|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
HỒI TƯỞNG |
|
Lần đầu tiên tôi nghe nói tới Thông Thiên Học do đọc lướt qua một bản sao đă
qua sử dụng của quyển sách Thế Giới Huyền Bí của ông Sinnett, nhưng
lần đầu tiên tôi giao tiếp với một trong các Chơn sư diễn ra một cách khá
bất b́nh thường. Ấy là v́ cách đây một số năm, tôi có dấn thân vào việc khảo
cứu thần linh học và trong quá tŕnh điều tra ấy tôi có tiếp xúc với những
đồng tử lỗi lạc nhất thời đó; tôi đă chứng kiến mọi hiện tượng lạ b́nh
thường mà người ta đă đọc thấy trong những quyển sách bàn về đề tài này. Một
đồng tử mà tôi giao tiếp nhiều đó là ông Eglinton; và mặc dù tôi nghe nói có
những câu chuyện chống lại ông, nhưng tôi xin làm chứng rằng trong quá tŕnh
giao tiếp với ông tôi thấy ông rất thẳng thắn, biết điều và lịch sự.
Một trong những đặc điểm của ông là viết trên bảng, và tôi thấy đó là một
hiện tượng lạ rất hữu ích để chứng minh cho bất cứ nhà điều tra nào chọn
theo thái độ đa nghi. Phương pháp làm như sau. Trên đường đi tới buổi lên
đồng, tôi đưa kẻ đa nghi vào cửa tiệm văn pḥng phẩm và dẫn dụ y mua hai tấm
bảng mới dùng ở nhà trường rồi bảo người ta gói thành một gói có kèm theo
một mẫu bút ch́ viết trên bảng gói luôn vào trong đó. Tôi khuyên y kiểm tra
cho chắc rằng cái gói được cột kín đáo rồi niêm phong nút thắt bằng dấu ấn
niêm phong của chính ḿnh. Thế rồi tôi bảo y mang cái gói đó và không v́ bất
cứ cớ ǵ để cho nó lọt ra khỏi tầm kiểm soát của ḿnh hoặc là trước hoặc là
trong khi có buổi lên đồng. Nếu trong buổi tŕnh diễn mà cần phải ngồi chắp
tay lại th́ tôi khuyên y nên ngồi luôn trên cái gói ấy. Thế là buổi lên đồng
bắt đầu và thường thường sau một thời gian rất ngắn ắt có những cú gơ nhẹ
hoặc một biểu thị nào khác cho thấy đă thu thập được lực.
Chúng tôi thường ngồi ở một cái bàn nhỏ h́nh vuông làm bằng gỗ, bên trên
không có khăn trải bàn và kế hoạch của ông Eglinton là lấy một tấm bảng
thông thường đặt trên đó một mẫu bút ch́ rồi luồn nó xuống dưới bàn giữ cho
tấm bảng áp sát vào mặt dưới cái bàn. V́ điều này diễn ra lúc thanh thiên
bạch nhật và chỉ có chúng tôi thôi khi hiện diện trong căn pḥng với người
đồng tử, cho nên không có cơ hội thay thế những tấm bảng đă chuẩn bị trước
hoặc bất cứ điều ǵ thuộc loại đó. Khi tấm bảng được giữ như vậy th́ chữ
viết sẽ xuất hiện trên bề mặt áp sát vào bàn, chữ viết này để trả lời bất cứ
thắc mắc nào mà chúng tôi chọn lựa nêu ra.
Sau khi điều này đă tiếp diễn một thời gian ngắn th́ tôi nói bóng gió hỏi
xem liệu cái vong linh tử tế có thể viết trên những tấm bảng của chúng tôi
không. Câu trả lời hầu như luôn luôn là có, mặc dù một hai lần tôi được cho
biết rằng năng lượng không đủ mạnh. Sau đó tôi quay sang kẻ đa nghi yêu cầu
y gói cái gói bảng đă được niêm phong của y, nhưng không v́ cớ ǵ để cho nó
vuột khỏi tầm tay của ḿnh. Thường thường y giữ cái gói bảng bằng cả hai tay
để trên bàn, c̣n ông Eglinton đặt nhẹ một bàn tay lên gói ấy.
Trong t́nh huống đó tôi yêu cầu kẻ đa nghi nghĩ thầm một câu hỏi trong trí,
thế rồi trong khi y vẫn c̣n ôm khư khư cái gói bảng th́ chúng tôi nghe ở bên
trong đó có chữ viết đang chạy rào rào. Khi theo thông lệ có ba tiếng gơ nhỏ
báo tin rằng thông điệp đă được hoàn tất th́ tôi nói với kẻ đa nghi:
“Bây giờ hăy khảo sát những tấm bảng và sợi dây cột cái gói để biết chắc
rằng không ai đă khiến cho bạn bị xuất thần thôi miên và đụng chạm ǵ tới
cái gói của bạn; sau đó hăy cắt dây mở gói ra để đọc câu trả lời”.
Thường thường chúng tôi thấy hai mặt những tấm bảng bị ép vào nhau chứa đầy
chữ viết ít nhiều có liên quan tới câu hỏi thầm trong trí của kẻ đa nghi.
Thông thường th́ kẻ đa nghi bị ấn tượng ghê gớm, thậm chí nhất thời câm như
hến, nhưng chỉ nội trong ṿng một tuần lễ y thường viết thư bảo rằng dĩ
nhiên bằng một cách nào đó chúng tôi đă bị lừa bịp và thực ra chúng tôi
không hề thấy điều mà ḿnh tưởng là ḿnh đă thấy.
Ông Eglinton có đủ thứ cái gọi là vong linh kiểm soát - một vong linh là cô
gái da đỏ tự xưng là Daisy và nói liếng thoắng cho dù có cơ hội nói hay
chăng; một vong linh khác là người Ả Rập cao lớn tên là Abdullah, cao hơn
sáu bộ Anh, y chẳng bao giờ nói điều ǵ nhưng tạo ra những hiện tượng lạ
đáng chú ư và thường phô bày những chiến công chứng tỏ sức mạnh rất nhiều.
Tôi đă chứng kiến y cùng một lúc nâng bổng hai người nặng, mỗi người ở mỗi
tay. Một vong linh kiểm soát thứ ba thường có dáng vẻ là Ernest; y tương đối
ít khi nào hiện h́nh nhưng thường nói bằng giọng trực tiếp và viết một nét
chữ đặc trưng có giáo dục. Một ngày kia khi đàm thoại với y, y có nhắc tới
một điều ǵ đó liên quan tới các Chơn sư Minh triết; Ernest nói về các ngài
với sự kính cẩn sâu sắc nhất và bảo rằng y có nhiều dịp được đặc quyền nh́n
thấy các ngài. Ngay tức khắc tôi hỏi xem liệu y đă sẵn sàng với nhiệm vụ
chuyển bất kỳ thông điệp hoặc bức thư nào cho các ngài chăng. Y bảo rằng y
sẵn ḷng làm như thế và sẽ chuyển dùm khi có cơ hội, nhưng y không thể nói
chính xác khi nào có cơ hội.
Ở đây tôi xin đề cập tới việc liên quan đến chuyện này là về sau tôi có một
ví dụ sống động về việc mọi sự giao tiếp như thế đều không đáng tin cậy. Một
thời gian dài sau đó, có một nhà thần linh học nào đấy viết thư cho tạp chí
Ánh sáng giải thích rằng không thể có những người như các Chơn sư bởi v́
Ernest đă dứt khoát bảo y rằng không có Chơn sư. Tôi cũng viết thư cho tờ
báo ấy để nói rằng tôi có thông tin cùng với cái thẩm quyền vô giá đó cho
biết có các Chơn sư và Ernest biết rất rơ về các ngài. Trong mỗi trường hợp
th́ hiển nhiên là Ernest chỉ phản ánh tư tưởng của người nêu thắc mắc, những
thực thể như Ernest thường làm như vậy.
Trở lại với câu chuyện của ḿnh, tôi ngay tức khắc tạm thời chấp nhận đề
nghị của Ernest. Tôi bảo rằng tôi sẽ viết một bức thư cho một trong các Chơn
sư rồi giao phó thư ấy cho Ernest nếu bạn tôi cũng là thầy dạy tôi tức là
ông Sinnett tán thành. Khi tôi đề cập tới danh tính này th́ các vong linh bị
xáo trộn rất nhiều. Daisy đặc biệt rất giận dữ, tuyên bố rằng cô ắt chẳng
dính dáng ǵ tới ông Sinnett trong bất cứ t́nh huống nào. Cô kêu to lên rất
công phẩn: Tại sao ư, ông ấy gọi chúng tôi là những âm ma. Tuy nhiên tôi
thẳng thừng bám lấy lập trường của ḿnh, theo đó mọi điều tôi biết về Thông
Thiên Học là do ông Sinnett trao truyền cho tôi; v́ vậy tôi thấy ḿnh không
có lư do ǵ để đi ḷn sau lưng ông bằng bất cứ cách nào hoặc ra sức t́m một
số phương tiện giao tiếp khác mà trước hết không tham vấn ông.
Cuối cùng mặc dù rất miễn cưỡng, các vong linh đồng ư và chẳng bao lâu sau
buổi lên đồng chấm dứt. Khi ông Eglinton ra khỏi cơn xuất thần th́ tôi hỏi
ông làm thế nào mà tôi gửi một bức thư cho Ernest và ông nói ngay rằng nếu
tôi muốn gửi một bức thư cho Ernest th́ ông sẽ đặt nó trong một cái hộp nào
đấy treo lủng lẳng sát vào bức tường để cho Ernest lấy thư khi nào muốn. Thế
rồi tôi gửi thư cho ông Sinnett hỏi ư kiến ông về mọi vấn đề, ông ngay tức
khắc tỏ ra quan tâm một cách tha thiết, rồi khuyên tôi chấp nhận lời đề nghị
để xem chuyện ǵ xảy ra.
Thế là tôi về nhà viết ba bức thư. Bức thứ nhất gửi cho Chơn sư K.H. thành
kính báo cho ngài biết rằng từ khi tôi lần đầu tiên nghe nói tới Thông Thiên
Học th́ tôi chỉ có một ham muốn duy nhất là xin được làm đệ tử của ngài. Tôi
kể cho ngài hoàn cảnh của ḿnh vào lúc đó và thắc mắc liệu thời gian bảy năm
dự bị mà tôi nghe nói có cần thiết phải diễn ra ở Ấn Độ chăng. Tôi bỏ bức
thư vào trong một phong b́ nhỏ rồi cẩn thận niêm phong nó bằng dấu ấn của
riêng ḿnh. Thế rồi tôi bỏ nó vào trong một bức thư gửi cho Ernest, trong
bức thư gửi Ernest tôi nhắc y nhớ lại lời hứa của ḿnh và yêu cầu y chuyển
bức thư này dùm tôi và chuyển lại bức thư hồi âm nếu có hồi âm. Bức thư thứ
nh́ tôi cũng niêm phong giống hệt như bức thư thứ nhất; thế rồi đến lượt tôi
lại gói bức thư đó bằng một thông điệp ngắn gửi Eglinton, yêu cầu bỏ toàn bộ
mọi thứ vào trong một cái hộp của ḿnh rồi cho tôi biết liệu có ǵ đáng chú
ư không. Tôi đă yêu cầu một người bạn đang ở chung với tôi hăy khảo sát dấu
niêm phong cả hai bức thư bằng một kính hiển vi sao cho nếu chúng tôi nhận
lại nó th́ có thể biết liệu có ai đó đă quấy nhiễu những bức thư này chăng.
Qua bưu điện tôi được hồi âm bằng một thông điệp của ông Eglinton nói rằng
ông đă đặt đúng cái bức thư gửi cho Ernest vào trong hộp của ḿnh và nó đă
biến mất rồi; thêm nữa, nếu có bất kỳ hồi âm nào đến với ông th́ ông sẽ ngay
tức khắc gửi nó cho tôi.
Vài ngày sau tôi nhận được một bức thư chuyển bằng tay bởi một người mà tôi
không biết; khi mở thư ra tôi phát hiện thư của ḿnh gửi cho Ernest có vẻ là
chưa được mở ra, tên “Ernest” viết trên phong b́ được ghi chú, c̣n chữ viết
của chính tôi ở bên dưới là viết bằng bút ch́. Bạn tôi và tôi một lần nữa
dùng kính hiển vi khảo sát dấu niêm phong và không thể ḍ ra được bất kỳ chỉ
dấu nào là có ai đó quấy nhiều bức thư và cả hai chúng tôi đều đồng ư rằng
hoàn toàn không thể có chuyện ai đó đă mở bức thư ra; thế nhưng khi dùng kéo
cắt phong b́ mở ra th́ tôi phát hiện thấy bức thư tôi viết gửi Chơn sư đă
biến mất. Mọi điều mà tôi t́m thấy ở bên trong là bức thư của tôi gửi cho
Ernest với một vài lời viết chữ viết tay mà tôi thừa biết là của Ernest ghi
ở trang c̣n để trắng với nội dung là bức thư của tôi đă chuyển giao đúng đắn
tới Chơn sư vĩ đại và trong tương lai người ta nghĩ rằng tôi xứng đáng nhận
được bức thư hồi âm th́ Ernest sẽ vui ḷng mang nói tới cho tôi.
Tôi chờ vài tháng, nhưng chẳng có hồi âm ǵ hết, và bất cứ khi nào tôi đi dự
buổi lên đồng của Eglinton mà ngẫu nhiên gặp Ernest th́ tôi luôn luôn hỏi y
liệu đến bao giờ tôi mới trông mong có được thư hồi âm. Y luôn bảo rằng đă
chuyển giao thư của tôi đúng mức rồi và chưa có điều ǵ nói về thư hồi âm
cho nên y chẳng thể làm được ǵ thêm nữa. Sáu tháng sau tôi nhận được hồi âm
nhưng không phải thông qua Ernest. Trong phần hồi âm, Chơn sư bảo rằng mặc
dù ngài đă không nhận được bức thư (ngài có nhận xét rằng ngài rất có thể
không nhận được xét v́ bản chất của người làm sứ giả chuyển giao) nhưng ngài
vẫn biết rơ tôi đă viết ǵ trong đó và bây giờ ngài tiến hành hồi âm.
Ngài cho tôi biết rằng bảy năm dự bị có thể diễn ra ở bất cứ nơi đâu, nhưng
ngài gợi ư rằng tôi có đến đây trong vài tháng để xem liệu tôi có thể làm
việc cùng với Ban Tham Mưu ở Tổng Hành Dinh hay chăng. Tôi muốn trả lời ngài
rằng hoàn cảnh của tôi khiến cho tôi không thể đến ở Adyar trong ba tháng
rồi trở về làm cái công việc mà lúc ấy tôi đang dấn thân vào; nhưng tôi hoàn
toàn sẵn ḷng vứt hết cái công việc đó và hiến dâng cuộc đời ḿnh để hoàn
toàn phụng sự ngài. Ernest rơ rệt là đă không đáp ứng được tôi v́ tôi biết
không có cách nào chuyển thông điệp đó cho Chơn sư ngoại trừ việc chuyển nó
cho bà Blavatsky; và v́ bà sắp sửa rời nước Anh vào ngày hôm sau để đi Ấn Độ
cho nên tôi hối hả tới Luân Đôn để gặp bà.
Khó khăn lắm tôi mới dẫn dụ bà đọc bức thư, bởi v́ bà dứt khoát nói rằng
thông điệp chỉ dự định dành cho người nhận. Tuy nhiên tôi bắt buộc năn nỉ
th́ cuối cùng bà mới chịu đọc rồi hỏi tôi xem tôi muốn hồi âm ra sao. Tôi
trả lời với nội dung như trên và hỏi bà cái thông tin này làm cách nào
chuyển được cho Chơn sư. Bà trả lời rằng ngài đă biết nó rồi - dĩ nhiên bà
ám chỉ mối quan hệ cực kỳ mật thiết của bà với Chơn sư - sao cho bất cứ điều
ǵ có trong tâm thức của bà cũng ở trong tâm thức của ngài khi ngài muốn.
Thế rồi bà bảo tôi chờ bà một chút, đừng có rời xa bà v́ bất cứ lư do ǵ.
Tôi kiên nhẫn chờ suốt buổi chiều cho tới tối, thậm chí măi tới khuya, c̣n
đi với bà tới nhà bà Oakley, ở đó một số bạn bè tụ tập lại tiễn bà Blavatsky
đi. Bà Blavatsky ngồi chễm chệ trong một cái ghế bành bên cạnh ḷ sưởi, tươi
cười nói chuyện với những người có mặt, tay cầm một điếu thuốc lá lúc nào
cũng ph́ phèo. Th́nh ĺnh tay phải của bà giật giật hướng về phía ngọn lửa
theo một cách rất đặc trưng rồi bà ngữa ḷng bàn tay ra. Bà kinh ngạc nh́n
xuống ḷng bàn tay và chính tôi cũng sửng sốt v́ tôi đứng ngay sát bà và cùi
chỏ dựa vào cái nắp đậy ḷ sưởi; nhiều người trong chúng tôi thấy rất rơ
trong ḷng bàn tay bà có một loại với h́nh dáng như đám sương mù trăng
trắng, thế rồi nó ngưng tụ lại thành một mẫu giấy gấp kín mà bà ngay tức
khắc ch́a cho tôi và nói rằng đây là hồi âm của bạn. Dĩ nhiên mọi người
trong pḥng đều bu đông xúm quanh lại, nhưng bà đẩy tôi ra ngoài pḥng để
đọc thư và bảo rằng tôi không được cho phép bất cứ ai đọc nội dung bức thư.
Thư hồi âm cho tôi biết rằng trực giác của tôi vứt bỏ hết mọi chuyện để đi
đến đây là trực giác đúng đắn. Chính Chơn sư mong ước tôi làm như thế nhưng
ngài không thể yêu cầu nếu tôi không tự nguyện đề nghị. Tôi c̣n được cho
biết thêm rằng phải đi tàu thủy vài ngày sau để gặp bà Blavatsky ở Ai Cập,
dĩ nhiên tôi làm theo lời đề nghị.
Ở Cairo chúng tôi đi
tới địa điểm ở khách sạn Orient. Nơi đây lần đầu tiên tôi thấy một trong các
thành viên của Quần Tiên Hội. Trong khi ngồi bệt trên sàn nhà gần chân bà
Blavatsky để soạn một số tài liệu cho bà, tôi giật ḿnh khi thấy đứng giữa
chúng tôi có một người không bước vào qua cửa. Ngài chính là bậc thầy mà giờ
đây là Chơn sư D.K. mặc dù vào thời điểm đó ngài chưa đạt quả vị khiến ngài
thành một Chơn sư.
Lưu trú ở Ai Cập với bà Blavatsky xét về nhiều mặt là một trải nghiệm đáng
chú ư nhất v́ bà thường xuyên cho chúng tôi biết nhiều điều về khía cạnh nội
giới của những ǵ mà chúng tôi thấy ở đó. Trước đây bà đă ở Ai Cập và quen
thân với một số quan chức, với Thủ tướng Nubar Pasha, với ông Lănh sự Nga
Hitrovo và nhất là với ông quản thủ thư viện bảo tàng là Maspero. Tôi đặc
biệt nhớ cách thức mà chúng tôi đi tham quan bảo tàng viện cùng với ông
Maspero, và bà Blavatsky đă có thể cung cấp cho ông cả đống thông tin thú vị
nhất về đủ thứ vật kỳ diệu do ông quản lư.
Bà Blavatsky biết tiếng Ả Rập và bà thường làm chúng tôi rất vui khi dịch
cho chúng tôi biết những nhận xét riêng tư của những người thương gia Ai Cập
nghiêm trang và có tư cách khi họ ngồi nói chuyện với nhau ở chợ. Sau một
thời gian, họ gọi chúng tôi là những con chó Kitô hữu và nói về những thân
bằng quyến thuộc người nữ của chúng tôi một cách bất kính xét về nhiều thế
hệ th́ bà thẳng thừng hỏi họ bằng chính tiếng Ả Rập, liệu họ có nghĩ rằng
đây là cách thức mà một đứa con ngoan của bậc đạo sư nói về những người mà y
hi vọng kiếm lợi được nhiều bằng cách buôn bán. Những người ấy luôn luôn bối
rối v́ không trông mong rằng bất cứ người Âu Tây nào có thể hiểu được ḿnh.
Tuy nhiên tiếng Ả Rập dường như là ngôn ngữ Đông phương duy nhất mà bà quen
thuộc; bà không biết tiếng Bắc phạn và nhiều khó khăn trong kho tàng thuật
ngữ Thông Thiên Học của chúng ta bắt nguồn từ sự kiện vào cái thời mà muốn
mô tả điều mà bà nh́n thấy hoặc biết, rồi hỏi bất cứ người Ấn Độ nào ngẫu
nhiên ở gần bà để xem tên bằng tiếng Bắc phạn của nó là ǵ. Rất thường khi
cái người cung cấp cho bà thuật ngữ lại không hiểu rơ bà ngụ ư muốn nói ǵ;
và ngay cả khi người ấy hiểu th́ ta phải nhớ rằng bà hỏi những tín đồ của
các trường phái triết học khác nhau và mỗi trường phái trả lời theo sắc thái
ư nghĩa được áp dụng của thuật ngữ này trong giáo huấn của ḿnh.
Vào thời kỳ này có nhiều hiện tượng lạ thường xuyên xảy ra xung quanh bà.
Trước hết bản thân bà cũng là hiện tượng lạ nổi bật nhất v́ bà không kiểm
soát được. Có khi các Chơn sư sử dụng cơ thể bà viết hoặc nói trực tiếp
thông qua bà. Có khi chơn ngă của bà đang dấn thân vào đâu đó th́ một trong
hai đệ tử thuộc tŕnh độ thấp hơn bà ắt chiếm xác bà, thậm chí có một vài cơ
hội có một phụ nữ khác thường chịu trách nhiệm. Bản thân tôi thường thấy mọi
sự thay đổi này diễn ra và tôi đă thấy cái người mới nhập vào xác nh́n quanh
để phát hiện t́nh h́nh sự việc mà ḿnh mới nhập vào - chẳng hạn như cố gắng
bắt kịp câu chuyện. Thế nhưng cho dù mọi chuyện đó xảy ra th́ bà tuyệt nhiên
không giống một đồng tử thông thường theo nghĩa của từ ngữ này, v́ chủ nhân
ông thật sự của thể xác lúc nào cũng đứng đằng sau có ư thức trọn vẹn và
hiểu hoàn toàn điều đang diễn ra.
Tuy nhiên có những hiện tượng là phi thường thỉnh thoảng lại xảy ra; trong
khi chúng tôi đi xe lửa băng ngang qua sa mạc từ Ismailia tới Cairo th́ có
một bức thư rơi xuống toa xe lửa, đề cập tới chủ đề của câu chuyện đang diễn
tiến và nêu tên từng người một đang hiện diện kèm theo một thông điệp khuyến
khích tử tế. Vào lúc bức thư xuất hiện tôi và một thành viên khác trong nhóm
ngẫu nhiên ngó lên th́ cả hai chúng tôi đều thấy nó xuất hiện trong không
khí ngay ở khoảng không gian h́nh tṛn trên nóc của toa xe mà ban đêm người
ta thường thắp đèn. Nó xuất hiện cũng như bức thư khác đă từng xuất hiện
dưới dạng một quả banh lờ mờ gồm khối sương mù trăng trắng ngưng tụ lại
thành một mẫu giấy rồi bay phấp phới rơi xuống.
Tôi nhớ có một dịp khác mà bà có mua ở chợ hương liệu Cairo một lọ nhỏ xíu
tinh dầu hoa hồng để dùng trong pḥng thờ cúng ở đây và bà phải trả hai bảng
Anh. Khi chúng tôi ngồi ăn trưa trong khách sạn, nửa tiếng đồng hồ sau đó
tại một cái bàn nhỏ dành riêng cho nhóm chúng tôi kê ở góc tường th́ có hai
đồng bảng Anh bằng vàng từ trên không rơi xuống bàn và bà giải thích rằng bà
được cho biết không nên tiêu tốn tiền cho các ngài theo kiểu này bởi v́
chúng tôi cần từng xu từng cắc một mà ḿnh có được trước khi đến Adyar - đây
là một phát biểu chắc chắn tỏ ra là đúng.
Hết dịp này tới dịp khác tôi đă chứng kiến rất nhiều hiện tượng lạ có liên
quan mật thiết tới bà Blavatsky. Tôi đă thấy bà phóng hiện những bức tranh
và chữ viết, tôi cũng đă thấy bà dùng thần thông để t́m được một vật bị mất.
Có nhiều dịp tôi đă chứng kiến những bức thư từ trên không rơi xuống khi có
mặt bà; và tôi cũng phải phát biểu rằng tôi đă chứng kiến một bức thư rơi
xuống đây trong căn nhà này ở Adyar khi bà đang ở nước Anh cách xa sáu ngàn
dặm; lại nữa, bản thân tôi đă nhiều lần có đặc quyền được Chơn sư sử dụng để
chuyển giao chính những bức thư như thế sau khi bà đă từ trần.
Trong thời buổi sơ khai của Hội thường có những thông điệp và giáo huấn của
các Chơn sư và chúng ta sinh hoạt ở một mức độ phấn khởi, hồ hỡi mà những
người gia nhập Hội từ khi bà Blavatsky từ trần khó ḷng tưởng tượng được.
Những người trong chúng tôi vốn có đặc quyền vô giá là được trực tiếp tiếp
xúc với các Chơn sư tự nhiên là có c̣n giữ lại cái phấn khởi ấy, nhưng trong
hoàn cảnh ít thuận lợi hơn chúng tôi không thể duy tŕ nó trong hàng ngũ hội
viên thường. Có lẽ giờ đây chúng ta có thể sắp chứng kiến một sự hồi sinh
của điều đó; mong sao tất cả chúng ta xứng đáng tham dự vào những thời kỳ
vinh quang vị lai.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS