấn bí truyền chẳng đi tới đâu so với việc chiêm nghiệm chúng và từng bước thực hành chúng.

H. P. B. đă rút ra ba Trích đoạn trong “Kim huấn thư” rồi tập hợp chúng lại bên dưới một tựa đề duy nhất. Có lẽ ta cũng đúng thôi khi giả định rằng ba Trích đoạn riêng rẽ này không phải là ba Trích đoạn liên tục. Chẳng hạn như sự chọn lựa được hiển thị ở cuối Trích đoạn thứ hai (chọn lựa giữa Hai Con Đường) chỉ có thể được thực hiện khi người tầm đạo đi tới cánh cổng cuối cùng thứ bảy mô tả ở cuối Trích đoạn thứ ba. Xét về một phương diện nào đấy th́ ba Trích đoạn mô tả ba khảo hướng đối với cùng một mục tiêu, thế nhưng theo một ư nghĩa là chúng bổ sung lẫn nhau.

Muriel Daw, một Phật tử và một nhà Thông Thiên Học có nêu rơ rằng trong ấn bản nguyên thủy của quyển Tiếng Nói Vô Thinh, người ta có xếp một ḍng riêng rẽ ngay bên dưới câu thứ nhất, vậy là biến thành một phần Tựa đề của cả Trích đoạn I. Tựa để là Tiếng Nói Vô Thinh, c̣n một phần tựa đề là “Những giáo huấn này dành cho những kẻ không sợ những nguy cơ của thần thông cấp thấp”. Bà bảo rằng hàm ư của Trích đoạn tựa đề này là ở chỗ trọn cả Trích đoạn bàn về pháp môn tham thiền, bao gồm những nguy cơ bắt nguồn từ việc sử dụng thần thông.

C̣n về phần Trích đoạn thứ nh́, muốn hiểu rơ chủ đề trung tâm của nó th́ người ta cần hiểu “Bồ Tát” nghĩa là ǵ. Đó là một từ tiếng Bắc phạn, nghĩa là một người có bản thể (sattva) là sự giác ngộ thuần túy (boddhi). Ở mức con người, bất cứ ai mà bản thể chỉ được dẫn dắt bởi mong ước đạt được sự giác ngộ giúp đỡ người khác th́ người ấy có thể được gọi là Bồ Tát, ví dụ điển h́nh là Thái tử Tất Đạt Đa, ngài đă là Bồ Tát cho đến khi toàn giác trở thành Phật. Không thể giúp đỡ được người khác nếu không có minh triết, cho nên muốn giác tha th́ phải tự giác trước đă. Chỉ lúc bấy giờ th́ người ta mới chọn lựa giữa Hai Con Đường. Theo một phiên bản tường tŕnh th́ ngay cả Đức Phật Thích Ca cũng gặp khó khăn khi chọn lựa. Nghe đâu sau khi ngài toàn giác, ngài tiếp tục ngồi dưới gốc cây bồ đề bảy ngày để vui hưởng niềm cực lạc mà ḿnh đă t́m ra. Thế rồi ngài mới cân nhắc ra sức giúp đỡ người khác nhờ vào kiến thức mà ḿnh đă t́m thấy. Ngài thầm nghĩ: “Chân lư này khó quá, chẳng ai hiểu được đâu”. Bấy giờ Trời Phạm Thiên hiện ra thuyết phục ngài: “Thật ra biết bao nhiêu chúng sinh vô minh, song le cũng có những người trên mắt chỉ vướng một chút bụi trần”.

Lời Thệ Nguyện Bồ Tát là động cơ thúc đẩy và là con đường rèn luyện dành cho mọi Phật tử Đại thừa, đó là: đạt được giác ngộ v́ ích lợi cho tất cả chúng hữu t́nh. Người muốn trở thành Bồ Tát không chỉ quan tâm tới sự giác ngộ cá nhân mà c̣n quan tâm tới sự giác ngộ toàn thể. Muriel Daw nêu rơ rằng bà Blavatsky thường đề cập tới bản thân bằng những lời lẽ khiêm tốn là ḿnh thuộc hàng đệ tử thấp nhất. V́ thế cho nên có lẽ là một ư tưởng bất b́nh thường khi nghĩ rằng bà là một vị Bồ Tát. Tuy nhiên chỉ kẻ nào đă Phát nguyện như trên mới có thể được các bậc đạo sư chấp nhận; và khi xét tới cuộc đời bà liệu có ai trong chúng ta lại có lúc nghi ngờ rằng mọi năng lượng của bà đều được tiêu tốn để hấp thu càng nhiều Minh triết Cổ truyền càng tốt để rồi truyền lại cho chúng ta. Bà cũng bảo rằng từ lúc người ta Phát nguyện (người ta đạt tới lúc đó vào cuối Trích đoạn thứ nh́ tức là Hai Con Đường) th́ người ta trở thành một vị Bồ Tát non nớt thiếu kinh nghiệm.

Trong Trích đoạn thứ ba, H. P. B. miêu tả con đường Ba la mật tức là những đức hạnh toàn bích siêu việt. Bà bảo rằng:

Hỡi kẻ dệt nên tự do, ngươi phải quán triệt được những Ba-la-mật này gồm 6 và 10 đức hạnh toàn bích siêu việt trên Thánh đạo đầy mỏi mệt”.

Trong Huấn lệnh thứ ba của trường Bí giáo, H. P. B. có trích dẫn một bức thư mà bà nhận được từ Sư phụ:

Sáu và mười Ba la mật tức đức tính siêu việt không chỉ dành cho những tu sĩ và đạọ sĩ Yoga đă lăo luyện, mà c̣n dành cho tất cả những ai bước vào Thánh đạo. . . .

V́ thế cho nên đối với việc rèn luyện tinh thần, dường như ngay cả những tu sĩ như chúng ta cũng có thể có ích lợi khi biết nhiều hơn về con đường đặc thù này dẫn tới sự giác ngộ.

Trong Trích đoạn thứ ba có tựa đề là ‘Bảy Cánh Cổng’; H. P. B. giới thiệu với ta sáu Ba la mật:

1.     Dāna - Bố thí

2.     Sila - Tŕ giới

3.     Kshānti - Nhẫn nhục

4.     Virya - Tinh tấn

5.     Dhyāna - Thiền định

6.     Prajñā - Trí huệ.

Ở phần giữa, bà có giới thiệu một yếu tố mới tên là Virāga giữa Ba la mật thứ ba và thứ tư mà bà gọi là cánh cổng cám dỗ.

Ngoài sáu Ba-la-mật dẫn tới Bát Nhă (Prajñā) ra c̣n có bốn Ba la mật nữa mà người ta cần biết đối với những ai đă vượt qua bảy cánh cổng cũng như kẻ c̣n sơ cơ. Đôi khi bốn thứ này c̣n được gọi là ‘Tứ Đại Toàn Bích’:

7. Upāya - Phương tiện thiện xảo

8. Pranidhāna - Đại nguyện

9. Bala - Đại lực

10. Jñāna - Toàn giác.

Những Ba-la-mật này hàm ư nhiều hơn ư nghĩa b́nh thường của chúng. Chẳng hạn như Bố thí Ba-la-mật không chỉ có nghĩa là cho ra hoàn hảo mà hàm ư là sự hoàn hảo vượt quá mức cho ra. Nó không chỉ là nói về cho ra một điều ǵ đấy mà chúng ta không cần hoặc điều ǵ đó mà ta có dư thừa và muốn vứt bỏ đi. Sự hoàn hảo vượt quá mức cho ra hàm ư cho ra một cách vui vẻ giống như bà mẹ cho con bú trong khi ḿnh vẫn c̣n đói; bà phát triển thái độ không dính mắc và không chia rẽ. Một khi ta hiểu được Bố thí Ba-la-mật là một sự hoàn hảo vượt quá mức cho ra, th́ nó nâng ta lên tới một tŕnh độ chỉ có niềm vui đơn thuần là cho ra và người tầm đạo biết rằng ḿnh đang đi đúng đường. Nhân tiện xin nói, nó không chỉ hạn chế vào việc cho ra những sự việc vật chất mà c̣n cho ra năng khiếu giáo huấn, ḷng vô úy, và thậm chí cả sinh mạng của ḿnh nữa.

Với mọi Ba-la-mật khác th́ cũng như thế. Chẳng hạn như Tŕ giới Ba la mật phải được hiểu là sự hoàn hảo vượt quá mức giới luật đạo đức. Nó gồm năm yếu tố (thường được gọi là Ngũ giới):

1.     Không sát sanh - tôn trọng sự sống

2.     Không trộm cắp - tôn trọng tài sản người khác

3.     Không tà dâm - tôn trọng bản chất thanh khiết

4.     Không vọng ngữ - tôn trọng sự thành thật

5.     Không dùng chất độc - tôn trọng cái trí minh mẫn

Ta cũng có thể tóm tắt ngắn gọn chúng là vô hại, không lấy cái ǵ mà người ta không cho, giữ cho ba nghiệp thân, khẩu, ư, được thanh khiết.

Không phải trường hợp các Ba la mật này được theo đuổi riêng rẽ, hay cái này được theo đuổi sau cái kia. Việc thực hành một Ba la mật giúp cho việc thực hành Ba la mật khác. Điều này được phản ánh qua phép thực hành của Phật tử tŕ ngũ giới trước khi Bố thí. Ngay cả trong hàng ngũ tín đồ Ấn giáo cũng có phép thực hành cả người cho lẫn người nhận và giữ cho ba nghiệp thân, khẩu, ư, được thanh khiết trước khi thực hành Bố thí.

Ba loại Ba-la-mật Bố thí, Tŕ giới và Nhẫn nhục tạo thành một bộ ba biểu diễn t́nh thương, sự hài ḥa và sự kiên nhẫn. T́nh thương tạo ra sự hài ḥa, nhưng nếu không có sự kiên nhẫn th́ sự hài ḥa ấy không thể bền lâu. Tương tự như vậy, ba loại Ba la mật cuối cùng, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ tạo thành một bộ ba khác. Khi có nghị lực không nao núng khi theo đuổi sự nhập định th́ người ta đạt thành quả là nhận thức tinh thần viên măn. Muốn đạt tới và duy tŕ được một địa vị mới trong thế giới tinh thần cao siêu th́ cần có nghị lực tức năng lượng tinh thần.

Ở giữa hai bộ ba gồm sáu Ba-la-mật này, H. P. B. giới thiệu Ba la mật Virāga (vairagya) nếu không có nó th́ ta không chinh phục được hăo huyền mà cũng chẳng nhận thức được sự thật. Theo ư nghĩa khác th́ đó là sự không vướng mắc hoặc vô dục, đây là đức tính quan trọng nhất trong mọi đức tính. Thật cốt yếu là cái trí phải thoát khỏi những ham muốn và đam mê bằng không th́ người tầm đạo ắt trượt trở lại để vất vả đối phó với nó. H. P. B. nhắc ta nhớ rằng ‘sự nghiêm khắc và đ̣i hỏi gắt gao là đức tính Virāga.

Ta hăy xét một vài câu kinh sau đây từ một trong ba Trích đoạn của Tiếng Nói Vô Thinh. (Bản văn trong ngoặc vuông được rút ra từ những chú giải thuật ngữ ở cuối sách, c̣n số thứ tự câu kinh được tŕnh bày trong ngoặc tṛn). Những thứ này tiếp tục chứng tỏ rằng ngay cả các cư sĩ vẫn có thể rút được ích lợi từ quyển sách nhỏ kỳ diệu này.

 

Trích đoạn I.

. Nếu muốn sống đời đời th́ con hăy từ bỏ kiếp sống giả tạm. [Nếu con muốn sống trong tinh thần th́ phải xả bỏ sinh hoạt của phàm ngă nơi cơi vật lư] (21)

. Sảnh đường thứ nhất mang tên Vô minh, con sinh hoạt rồi chết trong đó (24-25)

. Sảnh đường thứ nh́ tên Học tập. Con sẽ t́m được thần thông trong sảnh đường này, nhưng hăy cảnh giác về các nguy cơ của chúng. Đừng t́m kiếm đạo sư của ḿnh trong sảnh đường hăo huyền này. (26-29).

. Sảnh đường thứ ba tên là Minh triết, nơi con có thể t́m kiếm Sư phụ của ḿnh. Muốn đạt tới Thung lũng Cực lạc thông qua sảnh đường này, con hăy cảnh giác với cảm thức chia rẽ. Trước khi bước vào Thánh đạo, con phải diệt được thể ham muốn của ḿnh và tẩy trược được thể trí của ḿnh, bởi v́ nước trong sạch của sự sống đời đời không thể trộn lẫn với nước bùn lầy. (27, 32, 37, 51, 52).

. Con không thể bước trên Thánh đạo trước khi con trở thành chính Thánh đạo. (58)

. Hăy trợ giúp Thiên nhiên và làm việc cùng với nó, th́ Thiên nhiên ắt coi con là một trong những đấng sáng tạo và cúi đầu vâng phục con (66).

. Chỉ có một con đường dẫn tới Thánh đạo và chỉ ở tận cuối con đường ấy th́ ta mới nghe được Tiếng Nói Vô Thinh. (69).

 

Trích đoạn II

. Đừng tin rằng việc ngồi trong rừng sâu với ḷng kiêu hănh, ẩn dật, xa ĺa loài người hoặc sống bằng cây cỏ, uống nước tuyết, sẽ dẫn con tới mục tiêu giải thoát tối hậu (132).

. Muốn đạt tới Niết Bàn, người ta phải đạt được sự Tự tri, điều này vốn phát sinh từ những hành vi yêu thương. Tín đồ ích kỷ sống chẳng có mục đích ǵ hết. Kẻ nào không trải qua công việc được quy định trên đời này th́ kẻ ấy đă sống hoài công. (136, 153)

. Hăy khiêm tốn nếu con muốn đạt tới Minh triết, và hăy khiêm tốn hơn nữa khi con đă quán triệt được nó. (161, 162)

. Con đường dẫn tới tự do tối hậu ở bên trong chính con. Con đường ấy bắt đầu và chấm dứt ở bên ngoài phàm ngă. (169, 170)

 

Trích đoạn III

. Bất cứ cảm giác nào làm nảy sinh xúc cảm ‘bản ngă’, ắt khiến cho con đánh mất cái phần thưởng mà con đă chiếm được dọc theo Thánh đạo.  (245)

. Chơn ngă của con giống như một con hươu, c̣n tư tưởng của con là những con chó săn mệt mỏi theo đuổi sự tiến bộ của ḿnh dẫn tới suối nguồn Sự Sống đời đời (260)

. Nên nhớ rằng con chiến đấu v́ sự giải thoát con người, cho nên mỗi thất bại là mẹ thành công và mỗi sự toan tính thành thật sớm muộn ǵ cũng mang lại phần thưởng  (274).

Đây là một quyển sách nâng cao làm cho trọn cả bản thể ta ngất ngây với sự thi vị đơn thuần:

Hỡi kẻ chinh phục Tội lỗi, nên biết rằng một khi kẻ chinh phục được Suối Nguồn đă băng qua Con đường thứ bảy, th́ trọn Thiên nhiên xao xuyến, hoan hỉ, kính sợ và cảm thấy ḿnh không thốt nên lời. Ngôi sao bạc giờ đây chiếu lấp lánh tin vui này cho đóa hoa nở ban đêm, ḍng suối nhỏ chảy róc rách rỉ rả ra câu chuyện tới những viên đá cuội, làn sóng đại dương mờ tối ắt làm cho nó ầm ầm đi tới những vách đá có những bọt sóng vây quanh, cơn gió hiu hiu nặng trĩu thơm ngát mùi hương mang nó theo tới tận các thung lũng và những cây thông hùng vĩ th́ thào một cách bí nhiệm: ‘Một bậc Tôn sư đă xuất hiện, đó là Tôn sư của Ngày Giác Ngộ. (281).

 

*********

 

Có một con đường dốc đứng và nhiều chông gai,

đầy dẫy những thứ nguy hiểm,

nhưng nó vẫn là một con đường và nó dẫn tới

ngay chính tâm của Vũ trụ:

Ta có thể cho con biết cách t́m ra những người

chỉ cho con cái cổng bí mật

nó chỉ mở ra vào trong nội tâm thôi ,

rồi khép chặt măi măi đằng sau kẻ sơ cơ.

Không có ǵ nguy hiểm

mà cái ḷng can đảm không nao núng lại không chinh phục được;

không có thử thách nào

mà cái sự trinh khiết không t́ vết lại không thể vượt qua được;

không có sự khó khăn nào

mà cái trí năng dũng mănh lại không thể khắc phục được.

Đối với kẻ nào chiến thắng tiến lên

th́ có một phần thưởng khôn tả -

quyền năng ban phước và cứu chuộc nhân loại;

c̣n đối với những kẻ nào thất bại

th́ có những kiếp nữa để thành công.

 

Tuyển tập của H. P. Blavatsky,

         Quyển XIII, trang 219.

 

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS