|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
KI TÔ GIÁO
(CHRISTIANITY)
Trích quyển The
Inner Life
Tác giả C. W. Leadbeater
|
|
KI TÔ GIÁO
Trong những nguyên lư của Thông Thiên Học, tuyệt nhiên không có điều ǵ
ngược lại Ki Tô giáo nguyên thủy chân chính, mặc dù có thể có những phát
biểu không thể dung ḥa được với một số lỗi lầm trong thần học hiện đại b́nh
dân. Thần học hiện đại gán cho kinh điển một tầm quan trọng bao la; thật ra
tôi thấy có vẻ như nó hầu như hoàn toàn dựa vào một hai bản văn. Nó xét tới
những bản văn này rồi dành cho nó một cách thuyết giải đặc thù, thường
thường ngược hẳn lại với ư nghĩa đơn giản trong những bản văn khác cũng của
kinh thánh. Dĩ nhiên trong kinh điển của Ki Tô giáo đều có những điều mâu
thuẫn vốn tất yếu phải như vậy trong bất kỳ quyển sách nào có kích thước đồ
sộ như thế; nhiều bộ phận khác nhau trong kinh thành được viết ra trong
những thời kỳ lịch sử thế giới cách xa nhau nhiều do những người có kiến
thức và tŕnh độ văn minh không tương đương với nhau.
Mọi phát biểu trong đó không thể đúng theo sát nghĩa, nhưng ta có thể truy
nguyên tới tận điều ẩn đằng sau đó và cố gắng t́m ra bậc đạo sư nguyên thủy
đă tŕnh bày như thế nào trước các môn đồ. V́ có nhiều điều mâu thuẫn và
nhiều cách thuyết giải, cho nên hiển nhiên là Ki Tô hữu biết suy tư có bổn
phận phải cân nhắc cẩn thận những phiên bản khác nhau trong tín ngưỡng của
ḿnh đang hiện hành, và quyết định đâu là đúng đâu là sai theo lư trí và cảm
thức phân biệt phải trái thông thường của chính ḿnh.
Thật vậy, hiện nay mọi Ki Tô hữu đều phải quyết định cho chính ḿnh xem ḿnh
có tự nguyện là một tín đồ Công giáo La mă hay là thành viên của Giáo hội
Anh quốc hoặc thuộc phái Giám lư hay là thuộc phái Đạo quân Cứu thế; mặc dù
mỗi một trong những giáo phái này đều tuyên bố rằng ḿnh giương cao ngọn cờ
Ki Tô giáo chân chính duy nhất và biện minh cho lời rêu rao ấy qua việc
trích dẫn kinh điển. Thế th́ làm sao
kẻ phàm phu quyết định được giữa những lời rêu rao cạnh tranh như thế? Hoặc
là y mù quáng chấp nhận tín ngưỡng mà cha ông ḿnh vẫn chủ trương và tuyệt
nhiên không khảo sát vấn đề này, hay là y khảo sát nó rồi quyết định qua
việc vận dụng sự phán đoán của chính ḿnh.
Nếu y đă làm như thế th́ thật phi lư và tiền hậu bất nhất khi y từ chối
không khảo sát mọi bản văn, thay
v́ chỉ dựa đức tin trên một hai bản văn thôi. Nếu y vô tư khảo sát mọi bản
văn th́ y chắc chắn sẽ t́m thấy nhiều điều ủng hộ cho chân lư của Thông
Thiên Học. Y ắt cũng thấy rằng chỉ nhờ có Thông Thiên Học mới thuyết giải
hợp lư được các tín điều. Cố nhiên để so sánh một cách thông minh các hệ
thống khác nhau này y cần điều tra về lịch sử tôn giáo của chính ḿnh để xem
giáo lư Ki Tô giáo đă đi đến t́nh trạng hiện nay ra sao.
Y ắt thấy rằng trong Giáo hội Ki Tô giáo thời sơ khai có ba bộ phận hoặc
giáo phái chính yếu. Trước hết là các vị Tiến sĩ Ngộ Đạo hoặc các vị đạo sư
vốn là những người có văn hóa và minh triết, họ chủ trương rằng Giáo hội Ki
Tô có hệ thống triết lư mang bản chất giống như các hệ thống lớn của Hi Lạp
và La Mă đương thời. Họ bảo rằng hệ thống này mặc dù hoàn toàn bao quát và
rất hay ho nhưng lại khó hiểu, cho nên họ không khuyên người ít học nghiên
cứu nó. Họ bảo đó là sự Ngộ đạo hoặc tri thức được sở hữu bởi những người là
thành viên chính thức của Giáo hội, nhưng không được trao truyền cho thế
giới nói chung, thậm chí không được truyền thụ cho những thành viên Giáo hội
ít học hơn khi ở giai đoạn sơ khởi, họ chưa thể tiếp nhận các bí tích.
Thế rồi có một phân bộ khác thứ nh́, một đoàn thể những người khả kính thuộc
giai cấp trung lưu, họ tuyệt nhiên không bận tâm về triết lư mà chỉ bằng
ḷng coi những lời lẽ của đấng Ki Tô là những điều dẫn dắt cho cuộc đời
ḿnh. Họ dùng một tập hợp những lời lẽ của ngài làm kinh thánh, mới gần đây
những người buôn bán đồ cổ đă phát hiện ra một số di cảo này.
Thế rồi, tiếc thay lại có một đại chúng gồm những người dốt nát và hiếu
động, họ chưa bao giờ lĩnh hội được bất cứ điều ǵ trong giáo lư Ki Tô giáo
mà chỉ gia nhập Giáo hội v́ những lời tiên tri của đấng Ki Tô nói về thời
hoàng kim vị lai. Đấng Ki Tô rất xúc động trước nỗi đau khổ của người nghèo,
tràn đầy ḷng từ bi và thương xót đối với họ. Trong giáo huấn ngài thường
xuyên bảo hăy an ủi họ bởi v́ người nghèo cam chịu sự phấn đấu dũng cảm th́
trong tương lai ắt có một địa vị tốt đẹp hơn và tiến bộ hơn nhiều so với
người giàu mà không biết tận dụng cơ hội của ḿnh. Người ta có thể dễ dàng
hiểu được bằng cách nào mà giáo huấn được rao giảng cho những người hết sức
thất học lại có thể được tiếp nhận một cách biên kiến như vậy. Họ ắt tiếp
nhận những lời hứa hẹn chứ không tiếp nhận những điều kiện và ư tưởng của họ
về thời hoàng kim ấy có thể dễ dàng trở thành việc đến lượt họ là những
người áp bức lợi dụng kẻ giàu có – đây là một điều ǵ đó mà dĩ nhiên đấng Ki
Tô chẳng bao giờ rao giảng. Thế là sinh ra chuyện đấng Ki Tô thu hút về
chính ḿnh đại chúng gồm những người v́ nhiều lư do khác nhau chống lại
chính quyền hiện hữu; khi đến lượt những người dốt nát này rao giảng cái mà
họ coi là Ki Tô giáo cho những người khác th́ tự nhiên là họ thổi phồng và
tăng cường quan niệm sai lạc của chính ḿnh về nó. Đại khối những người phàm
phu này vốn tự coi ḿnh là “những người nghèo” nhanh chóng trở thành đại đa
số trong Giáo hội c̣n non trẻ và đoạt được nhiều quyền lực, đến nỗi rốt cuộc
họ có thể trục xuất các vị Tiến sĩ Ngộ Đạo, coi đó là kẻ theo dị giáo; ấy là
v́ “những người nghèo” bực bội trước ư tưởng cho rằng bất cứ tri thức nào mà
họ không sở hữu lại có thể coi là một bộ phận cốt yếu của Ki Tô giáo.
Thế nhưng c̣n có một quan điểm khác giúp cho Ki Tô hữu thấy Thông Thiên Học
ích lợi nhiều nhất cho ḿnh. Ngay giờ đây, tâm trí của nhiều Ki Tô hữu chính
thống cũng được vận dụng rất nhiều vào cái mà họ gọi là sự phê phán cao siêu
– nghĩa là toan tính ứng dụng cảm thức phân biệt phải trái b́nh thường và
phương pháp khoa học để khảo sát giáo huấn của tôn giáo – nỗ lực t́m hiểu
tôn giáo thay v́ mù quáng tin theo nó. Trong nhiều thời đại, người ta đă bảo
thế giới rằng các giáo điều của giới tu sĩ phải được nuốt trọn như uống
thuốc và toan tính lư luận về những giáo điều ắt là vô đạo. Có nhiều người
trên thế giới, trong số những công dân trí thức nhất đơn giản là không thể
chấp nhận những giáo lư một cách mù quáng và không hiểu được như vậy. Trước
khi người ta tin th́ người ta phải hiểu được trong một chừng mực nào đấy và
một phát biểu không thể trở thành một sự kiện sống động đối với họ chừng nào
họ c̣n chưa thể liên kết nó với những sự kiện khác một cách hợp lư, và coi
đó là một phần của hệ thống sự việc ít nhiều bao quát hơn.
Thật buồn cười khi một số tín đồ chính thống bảo rằng những người này cố hữu
là độc ác và thái độ của họ là do ma quỉ giựt dây. Ngược lại chính họ mới là
những người thật sự trân trọng điều
thiên phú của Thượng Đế, tức là lư trí và quyết tâm sử dụng nó theo chiều
hướng cao siêu nhất để soi sáng cho sự thật về tôn giáo. Sự
thật là những người biết phê phán lại phụng sự tối đa cho tôn giáo;
họ đang làm sáng tỏ những điều trong tôn giáo từ trước đến nay vẫn c̣n lờ
mờ; họ đang phát biểu chính xác những vấn đề liên quan tới tôn giáo trước
kia chỉ hiểu được một phần nào; họ đang cố gắng tạo ra một hệ thống hợp lư
từ điều cho đến nay chẳng qua chỉ là một mớ hỗn độn vô nghĩa.
Trong bất kỳ các hội viên nào của chúng ta cũng đều có những người bạn chính
thống bị bối rối v́ những nỗ lực này, họ e rằng việc giải phóng và hợp lư
hóa tín ngưỡng của ḿnh ắt làm cho nó được thanh lọc đến mức không c̣n tồn
tại nữa, th́ họ nên tự khuyên ḿnh t́m hiểu giáo huấn Thông Thiên Học, v́ đó
chính là điều mà họ đang cần. Nó ắt dạy cho họ biết dừng lại trước khi vứt
bỏ đức tin của tổ tiên và nó ắt cho họ thấy rằng khi được hiểu đúng đắn th́
đức tin đó có một ư nghĩa chân thực và một nền tảng chân thực, trong khi một
số điều lơ mơ trong giáo điều trung cổ của giới giáo sĩ có thể không hiểu
được và không thể tin được, th́ giáo huấn nguyên thủy của đấng Ki Tô là một
sự tŕnh bày hoành tráng chân lư đại đồng thế giới.
Nếu họ đă ít nhiều vượt qua khỏi h́nh thức bên ngoài của tôn giáo ḿnh, nếu
họ đă phá vỡ được cái tổ kén tin tưởng mù quáng và cưỡi trên cánh của lư trí
và trực giác lên tới một sinh hoạt trí tuệ tự do hơn, cao quí hơn và cao
thượng hơn, th́ Thông Thiên Học ắt cho họ thấy rằng trong mọi điều đó đều
chẳng mất mát điều ǵ mà lại được một điều vinh quang và cao cả. Ấy là v́ nó
cho họ biết rằng ánh sáng của ḷng sùng tín đă có ư nghĩa xiết bao đối với
họ trong sinh hoạt tinh thần ắt được biện minh nhiều hơn, vẻ rực rỡ, đẹp đẽ
và thi vị của tư tưởng tôn giáo ắt tồn tại ở mức độ đầy đủ hơn so với mức họ
đă từng hi vọng trước kia. Đó không c̣n chỉ là những giấc mơ dễ chịu mà ánh
sáng êm dịu của cảm thức phân biệt phải trái b́nh thường bất cứ lúc nào cũng
có thể thô bạo đánh thức họ dậy, mà là những sự thật trong thiên nhiên đáng
được khảo cứu ắt chỉ trở nên chói lọi và toàn bích hơn khi ta hiểu chúng
chính xác hơn.
Chắc chắn là ta không nên chấp nhận Kinh thánh của Ki Tô giáo theo sát
nghĩa, v́ nhiều phát biểu trong đó chỉ mang tính biểu tượng, c̣n có những
phát biểu khác đơn giản là không đúng. Khi chúng tôi dùng thần nhăn khảo cứu
cuộc đời của giáo chủ Ki Tô giáo chẳng hạn, th́ chúng tôi chẳng thấy vết
tích nào của 12 vị thánh tông đồ được thêu dệt nên; dường như họ chưa bao
giờ tồn tại dưới dạng con người mà được dẫn nhập vào câu chuyện này v́ một
lư do nào đấy, có thể tiêu biểu cho 12 cung hoàng đạo. Môn đồ Giê su mà nhục
thân đă dành cho đấng Ki Tô mượn không phải là đứa con hoang theo hàm ư
trong phúc âm và cha của Giê su không phải là người thợ mộc. Thật ra Giê su
thuộc ḍng quí tộc cao nhất của dân Do Thái, hậu duệ của huyết thống hoàng
gia của chính ḿnh thời xưa. Tuy nhiên Chúa Giê su có thể có một chút ḍng
máu Aryan nơi bản thân, điều này cũng hoàn toàn đủ khiến cho những người Do
Thái độc quyền bảo rằng Chúa Giê su không chính thống thuộc ḍng dơi của vua
David, và phát biểu ấy có thể rất dễ dàng được chấp nhận ngụ ư rằng đó là sự
sinh ra không theo qui lệ mà câu chuyện đă gợi ư.
Sự thật là bốn phúc âm tuyệt nhiên chưa bao giờ dự định để được chấp nhận
theo ư nghĩa lịch sử nào. Cả bốn đều dựa trên một tài liệu ngắn hơn nhiều
được viết ra bằng tiếng cổ Do Thái do một tu sĩ tên là Matthaeus, ông này
sống trong một tu viện ở sa mạc phía nam Palestine. Ông dường như đă quan
niệm ra ư tưởng đưa một số sự kiện lớn về khai tâm biến thành một dạng kể
chuyện, rồi trộn lẫn nó với một số điều rút ra từ chính cuộc đời của Chúa
Giê su thực, mà ngài giáng sinh vào năm 105 trước Công nguyên, với cuộc đời
của một vị giảng sư khác cuồng tín và hoàn toàn vô danh tiểu tốt, người này
đă bị kết án tử h́nh và bị hành h́nh ở Jerusalem vào khoảng năm 30 sau Công
nguyên.
Matthaeus gửi tài liệu này tới cho một người bạn hiền vốn là tu viện trưởng
của một tu viện khổng lồ ở Alexandria, rồi gợi ư cho bạn rằng ông này hoặc
một số phụ tá của ḿnh có thể sắp xếp nó lại rồi phát hành bằng tiếng Hi
Lạp. Vị tu viện trưởng ở Alexandria dường như đă sử dụng một số tu sĩ trẻ
làm việc này, cho phép mỗi tu sĩ tự ḿnh cố gắng làm việc và xử trí công
việc theo kiểu của riêng ḿnh. Thế là một số tài liệu có công trạng rất biến
thiên được tạo ra, mỗi tài liệu du nhập vào trong câu chuyện của ḿnh ít
nhiều về bản thảo nguyên thủy của Mattthaeus, nhưng mỗi tài liệu cũng thêm
thắt vào đó những huyền thoại mà soạn giả ngẫu nhiên biết được theo thị hiếu
hoặc óc hoang tưởng của chính ḿnh. Bốn trong số những tài liệu này vẫn c̣n
sống sót măi cho tới thời của ta và gắn liền với tên tuổi của tu sĩ viết ra
chúng, đó là phúc âm theo Matthew, Mark, Luke và John. Đoạn văn xuất sắc mở
đầu cho phúc âm của thánh John không phải là nguyên thủy mà được trích dẫn,
bởi v́ chúng tôi đă thấy nó tồn tại nhiều năm trước Công nguyên dưới dạng
một bản thảo ngay cả lúc bấy giờ đă rất xa xưa.
Dưới dạng bản thảo này nó được liên kết với một đoạn trích dẫn từ quyển
Thiền Thư (Stanzas of Dzyan), quyển này cũng được dịch sang tiếng Hi Lạp.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS