|
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES
|
HỌC CƠ TIẾN-HÓA
THEO KHOA MINH-TRIẾT THIÊNG-LIÊNG
ĐÁNH MÁY : ĐIỂM DUNG - 2011 |
|
HỌC CƠ TIẾN-HÓA
THEO KHOA MINH-TRIẾT THIÊNG-LIÊNG
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
MỤC LỤC
QUYỂN NHỨT
Vài lời nói đầu
Con người là ai
Con người từ đâu đến ?
Con người sanh ra cõi Trần làm chi
Sự tiến hóa chấm dứt ở đây sao
Muốn học cơ Tiến-hóa thì phải làm sao
Thái-Dương-Hệ là gì ?
Ai sanh ra một Thái-Dương-Hệ ?
Có bao nhiêu Thái-Dương-Hệ trên không gian ?
Thái-Dương Thượng-Đế khác với Đấng Chí-Tôn gọi là Ông Trời
Đức Thái-Dương Thượng-Đế của chúng ta từ đâu đến ?
7 Cõi của Thái-Dương-Hệ chúng ta
7 Cảnh của cõi Trần
Tên của mỗi thứ khí
Đặc sắc của mỗi thứ khí
Mười Hệ-Thống Hành-Tinh
7 Hệ-Thống hữu-hình
Những bầu Hành-Tinh thấy được
Không phải 7 dãy Hành-Tinh của một Hệ-Thống sanh ra một lượt với nhau
Sự tan rã của Thái-Dương-Hệ chúng ta
QUYỄN NHÌ
Sự Liên-quan giữa Con Người và Vũ-Trụ
3 Ngôi của Đức Thái-Dương Thượng-Đế
Trạng Thái của ba Ngôi
Công việc của ba Ngôi
Mục-đích sanh-hóa Thái-Dương-Hệ nầy
Bảy loài trên dãy Địa-Cầu chúng ta
3 Ngôi của Con Người
7 Thể của Con Người để dùng tại 5 Cõi mà thôi
Xác Thân
Phương-Pháp luyện tập Xác Thân
Cái Phách (Double Éthérique)
Cái chi có Ảnh hưởng tới cái Phách
Sanh-Lực là gì ?
Sự tinh-khiết của Cái Phách
Cái Vía
Màu sắc cái Vía
Làm sao thấy được mấy màu nầy
Phận sự của Cái Vía
Làm một thể độc lập
Học phép xuất vía
Tánh nết Cái Vía
Phương-pháp sửa trị Cái Vía
Hạ Trí
Những khoảnh của Cái Trí
Phận sự của Cái Trí
Hiệu quả của tư-tưởng
Những làn sóng tư-tưởng
Tánh-cách-biệt của làn sóng tư-tưởng
Hình tư-tưởng
Màu sắc của những hình tư-tưởng
Sự chọn lựa tư-tưởng
Ảnh-hưởng của tư-tưởng xấu
A. Ta hại ta trước hết
B. Ta hại những người ở chung quanh ta
C. Ta thêm những sự khổ cho đời
Ảnh-hưởng của tư-tưởng tốt đẹp
Ta làm cho cái Trí ta trở nên tốt đẹp
Ta giúp ích cho những người ở chung quanh ta
Ta giúp ích cho đời
Tư-tưởng biến thành sự hành-động
Tánh nết Hạ-Trí
Sửa-trị Cái Trí
QUYỂN BA
Sự đào-tạo những quan-năng
Sự hoạt-động của CáiTrí
Những điều nên biết về sự mở mang CáiTrí
Tinh-luyện CáiTrí
Kiểm-soát tư tưởng
A. Định-Trí
B. Hườn hư
Đừng phung-phí sức mạnh của tư-tưởng
ThamThiền
Tham-Thiền có tánh cách mở mang trí thức
Ngày sau trọn đời chúng ta chỉ là một chuổi Tham-Thiền mà thôi
Sự phát-minh của ông Archimède (287-212)
Sự phát-minh của ông Thomas Edison (1847-1931
Bí quyết thành công : Làm việc cho nhiều và suy-nghĩ luôn luôn (Travailleur
toujours et
réfléchir sancesse)
Tham-Thiền có tánh cách sùng bái
Tham-Thiền một đức tánh
Phương-pháp tập luyện
Tham-Thiền về Ba Thể : Thân, Vía, Trí
Xem xét Xác Thân
Xem xét Cái Vía
Xem xét Cái Trí
Lời dặn tổng quát
Nhưng xin nhớ kỹ vài điều sau đây :
Hai câu chuyện lý thú về sự Tham-Thiền
Giải-quyết một vấn-đề trong lúc ngủ
Một phương-pháp chắc-chắn để thí-nghiệm sự tiến-hóa của mình
Tại sao phải Tham-Thiền đúng giờ khắc và liên-tục
Giúp đở người trong lúc ngủ
Cách ngồi thiền
Giờ Tham-Thiền
Khắc kỷ
Toát-yếu về phương-pháp mở mang trí-thức
Tại sao kinh sách Đạo-Đức gọi Con Người là Tiểu Thiên-Địa
Một phương-pháp giúp quí bạn tiến tới mặc dầu chưa Tham-Thiền được
Phương-pháp thực-hành
Mà Tu là gì ?
Một sự thí-nghiệm để chứng chắc ý-muốn và tư-tưởng không phải thật là con người
QUYỂN TƯ
Ba Thể Trường-Tồn
1. Thượng-Trí hay là Nhân-Thể
Cách cấu-tạo Thượng-Trí
Màu sắc của Thượng-Trí
Sự dùng Thượng-Trí làm một thể độc-lập
2.
Kim-Thân
3. Tiên-Thể
Sự liên-lạc giữ những thể của Con Người
LẬP-HẠNH : Nó biến đổi con người trước nhứt ra một vị Thiện-Nhân rồi lần lần tới bực Siêu-Phàm
Những Đức-tánh cần-thiết để tạo lập một tánh tình Siêu-Phàm
Ba yếu-tố quan-trọng của sự lập hạnh
I…Tư-tưởng chơn-chánh
Cách xua đuổi một tư-tưởng xấu
Đề phòng những sự cám-dổ và những sự tấn công của kẻ nghịch
II…Lời nói chơn-chánh
A…Có cần-thiết chăng
B…Có đúng sự thật không ?
C…Có từ-thiện không ?
Chớ nên hiểu lầm sự nói thật đúng
Việc làm chơn-chánh
Những Đức-tánh phải tập
Lãnh-đạm
Oai-lực của lòng Từ-Bi
Chuyện thứ nhứt : Vuốt-ve rắn hổ-mang
Chuyện thứ nhì : một chuyện phi-thường
QUYỂN NĂM
Sự chiến đấu cuối cùng
Linh-hồn kim-cương
Tinh-Thần hóa hay là Khoa Luyện Kim Tinh-Thần
Mục Đích thứ nhì của sự Luyện Kim Tinh-Thần
Lòng ham muốn và chính là lòng ham muốn ràng buộc và cột trói con người
Phải làm thế nào để cho sự hành động cứ thực hiện mà con người vẫn được tự-do
Sự hy-sanh
Cái cách thức hợp nhứt sự hy-sanh với sự hành-động
Quan-điểm cao-siêu của định-luật hy-sanh
Sự hy-sanh của Tiên Thánh và các vị Đệ-Tử
Tại sao người Đệ-Tử phải có một Hạnh-kiểm vượt bực người thường
Đoạn kết
QUYỂN SÁU
Sự trong sạch của Xác Thân
Mục-đích của Pháp-Môn Raja Yoga
Xác Thân
Sự tinh-luyện Thể Xác
Sự chọn lựa thức ăn
Có điều độ trong mọi sự việc
a)…Về bửa ăn
b)…Về giấc ngủ
c)…Về mấy việc khác
d)…Phải tiết dục
Có Trời mà cũng có ta. Tu là cội phúc
XÁC THÂN trực tiếp liên hệ tới TIÊN THỂ (Corps Atmique)
Sạch sẽ từ y-phục cho tới thân mình
Những lời khuyên nhủ của Đức bà A. Besant
Lòng Sùng Đạo hay là Sùng-Tín
Làm thế nào để phát triển lòng Sùng-Tín ?
Phương-pháp luyện tập
Một phương-pháp chắc chắn hơn hết
Hai mẫu người Sùng-Tín
Mẫu người Sùng-Tín thụ-động
Mẫu người Sùng-Tín hoạt-động
Lúc đầu tiên họ là những người thế nào ?
Cách hành động của họ
Con đường Sùng-Tín dắt đi đến đâu ?
QUYỂN BẢY
Tinh-Thần An-Phận
Sự An-Phận cắt nghĩa theo Huyền-Bí-Học
Phải cải tạo hoàn cảnh
Sự An-Phận của các Sanh-Viên Huyền-Bí-Học
Bền chí
Tánh kín đáo
Tánh đúng đắn
Phụng sự
Lời cầu chúc của Bà A. Besant
QUYỂN TÁM
Dãy Địa Cầu chúng ta
Bảy Bầu nầy ở Cõi nào ?
Dãy Trái Đất của chúng ta hiện giờ là Dãy thứ mấy ?
Đồ-hình 7 Cõi, 7 Dãy Hành Tinh
Bảy Giống Dân trên Dãy Địa Cầu
Xin nhớ những nguyên-tắc tổng quát
Nhơn vật trên Dãy Địa Cầu chúng ta
Nhơn vật tại Bầu trái đất của chúng ta hiện giờ
Các Giống Dân tại Địa Cầu chúng ta
Các giống dân : Giống thứ nhứt
Giống thứ nhì
Giống thứ ba
Giống thứ tư
Bảy Nhánh của Giống Dân thứ tư
Giống Thứ năm
Bảy Nhánh của Giống Thứ năm
Giống Thứ sáu
Giống Thứ bảy
Đặc tánh của mỗi giống Dân
Bề cao của Năm Giống Dân Chánh
Tạo vật ôn lại
Vài mẩu chuyện thay hình đổi dạng
Một Nữ Gíáo-Sư dần dần biến thành đàn ông, rồi rù quến một Cô Giáo có chồng 5 con
Một hồi ký độc đáo của một người
19 tuổi : Lấy chồng
29 tuổi : Lấy vợ
Đàn ông hóa gái
Những Châu Thế Giới
1.
Châu thứ nhứt
2.
Châu thứ nhì
Một bằng chứng cụ thể chứng minh rằng khi xưa ở Bắc Cực khí hậu miền nhiệt đới
Hãy phá vỡ những thành kiến sai lầm
3. Châu thứ ba
4.
Châu thứ tư
5. Châu thứ năm
6.
Châu thứ sáu
7. Châu thứ bảy
QUYỂN CHÍN
Sự tiến hóa đi theo vòng tròn
Bảy cuộc Tuần Huờn (Les 7 Rondes)
Cuộc Tuần Huờn Thứ Nhứt
Cuộc Tuần Huờn Thứ Nhì
Cuộc Tuần Huờn Thứ Ba
Số phần của Con Người và các Loài vật
Dãy Địa Cầu tan rã
Nhơn vật của Dãy Hành Tinh Thứ Năm
Sự Phán Xét cuối cùng
Sự Phán Xét Cuối Cùng của một Bầu Hành Tinh
Nội Cảnh Tuần Huờn
Họ ở lại Bầu Hành Tinh củ bao lâu
Sự hữu ích của Nội Cảnh Tuần Huờn
Sự Phán Xét Cuối Cùng của Một Dãy Hành Tinh
Sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy Địa Cầu chúng ta
Sự Phán Xét Cuối Cùng của Ba Dãy Hành Tinh Trước
Dân số trên dãy Địa Cầu
Số người được giải thoát sẽ là bao nhiêu
I. Những điều nên biết
Tại sao thân hình Giống Dân Thứ Nhứt lại in như nguyên sanh chất
II. Chừng nào cửa Đạo mới mở cho Con Người
III. Danh hiệu của các Vị Đắc Đạo thành chánh quả trong 4 Dãy Hành Tinh
Xin đừng lầm lộn hai danh từ : ASURA – A TU LA
IV.
Ở Ba Dãy Hành Tinh trước được mấy lần điểm đạo mới thành Chánh Quả thoát Đọa
Luân-Hồi
Kết Luận
“HỮU PHƯỚC THAY NHỮNG NGƯỜI TẤM LÒNG TRONG SẠCH !”
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
QUYỂN NHỨT
CON NGƯỜI LÀ AI ?
TỪ ĐÂU ĐẾN ? XUỐNG CÕI TRẦN LÀM CHI ?
THÁI-DƯƠNG-HỆ CỦA CHÚNG TA
1971
Bộ “Học Cơ Tiến-Hóa theo Khoa Minh-Triết Thiêng-Liêng” gồm nhiều quyển :
QUYỂN NHỨT – Con Người là ai ?
Từ đâu đến ? Xuống Cõi Trần làm chi ?
Thái-Dương-Hệ của chúng ta
QUYỂN NHÌ -
Sự liên-quan giữa Con Người và Vũ-Trụ
Bốn thể hư-hoại của Con Người
Xác Thân – Phách – Vía - Hạ Trí
QUYỂN BA -
Sự đào-tạo những quan-năng
Định- trí Tham-thiền
QUYỂN TƯ -
Ba thể trường-tồn:
Thượng-trí – Kim thân – Tiên thể
Lập hạnh
QUYỂN NĂM - Tinh-Thần hóa và Hy-Sanh
QUYỂN SÁU -
Sự trong sạch của xác thân
Lòng sùng-đạo
QUYỂN BẢY - Tinh-thần an-phận
Tánh kín đáo - Tánh đứng đắn
QUYỂN TÁM - Dãy Địa-Cầu
của chúng ta
Các giống dân
QUYỂN CHÍN – Các cuộc tuần-huờn
Sự phán-xét cuối cùng
VÀI LỜI NÓI ĐẦU
Nếu chúng ta tự hỏi : Tại sao có mặt trời, mặt
trăng và các ngôi sao trên trời ? Tại sao con người lại sanh ra tại cõi trần
? Thì chúng ta rất thắc-mắc và muốn tìm hiểu nguyên-nhân của mấy điều đó !
Nhưng phải tìm ở đâu ? Tôi xin nót trắng ra
liền là : Chúng ta phải nhờ đến khoa Bí-truyền
của các tôn-giáo lớn, cũng gọi là khoa Mật hay khoa Huyền-Bí-Học, bởi
vì khoa nầy vốn do các Đấng Thiên-Tôn đã dự
phần vào sự tạo-lập Thái-Dương-Hệ nầy và sự sanh hóa con người và loài vật,
truyền lại từ thế-hệ nầy qua thế-hệ kia.
Nó để dành đào-tạo những vị đệ-tử sau thành Tiên Thánh, phụ-tá
Thiên-Cơ. Nó chỉ con đường tắt
cho con người đi theo đặng mau tới mục-đích đã định sẵn cho nhơn-loại trong
Thái-Dương-Hệ nầy ; nói một cách khác là thành những vị Siêu-Phàm trong một
thời-gian ngắn, tính ra lối vài chục kiếp, thay vì nếu theo con đường
tiến-hóa bình thường, con người phải trải qua muôn kiếp luân-hồi mà chưa ắt
được hoàn-toàn thành-công.
Những điểm trình-bày trong mấy quyển sách nhỏ
nầy hay là những sách cùng chung một loại của tôi soạn ra, vốn là những
mẫu-tự A-B-C của Huyền-Bí-Học mà thôi.
Ấy là những đại-cương của chân-lý, cũng có thể gọi là Cơ-Tiến-Hóa
lược-giải, chớ chưa phải là toàn thể Chơn-Lý.
Muốn rõ những chi-tiết, xin quí bạn đọc những
sách giải về Minh-Triết Thiêng-Liêng viết bằng tiếng Pháp mà nhứt là những
quyển viết bằng tiếng Anh đầy đủ hơn.
Tôi tưởng cũng phải nói thêm rằng :
Huyền-Bí-Học khác hẳn khoa-học ở ngoài đời.
Nó giải-thích sự sống ở trong những hình thể ; nó chú trọng về phần
tinh-thần hơn là sự tìm kiếm những quyền năng của vật-chất.
Vì thế có nhiều điều của Huyền-Bí-Học tiết-lộ không giống những sự
khảo-cứu của khoa hiện kim. Khi
gặp mấy đoạn đó xin các bạn chớ lấy làm lạ và miễn-nghị, bởi vì chúng tôi
giải theo khoa Minh-Triết Cổ-Truyền.
Khoa nầy từ ngàn xưa để dạy một cách kín đáo trong những tu viện, đạo
viện ở Trung-Hoa, Ấn-Độ, Tây-Tạng, Kal-Đê (Chaldée), Ba-Tư, Ai-Cập, Hi-Lạp
cho những vị đệ-tử đã chọn lựa rất kỹ-lưỡng về hạnh-kiểm.
Vài thiên đầu mới được phép đem ra phổ-biến
trong quần-chúng từ năm 1875, tới ngày nay mới được 96 năm.
Thế nên chúng rất lạ tai với những người mới
nghe qua và khác hẳn những điều đã trình-bày trong những sách công-truyền
của các Tôn-giáo.
Cho hay, mặc dầu khoa-học ngày nay tiến-bộ rất
nhiều, nhưng nó đương tìm kiếm trong vòng vật-chất.
Luôn luôn có những giả-thuyết mới đưa ra để thay thế những giả-thuyết
củ khi người ta khám-phá thêm một sự bí-mật mới của Tạo-công.
Mới, đây là mới với con người chớ thật ra nó vẫn cũ mèn và xưa như
trái đất, bởi vì nó đã có sẵn từ thuở Khai-Thiên Tịch-Địa kia mà.
Thái-Dương-Hệ nầy sanh ra có lẽ trên bốn, năm ngàn triệu năm rồi.
Muốn hiểu hết những hiện-tượng đã xẩy ra từ xưa tới nay, con người
cũng phải mất một thời-gian bốn, năm ngàn triệu năm học-hỏi, mà trong
thời-gian nầy sẽ có không biết bao nhiêu sự biến-đổi khác nữa.
Ông giáo-sư Charles Richet có viết trong tập
niên-giám của khoa Tâm-Linh-Học tháng Giêng năm 1905 đoạn nầy (xin tóm-tắt
đại-ý).
“Tới năm 2.000 nói chi tới năm 3.000, những
luận-cứ khoa-học đời đó sẽ khác hẵn những luận-cứ khoa-học hiện kim.
Cái nền móng khoa-học mà chúng ta xây-dựng rất công-phu, chắc-chắn sẽ
đổ nát. Những việc chúng ta cho
là minh-bạch đối với cháu-chít chúng ta không khác nào lý-lẽ của mấy ông như
Agrippa và Paracelse đối với chúng ta bây giờ đây.
Khoa-học của chúng ta sẽ thấp-thỏi hơn khoa-học năm 3.000 cũng như sự
hiểu-biết của con dã-nhơn thấp-thỏi hơn sự hiểu-biết của một vị Tiến-sĩ
khoa-học vậy”.
Chí lý thay những lời nói trên đây !
Tôi tin rằng giáo-sư Charles Richet có khảo-cứu khoa Huyền-Bí-Học, vì
ông có viết một cuốn nhan đề “Giác-quan thứ sáu”(Notre 6è sens).
Mặc dầu khoa Huyền-Bí-Học đã nót tiếng chót,
chúng ta cũng không bao giờ bảo : “Quý bạn hãy tin triệt-để ở Huyền-Bí-Học”.
Chúng tôi chỉ yêu cầu quý bạn quan-sát lại cuộc đời một cách kỹ-lưỡng
đặng thấy rõ sự hành-động của Luật Nhân-Quả Báo-Ứng.
Luật nầy không hề dung tha một ai đã làm trái nghịch lòng Trời.
Chúng tôi xin quý bạn hãy thí-nghiệm về sự
lao-chao của cái Trí, sự truyền-nhiểm của tư-tưởng, cách sửa trị chúng nó và
những phương-pháp để đào-tạo cho mình những tánh tốt hầu trừ-khử những tật
xấu.
Như thế quý bạn mới có một đức-tin mạnh-mẽ và
vững chắc trong khi luyện tập đặng tiến mau trên con đường hành-hương dài
thăm-thẳm.
Sau khi thành-công phần nào rồi, thì xin quý
bạn hãy dìu-dắt lại đoàn hậu tấn.
Bổn phận của người biết Đạo là lo phục-hưng tinh-thần của nhân-loại,
vì biết rằng các sự đau-khổ trên trần-thế đều do tánh ích-kỷ, chia rẽ mà
sanh ra. Chặt đứt gốc rễ là
diệt tánh ích-kỷ, chia rẽ, thì các sự đau khổ đều chấm dứt.
Ích-kỷ, chia rẽ là Tâm Bịnh.
Bịnh Tinh-Thần phải dùng thuốc Tinh-Thần mà điều trị.
Thuốc vật-chất dầu hay đến đâu cũng chỉ giảm bớt đưọc phần nào trong
một thời-gian chớ không trị tận gốc nỗi.
Chẳng bao lâu, bệnh sẽ tái phát và e cho kỳ nầy còn nặng hơn kỳ trước
nhiều.
Từ xưa đến nay người ta đã từng thí-nghiệm
không biết bao nhiêu phương thuốc vật-chất cho là kỳ-diệu vô cùng, nhưng mà
chung qui, vài chục năm sau, đâu cũng hườn đó.
Chúng theo thời gian mà tiêu tan như mây khói.
Đời văn-minh càng hướng về vật-chất nhiều chừng
nào thì những sự đau-khổ càng tăng thêm nhiều chừng nấy, chớ chưa thấy phần
giảm bớt chút nào ! Tại sao thế
? Ấy bởi :
“Tam Độc” là Tham-Sân-Si chưa bị tận-diệt thì sông Duyên cứ tràn đầy
mãi. Nhân nào cứ sanh quả nấy
thì biết tới chừng nào nó mới cạn khô bây giờ.
Chúc quý bạn thành-công mỹ-mãn trong việc Tận Tâm Phục-Hưng Tinh-Thần của Nhân-loại.
Lành thay ! Lành thay !
Châu-Đốc ngày Rằm tháng Tám (Tết Trung Thu) Tân-Hợi.
Nhằm ngày mồng 3 tháng 10 năm 1971
BẠCH-LIÊN
PHẠM-NGỌC-ĐA
53 Nguyễn-đình-Chiểu
Châu-Đốc
HỌC CƠ TIẾN-HÓA
Có
một vấn-đề mà giải-quyết được cho đúng lý tức là đúng với sự thật thì cuộc
diện thế-giới sẽ thay-đổi hẳn và con người sẽ văn-minh tiến-bộ hơn bây giờ
nhiều lắm.
Vấn-đề đó là :
Con người là ai ?
Từ đâu đến ?
Sanh ra cõi trần làm chi ?
Xin giải-đáp ba câu hỏi nầy một cách vắn-tắt mà thôi, theo Huyền-Bí-Học.
I
Con người là ai ?
Theo thế thường thì ai cũng đinh-ninh rằng :
Xác thân nầy là con người.
Nhưng thật ra con người khác hẳn xác thân.
Xác thân chỉ là khí-cụ của con người dùng để hoạt-động tại cõi trần
trong một kiếp mà thôi.
Thật con người là Chơn-thần hay là một Điểm
Linh-Quang của Thượng-Đế. Vì
thế con người là con của Trời.
Xin gọi con người là linh-hồn cho dể nhớ, vì chúng ta đã quen với danh-từ
nầy rồi.
II
Con người từ đâu đến ?
Con người vốn ở trong tâm của đức Thái-Dương Thượng-Đế, từ cõi Đại Niết-Bàn xuống thế-gian.
III
Con người sanh ra cõi trần làm chi ?
Con người sanh ra cõi trần đặng học hỏi luật
sanh-hóa và luật tiến-hóa của các loài vật, nói một cách khác, là học-hỏi cơ
tiến-hóa. Con người phải
học-hỏi và kinh-nghiệm từ kiếp nầy qua kiếp kia, từ hành tinh nầy qua hành
tinh khác của dãy địa-cầu.
Tới một ngày kia, khi phá tan được bức màn
vô-minh thì con người trở nên trọn sáng trọn lành, thành một vị Siêu-Phàm,
người đời gọi là Chơn-tiên. Còn
Phật-Giáo gọi là A-Sơ-Ca (Aseka) nghĩa là không còn làm đệ-tử nữa, không còn
cái chi học-hỏi tại dãy địa-cầu nầy.
SỰ TIẾN-HÓA CHẤT DỨT Ở ĐÂY SAO ?
Sự tiến-hóa chấm dứt ở đây sao ?
Không, sự tiến-hóa sẽ tiếp-tục ở mấy cõi khác, ngoài địa-cầu chúng
ta.
Vị
Chơn-Tiên tu-hành thêm và tiến lên mãi.
Từ Chơn-Tiên lên bực Đế-Quân.
Từ Đế-Quân lên bực Bồ-Tát.
Từ Bồ-Tát lên bực Phật.
Từ Phật lên bực Ngọc-Đế . . . vân vân
Vũ-trụ vô-tận vô-biên
Tới một ngày kia, không biết bao
nhiêu tỷ năm nữa mà nói, vị Chơn-Tiên sẽ thành một vị Thái-Dương Thượng-Đế
(Logos d’un systeme solaire) và sẽ sanh-hóa một Thái-Dương-Hệ khác giống như
Thái-Dương-Hệ nầy vậy.
Đây mới thật là mục-đích sanh-hóa của con người
trên cõi trần.
Nếu con người sanh ra trên thế chỉ chờ lớn
khôn, lập thành danh, có gia-đình và trải qua những chuổi ngày sung-sướng,
vui-vẻ, đau-khổ, sầu-muộn rồi chờ ngày : Cát bụi phải trở về với cát bụi thì
cuộc đời không có mục-đích gì cả và kiếp sống rất vô vị.
MUỐN HỌC CƠ-TIẾN-HÓA THÌ PHẢI LÀM SAO ?
Trên đây chỉ nói vài lời về cội rễ con người mà
thôi.
Muốn học cơ tiến-hóa thì phải tìm hiểu chút ít
về :
a). Sự thành lập Thái-Dương-Hệ chúng
ta.
b). Những thể của con người.
c). Sự liên-quan những thể của con người với
những cõi-trời.
d). Con người sau khi bỏ xác-phàm.
đ). Luật Luân-hồi – Nhân-quả.
e). Phương-pháp mở khai tâm-trí đặng tiến mau
đến mục-đích đã định sẵn cho nhân-loại trong Thái-Dương-Hệ nầy.
THÁI-DƯƠNG-HỆ LÀ GÌ ?
Thái-Dương-Hệ là một hệ-thống tiến-hóa gồm một
ngôi mặt trời ở chính giữa và những bầu hành-tinh xây chung quanh.
CÓ BAO NHIÊU THÁI-DƯƠNG-HỆ TRÊN KHÔNG GIAN ?
Không ai biết được có bao nhiêu. Thái-Dương-Hệ
trên không gian : mấy trăm tỷ hay là mấy ngàn tỷ.
Người ta chỉ biết có nhiều ngôi mặt trời cả
chục, cả trăm, cả ngàn lần lớn hơn ngôi mặt trời của chúng ta mà thôi.
Tỷ như tinh cầu Baleine (Mira Ceti) và tinh cầu
Bételgeuse (Orien) 300 lần lớn hơn ngôi mặt trời của chúng ta.
Còn tinh cầu Canopus một triệu lần lớn hơn ngôi mặt trời của chúng ta.
AI SANH RA MỘT THÁI-DƯƠNG-HỆ ?
Không phải do một sự tình cờ mà có một ngôi mặt
trời ở chính giữa và những hành-tinh xây chung-quanh cùng trên mỗi hành-tinh
lại có các loài vật sanh sống tại đó nữa.
Huyền-Bí-Học
dạy rằng : Mỗi Thái-Dương-Hệ đều do một đấng Chí-Tôn sanh ra.
Người ta gọi Ngài là Đức Thái-Dương Thượng-Đế.
THÁI-DƯƠNG THƯỢNG-ĐẾ KHÁC VỚI ĐẤNG CHÍ-TÔN GỌI LÀ ÔNG TRỜI
Còn Đấng Chí-Tôn độc nhứt vô nhị không sanh mà
có, người ta gọi là Ông Trời hay là Thái Cực Thánh-Hoàng (Dieu, Logos
Cosmique Brahman – Allah vân vân..)
Chính
là Ngài sanh ra các Đấng Thái-Dương Thượng-Đế.
ĐỨC THÁI-DƯƠNG THƯỢNG-ĐẾ CỦA CHÚNG TA TỪ ĐÂU ĐẾN ?
Đức Tháí-Dương Thượng-Đế của chúng ta vốn ở một
Thái-Dương-Hệ khác đến đây : Thái-Dương-Hệ đó sanh ra trước Thái-Dương-Hệ
của chúng ta không biết bao nhiêu tỷ năm mà nói.
Đức Thái-Dương Thượng-Đế của chúng ta chọn một
chổ trên không gian đặng lập tiểu vũ-trụ của Ngài.
Hào-quang của Ngài chiếu ra và dứt tới đâu thì chổ đó là giới-hạn
giang-sơn của Ngài.
Ngài biến-đổi chất hổn-ngươn-nhứt-khí cũng gọi
là Tiên-Thiên dĩ-thái hay là Koilon (Mulaprakriti Ether primordial ou
Koilon) ra 7 thứ khí khác nhau dùng tạo lập Thái-Dương-Hệ của chúng ta.
Thái-Dương-Hệ nầy chia ra làm 7 cõi (7 plans)
và gồm :
a.
Một ngôi mặt trời ở chính giữa và
b.
Mười hệ-thống hành-tinh (10 Systèmes planétaires) xây chung quanh.
Trên mười hệ-thống hành-tinh nầy đều có những
loài vật sanh-trưởng và tiến-hóa theo cơ trời đã định trước.
Ngài có nhiều vị phụ-tá, khi xưa vốn đồng ở một
Thái-Dương-Hệ với Ngài. Không
biết phải gọi là chi bởi vì chúng ta không có danh-từ thích-ứng.
Xin gọi là những vị Đại Thiên-Tôn, trong đó có
những đấng Chí-Tôn gọi là Hành-Tinh Thượng-Đế (Logos planétaires) Nam-Tào,
Bắc-Đẩu (Lipikas), 7 vị Đại Thiên-Vương, những vị Ngọc-Đế, những vị Phật,
những vị Bồ-Tát, những vị Đế-Quân, những vị Chơn-Tiên, những vị Đại
Thiên-Thần, vân vân .. Mỗi vị đều có những phận-sự riêng-biệt.
7 CÕI CỦA THÁI DƯƠNG-HỆ CỦA CHÚNG TA (1)
[(1) Trên không-gian cũng chia ra 7 cõi cao hơn
7 cõi của Thái-Dương-Hệ chúng ta rất nhiều và cũng đồng một tên.
7 cõi của Thái-Dương-Hệ của chúng ta thông đồng với 7 cỏi của
không-gian].
7 cõi nầy bắt trên kể xuống thì như vầy :
1. Cõi thứ nhứt là :
Cõi Tối Đại-Niết-Bàn cũng gọi là cõi Thái-Cực hay là cõi Tối-Đại
Thiêng-Liêng (Plan Mahaparanirvana ou Adi).
2.
Cõi thứ nhì là : Cõi Đại-Niết-Bàn cũng gọi là cõi Lưỡng-Nghi hay là cõi
Đại-Thiêng-Liêng (Plan Paranirvana ou Anoupadaka).
3.
Cõi thứ ba là : Cõi Niết-Bàn cũng gọi là cõi Tứ-Tượng hay là cõi
Thiêng-liêng (Plan Nirvana ou Plan Atmique).
4. Cõi thứ tư là : Cõi Bồ-Đề
cũng gọi là cõi Trực-giác (Plan Bouddhique ou Plan de l’Intuition).
5.
Cõi thứ năm là : Cõi Trí-tuệ cũng gọi là cõi Thượng-giới (Plan Mental ou
monde céleste).
6.
Cõi thứ sáu là : Cõi Dục-Giới cũng gọi là cõi Trung-giới (Plan Astral ou
plan Emotionnel)
7.
Cõi thứ bảy là : Cõi Hồng-trần cũng gọi là cõi Hạ-giới (Plan Physique).
Mỗi cõi đều chia ra làm 7 cảnh (7 sous plans).
Riêng cõi Trí-Tuệ hay là Thượng-Giới thì phân ra làm hai: Cõi
Thượng-Thiên và cõi Hạ-Thiên.
1. Cõi Thượng-Thiên cũng gọi là cõi Vô-sắc-giới
(Plan Mental supérieur, Ciel supérieur ou monde Aroupa) gồm 3 cảnh cao :
Cảnh thứ nhứt, cảnh thứ nhì và cảnh thứ ba.
Tại cõi nầy tư-tưởng không có hình dạng nữa.
Nó xẹt ra từ lắn và đi từ cái trí nầy qua cái trí kia.
2.
Cõi Hạ-Thiên cũng gọi là cõi
Sắc-giới (Plan mental inférieur, Ciel inférieur ou monde Roupa) gồm 4 cảnh
thấp : Cảnh thứ tư--- Cảnh thứ năm--- Cảnh thứ sáu và Cảnh thứ bảy.
Tại cõi nầy tư-tưởng có hình-dạng.
7 CẢNH CỦA CÕI TRẦN
Cõi Trần cũng chia ra làm 7 cảnh, bắt dưới kể
lên thì như vầy :
Cảnh thứ bảy : Cảnh của chất đặc (đất cát)
Cảnh thứ sáu : Cảnh của chất lỏng (nước)
Cảnh tứ năm : Cảnh của chất hơi (không khí)
Cảnh thứ tư : Cảnh của chất dĩ-thái thứ tư
(ether IV)
Cảnh thứ ba : Cảnh của chất dĩ-thái thứ ba
(ether III).
Cảnh thứ nhì : Cảnh của chất dĩ-thái thứ nhì
(ether II ou sous-atomique)
Cảnh thứ nhứt : Cảnh của chất dĩ-thái thứ nhứt
hay là cảnh của chất nguyên-tử căn-bản (ether I ou atomique).
TÊN CỦA MỖI THỨ KHÍ
Xin gọi mỗi thứ khí như sau :
1. Chất khí làm cõi Tối-Đại Niết-Bàn là
Ngươn-khí hay là chất Tối-Đại-Thiêng-Liêng.
2. Chất khí làm cõi Đại-Niết-Bàn là
Tiên-Thiên-khí hay là chất Đại-Thiêng-Liêng.
3. Chất khí làm cõi Niết-Bàn là Âm-Dương-khí
hay là chất Thiêng-Liêng.
4. Chất khí làm cõi Bồ-Đề là Thái-Thanh-khí hay
là chất Bồ-Đề.
5. Chất khí làm cõi Thượng-giới hay là Trí-Tuệ
là Thượng-Thanh-khí hay là chất Trí-Tuệ.
6. Chất khí làm cõi Trung-giới hay là Dục-giới là
Thanh-khí hay là chất Cảm-xúc.
7. Chất khí làm cõi Hạ-giới hay là Phàm trần là
chất Hồng-trần.
7 chất khí nầy tuy khác nhau song ở một góc mà ra. Gốc đó là Hỗ-ngươn-nhứt-khí.
Các nhà luyện kim (Alchimistes) dầu xưa, dầu
nay, đều biết rõ điều nầy.
ĐẶC-SẮC CỦA MỖI THỨ KHÍ
Chất khí ở cảnh cao chững nào thì càng mịn-màng
nhiều chừng nấy. Màu sắc nó
rực-rỡ, tốt-đẹp, nó rất nhẹ-nhàng và rung động mau lẹ.
Nó chun thấu qua các chất khí làm ra những cảnh thấp hơn nó.
Cũng như chất Bồ-Đề chun thấu qua chất Trí-tuệ (cõi Thượng-giới),
chất Cảm-xúc (cõi Trung-giới hay Dục-giới) và chất Hồng-trần (cõi Hạ-giới
hay Phàm-trần).
Tại cõi trần nầy, chất Dĩ-thái (Dĩ-thái Hồng-trần)
chun thấu qua đất cát, nước và không khí.
Vì lẽ nầy, 7 cõi của Thái-Dương-Hệ ở
chung một chổ được và xỏ rế với nhau.
Cõi Dục-giới (Trung-giới) bắt đầu từ trung-tâm trái đất lên gần tới mặt
trăng.
Cõi Trí-tuệ (Thượng-giới) bắt đầu từ trung tâm trái đất lên khỏi mặt trăng xa lắm, vân vân . . .
Thế thì những cõi Tối-Đại-Niết-Bàn,
Đại-Niết-Bàn, Niết-Bàn, Bồ-Đề, Thượng-giới, Trung-giới vốn ở trước mặt, sau
lưng ta, tức là chung quanh ta chớ không phải đợi tới lên trên cao cả trăm
ngàn cây số mới gặp mấy cõi đó.
Nếu ta không thấy chúng nó là vì con mắt phàm
chỉ để xem coi nhân-vật ở cõi phàm mà thôi.
Ta còn nhiều quan khác như Thần-nhãn, Thiên-nhãn, Huệ-nhãn,
Phật-nhãn, nếu khai mở được mấy quan nầy thì thấy được mấy cõi đó.
Chớ chẳng phải : Cái gì con mắt ta không quan-sát được thì không có
thật.
MƯỜI HỆ-THỐNG HÀNH-TINH
Mười hệ-thống hành-tinh là mười hệ-thống tiến-hóa (Système d’Evolution) khác nhau.
Trong 10 hệ-thống hành-tinh nầy có:
-
3 hệ-thống vô hình bởi vì chúng nó không có đất cát nên không thấy được.
-
7 hệ-thống hữu-hình vì chúng có những bầu hành-tinh làm bằng đất cát nên
thấy được.
Xin nói sơ-lược về 7 hệ-thống hữu-hình mà thôi.
7 HỆ-THỐNG HỮU-HÌNH
Mỗi hệ-thống hữu hình gồm 7 dãy hành-tinh
(chaines planétaires).
Mỗi dãy hành-tinh có 7 bầu hành-tinh (7
planètes) có bầu có đất cát, có bầu chưa có đất cát.
7 hệ-thống nầy là :
1.
Hệ-thống Kim-Tinh (Système de Vénus).
2.
Hệ-thống Mộc-Tinh (Système de Jupiter).
3.
Hệ-thống Thủy-Vương-Tinh hay là Hải-Vương-Tinh (Système de Neptune).
4.
Hệ-thống Hỏa-Vương-Tinh (Système de Vulcain).
5.
Hệ-thống Thổ-Tinh (Système de Saturne).
6.
Hệ-thống Thiên-Vương-Tinh (Système d’Uranus).
7.
Hệ-thống Địa-Cầu (Système de la Terre).
Tôi để : Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ theo Ngũ-Hành cho để nhớ, chớ kỳ thật trong 7 dãy nầy thì :
1.
Tiến-hóa cao hơn hết là dãy Kim-Tinh.
2.
Kế đó là dãy Địa-Cầu của chúng ta và
3.
Dãy Thủy-Vương-Tinh đồng bực tiến với nhau.
Cuối cùng là 4 dãy kế đó thấp hơn địa-cầu một bực :
4.
Dãy Mộc-Tinh.
5.
Dãy Hỏa-Vương-Tinh.
6.
Dãy Thổ-Tinh và
7.
Dãy Thiên-Vương-Tinh.
NHỮNG BẦU HÀNH-TINH THẤY ĐƯỢC
1)
Dãy Kim-Tinh có bầu hành-tinh thấy được ấy là Sao Hôm.
2)
Dãy Địa-cầu chúng ta có 3 bầu thấy được ấy là :
Hỏa-Tinh (Mars) Trái đất (Terre) và Thủy-Tinh
(Mercure)
3)
Dãy Thủy-Vương-Tinh cũng như dãy địa-cầu có 3 bầu thấy được.
4)
Dãy Hỏa-Vương-Tinh có 1 bầu thấy được.
5)
Dãy Thổ-Tinh có 1 bầu thấy được.
6)
Dãy Mộc-Tinh có 1 bầu thấy được.
7)
Dãy Thiên-Vương-Tinh có 1 bầu thấy được.
Tất cả có 11 bầu thấy được.
Nói tóm lại : 7 dãy hành-tinh có 49 bầu mà chỉ
có 11 bầu thấy được còn 38 bầu không thấy được.
Lý do đó sẽ giải ra sau.
KHÔNG PHẢI 7 DÃY HÀNH-TINH CỦA MỘT HỆ-THỐNG SANH RA MỘT LƯỢT VỚI NHAU.
Xin đừng lầm lộn một Dãy hành-tinh (Chaine
planétaire) với một Hệ-thống hành-tinh (Système planétaire).
Tôi tưởng cần phải nhắc lại là mỗi Hệ-thống
hành-tinh gồm 7 Dãy hành-tinh.
Nhưng
không phải 7 Dãy hành-tinh của một Hệ-thống sanh ra một lượt với nhau.
---Dãy
thứ nhứt sanh ra đưa các loài-vật tiến tới một mức độ nào đó rồi ta- rã.
Phận-sự nó đã xong xuôi.
---Dãy
thứ nhì sanh ra để nối tiếp sự tiến-hóa các loài-vật của dãy thứ nhứt, rồi
khi hoàn-thành nhiệm-vụ nó cũng tan rã.
Và cứ tiếp-tục như thế cho tới dãy chót là dãy
thứ bảy.
Khi dãy thứ bảy tan rã rồi, tức thì một
Hệ-thống hành-tinh hay là một Hệ-thống tiến-hóa chấm dứt.
Đức Thái-Dương Thượng-Đế không sanh hóa các
loài vật trên dãy đó nữa.
SỰ TAN-RÃ CỦA THÁI-DƯƠNG-HỆ CỦA CHÚNG TA
(Pralaya de notre Système Solaire)
Tới một ngày kia không biết đúng là bao nhiêu
tỷ năm nữa, mặt trời và 10 Hệ-thống Hành-Tinh của chúng ta đều tan rã hết.
Thái-Dương-Hệ của chúng ta không còn nữa.
Linh-hồn
của vạn-vật đều nhập vô tâm của Đức Thái-Dương Thượng-Đế.
Hết
lúc sanh-hóa thì đến lúc nghỉ ngơi.
Hết lúc nghỉ ngơi thì sẽ sanh-hóa lại.
Đức Thái-Dương Thượng-Đế của chúng ta sẽ
sanh-hóa một Thái-Dương-Hệ khác lớn hơn Thái-Dương-Hệ nầy nữa.
Thành - Trụ - Hoại – Không là bốn danh-từ trong
Đạo-đức dùng để ám chỉ : Sự Sanh-hóa - Sự Tiến-hóa và Sự Tiêu-diệt một Dãy
Hành-tinh - Một Thái-Dương-Hệ và luôn tới Vũ-trụ Càn-khôn, bởi vì tới một
ngày kia tất cả những Thái-Dương-Hệ trên không-gian, dầu lớn, dầu nhỏ đều
phải tan rã một lượt với nhau.
Trên không-gian sẽ tối-tâm mù-mịt không còn sự
sống nữa. Rồi đúng ngày giờ sẽ
sanh-hóa lại.
Mấy
điều nầy bị bắt buộc phải nói ra, chớ kỳ thật chúng ta không tưởng-tượng nổi
vì không biết gì hết về mấy việc đó.
Lý-luận
rất vô-ích, bởi vì chúng ta còn bị luật-pháp thiên-nhiên chi-phối và hạn-chế
những sự hành-động. Chúng ta
sanh ra , ban đầu nhỏ bé, sau lớn khôn, kế đó là già nua rồi đúng ngày giờ
thì phải bỏ xác.
Chúng
ta còn phải đầu thai đi, đầu thai lại, không biết bao nhiêu bận nữa trước
khi tiến-hóa đến bực Siêu-phàm.
Điều
khôn ngoan hơn hết là bây giờ đây lo học-hỏi rành rẽ Cơ-Tiến-Hóa rồi nương
theo đó đi tới, càng ngày càng lên cao cho đến khi đạt được mục-đích đã định
sẵn cho Thái-Dương-Hệ nầy.
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
QUYỂN NHÌ
SỰ LIÊN-QUAN GIỮA CON NGƯỜI VÀ VŨ-TRỤ
BỐN THỂ HƯ HOẠI CỦA CON NGƯỜI:
XÁC THÂN – PHÁCH – VÍA - HẠ-TRÍ
1971
SỰ LIÊN-QUAN GIỮA CON NGƯỜI VÀ VŨ-TRỤ
Muốn hiểu sự liên-quan giữa con người và vũ-trụ thì phải biết:
A.
Ba
ngôi của Đức Thái-Dương Thượng-Đế.
B.
Ba
ngôi của con người.
C.
Sự
cấu-tạo những thể của con người.
A - Ba ngôi của ĐỨC THÁI-DƯƠNG THƯỢNG-ĐẾ
--- Đức Thái-Dương Thượng-Đế phân làm 3 ngôi.
1.
Ngôi thứ nhứt :
Ấn giáo gọi là Brahma - Phạm-Vương. Thiên-Chúa Giáo gọi là Đức Chúa Cha (Dieu, Le Père).
2.
Ngôi thứ nhì : Ấn giáo gọi là Vishnou (Quích-Nu).
Thiên-Chúa-Giáo gọi là Đức Chúa Con (Dieu, Le Fils).
3.
Ngôi thứ ba :
Ấn giáo gọi là (Shiva – Si-Hoa).
Thiên-Chúa-Giáo gọi là Đức Chúa Thánh Thần (Dieu, le Saint Esprit).
TRẠNG-THÁI CỦA BA NGÔI
1.
Trạng-thái của Ngôi thứ nhứt là : Ý-Chí (Volonté).
2.
Trạng-thái của Ngôi thứ nhì là : Minh-Triết – Bác-ái (Sagesse – Amour).
3.
Trạng-thái của Ngôi thứ ba là : Trí-tuệ sanh-hóa (Intelligence créatrice).
CÔNG VIỆC CỦA BA NGÔI
1.
Ngôi thứ ba biến đổi Hổn-Ngươn-nhứt-khí ra những nguyên-tử đặng lập 7 cõi
Trời.
2.
Ngôi thứ nhì sanh-hóa những hình-dạng các loài và cho chúng nó sự sống.
3.
Ngôi thứ nhứt : Khi đúng ngày giờ thì cho Chơn-Thần nhập-thế.
MỤC-ĐÍCH SANH-HÓA THÁI-DƯƠNG-HỆ NẦY
Thái-Dương-Hệ nầy sanh ra để đưa các loài vật
tiến tới con người (hay là các Thiên-Thần), còn con người thành một vị
Siêu-phàm.
BẢY LOÀI TRÊN DÃY ĐỊA-CẦU CHÚNG TA
Trên dãy Địa-Cầu chúng ta có 7 loài :
1.
Tinh-chất thứ nhứt (1ère essence élémentale) ở tại cõi Thượng-Thiên.
2.
Tinh-chất thứ nhì (2ème essence élémentale) ở tại cõi Hạ-Thiên.
3. Tinh-chất thứ ba (3ème essence élémentale) ở tại cõi Trung-Giới (Dục-giới).
Còn 4 loài nữa ở tại cõi Trần là :
4.
Loài Kim-Thạch.
5.
Thảo Mộc.
6.
Thú vật.
7.
Con người.
Ở đây tôi không kể các hàng Thiên-Thần (trong
đó có loài Ngũ-Hành). Mấy Ngài
theo đường tiến-hóa riêng biệt khác hơn đường tiến-hóa của con người, nhưng
mà các Ngài vẫn giúp-đỡ loài người luôn luôn.
Có điều ta nên nhớ rằng :
Linh-hồn phải đầu thai vào 6 loài kể ra trên
đây, hết loài nầy tới loài kia, trước khi làm con người.
Ở trong mỗi loài đều có những bài học mà mỗi Linh-hồn phải học cho
thiệt thuộc mới được.
B- BA NGÔI CỦA CON NGƯỜI
Cũng như Đức Thái-Dương Thượng-Đế, con người phân làm 3 ngôi :
1.
Ngôi thứ nhứt là Chơn-Thần (Monade).
2.
Ngôi thứ nhì là Chơn-Nhơn (Soi Supérieur – Ego – INDIVIDUALITÉ).
3.
Ngôi thứ ba là Phàm-Nhơn (Soi Inférieur – Personnalité).
Chơn-Thần vốn ở tại Cõi Đại-Niết-Bàn.
Chơn-Thần sanh ra Chơn-Nhơn thế cho mình đặng
hoạt-động và học-hỏi ở cõi dưới kế đó là :
Cõi Niết-Bàn.
Cõi Bồ-Đề và
Cõi
Thượng-Thiên.
Tới phiên Chơn-Nhơn lại sanh ra Phàm-Nhơn để
kinh-nghiệm ở 3 cõi dưới nữa là :
Cõi Hạ-Thiên.
Cõi Trung-giới hay là Dục-Giới và
Cõi Hạ-Giới hay là Hồng-Trần
Nói cho đúng tất cả những người trên thế-gian
đều là những Phàm-Nhơn chớ chưa phải là Chơn-Nhơn đâu.
BA NGÔI CỦA CHƠN-NHƠN
Chơn-Nhơn có 3 ngôi :
Ngôi thứ nhứt là Atman
Ngôi thứ nhì là Bouddhi.
Ngôi thứ ba là Manas.
TRẠNG-THÁI CỦA BA NGÔI CỦA CHƠN-NHƠN
Trạng-thái của Ngôi thứ nhứt Atman là Ý-Chí.
Trạng-thái của Ngôi thứ nhì Bouddhi là :
Minh-Triết Bác-Ái.
Trạng-thái của Ngôi thứ ba Manas là : Trí-Tuệ
sanh-hóa.
Chúng là phản-ảnh 3 ngôi của Đức Thái-Dương
Thượng-Đế.
C-
NHỮNG THỂ CỦA CON NGƯỜI
Con người có 7 thể, kể ra như sau đây :
1.
Tiên-thể hay là thể Thiêng-Liêng – Corps Atmique.
2.
Kim-Thân hay là thể Trực-Giác – Corps Bouddhique.
3.
Thượng-Trí hay là Nhân-Thể - Corps Mental supérieur ou Corps Causal.
4.
Hạ-Trí – Corps mental inférieur.
5.
Vía hay Dục-thể - Corps Astral.
6.
Phách – Double étherique.
7. Xác thân – Corps physique
Trong 7 thể nầy có 3 thể trường-tồn và 4 thể
hư-hoại.
BA THỂ TRƯỜNG-TỒN- BỐN THỂ HƯ-HOẠI
Ba thể trường-tồn là : Tiên-Thể, Kim-Thân và
Thượng-Trí.
Chúng theo con người từ đời nầy qua đời kia cho
tới khi con người thành chánh quả làm một vị Siêu-phàm.
Bốn thể hư-hoại là : Hạ-trí, Vía, Phách ,
Xác-thân.
Chúng để dùng trong một kiếp mà thôi.
Sau khi con người thác rồi, một ít lâu thì chúng đều tan-rã ra các
nguyên-tử, thứ nào theo thứ nấy.
Kiếp sau con người sẽ có 4 thể mới khác và do
theo luật Nhân-quả, chúng đồng bản-tánh với 4 thể kiếp trước.
BẢY THỂ CỦA CON NGƯỜI ĐỂ DÙNG TẠI 5 CÕI MÀ THÔI
Bảy thể của con người để dùng tại 5 cõi mà thôi.
1.
Xác thân và
2.
Cái Phách - để dùng tại cõi Trần.
3.
Cái Vía - để dùng tại cõi Trung-Giới hay là Dục-Giới.
4.
Hạ-Trí - để dùng tại 4 cảnh thấp cõi Thượng-Giới (cõi Trí-Tuệ), 4 cảnh nầy
cũng gọi là cõi Hạ-Thiên
5.
Thượng-Trí - để dùng tại 3 cảnh cao cõi Thượng-Giới (Cõi Trí-Tuệ), 3 cảnh
nầy cũng gọi là cõi Thượng-Thiên.
6.
Kim-Thân - để dùng tại cõi Bồ-Đề.
7. Tiên-Thể - để dùng tại cõi Niết-Bàn.
Còn 2 thể nữa để dùng tại cõi Đại-Niết-Bàn và
Tối-Đại-Niết-Bàn ; tới chừng làm một vị Chơn-Tiên rồi mới biết.
Tôi xin nói sơ-lược về 4 thể hư-hoại trước, bởi
vì chúng là những thể mà ta dùng thường ngày như :
Xác thân để hành-động, cái Phách để thâu sanh-lực, cái Vía để biểu-hiện ý-muốn và tình cảm, cái Trí để học-hỏi, suy-nghĩ vân vân . . .
I
XÁC THÂN
Xác-thân làm bằng ba chất khí thấp của
Hồng-Trần là chất đặc, chất lỏng và chất hơi.
Tuy nhiên nó là thể duy nhứt trong 7 thể được
cấu-tạo một cách hoàn-bị hơn hết.
Nó tiến-hóa khá cao rồi.
Ít ai ngờ nó là một lò “Tạo Hóa” ở dưới phàm
trần chứa không biết bao nhiêu điều bí-mật.
Mặc dầu khoa-học đời nay tiến rất mau và rất
nhiều, nhưng người ta cũng chưa biết rõ hết về xác-thân.
Nếu không tìm học sự sống hay là phần tinh-thần ở trong những
hình-thể mà cứ lo quan-sát vật chất mãi thì e cho cả triệu năm nữa con người
cũng chưa khám-phá hết những sự bí-mật trong thân-thể con người.
Xin kể ra vài việc có thật đã xẩy ra trước mắt
nhiều người mà khoa-học không giải-thích nỗi. Tỷ như : Đã có những vị đạo-sĩ
Fa-Kia (Fakir) bên Ấn-Độ làm cho trái tim ngưng đập mà không chết, uống
những ắt-xích (acite) độc và mạnh nhứt, nuốt những đinh sắt, miểng chai vô
bụng mà vẩn trơ trơ. Cho chôn
dưới đất ba bốn tháng, hay cã năm tùy theo công-phu luyện-tập ; chừng đào
lên rồi thì sống lại như thường.
Đi qua đi lại trên than đỏ, đứng sửng trong lửa hồng, tắm dầu sôi
sùng-sụt mà không phỏng da chút nào, vân vân . . .
Mấy việc nầy thoát ra ngoài phạm-vi những luật
vật-lý của cõi Trần và duy có Huyền-Bí-Học mới cắt-nghĩa được mà thôi.
Tuy nhiên điều đó không phải là một việc dễ-dàng ai ai cũng hiểu nỗi
đâu.
Còn vài sự bí-mật khác nữa như : Phân nữa thân
mình bên mặt đờn ông chứa đầy điển dương, phân nữa bên trái chứa đầy điển
âm. Còn đàn bà thì trái ngược
lại :
Phân nữa bên mặt thì đầy những điển âm, còn
phân nữa bên trái thì đầy những điển dương.
Nhưng mà bên trong của phía dương lại có âm và bên trong của phía âm
lại có dương.
Có
hai hạch rất quan-trọng :
Hạch mũi (Corps pituitaire ou hypophyse) để
luyện Thần-nhãn còn
Hạch óc (glande pinéale) để chuyển di tư-tưởng.
Trong mình người đàn ông thì bộ Não-tủy
thần-kinh làm chủ, còn trong mình người đàn bà thì bộ Giao-cảm thần-kinh làm
chủ, vì thế đàn bà có nhiều tình-cảm và dể xúc-động hơn đàn ông.
Còn một việc nữa : Vì sao các giống dân trên
Địa-cầu lại không nói một thứ tiếng ? Tại sao đứa bé nước nào sanh ra rồi
thì hiểu được và nói được tiếng nước đó, chớ không nói được tiếng nước khác
? Hoàn toàn bí-mật !
PHƯƠNG-PHÁP LUYỆN TẬP XÁC-THÂN
Nhưng mà điều cần-thiết là ta nên biết tánh-nết
của xác-thân đặng sửa-trị nó.
Xác-thân vốn biếng-nhác hay lánh nặng, tìm nhẹ,
thích ăn món ngon, vật lạ, ngủ-nghê, chơi-bời, ít muốn ra công giúp-đỡ ai
cả.
Ta phải huấn-luyện nó như tập rèn một con thú
cho siêng-năng, giỏi-giắn để giúp ích cho ta trong công việc hằng ngày.
Ta phải nuôi dưỡng nó với những đồ ăn uống
tinh-khiết như gạo lứt (nên bỏ tuyệt gạo trắng), muối đen, đường mỡ gà (1)
[(1) Đường trắng hết chất bổ rồi và còn độc nữa như lời của Bác sĩ P. Carton
đã nói)], mật ong, rau trái.
Bớt thịt, cá lần lần.
Bỏ tuyệt thuốc lá, thuốc phiện, các chất ma
túyvà rượu bất cứ dưới hình thức nào.
Tập thể-dục tùy theo tuổi-tác và sức-khỏe.
Hoàn-toàn sạch-sẽ. Từ
miếng ăn, giấc ngũ cho tới những hành-động phải có điều-độ, đừng phí sức.
Nói tóm lại, giữ đúng phép vệ-sinh thì có thể
tránh được nhiều chứng bịnh hiểm-nghèo và thêm tuổi thọ.
Mặc dù có số mạng, nhưng cũng có tự-do ý-chí, nói một cách khác, có
Trời mà cũng có ta vậy. Không
phải cái chi xảy đến cũng đổ thừa cho có số mạng cả.
II
CÁI PHÁCH (DOUBLE ÉTHÉRIQUE)
Xác-thân còn một phần nữa tối quan-trọng vì nó
có ảnh-hưởng tới sự sanh-tồn của xác-thân.
Ấy là cái Phách.
Cái Phách làm bằng 4 chất dĩ-thái hồng-trần
(ethers physiques) và bởi nó giống hệt con người cho nên mới gọi nó là
Double éthérique. Màu nó xám
tím hay xám xanh tùy theo người.
Nó xâm nhập các tạng-phủ con người và ló ra
khỏi thân mình lối 6 ly, nhưng nó chiếu ngang ra những lằn sanh-lực dài lối
một tấc rưởi bao chung quanh mình.
Những lằn sanh-lực nầy làm ra hào-quang của sự khương-kiện (aura de
santé). Khi con người đau thì
những làn hào-quang nầy dọi ngã xuống đất.
Vì thế người có thần-nhãn nhìn vô cái Phách thì biết được sức-khõe
của con người ra sao.
CÁI CHI CÓ ẢNH-HƯỞNG TỚI CÁI PHÁCH
Sự nóng, sự lạnh, các thứ
khí, các thứ hơi, từ điện, thuốc mê, thuốc lá, các chất ma túy, vật
thực, rượu, thuốc men . . . đều có ảnh-hưởng đến cái Phách.
SANH-LỰC LÀ GÌ ?
Sanh-lực tiếng Phạn là Prana, là một thứ
thần-lực do Đức Thái-Dương Thượng-Đế ban rãi ra.
Ở cõi nào, cảnh nào cũng có sanh-lực Prana.
Nó là sự sống, không có nó, không có sự sống của các hình thể.
Tại cõi trần sanh lực Prana từ mặt trời tuôn
xuống. Nó kết-hợp chặt-chẽ
những nguyên-tử đặng làm ra các cơ-quan trong mình con người và loài vật.
Nhờ có nó mà con người và loài vật mới có cảm-giác.
Nó lìa bỏ xác thân rồi thì các tế-bào đều rã ra những nguyên-tử như
trước.
Nói tóm lại, là trong vật thực, trong không
khí, trong thuốc men, trong thảo mộc, kim thạch đều có sanh-lực Prana.
Cái máy để thâu nhận và ban phát sanh-lực Prana
khắp châu thân đặng nuôi sống con người và vật là Cái Phách.
Khi con người ngửi thuốc mê thì cái Phách xuất
ra khỏi xác thân, trong một thời gian, sanh-lực không vô mình được như
trước, cho nên con người hôn mê, dầu bị mổ xẻ cũng không biếr đau đớn chi
cả. Chừng dã thuốc mê rồi, cái
Phách trở vô nhập xác, con người lần lần tỉnh lại.
SỰ TINH-KHIẾT CỦA CÁI PHÁCH
Cái Phách liên-quan mật-thiết với xác-thân.
Nếu các thân tinh-khiết thì nó tinh-khiết. xác -thân ô trược thì nó ô
trược.
Ta nên biết rằng : máu huyết xương thịt của con
thú đều chứa đựng từ-điển và tánh-tình của nó.
Nếu ta ăn thịt nó, thì máu huyết nó, xương thịt nó, từ-điển nó và
tánh-tình nó biến thành máu huyết ta, từ-điển ta , tánh-tình ta.
Ta bị nó nhiễm rồi. Vì
lẽ đó mà người ta mới nói : “THỨC ĂN CÓ ẢNH-HƯỞNG ĐẾN TÁNH-TÌNH VÀ PHONG-TỤC
CỦA DÂN CHÚNG”. Đúng vậy.
Thật ra ăn chay trường được là đều tốt hơn hết.
Nếu có thể, thì mổi ngày đều tắm gội, quần áo
giữ thật sạch-sẽ. Móng tay,
móng chơn đều cắt cụt, đừng để đóng đất đen thui.
Từ-điển của ta theo 10 ngón tay và 10 ngón chơn mà xẹt ra ngoài. Nếu tay chơn ta, quần áo ta, dơ dáy thì từ-điển của ta cũng hóa ra hôi hám vậy. Nó sẽ nhiểm những người lại gần ta. Ta sẽ mắc tội trời, chạy trốn đâu cũng không khỏi. Đùng cho việc đó là chuyện nhỏ mọn không đáng kể. Ở trong một thế-giới mà định-luật chi-phối thì không có chi là không quan-trọng, dầu việc lớn hay việc nhỏ cũng vậy. Nội một việc nhỏ mọn như nhổ một cây cỏ và vô tình giết một con kiến cũng phạm tội sát sanh rồi. Chúng ta nên đọc những quyển giải về nhân-quả rồi suy-nghĩ thêm thì sẽ hiểu nhiều. Cũng phải tập phân-biện cái nào hữu-ích nhiều, cái nào hữu-ích ít mà hành-động.
III
CÁI VÍA
Thể thứ Ba là Cái Vía.
Nó giống hệt con người, nó làm bằng 7 chất thanh-khí của cõi
Trung-Giới pha lẫn rất nhiều tính-chất dục-vọng tức là tính-chất thứ ba (3è
essence élémentale ou elemental du désir).
Nhờ cái Vía, con người mới kinh-nghiệm được đủ
hết các thứ tình-cảm, từ những thứ cao-thượng tốt đẹp cho tới những thứ thấp
hèn, đê-tiện.
Chất khí làm cái Vía rút vô trong mình con
người hết 99 phần 100, chỉ còn có 1 phần 100 ló ra ngoài làm ra hào-quang
cái vía.
MÀU SẮC CÁI VÍA
Cái Vía có màu sắc vì mỗi tánh-tình của con
người đều hiện ra bằng một màu trong cái Vía.
Nếu tánh-tình tốt thì màu sắc đẹp đẽ, còn tánh-tình xấu thì màu sắc
đen tối.
Tỷ như : Tánh-tình nham-hiểm thì hiện ra một
đám mây mù đen kịt.
Trong lúc giận dữ thì trong Vía hiện ra những
quần đen có những lằn đỏ nhọn như mũi tên.
Đám mây đỏ hồng là hay giận dũi.
Màu đỏ cam là kiêu-căng.
Màu vàng là khôn-ngoan.
Màu hường là yêu thương, vân vân .
LÀM SAO THẤY ĐƯỢC MẤY MÀU NẦY ?
Muốn thấy được mấy màu nầy thì phải có
Thần-nhãn.
Thần-nhãn
là gì ? Thần-nhãn là một cách rung động của cái Vía ứng đáp được với những
lằn sóng rung động của cõi
Trung-Giới.
Chung quanh ta có không biết bao nhiêu những
lằn sóng rung động : có thứ dài, có thứ ngắn, có thứ mau lẹ, có thứ
chậm-chạp vân vân . . .
Nói tóm lại : “Tất cả đều là những
sự rung động”.
Chúng ta ứng-đáp đưọc một số rất nhỏ những lằn sóng nầy làm ra điện.
ánh-sáng, âm-thanh, nóng lạnh, vân vân . . .
Người ta nói : Thần Thánh biết được lòng dạ con
người. Mới nghe qua không biết
tại sao vậy. Sau mới rõ lại là
: ý muốn, tánh tình của con người đều có hình dạng.
Thần Thánh có Thần-nhãn nên thấy được con người cầu cái chi, tưởng
cái chi.
Nếu biết phương-pháp tập-luyện thì có Thần-nhãn
; nhưng lúc ban đầu luôn luôn phải lầm-lạc bởi vì chất khí làm cõi
Trung-Giới trong-trẻo và rung động mau lẹ ; thường thường thì thấy hình
ngược. Phải có những nhà
Đạo-đức lão-luyện chỉ dạy mới khỏi sai-siển.
Cũng nên biết chất làm cái Vía trong mình con
người luôn luôn chạy từ trên đầu xuống chơn, rồi từ chơn trở lên đầu.
Vì thế trong cái Vía trên đầu, dưới chơn, bên hông, trước mặt sau
lưng đều thấy được cả, chớ không phải như con mắt mình vậy đâu.
PHẬN-SỰ CỦA CÁI VÍA
Xin kể 3 phận-sự của cái Vía.
1. Làm cho con người biết cảm-động.
2. Làm trung gian giữa linh-hồn và xác thân ở
cõi Trần.
3. Làm một thể độc-lập để con người dùng khi
qua cõi Trung-Giới.
Sanh-lực Prana vô cái Vía qua cái Phách rồi mới
chạy khắp châu thân đặng nuôi các tế-bào.
Những sự rung động ở ngoại-giới theo ngũ-quan
vô cái óc xác thịt qua Cái Phách rồi mới tới cái Vía.
Cái Vía biến-đổi chúng thành ra những cảm-giác
rồi đưa cho cái Trí xem xét trước khi linh-hồn nhận-định điều đó.
Trái lại, mạng lịnh của linh-hồn phải qua cái
Trí, cái Vía, cái Phách, cái óc xác thịt rồi mới có sự thi-hành.
Vì vậy người ta mới gọi cái Vía là Cái Cầu bắt
cho linh-hồn thông-thương với cõi Trần.
Nói thì nghe lâu chớ sự
rung động chuyển giao lẹ như chớp nháng, có lẽ còn hơn 300.000 cây số trong
một giây đồng hồ, xuyên qua mấy thể đều xỏ rế với nhau và đồng ở một chổ với
nhau.
LÀM MỘT THỂ ĐỘC-LẬP
Lúc ta thức dậy ta dùng cái Vía để biểu-hiện
tình cảm và ý muốn.
Chừng ta ngủ, ta ở trong cái Vía qua cõi
Trung-Giới. Cái Vía thành ra
một thể độc-lập. Nhưng ta chưa
có thể dùng cái Vía như dùng xác-thân bởi vì ta chưa thức tỉnh ở cõi
Trung-Giới, ta mơ mơ màng màng, không khác nào ta ngủ vậy.
CHIÊM-BAO LINH
Trừ ra một vài trường-hợp linh-hồn thấy có
chuyện quan-hệ tới xác thân nên làm cho cái Vía nhớ đặng truyền lại cái óc
xác-thịt. Ta gọi sự thấy đó là
chiêm-bao linh. Những điều ta
thấy sẽ xảy ra thật trong vài ngày sau hoặc một ít lâu.
Còn bao nhiêu điềm chiêm-bao khác là những
chiêm-bao mộng mị không đáng kể.
HỌC PHÉP XUẤT VÍA
Tuy nhiên có những phương-pháp làm cho cái Vía
xuất ra khỏi xác chừng nào cũng được và xử-dụng nó như xử-dụng xác-thân đặng
làm những điều mình muốn. Người
ta gọi đó là : Xuất-Vía hay là Thân ngoại hữu thân.
Nhưng mà rất nguy hiểm khi làm cho cái Vía đặc
lại giống như hình con người, có đủ mặt mũi, tay chơn, đi đứng, nói năng,
chuyện vãn như người thật vậy.
Bởi vì trong lúc nầy mà cái Vía bị gai đâm hay bị ai đánh chổ nào thì xác
thân nằm ở nhà bị vết tích tại chổ đó.
Trừ ra trường-hợp biết cách lấy 4 chất dỉ-thái
làm ra một cái hình giả như các nhà Huyền-Bí-Học lão-luyện hay là đệ-tử
Chơn-sư thì cái hình giả không có liên-lạc chi với xác thiệt cả.
Đánh đập hình giả nầy như đánh vào gió xác thiệt không hề hấn chi
đâu. (Xin xem quyển cái Vía và
quyển Minh-Triết Thiêng-Liêng I của tôi có nói nhiều trường hợp xuất Vía).
TÁNH NẾT CÁI VÍA
Cái Vía chứa nhiều tinh-chất thứ ba hay là tinh-chất
dục-vọng, mà tinh-chất nầy sau đầu thai làm kim-thạch cho nên nó ưa những sự
rung-động dữ-dội. Nó dục cho
con người nóng-nảy, giận-hờn, tham-lam, ham-hố, xảo-trá, quỉ-quyệt, hung-bạo,
cộc-cằn, đắm mê tửu-sắc ; nói tóm lại là các nết hư, tật xấu rất gớm-ghiết,
ghê tởm. Không phải là nó muốn
hại con người, song những sự rung-động mạnh-bạo giúp nó mau tiến-hóa, mau
cứng rắn.
PHƯƠNG-PHÁP SỬA TRỊ CÁI VÍA
Muốn sửa trị cái Vía thì phải tập những tánh
tốt đối-lập với các tật xấu của mình đã có.
Phương-pháp tập luyện, Đức Bà A. Besant có chỉ
dạy trong hai quyển sau đây :
1.
Đơì sống Huyền-bí của con người và
2.
Con đường của người Đệ-tử.
Tôi có bàn những phương-pháp
Tập-luyện đó trong quyển Đạo-Lý thực-hành của tôi, và xin xem quyển ba và
quyển tư của bộ nầy.
Sự rèn-luyện tánh nết đòi hỏi một thời-gian khá
lâu. Phải bền-chí và cố-gắng từ
25, 30 năm và kéo dài từ kiếp nầy qua kiếp kia.
Chớ nào phải có một vài năm mà được đắc-đạo thành chánh-quả.
Tại sao như thế ?
Bởi vì cả ngàn kiếp trước, ta đồng-hóa với cái
Vía, những điều cái Vía muốn, ta tưởng là ta muốn cho nên ta thật-hành ngay.
Vì vậy ta gây ra không biết bao nhiêu quả, dữ nhiều, lành ít.
Ta phải đầu thai đi đầu thai lại đặng thanh-toán những mối nợ-nần.
Mỗi kiếp, ta trả chưa hết quả cũ mà lại còn tạo ra những quả mới khác
nữa.
Thế thì, làm chủ 3 thể : Thân, Vía, Trí không
phải là việc dễ-dàng. Nếu không
sử trị được chúng thì khó tiến mau đến mục-đích đã định sẳn cho nhơn-loại
trong Thái-Dương-Hệ nầy.
Tam Bành Lục Tặc mà người tu hành thường nghe nói là ba thể : Thân, Vía, Trí chớ không có ai vô đó. Chúng ở trong mình mình đây.
IV
HẠ-TRÍ
Thể thứ tư là Hạ-Trí.
Hạ-Trí làm bằng 4 chất Thượng-thanh-khí thấp
của cõi Thượng-giới cũng gọi là chất Trí-tuệ, ấy là :
Chất thứ tư, chất thứ năm, chất thứ sáu và
chất thứ bảy và có pha nhiều tinh-chất thứ nhì gọi là tinh-chất
Trí-tuệ ở cõi Hạ-Thiên.
Đối với người có Huệ-nhãn thì cái Trí mường-tượng đám sương mù dày đặc giống
hình người. Có một vòng tròn
bao chung quanh trong-trẻo hơn và làm ra hào-quang cái Trí.
Càng ngày con người càng mở-mang thì cái Trí
càng ngày càng lớn.
NHỮNG KHOẢNH CỦA CÁI TRÍ
Cái Trí chia ra nhiều khoảnh, mỗi khoảnh
đối-chiếu với một phần của cái óc xác thịt và chịu ảnh-hưởng của một thứ
tư-tưởng đặc-biệt. Tỷ như :
Có khoảnh chịu ảnh-hưởng của tư-tưởng khoa-học, có khoảnh chịu
ảnh-hưởng của tư-tưởng mỹ-thuật, có khoảnh chịu ảnh-hưởng của tư-tưởng
đạo-đức vân vân.
Bởi chưng những khoảnh nầy chưa mơ-mang
đồng điều cho nên mới có những người giởi toán mà vẽ rất dở, có
người giởi âm-nhạc mà không biết chi về lý-hoá vân vân.
Cái Trí không có ngũ-quan, nó chỉ có một quan
mà thôi để tổng-hợp những cảm-giác do cái Trí đưa vô rồi làm ra một thứ
khái-niệm duy nhứt.
Người ta gọi nó là Chúa-tể của giác-quan hay là Giác-quan thứ sáu.
PHẬN-SỰ CỦA CÁI TRÍ
Cái Trí có nhiều phận-sự như :
a.
Sanh ra những tư-tưởng hữu-hình.
b.
Học-hỏi, phân-biện, xét-đoán, ghi nhớ, tưởng-tượng.
c.
Làm một thể độc-lập cho con người dùng khi lên cõi Hạ-Thiên của Thượng-giới.
HIỆU QUẢ CỦA TƯ-TƯỞNG
Mỗi lần ta suy-nghĩ hay tư-tưởng thì cái Trí
của ta rung động.
Sự rung động nầy sanh ra hai hiệu-quả :
a.
Những lằn sóng tư-tưởng (Ondes de pensée).
b.
Hình tư-tưởng (Formes pensée)
Hai hiệu quả nầy khác nhau.
A. NHỮNG LẰN SÓNG TƯ-TƯỞNG
Muốn hiểu sao gọi là lằn sóng tư-tưởng thì ta
hãy ném một cục đá xuống nước.
Cục đá chìm xuống thì ta thấy những lằn sóng nổi lên lấy chỗ cục đá rớt làm
trung tâm, những lằn sóng nầy càng lớn ra xa rồi một chập sau thì mất dạng.
Cũng thế đó, tư-tưởng của ta sanh ra những lằn
sóng trong cõi Trí-Tuệ rồi lan ra khắp nơi.
Chúng có màu sắc nhưng càng đi xa, màu sắc nầy càng phai lợt và sức
mạnh cũng giảm đi lần lần.
TÁNH-CÁCH ĐẶC-BIỆT CỦA LẰN SÓNG TƯ-TƯỞNG
Lằn sóng tư-tưởng chỉ truyền ra tánh-cách của
tư-tưởng chớ không phải vấn-đề tư-tưởng.
Thí-dụ : Người Ấn-Độ thiền-định về đức Krishna,
những lằn sóng tư-tưởng của anh sanh ra đi khuyến-khích lòng tín-ngưỡng của
những kẻ ở chung quanh. Nếu nó
gặp người Công-giáo thì nó dục y nhớ tới Đức Ky-Tô và tôn-kính Ngài.
Khi nó vô trí người Phật-giáo thì nó làm cho
lòng sùng-bái Đức Phật của y càng thêm
mạnh-mẽ chớ không phải đụng ai nó cũng dục cho nhớ tới Đức Krishna là vấn-đề
tư-tưởng đâu.
Trái lại khi nó gặp một người thuộc về phái
duy-vật thì nó làm cho phần cao thượng của cái Trí y mở rộng ra.
HÌNH TƯ-TƯỞNG
Sự rung động của cái Trí còn rút chất Trí-tuệ
làm ra một cái hình gọi là hình Tư-tưởng.
Thế nên khi ta tưởng tới cái nón thì hình cái
nón hiện ra trước mặt ta, song ta không thấy nó.
Hình nầy là một sanh vật, cũng sống lâu cũng
thác yểu, cũng mạnh, cũng yếu như con người vậy.
Muốn cho hình tư-tưởng sống lâu và mạnh-mẽ thì phải tưởng tới nó luôn
luôn bởi vì tư-tưởng là đố ăn nuôi dưỡng nó.
Không có đồ ăn, nó sẽ đói, yếu sức rồi thác.
Thác là rã ra chất Trí-tuệ như trước.
Bây giờ, thí-dụ ta tưởng tới một người nào đó
thì tư-tưởng của ta hóa hình đi tới ở một bên người đó rồi.
Nếu ta chỉ tưởng có một lần thôi thì chẳng bao lâu hình Tư-tưởng nầy
sẽ tan ra chất Trí-tuệ như trước.
Số mạng của những tư-tưởng bông-lông, mơ-màng là như thế đó.
Trái lại, nếu mỗi ngày ta mỗi tưởng vài ba lần như vậy lâu năm chầy
tháng thì hình Tư-tưỏng nầy sẽ sống lâu.
Khi luyện tập tư-tưởng cho mạnh-mẽ rồi ta có
thể sai nó đi làm những công việc của ta muốn.
Xin nhớ ba điều-kiện thành lập những hình Tư-tưởng như sau đây
1.
Cái Phẩm của tư-tưởng làm ra màu sắc.
2.
Bản-tánh của tư-tưởng làm ra hình-dạng.
3.
Sự đích-xác của tư-tưởng làm ra châu-vi.
MÀU SẮC CỦA NHỮNG HÌNH TƯ-TƯỞNG
Hình tư-tưởng có màu sắc.
Xin nói ý-nghĩa vài màu thôi.
Tỷ như : Tình yêu thương sanh ra màu hường sáng-rỡ.
Có lòng từ-bi bác-ái, thì màu vàng trong-trẻo
như cây ngọc-trâm hoa (primevèro).
Màu vàng chỉ về trí-tuệ nhưng biến-đổi khác
nhau tùy theo tính-cách của tư-tưởng.
Nếu lo mở-mang trí-thức có mục-đích ích-kỷ thì
màu vàng trở nên sậm và tối.
Kiêu-căng, tham-vọng thì màu đỏ cam, vân vân .
. .
Đây là nói một cách miễn
cưỡng, phải mở Thiên-nhãn và có kinh-nghiệm mới thật hiểu được ý-nghĩa của
các màu và không lầm-lạc.
SỰ CHỌN LỰA TƯ-TƯỞNG
Sự chọn lựa tư-tưởng còn quan-trọng và
cần-thiết hơn sự lựa chọn đồ ăn bởi vì tư-tưởng có quyền-năng sửa đổi
số-mạng ta chẳng những kiếp nầy mà tới kiếp sau nữa.
Muốn biết vì lý-do nào thì phải biết sự ích-lợi của tư-tưởng tốt và cái tai-hại của tư-tưởng xấu
ẢNH-HƯỞNG CỦA TƯ-TƯỞNG XẤU
Mỗi lần ta sanh ra một tư-tưởng xấu thì ta phạm
phải ba tội một lượt :
1.
Tội thứ nhứt : Ta làm hại ta trước hết vì cái Trí ta trở nên xấu.
2.
Tội thứ nhì : Ta hại những người ở chung quanh ta.
3.
Ta thêm những sự đau-khổ cho đời.
A. TA HẠI TA TRƯỚC HẾT
Khi ta sanh ra một tư-tưởng xấu thì chất
Thượng-thanh-khí tốt ở trong trí ta bay ra ngoài, chất Thượng-thanh-khí xấu
hạp với tư-tưởng xấu đó ở ngoài bay vô choán chỗ Thượng-thanh-khí tốt mới
vừa bay ra.
Nếu ngày nầy qua ngày kia ta nuôi cái trí ta với những
tư-tưởng thấp hèn thì màu sắc nó trở nên đen tối.
Người có Huệ-nhãn dòm vô thấy một cảnh tượng u-buồn đáng thương vô
cùng. Tâm địa ta cũng vì đó mà
trở nên xấu-xa. Ta sẽ tiến-hóa
chậm.
B. TA HẠI NHỮNG NGƯỜI Ở CHUNG QUANH TA
Tư-tưởng xấu của ta bay ra ngoài rồi vô trí
những người ở chung quanh, xúi họ nhớ tới những điều quấy-quá.
Nếu nó gặp người nào đã có sẳn tánh xấu như nó thì nó thêm sức cho
tánh xấu đó, nó lại khươi mầm các tánh xấu khác chưa hiện ra.
Rồi tới phiên mấy người bị tư-tưởng nầy nhiễm lại sanh ra những
tư-tưởng xấu khác đồng bản-tánh với những tư-tưởng đã vô trí họ.
Cứ tiếp tục như thế năm nầy qua năm nọ.
C.
TA THÊM NHỮNG SỰ KHỔ CHO ĐỜI
Tư-tưởng xấu của ta hiệp với những tư-tưởng xấu
đồng một loại với nó làm ra một hình
tư tưởng gọi là Liên-Hiệp Tư-Tưởng (Egrégore).
Hình Tư-Tưởng nầy mạnh-mẽ, sống lâu và rất
quỉ-quyệt.
Nó đi xúi
dục người ta làm ác, không phải một người mà cả trăm cả ngàn người như
vậy.
Rồi cả trăm cả ngàn người nầy lại sanh ra những
Hình Tư-Tưởng Liên-Hiệp ác
độc khác nữa.
Cứ
tiếp-tục như thế từ đời nầy qua đời kia.
Bây giờ ta hãy thử nghĩ : Một tư-tưởng ta cho
là mẩy-mún có thể biến thành một tai-họa lớn lao cho đời nếu ta không
trừ-khử nó ngay tức khắc khi nó vừa sanh ra.
Đây có
nghĩa là khi ta mới
sanh ra một tư-tưởng quấy-quá thì lập tức phải sanh ra
một tư-tưởng tốt khác đối-lập với nó đặng trừ-khử
cái
hiệu-quả của nó đi.
Cách nầy cũng gọi là phương-pháp xua đuổi một
tư-tưởng xấu.
Thế nên chúng ta khá thận-trọng trong khi
tư-tưởng vì ta sẽ chia-sớt quả ác với những người bị tư-tưởng ta xúi-dục làm
ác.
Quả nầy gọi là cộng-nghiệp (Karma collectif).
Và đừng quên rằng khi ta sanh ra một tư-tưỏng rồi thì nó bắt cái Trí
ta nhớ tới nó mãi, có dịp thì hành-động liền.
ẢNH-HƯỞNG CỦA TƯ-TƯỞNG TỐT ĐẸP
Trái lại, mỗi lần ta sanh ra một tư-tưởng tốt
đẹp ta được ba điều lợi :
Một
là : Ta làm cho cái Trí ta trở nên tốt đẹp.
Hai là
: Ta giúp ích cho những người ở chung quanh ta.
Ba là : Ta giúp ích cho đời.
A. TA LÀM CHO CÁI TRÍ TA TRỞ NÊN TỐT ĐẸP
Khi ta sanh ra một tư-tưởng tốt thì một phần
chất-khí xấu trong trí ta bay ra ngoài.
Chất Thượng-Thanh-khí tốt hạp với tư-tưởng tốt đó bay vô trí ta choán
chổ của chất khí xấu mới ra đi.
Nếu ta cứ suy-nghĩ tới điều thiện lâu năm chầy
tháng thì cái Trí ta chứa đầy những chất khí tốt.
Nó sẽ chiếu ra nhiều màu sắc rực-rỡ làm đẹp mắt những vị có Huệ-nhãn
và tâm địa của ta cũng trở nên tốt đẹp.
Ta đã thành một vị Thiện-nhân.
B. TA GIÚP ÍCH NHỮNG NGƯỜI Ở CHUNG QUANH TA
Những người ở chung quanh ta nhờ tư-tưởng tốt
của ta làm nẩy nở mầm các tánh tốt còn tiềm-tàng ở trong lòng họ,
khuyến-khích họ làm những việc lành, việc phải.
Nhờ như thế, họ lần lần trở thành những người tốt.
C. TA GIÚP ÍCH CHO ĐỜI
Tư-tưởng tốt lành của ta hiệp với những
tư-tưởng tốt lành khác đồng bản-tánh với nó làm ra một Hình Liên-Hiệp
Tư-Tưởng. Hình Tư-Tưởng
Liên-Hiệp nầy là một vị Phúc-Thần đi khuyến-khích người ta đi làm những việc
phước thiện.
Nhưng nếu ngày nay nhơn-loại còn đau-khổ nhiều
là tại những vị Phúc-Thần nầy rất ít và cảm-hóa thiên-hạ một cách cực-kỳ
khó-khăn bởi vì người ta làm việc ác dễ, làm việc thiện khó.
Hầu hết chưa chịu tập tánh tự-chủ dầu biết phương-pháp cũng vậy và cứ
làm theo ý-muốn của mình bất chấp những lời dạy của các vị Thánh-Nhơn
Hiền-Triết.
Nếu
Sông Duyên cứ tràn đầy mãi thì biết tới ngày nào chúng ta mới được hoàn-toàn
giải-thoát, khỏi đọa luân-hồi và thành chánh quả.
TƯ-TƯỞNG BIẾN THÀNH SỰ HÀNH-ĐỘNG
Đùng quên rằng người ta tưởng trước rồi mới
hành-động sau, nghĩa là tư-tưởng sẽ biến thành sự hành-động khi có dịp đưa
tới.
Vì lẽ nầy mà đoạn trước tôi đã nói : “Nếu ơ hờ
ta sanh ra một tư-tưởng bất-chánh thì lập tức ta phải sanh ra một tư-tưởng
chơn chánh đối-lập đặng diệt trừ hiệu-quả của nó.
Đây có nghĩa là : không để tư-tưởng bất chánh nầy xúi dục ta làm
những điều quấy khi có cơ-hội và cùng một lúc phá tan nghiệp quả xấu mới vừa
gây ra”.
Nếu ta làm việc mà không cần suy-nghĩ là tại
mấy ngày trước, mấy tháng trước, có khi mấy kiếp trước, ta đã suy-nghĩ về
việc đó rồi. Nay có cơ-hội thì
thực-hành liền.
Quả nầy gọi là quả muồi, đáng sợ lắm nếu nó là
quả xấu.
TÁNH NẾT HẠ-TRÍ
Cái Trí tánh nết lao-chao, kiêu-căng,
phách-lối. Nó tự-phụ hơn người,
coi thường kẻ khác. Nó tưởng
cái nầy rồi bắt qua cái kia liền, không khác con khỉ nhảy-nhót trên cành.
Vì vậy người ta mới gọi là Tâm Viên-Ý mã.
Nhưng cái tai-hại lớn lao hơn hết là nó dựng
lên một bức rào chia rẽ, ích-kỷ, giữa “Người và Ta”.
Nó nói : “Tôi là Tôi” “Anh là Anh”.
Các sự đau-khổ đều do đây mà sanh ra.
SỬA-TRỊ CÁI TRÍ
Muốn cho cái Trí trở thành một khí-cụ tốt lành để cho con người xử-dụng thì phải biết Phương-Pháp sửa trị nó.
Phương-pháp đó là Định-Trí và Tham-Thiền.
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
QUYỂN BA
SỰ ĐÀO TẠO NHỮNG QUAN NĂNG
ĐỊNH-TRÍ
THAM-THIỀN
1971
SỰ ĐÀO-TẠO NHỮNG QUAN-NĂNG
Ở đây tôi chỉ lập lại những lời của Đức Bà A.
Besant và những vị Đại Sư Huynh dạy về phương-pháp mở mang những quyền-năng
của Trí-Tuệ và những điều mà sinh-viên phải biết đặng thực-hành trên Con
Đường Nhập Môn mà thôi.
Tất cả những kẻ chí-nguyện đều phải xây-dựng
nền tảng của trí-thức một cách kiên-nhẫn, ngày nầy qua ngày kia, không bỏ
qua một bửa nào. Sự tiến-bộ mau
hay chậm sẽ tương-đương với sự cố gắng của sinh-viên nhiều hay ít.
Đây cũng là Luật Nhân Quả, quí bạn nên nhớ lấy.
*
Bây giờ chúng ta hãy xem-xét hai điểm chánh sau nầy :
Một là : Sự hoạt-động của cái Trí.
Hai là : Phương-pháp tinh-luyện nó.
I. SỰ HOẠT-ĐỘNG CỦA CÁI TRÍ
Chúng ta hãy ngồi yên lặng rồi xem-xét coi nội
trong nửa giờ trước đây, cái Trí của chúng ta hoạt-động như thế nào.
Trong 100 lần chắc-chắn hết 95 lần nó không có làm gì ích-lợi cho
mình cả. Nó nhớ Đông, nhớ Tây,
hết cái nầy tới cái kia, toàn là những chuyện đâu đâu, tầm ruồng, vô-vị,
không ăn nhập chi với chúng ta, hoặc giả nó thâu nhận những tư-tưởng ở ngoài
vô. Những tư-tưởng nầy thuộc về
loại nào ? Chúng từ đâu đến ? Ở
trong trí chúng ta bao lâu ? Rồi ra đi hồi nào ? Về đâu ? Chúng ta không hay
biết gì ráo về mấy điều đó.
Chúng ta không kiểm-soát chúng được.
Vậy thì cái Trí chúng ta giống như ngả ba đường cái xe cộ qua lại
dập-dìu, làm cho bụi cát bay mù-mịt.
Nó cũng không khác gì một quán trọ, những khách lữ hành nầy tới ghé
ngĩ chơn vài giờ rồi đi, kế những người khác tới, và chẳng bao lâu cũng giả
từ. Ngày nầy qua tháng kia cứ tiếp tục như vậy mãi.
Một cái Trí như thế làm sao mở-mang mau lẹ được.
Vì vậy sự tiến-hóa của chúng ta rất chậm-chạp.
Thay vì mỗi kiếp chúng ta phải vượt qua cả trăm dậm đường, chúng ta
chỉ đi có vài cây số bởi chúng ta cứ thường đứng lại một chổ dậm chơn chớ
không chịu tiến. Dậm chơn một
hồi rồi mới đi nữa.
NHỮNG ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ SỰ MỞ-MANG CÁI TRÍ
Cái Trí là một thể như xác-thân.
Nó cần dùng những đồ ăn để phát-triển.
Những đồ ăn nầy là
tư-tưởng. Nếu ta luôn luôn
nuôi nó với những tư-tưởng thanh-cao, từ-thiện, bác-ái, vị-tha ; hoàn-toàn
vô tư lợi thì nó trở nên mảnh-mai, nhẹ-nhàng chiếu ra những màu sắc tốt đẹp
vô cùng. Đồng thời nó cũng thu
hút những tư-tưởng thanh cao khác đồng bản-tánh với nó.
Những tư-tưởng nầy tới giúp đỡ nó,
tăng-cường sức mạnh của nó và
xu-hướng của nó về những điều thiện.
Trái lại, nếu là những tư-tưởng thấp-hèn, đấm
mê vật dục thì nó hóa ra xấu-xa nặng-nề, màu sắc đen tối vì nó cũng rút vô
những tư-tưởng ti-tiện ở bên ngoài đồng bản-tánh với nó, khiến cho xu-hướng
về điều ác của ta lại càng thêm mãnh-liệt hơn trước.
Có hai điều phải luôn luôn ghi nhớ :
Một
là : cái Trí tự-động thu hút những tư-tưởng đồng bản-tánh với nó, như đá nam
châm rút sắt.
Hai là : ngoài ra việc để học-hỏi, ghi nhớ,
phân-biện, xét-đoán, nó còn có quyền-năng sanh-hóa, sáng-tạo mạnh-mẽ phi
thường nhờ sức tưởng-tượng. Ta
phải biết lợi dụng quyền-năng nầy mới tiến mau. Muốn thành-công trong lúc
luyện tập Dô-Ga (Yoga) thì phải hội đủ hai điều kiện cần yếu sau đây :
Một là : ý-chí cương-quyết không chi lay-chuyển
được.
Hai là : Sức tưởng-tượng mạnh-mẽ vô cùng.
Nhưng phải thêm điều-kiện thứ ba là hạnh-kiểm
tốt.
Không vậy thì hành-giả sẽ sa vào con đường
Bàn-môn tả-đạo, khi nó đưọc những quyền-năng siêu-việt.
Xin nhắc quí bạn rằng : mấy anh Bàn-môn cao-cấp
vẫn trường trai, tuyệt dục.
Ý-chí cứng-cỏi hơn sắt đá cho nên phép tắc rất cao cường,
Đối với họ, chúng ta chỉ là những đứa trẻ con mới lên ba.
Hảy cẩn-thận cho lắm.
Đừng khi mà mắc rồi té lăn cả chục vòng mới ngồi dậy được.
Đau lắm nhé !
2.
TINH-LUYỆN CÁI TRÍ
Trước hết xin nhắc lại câu chuyện giữa Arjuna
và Đức Krishna về sự kiểm soát Hạ-trí.
Arjuna thưa với Đức Thượng-Đế Krishna như vầy :
“Bạch Sư-Phụ Krishna ! Cái Trí thật là loạn-động lung-lăng mãnh-liệt, và khó
uốn nắn, tôi tưởng khó mà kiềm-hảm nó cũng như khó mà kiềm-hảm gió vậy”.
Đức Thượng-Đế Krishna mới đáp : “Hởi người
chiến-sĩ võ-trang hùng-hậu ! Lẽ cố nhiên cái Trí nghịch ngợm và khó trị,
nhưng mà người ta có thể thắng phục
nó nhờ một sự luyện tập không ngừng và nhờ TÁNH LÃNH-ĐẠM”.
Lãnh-đạm đây có nghĩa là ; không nhớ tới công-đức của mình, nói một cách
khác : trong HỮU-VI có VÔ-VI.
Phải thực-hành không ngừng nghỉ theo phương-pháp đã chỉ-định theo cấp bực của mình. Không còn cách nào khác nữa. Sự luyện tập nầy không ai thay thế cho các bạn được. Chính là quí bạn phải tự mình làm công-việc nầy. Nếu quí bạn không thực-hành điều đó thì không khi nào quí bạn gặp được Chơn-Sư. Mong-mỏi gặp các Ngài rất vô-ích nếu quí bạn không chịu tự bắt-buộc mình tuân theo những điều-kiện do Luật Trời qui-định, để dắt-dẫn quí bạn tới Dưới Chơn Các Ngài.
Những điều-kiện đó là :
1.
Kiểm-soát tư-tưởng.
2.
Tham-thiền.
3.
Lập hạnh đặng phụng-sự.
I. KIỂM-SOÁT TƯ-TƯỞNG
Kiẻm-soát tư-tưởng là :
a.
Biết mình tưởng cái gì.
b.
Không cho tư-tưởng của kẻ khác xâm-nhập vào trí ta đặng khuấy rối.
c.
Sản-xuất những tư-tưởng cao-thượng, tốt lành, tinh-khiết.
d.
Không hề sanh ra những tư-tưởng ác độc,xấu xa thấp hèn, ô-trược.
đ. Bắt cái trí ngừng nghĩ
khi cần.
Nói một cách khác là LÀM CHỦ CÁI TRÍ, bắt buộc
nó phải tuân theo mạng lệnh của mình, nó phải ở dưới quyền điều-khiển của
mình chớ không được lung-tung như trước, và tự-do hành-động nữa.
A. ĐỊNH-TRÍ
Trước nhứt bắt buộc cái Trí tập-trung vào mỗi
việc của ta làm hằng ngày. Nó
bỏ đi ta kéo nó lại đặng trụ vào đó cho tới khi nào hoàn thành công chuyện
mới thôi. Xong việc nầy rồi mới
bắt qua việc khác.
Mỗi lần làm một việc mà thôi.
Người ta gọi điều đó là
Định-Trí.
Thí dụ : Cầm cây viết thì chỉ biết cầm cây
viết, lấy cái chén thì chỉ biết lấy cái chén, không được nhớ tới cái chi
ngoài cây viết và cái chén.
Ở đây tôi xin nhắc cho quí bạn nhớ trong quyển “Dưới
Chơn Thầy” có 3 câu dạy sanh-viên phải tập-trung tư-tưởng vào mỗi việc
của mình làm như sau đây :
1.
Con
còn phải làm chủ tư-tưởng con một cách khác nữa.
Đừng cho nó vởn-vơ. Bất
câu việc nào của con làm, con cũng phải chú-ý vào đó đặng làm cho được
hoàn-thiện. (Trương 55, in lần
thứ 13).
2.
Phải hết sức chăm-chỉ vào mỗi phần việc của con làm, đặng làm cho khéo-léo.
(trương 69
3.
Dầu tay con làm việc chi cũng vậy, con phải hết sức chú-ý vào đó. (trương
70)
Như vậy quí bạn làm cho cái Trí trở nên mạnh-mẽ
và quý bạn bắt đầu làm chủ nó. luyện
tập liên-tiếp, quí bạn kềm chế cái Trí và bắt nó phải đi theo con đường mà
quí bạn đã chọn lựa cho nó. Cái
khả-năng nầy chuẩn-bị cho quí bạn sống một đời sống cao siêu, sẽ mở rộng ra
trước mặt quí bạn. Quí bạn cũng nên nhớ rằng :
người nào có thể tập-trung tư-tưởng
vào một mục-đích, là người thành-công nhứt trong những sự việc của Đời Sống
Hằng Ngày. Người nào biết
tư-tưởng một cách liên-tiếp, sáng-suốt và rõ-ràng là người biết cách tự vạch
con đường đi của mình, dầu là trong Đời Sống Hồng Trần cũng vậy.
Sự rèn luyện cái Trí như thế sẽ giúp ích quí bạn trong những chuyện nhỏ mọn,
tầm thường cũng như trong những việc làm cao-thượng.
Quí bạn sẽ lần lần phát-triển
quyền-năng kiểm-soát tư-tưởng,
nó là một trong những đức tánh cần-thiết cho người Đệ-tử, bởi vì trước
khi quí bạn được Chơn-sư dạy-dỗ đặng mở thêm những quyền-năng cao siêu, quí
bạn phải làm chủ cái dụng-cụ phát sanh ra tư-tưởng tức là cái Trí, để cho
dụng-cụ nầy chỉ làm những gì tinh-khiết, từ-thiện và hữu-ích mà quí bạn đã
quyết-định, chớ không sản-xuất những gì ô-trược mà quí bạn gớm-ghiết và
không ưng thuận chút nào cả.
Như thế mới không gây quả xấu nặng-nề cho quí
bạn, bởi vì tư-tưởng của ai đã trở thành Đệ-tử sẽ vô cùng mãnh-liệt ; nó có
một sanh-lực và một năng-lực lớn-lao và cảm-hóa người đời một cách mau lẹ
phi-thường về đìều thiện cũng như về điều bất thiện.
B. HUỜN-HƯ
Tuy nhiên, đừng quên điều nầy :
Sau khi làm việc nhiều giờ có ý-thức, cái óc mệt mỏi thì
phải ngưng
tư-tưởng lại, đùng nhớ cái chi nữa, trong vài phút.
Cái óc sẽ phục hồi sức lực mau lẹ.
Phương-pháp nầy gọi là Huờn-Hư.
Nhưng mà trước khi huờn-hư có hiệu-quả, phải luyện tập cả năm như vậy cho có
thói quen, sau mới thành-công dể-dàng.
ĐỪNG PHUNG-PHÍ SỨC MẠNH CỦA TƯ-TƯỞNG
Đừng tưởng nhớ bông-lông, đừng mơ hão, ước
huyền, Đừng để cái Trí vởn-vơ,
nhảy từ vấn-đề nầy tới vấn-đề khác, không mạch-lạc chi cả, không khác con
bướm mới đáp xuống bông nầy vụt bay sang bông khác, liền liền không ngớt.
Đó là sự phung-phí sức mạnh của tư-tưởng một
cách vô lối vì không biết kiểm-soát cái Trí.
Luôn luôn phải có sẳn trong trí một số tư-tưởng tốt đẹp và những câu
“Chơn-Ngôn”, khi nào không suy-nghĩ chi hết thì nhớ tới chúng nó liền.
Nhưng điều hay hơn hết là lập-tức thấy Thánh-Dung trước mặt hay là
nhớ tới Cội rễ của mình và nói trong lòng : “Tôi là Atman (Ăt-măn), Chơn
linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, toàn giác, vô sở bất tại”.
Lập đi lập lại nhiều lần chừng nào tốt chừng
nấy. Nên bày tỏ ý-kiến nếu cần,
nhưng chớ nên cãi vã, tranh luận đặng đem thắng lợi về mình.
Chúng ta chỉ biết một khía cạnh hết sức nhỏ nhít của Chơn-lý, còn
nhiều khía cạnh lớn lao khác mà chúng ta chưa hiểu chi cả.
Cho tới bực Chơn-Sư cũng chỉ biết toàn-diện Chơn-lý của Dãy Địa-Cầu
chúng ta mà thôi. Ngoài Vũ-Trụ
của chúng ta, còn không biết bao nhiêu Chơn-lý Cao-siêu nữa mà các vị
Siêu-Phàm phải học hỏi và khám phá lần lần từ cả triệu năm nầy qua cả triệu
năm khác. Thật là vô-tận
vô-biên. Thế nên người ta
yêu-cầu các sanh-viên
phải tự biết mình, hết sức khiêm-tốn, đúng đắn và
kỹ-lưỡng trong những hành-vi của mình từng li, từng tí.
Tranh đua cao thấp thì tiêu hao trí-lực và
không còn tự-chủ được nữa. Kết
cuộc không đi tới đâu cả bởi vì ai ai cũng có lý lẽ riêng của mình.
Nỗi e đã mất niềm hòa-khí mà
lại còn sanh ra thù-oán về sau.
Tôi xin thuật câu chuyện nầy cho quí bạn nghe,
năm 1912 Đức Bà A. Besant có nói : “Một hôm, có một người kia tới nói với
tôi : Bác sĩ Steiner biết những Đại Chơn-lý hơn bà nhiều lắm”.
Tôi bèn đáp : “Tốt lắm ! Vậy ông hãy theo bác-sĩ.
Còn riêng tôi, tôi không thấy như bác-sĩ và tôi cũng không muốn
thiên-hạ đều tin-tưởng như tôi vậy”.
Nếu là một người khác bị chê-bai nhục-nhã như
vậy thì nổi xung thiên, gây gổ om-sòm rồi.
Nhưng Đức Bà A. Besant rất điềm tĩnh, Bà trả lời một cách êm-ái không
làm phật lòng kẻ đối-thoại.
Gương sáng của Bà để chúng ta soi chung.
Còn vài điểm cần thiết nữa tưởng cũng phải nhắc
đến.
Tuyệt đối đừng ghé mắt vào những
tiểu-thuyết ái-tình lãng-mạn, trộm cướp, giết người.
Chỉ nên đọc những sách luân-lý, đạo-đức ca tụng những gương Trung,
Hiếu, Tiết, Nghĩa, Liêm-sĩ và nhứt là nên mỗi ngày mỗi xem những sách giải
về những điều quan-trọng của đời sống, những điều có tính cách vĩnh-viển
trường-tồn chớ không phải phù-du mộng-ảo.
Đừng đọc nhiều.
Đọc một trang mà thật hiểu hết ý-nghĩa còn mở quan-năng của trí-tuệ
hơn là đọc 3, 4 mươi trang một cách vội-vàng hấp-tấp, mà chỉ hiểu sơ-sài và
nhớ vài điều chánh.
Khi đọc xong 3 trang thỉ xếp sách lại rồi lấy
viết, viết lại một cách vắn-tắc những điếu mình đã đọc và giải ý-nghĩa của
tác-gia theo ý mình hiểu vì danh-từ chỉ diển-tả được có phân nữa tư-tưởng mà
e cho còn ít hơn nữa. Nhưng
đừng vừa lòng với những tư-tưởng pháp-hiện do những chữ trong câu.
Hãy vượt qua những hàng rào chữ và tìm thế đi sâu vào tư-tưởng của
tác-giả. Muốn đạt được kết-quả
tốt, cái Trí mình phải hoàn-toàn yên-tịnh và chú-ý trọn vẹn vào điều mình
muốn hiểu.
Có người sẽ bảo :
“Phương-pháp nầy đi chậm lắm”.
Không phải thế. Bạn sẽ
thấy chậm thật, nhưng MỘT KHI CÓ THÓI QUEN RỒI thì cái chi thoạt đầu thấy
khó-khăn, chậm-chạp, sau sẽ hóa ra dễ-dàng, mau lẹ.
Trong một thời gian luyện tập, trí thông-minh của hành giả sẽ lần lần
pháp-triển nhiều hơn trước.
Cũng phải có một quyển sổ tay ghi những điều mình không biết, hay nghĩ không
ra để khi gặp một vị sư huynh thì đưa ra nhờ giải dùm.
Đừng bao giờ quên rằng : sanh viên Huyền-Bí-Học không hề lãng tránh
đời sống hằng ngày mà anh cũng không muốn bị trói buộc vào trong đó.
Anh biết lợi-dụng tất cả những cơ-hội đưa đến để biến đổi những sự
khó-khăn của cuộc đời hầu đạt được những đức tánh cần yếu cho sự tiến bước
trên con đường tu-tập và nhờ thế anh mới dẹp tan được ảnh-hưởng tai-hại của
những sự quyến-rủ êm-đẹp bên ngoài đã làm cho cả muôn, cả triệu người say mê
và sa-ngã không cưỡng lại được.
Trong việc làm của anh không có một chút chi
hối-hả, biếng nhác, hay sơ-sót mặc dầu việc đó có thể rất là tầm thường.
Nhờ cách làm việc chu-đáo mà đời sống hằng ngày có mòi CHÁN NGẮT trở
thành một trường hoạt-động lớn-lao, quí-giá để mở-mang lần lần những
năng-lực của anh, càng ngày càng thấy thêm nhiều.
Thật hành đều-đặn những điều kể trên đây thì
sanh-viên sẽ nhận thấy sự biến-đổi rất tốt đẹp trong tâm-hồn và anh sẳn-sàng
bước qua một giai-đoạn khác trong Tham-Thiền.
II.
THAM-THIỀN
Nói một cách dễ hiểu, tham-thiền là tập-luyện cái Trí trụ vào một tư-tưởng,
một vấn-đề tùy ý mình chọn lựa trong một thời-gian, đặng thấu hiểu nó và sự
chú-ý không hề bị gián-đoạn trong lúc ta suy-nghĩ.
Có hai cách tham-thiền :
1.
Tham-thiền có tánh cách mở-mang trí-thức.
2.
Tham-thiền có tánh cách sùng-bái.
Con người đạo-hạnh có ước-vọng làm Đệ-Tử
Chơn-Sư phải tập tham-thiền cả hai cách :
A.
THAM-THIỀN CÓ TÁNH CÁCH MỞ-MANG TRÍ-THỨC.
Vấn-đề tham-thiền rất nhiều.
Có thể dùng :
a.
Một câu kinh.
b.
Một câu chơn-ngôn.
c.
Một đoạn văn trong một cuốn sách Thánh.
d.
Một châm ngôn.
e.
Một
vấn-đề thuộc về Triết-học, Khoa-học, Mỹ-thuật, Tôn-giáo v.v…
Nói cho đúng, muốn thấy hiệu-quả thì phải suy-nghĩ từ giờ nầy qua giờ kia,
nếu cần thì cả ngày lẫn đêm, cả tháng, cả năm như vậy, chớ không phải trong
lúc ngồi thiền 5, 10, 15, 20 phút là đủ đâu.
Ngồi thiền như thế là mới tập cho có thói quen,
sau mới đi xa được.
NGÀY SAU TRỌN ĐỜI CHÚNG TA CHỈ LÀ MỘT CHUỖI THAM-THIỀN MÀ THÔI.
Tôi xin đem 2 gương bền-chí trong công việc tầm
kiếm khoa-học trích trong quyển Đạo-Lý Thực-Hành của tôi trương 37.
1.
SỰ PHÁT-MINH CỦA ÔNG ARCHIMÈDE (287-212)
Thuở xưa vua SYRACUSE là Hiéron nghi gnờ cái mũ
triều-thiên bằng vàng của Ngài đặt thợ kim-hoàn làm có pha bạc.
Ngài bèn bảo Ông ARCHIMÈDE suy-nghĩ cách nào đặng khám-phá sự gian
lận đó mà phải để y nguyên cái mũ.
Ông Archimède suy-nghĩ lâu lắm mà chưa tìm ra giải-pháp nào cả.
Một bửa kia, ông đương tắm thấy sao tay chơn vô
nước thì mất sức nặng của nó rất nhiều.
Trong lúc đó trí hóa ông vụt mở ra sáng-suốt.
Ông tìm ra nguyên-lý gọi là nguyên-lý Archimède mà ngày nay học-sanh
trường Trung-học đều biết là :
Vật nào thả xuống nước cũng bị một sức đẩy từ
dưới lên trên mạnh bằng trọng lượng của nước bị đùa trôi.
Ông mừng quá bèn chạy ra đường quên mặc quần áo,
vừa chạy vừa la : “Eurêka ! Eurêka ! – Tôi tìm được ! Tôi tìm được !”.
2.
SỰ PHÁT-MINH CỦA ÔNG THOMAS
EDISON (1847-1931)
Ông làm việc không nghĩ không ngừng năm ngày
năm đêm liền mới hoàn-thành ống quay bằng sáp của máy hát do ông pháp-minh.
Ông thí-nghiệm 1.700 lần và tốn hết 40.000
trang giấy trước khi thành-công trong sự phát-minh bóng đèn điện.
Về sự làm những dây trong bóng đèn điện, ông
tốn không biết bao nhiêu công phu.
Ông dùng những vật liệu sau đây : cạt-bon (carbone), bạch-kim (platine),
irridium và 60 thứ cây cỏ, sau rốt mới tới tre
Nhật-Bổn. Trong lúc ông
làm dây bóng đèn điện với tre Nhật-Bổn ông vẫn tìm kiếm luôn luôn trong
phòng thí-nghiệm. Cuối cùng ông
phát-minh ra được một thứ sợi gọi là filament étiré, ấy là một thứ
xên-lu-lôi (cellulose) hổn-hợp (mixture de cellulose).
Thứ nầy thay thế cho chỉ tre.
Người ta hỏi bí-quyết thành-công của
ông thì ông trả lời : “LÀM VIỆC
CHO NHIỀU VÀ SUY-NGHĨ LUÔN LUÔN (TRAVAILLER TOUJOURS ET RÉFLECHIR SANS
CESSE)”.
Từ xưa đến nay những sự pháp-minh và những sáng
chế như : điện, vô-tuyến-điện, phi-cơ, tiềm-thủy- đỉnh, viễn-vọng kính,
ra-đi-ô (radio), ra-đa (radar), vô-tuyến truyền hình, hỏa-tiển, vệ-tinh
nhân-tạo, những máy móc điện-tử, ánh-sáng laser, các thứ máy móc, những
thuốc kháng-sinh, trụ-sinh vân vân
… đều do sự tham-thiền mà ra
cả.
Người đời gọi cái đó là suy-nghĩ, tính-toán,
tìm kiếm. Các nhà Bác-học, các
nhà Thông-thái, các nhà Triết-học, các nhà Khoa-học tham-thiền nhiều lắm,
song hầu hết đều thiên về vật-chất.
Ít có ai được như quí ông William Crookes, Sir Oliver Lodge, Camille
Flammarion, và vài vị khác.
Trái lại các nhà tu-hành, đạo-đức đều hướng về
Tinh-thần vì biết rằng nhờ Tinh-thần ban cho Vật-chất sự sống, vật chất mới
hoạt-động được.
Tinh-thần mới vạn năng, chớ vật-chất không có
quyền-năng sanh hóa như khoa-học đã lầm tưởng vậy.
Nhưng thời-gian qua, cái chi phải đến, sẽ đến !
Bắt đầu từ năm 1975, thiên-hạ mới tìm hiểu
Tinh-thần nhiều hơn ngày nay, rồi từ đó về sau, Tinh-thần mới lần lần thắng
phục được Vật-Chất. Tuy nhiên,
sự chiến-đấu sẽ gay-go và nguy-hiểm vô cùng.
Nó kéo dài cả muôn, cả triệu năm trước khi Vật-chất chịu bó tay đầu
hàng, bởi vì chúng ta hiện giờ đương ở vào thời-kỳ Mạt-Pháp cũng gọi là
Mạt-Kiếp (Kaliyuga). Thời-kỳ
nầy khởi đầu từ ngày Đức Krishna bỏ xác, tính đến nay 1971, đã được 5072
năm.
B. THAM-THIỀN CÓ TÍNH CÁCH SÙNG BÁI
Phải trụ tư-tưởng của mình vào :
a. Hoặc Sư-Phụ tức là một vị Chơn-Sư nào mà
mình muốn làm Đệ-tử dầu mà mình chưa biết, nhưng hy-vọng một ngày kia sẽ gặp
Ngài.
b. Hoặc một Đấng Thiêng-Liêng như Đức Phật, Đức
Bồ-Tát . .
Đây là một lý-tưởng Thiêng-liêng ; phải lấy
lý-tưởng đó làm mục-tiêu, thấy nó luôn luôn trước mắt, không có chi làm lay
chuyển được.
Sự tập-trung tư-tưởng nầy càng ngày càng thấy dễ-dàng
khi mà cái trí ta đã pháp-triển theo đường lối đó.
Lấy lý-tưởng cao siêu nầy làm đối-tượng cho
những buổi tham-thiền liên-tiếp hằng ngày.
Một ngày kia ta sẽ đạt được lý-tưởng nầy, bởi vì “con
người tưởng mãi cái chi thì sẽ thành ra cái đó” như một đoạn trong cổ
Thánh-Kinh Upanishads Ấ-Độ đã nói.
Trong kinh Chandogyapanishad có câu nầy :
“Ngươi là Thượng-Đế Brahma (Phạn-Vương)”.
Đức Phật há chẳng bảo : “Ta đã thành Phật, còn các ngươi đương thành
Phật”, tức là những Phật vị-lai .
Phải bền-chí, mặc dù chưa thấy cái kết-quả hiện
ra rõ-rệt :
Phải tham-thiền cho tới mức Hạ-Trí
biến thành một cái gương trong trắng phản-chiếu Thượng-Trí.
Một khi những sự cuồng-loạn của Hạ-Trí bị kềm
chế rồi thì Hạ-Trí trở nên yên tịnh.
Nó giống như mặt nước hồ thu phẳng lặng không có một ngọn gió nhẹ
nhàng nào thổi tới làm cho nó xao-động rung chuyển cả.
Một dòng nước êm đềm như thế mới phản-chiếu
được cái vẻ huy-hoàng rực-rỡ của vầng Thái-Dương lóng-lánh muôn màu.
Cũng thế đó, trạng-thái của lương-thức cao-siêu
sẽ soi mình trên tấm gương của Hạ-Trí yên tịnh.
Chỉ tới chừng đó chúng ta mới thấy được cái gì
mà chúng ta tầm kiếm bấy lâu nay.
Bây giờ chúng ta hiểu biết thật sự, chớ không phải chúng ta tin theo
những lời của người ta nói.
Chúng ta mới biết : sao là
tự-tín.
Thời-gian thành-công sẽ là bao lâu ?
Không ai đoán được. Nó
tùy thuộc sự cố-gắng của chúng ta.
Lúc ban sơ chúng ta thường thất bại, đó là lẽ tự-nhiên.
Nhưng hãy lấy những sự thất bại làm những bài học hay để đi đến sự
thành-công rực-rỡ sau nầy.
Đừng quên câu : nước chảy đá mòn.
Đúng lắm vậy. Một giọt
nước từ trên cao nhỏ xuống một tảng đá lớn, ban sơ không thấy chi hết, nhưng
mà giọt nước cứ nhỏ xuống mãi, vài năm sau chổ nước nhỏ bị hủng sâu xuống
thành một lỗ.
Khi chúng ta áp-dụng những
nguyên-tắc nầy không nghỉ, không ngừng, từ ngày nầy qua ngày kia, từ năm nầy
qua năm nọ, thì chúng sẽ thấm nhuần đời sống chúng ta ; chúng sẽ vĩnh-viễn
hóa ra “Thành Phần của chúng ta” và theo chúng ta từ đời nầy qua đời kia.
Xin nhớ mãi điều nầy.
III. THAM-THIỀN MỘT ĐỨC TÁNH
Có một định-luật thiên-nhiên mà :
a. Hoặc người ta không biết.
b. Hoặc biết mà hay quên.
Ấy là : Khi con người tập-trung tư-tưởng vào một đức tánh nào thì đức tánh đó dần dần thành ra một phần tử tánh nết mình, rồi về sau đức tánh đó biểu-lộ một cách tự-động không khó-khăn chút nào.
Vậy thì ta hãy áp-dụng định-luật nầy trong
công-việc xây-dựng tánh-nết của ta, và ta phải kiên-tâm, trì chí tuân theo
một cách triệt-để.
PHƯƠNG-PHÁP TẬP-LUYỆN
Sớm mai, sau khi thức dậy, rửa mặt rồi thì ngồi
suy-nghĩ đến một Đức-tánh nào mà mình muốn có rồi tập-trung tư-tưởng vào
Đức-tánh đó trong 5, 10 phút tùy theo sức chủ-ý của mình.
Thí-dụ : Tập tánh trong sạch.
Phải trong sạch về 3 phương-diện :
a.
Tư-tưởng.
b.
Lời nói.
c. Việc làm.
Ba đức-tánh nầy là ba sợi dây liên-kết người
chí-nguyện một mặt với Sư-Phụ y, một mặt với nhân-loại.
Ba sợi dây nịch lưng của người Bà-La-Môn
tượng-trưng ba đức tánh nầy :
Chúng cũng tượng-trưng :
1.
Ba Ngôi của Đức Thượng-Đế . . .
2.
Ba Ngôi của con người.
3.
Ba cõi – Tam-Giới (Hạ-Giới, Trung-Giới, Thượng-Giới).
4.
Ba trạng-thái của Tâm-Thức :
a.
Tâm-thức thấp thỏi.
b.
Tâm-thức trung bình.
c. Tâm-thức cao siêu.
Trong Đạo Bát-Chánh, Phật để :
Chánh Tư-Duy : Tư-tưởng chơn-chánh.
Chánh ngữ :
Lời nói chơn-chánh.
Chánh-nghiệp : Việc làm chơn-chánh.
Cổ Ba-Tư Giáo hay là Thiện-Ác-Nhị-Nguyên Giáo
cũng lấy 3 đức-tánh nầy làm căn-bản.
“Lòng
sùng-đạo và trong sạch trong tư-tưởng, trong lời nói và trong việc làm, đó
là nguyên-tắc tóm-lược đúng hơn hết.
Thiện-Ác-Nhị-Nguyên Giáo”.
“Piété et pureté en pensées, en paroles et en
actions, tel est le principe qui résume le mieux la religion Mazdéisme”.
(Le Mazdéisme-L’Avesta par De Lafont-Edition
Chamuel 1897 page 328).
Phải giữ cảm-giác của buổi tham-thiền trọn
ngày. Khi ta ra ngoài đời đặng
làm việc bổn-phận thì phải nhớ thực-hiện những điều đại-khái sau đây :
.
1.Về tư-tưởng
: Không thu nhận một tư-tưởng thấp hèn, nhơ nhớp nào.
Nếu thình lình nó xông vô Trí thì lập tức đuổi nó ra bằng cách sanh
ra một tư-tưởng tốt khác đối-lập.
Không để cho cái Trí vọng-động, xao-xuyến.
Luôn luôn phải bình-tỉnh, thản nhiên và hết sức chú-ý vào mọi phần
việc của mình làm.
Đừng quên rằng một tư-tưởng xấu thâm nhập Trí
ta được là tại trong Trí ta có chứa chất Thượng-Thanh-Khí thấp đồng bản tánh
với nó, hạp với nó, nên mới thu hút nó.
Vì thế phải tinh-luyện cái Trí đặng khi những tư-tưởng xấu, bất câu
loại nào, vừa đụng tới cái Trí ta thì dội ra liền, không chiếm ngự cái Trí
ta được.
2. Về lời nói : Không thốt ra một lời thô-tục nào, một lời nặng-nề hay một lời hung-dữ nào làm cho kẻ khác đau-đớn, khổ-sở trong lòng. Lời nói phải thanh-bai, dễ thương, chơn-thật, hữu-ích. Nếu không có chi cần phải nói hay đáng nói thì nín thinh. Trầm-lặng là một cách giữ-gìn sức khõe.
Đừng chê bai giễu-cợt, đừng nói xáng-xả vào đầu
người ta có tánh-cách lăng-nhục rồi viện lẽ
rằng
“mình nói sự thật”.
3. Về việc làm
: Không để một sự hoạt-động quấy-quá nào làm nhơ-nhớp thân ta. Trọn ngày
không làm một việc hèn mạt, ích-kỷ, hại nhơn.
Phải làm những việc nhân-từ, hữu-ích, vị tha mà không mưu cầu lợi lộc
riêng tư hay hạnh-phúc cho mình.
Quyển Dưới Chơn Thầy có dạy rành-rẽ về 3 đức
tánh nầy. Ở đây tôi chỉ nhắc
lại một cách sơ lược mà thôi.
Tỷ như đoạn nầy quí bạn nên ghi nhớ mãi trong
lòng :
Phải hết sức chăm-chỉ vào mỗi phần việc của con làm
đặng làm cho khéo-léo. Cũng là
vị đại huấn-sư hồi nãy có viết câu nầy : “Dầu làm việc chi cũng vậy, con
phải vui lòng mà làm, bởi vì làm đó cũng là làm cho đức Thượng-Đế chớ không
phải làm cho con người”.
Con hãy tự hỏi con phải làm công việc như thế nào nếu con biết chút nữa Chơn-sư sẽ đến xem coi. Con phải làm công việc của con với ý-tưởng như thế. Những người khôn-ngoan hơn hết mới thật hiểu hết ý-nghĩa của đoạn nầy”.
(Dưới Chơn Thầy trương 69-70. In lần thứ 13)
4. THAM-THIỀN VỀ BA THỂ ; THÂN, VÍA, TRÍ
Bước đầu tiên sanh-viên phải tập tham-thiền về ba thể : Thân – Vía – Trí đặng làm chủ chúng. Khi hoàn-toàn thành-công rồi mới tự-chủ được.
I
XEM-XÉT XÁC-THÂN
Bắt đầu xem-xét xác-thân rồi nói như
vầy :
Xác-thân không phải là tôi.
Nó là một khí-cụ để tôi dùng.
Nó không khác nào con ngựa của tôi cỡi để đi qua một khoảng đường
đời. Nó khỏe-mạnh, tinh-khiết,
có điều-độ, nhạy-cảm, trằm lặng và hết sức trong sạch.
Tôi là Chơn-Thần, tôi làm chủ nó, tôi sai khiến
nó. Luôn luôn nó vưng lời tôi.
Nghĩ như vậy, rồi bỏ xác-thân ra ngoài, tưởng
tới cái Vía.
II
XEM-XÉT CÁI VÍA
Cái Vía cũng không phải là tôi.
Cũng như xác-thân, nó là một thể để cho tôi dùng đặng biểu-lộ ý-muốn
và tình-cảm.
Tình-cảm của tôi luôn luôn trong sạch, ý-muốn của tôi vẫn thanh-cao. Cái Vía của tôi rung động mau lẹ và chiếu ra những màu sắc tốt đẹp. Tôi là Chơn-Thần, chủ nhơn nó, tôi sử-dụng nó. Lòng từ-bi của tôi bao trùm vạn-vật.
Xong rồi bỏ cái Vía ra ngoài.
III
XEM-XÉT CÁI TRÍ
Cái Trí cũng không phải là tôi.
Nó cũng là một thể để cho tôi sử-dụng cũng như cái Vía và Xác-Thân.
Nó yên lặng như mặt nước hồ thu.
Nó nhận-xét đúng đắn, chỉ thâu nhận những tư-tưởng chơn thật.
Từ-bi, hy-sanh, thanh-bạch, nhẫn-nại, khoan-dung.
Nó lãnh-đạm với những sự vật ở ngoại giới vô-thường.
Tôi là Chơn-Thần, tôi sai khiến nó như cái Vía và Xác-Thân.
Chúng vẫn mạnh-mẽ và trung thành với tôi.
Bây giờ tôi nhập vô cái Trí, cái Vía và
Xác-Thân như cũ đặng phụng-sự.
Hôm nay ở nơi đây, tôi nhất quyết hiến-dâng đời
tôi và trọn cá-nhân tôi để lo cho nhân-loại được pháp-triển về hai
phương-diện : Trí-Thức và Tinh-Thần.
Aum
!
LỜI DẶN TỔNG-QUÁT
Những đoạn trên đây là những lời chỉ dẫn những
quy-tắc về phép Tham-Thiền.
Những gợi ý nầy không nên xem là một mạng lịnh phải tuân theo triệt-để.
Tham-Thiền là việc riêng của từng người,
phải dùng phương-pháp nào thích-ứng nhứt đối với nhu-cầu mình, với
tánh-tình mình hầu thâu-hoạch những kết-quả đẹp.
Nhưng phần cốt-yếu khác sẽ bổ-túc thêm khi đúng ngày giờ.
Điều nầy vốn khẩu-khẩu tương-truyền chớ không có viết ra, và xin nói thêm,
những vị Đệ-tử đều tập-luyện khác nhau tùy theo trình-độ tiến-hóa của mỗi
người.
NHƯNG XIN NHỚ KỸ VÀI ĐIỀU SAU ĐÂY :
Tham-thiền là phương-pháp chắc-chắn nhứt và mau
lẹ nhứt để mở-mang Tâm-Thức cao siêu.
Nó cần yếu cho sự tiến-hóa và sự phát-triển tinh-thần.
Nó nuôi dưỡng tâm-hồn cũng như thực-phẩm làm nở-nang xác-thịt.
Chỉ tại con người bỏ đói tinh-thần rồi trở lại than-van tại sao
tinh-thần mình nhu-nhược.
Tuy nhiên chỉ tham-thiền mà thôi cũng chưa phải
là đủ. Nó phải đi đôi với sự
hành-động thì sự tiến-hóa mới mau lẹ.
Nếu không sống một đời sống thanh-cao, từ-thiện, không tận tâm
phụng-sự nhân-loại thì sự Tham-thiền cũng không dắt ta đến trước mặt Chơn-Sư
được.
Nên nhớ rằng : những tư-tưởng tốt lành và những
tư-tưởng xấu-xa đều kết hình trong trí ta.
Hầu hết nhân-loại đều không biết gì về sự tiến-hóa nầy và để nó tiếp
tục một cách tự-nhiên, mặc dù cũng có những người hiền-lương và những người
tấm lòng trong-sạch lo xua đuổi những tư-tưởng độc-ác ra khỏi tâm trí mình.
Sanh-viên thông hiểu lẽ nầy thì phải dự-trử một
số tư-tưởng tốt lành trong lòng đặng chúng biểu-lộ ra khi cái Trí anh
thông-thả. Chúng sẽ phò hộ anh
khỏi bị nhiễm những những tư-tưởng quấy-quá bay vởn-vơ ở bên ngoài.
Sự tham-thiền về một đức tánh mỗi buổi sáng sẽ
sanh ra một vị Phúc-Thần, một vị Phò-Trợ Vô-hình ở một bên ta, giữ-gìn ta và
che chở ta suốt ngày khỏi bị ảnh-hưởng xấu-xa tới khuấy-rối.
Đừng bao giờ nhớ tới hay hối
tiếc một tánh xấu-xa hay một tật xấu nào của mình cả.
Hãy quên mất nó đi. Bởi
vì khi tư-tưởng trụ vào nhược điểm nào thì nó tăng cường nhược điểm đó.
Thay vì phải biến mất, nhược điểm đó lại trở nên mạnh-mẽ và sống lâu
đặng phá rối ta. Một lần khác
nó sẽ vật ngã ta nếu ta không trừ-khử nó bằng cách Tham-Thiền mỗi buổi
sáng
đức tánh đối lập với nó, ngày nầy qua ngày kia cho đến lúc thành-công
mỹ-mãn. Không có phương-pháp
nào khác nữa.
Những đức tánh của ta là những thành phần của
ta. Chúng theo ta từ đời nầy
qua đời kia không bao giờ rời ta đặng sa vào tay người khác.
Thế nên tập rèn những tánh tốt là gầy dựng một
gia tài thiêng-liêng, vĩnh-viễn trường-tồn để cho ta dùng từ đời nầy qua đời
kia, khác hẳn những của cải phù-du chỉ hữu-dụng trong một thời-gian mà thôi.
HAI CÂU CHUYỆN LÝ-THÚ VỀ SỰ THAM-THIỀN
I
Tôi nhớ mày-mạy câu chuyện nầy : Một hôm Bà A.
Besant tập-trung tư-tưởng cho đến đổi Bà nhăn cặp chơn mày lại.
Bà Blavatsky mới nói : “Nầy em ! Người ta không phải tham-thiền với cặp chơn mày nhăn lại đâu”. Bài nầy có ý-nghĩa là : Tập-trung tư-tưởng là phần việc của cái Trí, chớ không phải của Xác-thân.
II
Một bữa kia, một nữ đồ-đệ của Bà Blavatsky hỏi
Bà phải tập-trung tư-tưởng vào vấn-đề nào.
Cô có ý-nghĩ Bà sẽ bảo cô tập-trung vào Đức Thượng-Đế hay là
Chơn-Thần, nhưng cô rất ngạc-nhiên mà thấy Bà lấy một cái hộp quẹt để trên
bàn đưa cho cô rồi bảo : “Em hãy tham-thiền cái nầy đi”.
Cô nín thinh chờ sự giải-nghĩa.
Bà mới bảo : “Em hãy
tập-trung tư-tưởng vào hộp quẹt đó cho tới khi nào em không còn biết gì hết
trong vũ-trụ ngoài cái hộp quẹt và xác-thân em, không để cái chi làm cho lay
chuyển được”. Rồi với vẻ
tinh-nghịch thoáng qua trong cặt mắt yên tịnh, Bà nói tiếp : “Tới chừng đó
em sẽ định-trí vào Chơn-Thần mới có vài kết-quả tốt đẹp”.
Rõ-ràng là Bà muốn nhấn mạnh rằng :
vấn-đề Tham-thiền không cần thiết lắm mà điều quan-trọng là sự tập-trung
tư-tưởng vào đó.
GIẢI-QUYẾT MỘT VẤN-ĐỀ TRONG LÚC NGỦ
Nếu quí bạn có một bài toán đố về số-học hay là
vấn-đề nào mà quí bạn muốn giải-quyết nhưng chưa tìm ra được giải-pháp thì
trước khi đi ngủ bạn hãy ghi vấn-đề đó vào trí rồi đừng nhớ tới nó nữa.
Nếu suy-nghĩ thì sẽ
trằn-trọc, thao thức mãi, sáng ra quí bạn sẽ mệt lắm.
Quý bạn hãy coi cái Trí quí bạn như một cái hộp, quí bạn đặt vấn-đề
đó vào hộp rồi đóng kín lại.
Xong xuôi rồi quí bạn đi ngủ, đừng nhớ tới nữa.
Thường thường sáng ra lúc thức dậy, quí bạn sẽ
tìm ra được giải-pháp vì trong lúc ngủ quí bạn bắt buộc cái Trí làm việc đó.
Có khi nửa đêm thức giấc, quí bạn trở nên
sáng-suốt, câu giải đáp hiện ra trong trí.
Nhưng quí bạn hãy có sẵn bên mình một cây viết và một tờ giấy đặng
ghi chép nó vô liền. Nếu quí
bạn ngủ lại sáng ra quí bạn sẽ quên mất, không còn nhớ gì cả.
Cũng có khi nửa đêm quí bạn bổng giựt mình thức
dậy, quí bạn thấy mình trở nên sáng-suốt có được nhiều tư-tưởng tốt đẹp
cao-siêu. Quí bạn hảy ghi vô
giấy liền. không vậy sáng ra
chúng nó biến mất không hề trở lại đâu.
Vậy thì luôn luôn ban đêm quí bạn nên để bên
mình một tờ giấy và một cây viết chì nguyên tử, khi cần dùng thì có sẵn
liền.
MỘT PHƯƠNG-PHÁP CHẮC-CHẮN ĐỂ THÍ-NGHIỆM SỰ TIẾN-HÓA CỦA MÌNH
Có một phương-pháp chắc-chắn để thí-nghiệm sự tiến-hóa của mình như sau đây :
Mỗi năm, hai lần, ta suy-nghĩ rồi viết ra 3 số.
1.
Số thứ nhứt : Những điều ta chưa biết.
2.
Số thứ nhì : Những điều mà ta lấy ở người khác làm ra sự hiểu biết của mình.
3.
Số thứ ba : Những điều mình thật biết vì có kinh-nghiệm.
Dám chắc trong mười lần, hết đủ cả mười, ta
thấy những điều ta thật biết không có là bao nhiêu.
Con số nầy rất nhỏ, nhỏ lắm đối với 2 số trên.
Có thí-nghiệm như vậy mới biết mình tiến mau hay chậm.
Có vậy mình mới trở nên khiêm-tốn và không còn tự-hào về sự hiểu biết
của mình, không còn tự-tôn tự-đại nữa.
Còn
nhiều điều khác, nhưng hiểu được và hành được bao nhiêu đây trong những bước
đầu tiên thì cũng đã khá lắm, rồi từ đó tiến lên những cấp bực cao hơn nữa.
TẠI SAO PHẢI THAM-THIỀN ĐÚNG GIỜ KHẮC VÀ LIÊN-TỤC
Tại sao kinh sách đạo-đức đều căn dặn sanh-viên
phải tham-thiền đúng giờ khắc và liên-tục mới thấy kết-quả tốt đẹp ?
Ấy tại khi quí bạn tham-thiền thì quí bạn sanh
ra một hình tư-tưởng làm bằng chất Thượng-Thanh-Khí.
Hình tư-tưởng nầy cần dùng đồ ăn mới sống lâu và mạnh-mẽ.
Đồ ăn của nó là sức mạnh của tư-tưởng.
Nếu mỗi ngày quí bạn đều tham-thiền thì hình tư-tưởng sẽ sống lâu và
càng ngày càng thêm mạnh.
Trái lại, quí bạn tham-thiền có một tuần rồi
nghỉ 2, 3 tháng thì hình tư-tưởng của quí bạn sanh ra không có đồ ăn sẽ yếu
dần rồi tan-rã ra chất Thượng-Thanh-Khí như trước.
Khi quí bạn bắt đầu tham-thiền lại thì một hình tư-tưởng mới khác sẽ
sanh ra.
Rồi quí bạn nghỉ, không tham-thiền nữa, thì
hình tư-tưởng nầy cũng chẳng sống lâu được.
Nếu quí bạn tiếp tục như thế, tham-thiền rồi nghỉ, nghỉ rồi
tham-thiền lại thì trong vòng 5, 10 năm như vậy, quí bạn cũng không thu thập
được kết-quả tốt đẹp. Có lẽ quí
bạn sẽ chán ngắt rồi bỏ luôn, quí bạn đinh-ninh rằng tham-thiền không có ích
lợi gì hết.
Vì thế phải tham-thiền không gián-đoạn từ năm
nấy qua năm nọ thì mới thấy nhờ Tham-Thiền mà Tâm Trí càng ngày càng sáng
suốt hơn trước.
Xin nhắc lại, đời của người luyện đạo là một
chuỗi ngày tham-thiền.
GIÚP ĐỠ NGƯỜI TRONG LÚC NGỦ
Thí-dụ quí bạn biết một người đương đau-khổ hay
là mắc một tật xấu nào đó.
Nhưng nỗi e khi gặp quí bạn thì y tỏ dấu e ngại, quí bạn không nói tới cái
chi với y được cả.
Nhưng quí bạn chớ nên ngã lòng.
Tối trước khi đi ngủ quí bạn hãy nghĩ như vầy : “Tôi sẽ đến gần y và
an-ủi y”. Khi quí bạn ngủ thì
tư-tưởng quí bạn sẽ dắt quí bạn đến gần y và quí bạn có thể làm dịu bớt nỗi
đau-khổ cúa y.
Nếu y là người ghiền rượu thì quí bạn hãy sắp
sẵn trong lòng những lời khuyên bảo về tai-hại của rượu đối với thân mình y,
gia-đình y và đối với xã-hội nhơn quần.
Quí bạn chỉ cho y thấy những gương xưa nay bị rượu mà nát cửa hại
nhà. Câu chót của quí bạn là :
“Từ đây sắp tới anh vẫn có tiết-độ”.
Muốn có thấy hiệu-quả thì mỗi đêm phải suy-nghĩ
như thế và nhiều đêm liên-tiếp.
Xin nhớ rằng đối với những tật xấu khác nhau
thì phải tìm một giải-pháp thích-nghi.
Nhiều tật xấu nhờ phương-pháp nầy mà sửa chữa được lành.
Quí bạn hãy thật-hành đi.
Có kinh-nghiệm rồi mới tin chắc được.
CÁCH NGỒI THIỀN
Ngồi xếp bằng, ngay thẳng lưng.
Người Ấn có thói quen ngồi kiết dà từ nhỏ đến lớn cho nên không thấy
chi khó-nhọc. Còn chúng ta chưa
quen nên mỏi cẳng lắm. Ngồi
bán-dà, trên ghế, trên ván, dựa lưng vào vách đều được.
Tại sao phải ngồi thẳng lưng ?
Bởi vì trong xương sống có 3 vận-hà, tiếng Phạn là Nadi, xin gọi là 3 đường gân cho dể hiểu. Từ-điện và luồn Hỏa-Hầu theo 3 vận-hà từ xương khu lên đỉnh đầu. Nếu ngồi khom lưng 3 vận-hà bị trẹo, từ-điển và luồng-hỏa đi lên sẽ gặp phải khó-khăn, nó không giúp ích cho con người được bao nhiêu.
GIỜ THAM-THIỀN
Có 3 giờ mà từ-điện trên không trung rất tốt là :
1.
Nửa giờ trước khi mặt trời mọc.
2.
Đúng ngọ (theo bây giờ là 1 giờ vì đồng-hồ ta kéo trước một giờ).
3.
Chiều, nửa giờ sau khi mặt trời lặn.
Phải để bụng trống tham-thiền, ăn no mà tham-thiền thì
sau đau bao-tử vì thần-lực gom lên đầu không đủ để tiêu-hóa trọn vẹn đồ ăn.
Có người bảo : Vì đời sống hiện tại và
hoàn-cảnh khó-khăn rất khó giữ đúng giờ tham-thiền.
Đồng ý, nhưng quí bạn có thể trưa và chiều khi ra sở về thì ngồi
tham-thiền chừng 5, 10 phút trước khi dùng bửa.
Tối, vào 9 giờ cũng nên tham-thiền một lần nữa.
Đây là tập tham-thiền cho có thói quen, ngày sau trọn đời chúng ta là một chuỗi ngày tham-thiền.
KHẮC-KỶ
Tối trước khi đi ngủ, nên ngồi xem xét lại những điều mà mình đã tưởng, đã muốn và đã làm trọn ngày, không phải từ sớm mai tới chiều mà từ chiều trở lại sớm mai. Nếu có lỡ-lầm, phải răng lòng và nhớ lại tư-tưởng tốt đối-lập với tư-tưởng xấu đã sanh ra. Còn làm được nhiều điều lành thì cứ cố-gắng tiếp tục, đừng nản lòng
Chí công mài sắt, chầy ngày nên kim.
TOÁT-YẾU VỀ PHƯƠNG-PHÁP MỞ-MANG TRÍ-THỨC
Muốn mở-mang Cái Trí thì phải bắt buộc nó làm
việc chớ không phải để cho nó được tự-do.
Phải kềm chế nó định vào một chổ, suy-nghĩ chính-chắn, chớ không
tưởng bông-lông, phải sử-dụng quyền-năng sanh-hóa của nó, thí-nghiệm nó coi
nó đã tiến tới đâu và vưng mạng-lệnh mình tới mức nào, phải bắt buộc nó
cố-gắng học-hỏi cho rộng sâu và kinh-nghiệm thật nhiều.
Đừng xem xét qua loa rồi cho mình đã biết rồi chểnh-mảng.
Chỉ có áp-dụng phương-pháp nầy mới mở-mang trí hóa và tiến mau, không
thì từ kiếp nầy qua kiếp kia đứng một chỗ dậm chơn hay là chỉ tiến có một
chút thôi.
TẠI SAO KINH SÁCH ĐẠO-ĐỨC GỌI CON NGƯỜI LÀ TIỂU THIÊN-ĐỊA
Tới đây mới có thể giải tại sao kinh sách
đạo-đức xưa nay đều gọi Con Người là Tiểu Thiên-Địa.
Ấy bởi 2 lẽ :
1.
Lẽ thứ nhứt
: Con người là Con Đức Thượng-Đế, một điểm Linh-quang có đủ quyền-năng như
Đức Thượng-Đế, nhưng chúng còn tiềm-tàng trong mình và sẽ mở ra lần lần khi
con người càng tiến lên cao.
2.
Lẽ thứ nhì
: Trong mình con người có đủ các thứ khí đã lập ra
Thái-dương-hệ.
Vì thế mà các nhà Huyền-Bí-Học đều nói rằng :
con Người là Tiểu Thiên-Địa.
Trong đời cái chi xẩy ra đều có nguyên-nhân.
Tri ra được nguyên-nhân thì không còn cho là lạ nữa và không còn
tin-tưởng dị-đoan.
MỘT PHƯƠNG-PHÁP GIÚP QUÝ BẠN TIẾN TỚI
MẶC DẦU CHƯA THAM-THIỀN ĐƯỢC
Có một phương-pháp giúp cho quí bạn hâm mộ
đạo-đức tiến tới tuy chưa tham-thiền được, dù cho quí bạn thuộc về hàng
trí-thức, lao-động, có tuổi-tác hay là nam-nữ, thanh-niên, học sanh cũng
vậy.
PHƯƠNG-PHÁP THỰC-HÀNH
Mỗi giờ đồng-hồ quí bạn hãy nói trong lòng hay nói nhỏ cũng được mấy câu sau nầy, một hai lần, được nhiều chừng nào tốt chừng nấy.
Aum ! ! ! Tôi là Át-măn
(Atman). Chơn-linh cao cả, toàn năng, toàn thiện, vô sở bất tại.
Lòng từ-bi, bác-ái của tôi bao-la, bát ngát, vô tận, vô biên. Tôi là một với vạn-vật. Tôi thương yêu tất cả.
Tư-tưởng tôi trong sạch.
Lời nói tôi trong sạch.
Việc làm tôi trong sạch.
Tôi nhẫn-nại – Tôi khoan-dung.
Tôi điềm-tỉnh – Tôi tinh-khiết.
Tôi can-đảm – Tôi hy-sanh.
Tôi lo phụng-sự đặng mưu hạnh-phúc cho
nhơn-loại.
Nếu mỗi giờ không thể niệm, thì mỗi
ngày nên thật-hành 4 lần.
Sớm mai, sau khi mới thức dậy.
Trưa và chiều, trước khi dùng bữa.
Tối, trước khi đi ngủ.
*
Quí bạn hãy học thuộc lòng câu nầy.
Thật-hành điều trên đây không gián-đoạn ngày nào thì
trong hai ba năm hoặc bốn năm năm sau, tùy theo trường-hợp, quí bạn sẽ thấy
tự nhiên quí bạn nhơn-từ hơn trước, tình thương của quí bạn mở rộng,
tư-tưởng của quí bạn hướng về điều thiện, lời nói của quí bạn dịu-dàng, việc
làm của quí bạn có phần đúng-đắn và chánh-đáng.
Rồi lần lần quí bạn sẽ nhận biết tâm trí mình mở-mang, quí bạn có một
quan-niệm khá rõ-ràng về cái nào là vĩnh-viễn trường-tồn , còn cái nào là
phù du mộng ảo.
Quí bạn đã khởi sự cầm số mạng của quí bạn
trong tay, quí bạn có thể sửa đổi nó chẳng những kiếp nầy mà còn tạo được
phần số kiếp sau nữa.
Quí bạn gieo những hạt giống ngon ngọt thì quí
bạn sẽ gặt hái được những quả ngon ngọt, không sao khác được, không phải chỉ
ở kiếp hiện tại mà còn ở những kiếp vị lai nữa.
Đó là Luật Nhân-quả, gieo giống chi, gặt giống nấy chớ không có chi
là phi thường cả.
Quí bạn hãy thật-hành ngay bây giờ đi.
Ngày giờ qua thắm-thoát, tuổi chẳng chờ ta.
Nếu quý bạn không tu kiếp nầy thì một vài kiếp sau kế đó quí bạn cũng
phải tu.
Quí bạn chớ nên lấy làm lạ điều nầy, bởi vì
Luật Tiến-Hóa cứ thúc đẩy con người phải đi tới mục-đích đã định sẵn cho
nhơn-loại của Vũ-trụ nầy tức là mấy trăm triệu năm sau, mỗi người trong
chúng ta đều trở nên trọn sáng, trọn lành, làm một vị Chơn-Tiên khi ngày giờ
đã đến. Phải đi tới mãi, không
ai thụt lùi lại được hay là đứng yên một chỗ dậm chơn.
Ai đi mau tới trước, ai đi chậm tới sau, chung
cuộc ai ai cũng phải tới, nhưng mà đi chậm thì phải trải qua muôn kiếp trầm
luân, muôn phần khổ cực. Chúng
ta ở trong Định-Luật, không thể nào cưỡng lại được.
Ban sơ chúng ta là trẻ nít, kế đó là trưởng-thành rồi già nua.
Tới một ngày kia chúng ta đều phải bỏ cái xác phàm nặng-trĩu nầy,
nhưng chưa phải là chấm dứt đâu.
Chúng ta phải tái sanh đặng thanh-toán những mối nợ-nần đã gây ra từ
nhiều kiếp trước và tiếp tục sự tiến-hóa của chúng ta đã bỏ dở cho tới chừng
nào chúng ta tu-hành Đắc-Đạo, mới được giải-thoát, không còn phải Luân-Hồi
dưới Trần-Thế nữa.
Vậy thì điều hay hơn hết là nên tu ngay bây giờ, để trong vài chục kiếp, ta có thể thành Chánh-quả làm một vị Siêu-phàm. Nếu nói tới chừng tôi già tôi sẽ tu, thì e cho khi nằm trên giường bịnh, hối tiếc những việc đã xẩy ra thì cũng đã muộn, không còn đủ thì giờ để sửa đổi hoàn-cảnh nữa.
Thật là : “Nếu đợi tới già mới niệm
Phật,
Thiếu chi mồ trẻ đã qua đời”.
Tôi thường nghe nhiều người nói : “Tại tôi không có căn nên không tu được”. Thật đúng vậy, nhưng nếu không có căn lành kiếp trước thì kiếp nầy ta hãy tạo ra căn lành. Kiếp nầy mà ta không có công cày cấy gieo trồng thì kiếp sau có chi mà gặt hái. Như thế thì kiếp sau cũng như kếp nầy không bao giờ có căn lành đâu.
MÀ TU LÀ GÌ ?
Nói cho dễ hiểu Tu là trao sửa tánh-tình ra tốt
đẹp, càng ngày càng cao thượng hơn trước và giữ-gìn thể-xác cho tinh-khiết.
Tu là sửa đổi cái dở ra cái hay, bỏ cái quấy, theo cái phải, lìa chốn
tối-tăm ra nơi sáng-suốt, mở rộng lòng từ-bi, bác-ái, tha thứ cho những kẻ
lỗi-lầm, giúp đỡ, dưỡng nuôi những người yếu-đuối, bịnh hoạn, vân vân.
Mà tại sao khi người ta nghe nói tới “Tu hành” thì phát sợ, không muốn cho
hai chữ nầy lọt vào tai.
Ấy tại người ta lầm tưởng rằng : Muốn tu thì
phải lìa bỏ gia-đình, lánh xa thế tục, ẩn mình vào chốn non cao động cả, hay
là vào chùa, thí phát, mặc áo cà-sa, sớm mõ, chiều chuông, tụng kinh niệm
kệ.
Tu như thế đó là Tu Trì. Những
vị tu trì đã có căn lành nhiều kiếp trước rồi cho nên nay thật-hành những
điều trên đây một cách dễ-dàng.
Còn chúng ta đây, chúng ta là những người cư-sĩ, nửa đời, nửa Đạo.
Chúng ta hãy lo tu tại gia
trước nhứt, rồi vài kiếp sau sẽ ở độc-thân đem hết ngày giờ và tâm-trí lo
cho Đạo-Đức đặng Phục-Hưng Tinh-Thần của Nhơn-loại.
Lo cho Đạo-Đức tức là Phụng-sự Xã-Hội Nhân-Quần chớ không phải là vì
ích-kỷ mà yếm-thế.
Chúng ta nên nhớ rằng : Từ ngàn xưa, chớ không
phải mới có 2.500 năm nay lúc Đức Thích-Ca ra đời.
Tinh-Hoa Phật-giáo vẫn gồm trọn vẹn trong 3 câu nầy :
1.
Lánh dữ.
2.
Làm lành.
3.
Rửa lòng cho trong sạch.
Dầu cho đem thân vào chốn Thiền-môn, nương dựa
dưới bóng mát cội Bồ-Đề mà không cố-gắng giữ vẹn 3 điều trên đây thì cũng
chưa phải thật là Chơn-Tu vậy.
Tôi nói cố-gắng bởi vì phải tu hành trong 15, 20 kiếp liên-tục tấm lòng mới
trở nên trong sạch được, chớ không phải mới tu có vài năm mà Đắc-Đạo thành
Chánh-quả. Không bao giờ có
thật điều nầy đâu.
MỘT SỰ THÍ-NGHIỆM ĐỂ CHỨNG CHẮC Ý MUỐN VÀ TƯ-TƯỞNG
KHÔNG PHẢI THẬT LÀ CON NGƯỜI
Xin quí bạn thí-nghiệm việc sau đây : Quí bạn hãy ngồi không, đừng suy-nghĩ hay tưởng tới cái chi cả trong 2 phút thôi. Thời gian nầy chưa trôi qua thì trong lòng quí bạn đã có tiếng nói nhắc-nhở quí bạn những việc đâu đâu, nhớ những điều đã xảy ra hay là lo những chuyện sẽ tới khắp cả bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Vậy xin hỏi : Tiếng nói đó của ai ? Chắc chắn không phải là của quí bạn, bởi vì, quí bạn đâu có mở lời, quí bạn có tưởng cái chi đâu. Tiếng nói đó là tiếng nói của Cái Trí. Nó muốn hoạt-động trong khi quí bạn bắt nó ở yên một chổ. Nó đâu có chịu nổi sự kiềm-chế nầy nên tìm lối thoát ra. Xin nhắc lại là : Đã nhiều kiếp rồi có lẽ cả ngàn kiếp, chúng ta đã đồng-hóa với Cái Trí, Cái Vía và Xác Thân. Chúng ta cứ đinh ninh rằng ý-muốn của ba thể nầy là ý-muốn của chúng ta. Chúng ta đem ra thật-hành liền, cho nên gây ra muôn vàn tội-lỗi, phải đầu thai đi, đầu thai lại mãi đặng trả quả. Cho tới ngày nào chúng ta thật biết rằng mình khác hơn ba thể : Thân, Vía, Trí và bắt đầu tập luyện đặng sửa trị chúng, thì chúng ta mới cải-thiện được đời sống của chúng ta và tiến lần tới Giác-Ngạn.
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
QUYỂN TƯ
BA THỂ TRƯỜNG TỒN :
THƯỢNG TRÍ – KIM THÂN – TIÊN THỂ -
LẬP HẠNH
1971
BA THỂ TRƯỜNG TỒN
Về ba thể nầy tôi chỉ nói vài lời thôi.
1. THƯỢNG-TRÍ HAY LÀ NHÂN-THỂ
Thượng-Trí làm bằng 3 chất Thượng-Thanh-Khí cao
của cõi Thượng-giới là chất thứ nhứt, chất thứ nhì và chất thứ ba.
Nó để sanh ra những tư-tưởng trừu-tượng, vô
hình.
Gọi
nó là Nhân-Thể (Corps Causal) bởi vì nó chứa đựng những nguyên-nhân, những
mầm giống, ngày sau sanh ra những hậu-quả, những quyền-năng.
CÁCH CẤU TẠO THƯỢNG-TRÍ
Khi con thú tấn-hóa tộc bực cao rồi thì
Chơn-Thần mới xuống biến đổi Hồn nó (tức là Hồn thú) ra Thượng-Trí và sanh
ra Chơn-Nhơn một lượt với nhau.
Có Thượng-Trí rồi con thú mới có cá-tánh và cả triệu năm sau mới đi đầu thai
làm người được. Nó còn phải
trải qua nhiều giai-đoạn khác.
Điều nầy thật cực kỳ khó hiểu cho những người
mới học Đạo. Chúng ta không
tưởng-tượng nổi đâu. Phải
tu-hành tới bực La-Hán mở Huệ-nhãn mới quan-sát được sự biến-đổi nầy.
MÀU SẮC CỦA THƯỢNG-TRÍ
Những điều ta có thể biết là Thượng-Trí của
người dã-man thì gần như không có màu sắc chi hết.
Sau khi đầu thai nhiều kiếp rồi y bắt đầu mở-mang những tánh tốt thì
Thượng-Trí mới có màu sắc.
Có điều đặc-biệt là trong Thượng-Trí không có
màu sắc đen tối những tư-tưởng xấu chỉ cảm đến Hạ-Trí mà thôi.
Tỷ như : Tánh ích-kỷ - Phần đối-chiếu của tánh
nầy trong Thượng-Trí hiện ra bằng cách nào ?
Ấy là một lổ trống chỉ rõ sự khiếm-khuyết tình
yêu thương và thiện-cảm. Khi
con người mở-mang tình yêu thương và thiện-cảm thì lổ trống đó càng ngày
càng lấp thêm cho tới một ngày kia thì nó sẽ đầy. Về mấy đức tánh kia cũng
vậy.
Những đức tánh mà chúng ta chưa có là những lổ
trống trong những phần đối-chiếu của chúng trong Thượng-Trí.
Vì thế muốn biết sự tiến-hóa của một người nào
thì phải mở Huệ-nhãn xem coi Thượng-Trí của y.
Có khi vì nhân-quả mà một người kia thân hình không được đẹp lắm mà đã
tiến-hóa khá cao về đường tinh-thần.
Trái lại, một người khác diện mạo phương phi mà tâm tánh lại không
được tốt lắm.
Sự xét đoán về bề ngoài chỉ đúng có một phần
nào đó mà thôi.
SỰ DÙNG THƯỢNG-TRÍ LÀM MỘT THỂ ĐỘC-LẬP
Muốn dùng Thượng-Trí làm một thể độc-lập đặng vào cõi Thượng-Thiên thì phải tu hành tới bực A-na-hàm, được 3 lần Điểm-Đạo.
Chúng ta rất còn xa điểm nầy lắm.
2. KIM-THÂN
Kim-Thân hay là Thể Bồ-Đề làm bằng 7 chất
Thái-Thanh-Khí của cõi Bồ-Đề.
Nó cũng gọi là Thể Trực-giác bởi vì Trực-giác từ thể nầy qua Thượng-Trí, cái
Trí, cái Vía, cái Phách rồi mới tới cái óc xác thịt (1) [(1) Trực giác có
thể truyền sang qua cái Vía tức khắc khỏi cần qua Thượng-Trí và Hạ-Trí bởi
vì cái Vía liên-quan với thể Trực-giác tức là Kim-Thân].
Xin nhắc lại, sự truyền qua nầy bằng những lằn rung động và bởi những
thể xỏ rế với nhau cho nên sự chuyển-giao rất dễ-dàng và mau lẹ.
Phải tu hành tới bực La-Hán được 4 lần Điểm-Đạo mới dùng được Kim-Thân như
một thể độc-lập đặng vào ra và học hỏi ở cõi Bồ-Đề.
3. TIÊN-THỂ
Tiên-Thể làm bằng 7 chất khí của cõi Niết-Bàn.
Tới bực Chơn-Tiên được 5 lần Điểm-Đạo mới dùng được Tiên-Thể.
SỰ LIÊN-LẠC GIỮA NHỮNG THỂ CỦA CON NGƯỜI
Có sự liên-lạc trực-tiếp giữa những thể của con người.
1.
Tiên-Thể liên-lạc với xác thân.
2.
Kim-Thân liên-lạc với Cái Vía.
3.
Thượng-Trí liên-lạc với Hạ-Trí.
Sự liên-lạc nầy biểu-hiện bằng những lằn sóng
rung động truyền sang từ thể nầy qua thể kia nhờ những Trung-Tâm-Lực gọi là
Luân-xa (Chakras).
*
Xin nói rằng : trạng-tả những thể vô hình từ
Cái Phách tới Tiên-Thể là nói chuyện mua trâu vẽ bóng vì ta không thấy chúng
nó.
Phải mở từ Thần-nhãn tới Huệ-nhãn, Phật-nhãn
mới thật biết chúng nó ra sao, nhưng nếu không nói vài lời về chúng nó thì
không thế nào luyện tập đặng trở nên tinh-tấn và sáng-suốt được.
Nói trắng ra, sự học-hỏi nầy là sự
học-hỏi gián-tiếp chớ không phải
trực-tiếp.
Học-hỏi trực-tiếp là thấy rõ sự cấu-tạo một
tế-bào rồi sự kết-hợp các tế-bào làm ra một cơ-quan và sự sống hành-động
cách nào mà các cơ-quan lại liên-hệ với nhau và chỉ làm việc cho một
mục-đích chung là sự sống của con người … vân vân.
Mấy điều nầy chỉ có dạy trong cửa Đạo mà thôi.
Mà muốn bước vào cửa Đạo thì phải có đủ những đức tánh kể ra trong
cuốn Dưới Chân Thầy chớ không còn phương nào khác nữa.
Về những vấn-đề “Bên kia Cửa Tử - Luân Hồi –
Nhân Quả” xin xem những sách của tôi đã xuất-bản.
Tôi xin nói về phương-pháp Lập-Hạnh vì nó rất
cần-thiết cho sự tiến-hóa của con người từ kiếp nầy qua kiếp kia.
NÓ BIẾN ĐỔI CON NGƯỜI TRƯỚC NHỨT RA MỘT VỊ THIỆN-NHÂN RỒI LẦN LẦN TỚI BỰC
SIÊU-PHÀM.
Đức
Phật có nói : Nếu chặt đứt 10 xiềng-xích gọi là Samyojana trói buộc con
người vào bánh xe Luân-Hồi thì con người được hoàn-toàn giải-thoát.
Con người sẽ thành một vị A-sơ-Ca (Aseka) người mình gọi là
Chơn-Tiên.
Mười dây xiềng-xích nầy là :
1.
Phàm-nhơn là ảo-ảnh.
2.
Sự hoài-nghi.
3.
Mê-tín - Dị-đoan.
4.
Dục-vọng Hồng-trần.
5.
Oán giận – Thù hiềm.
6.
Muốn sống trong cõi hữu-hình.
7.
Muốn sống trong cõi vô-hình.
8.
Kiêu-căng.
9.
Tâm còn xao-động.
10. Vô-minh.
Xin tóm-tắt những điều-kiện nầy ra sau đây :
1.
Phải có đủ những đức tánh đã kể ra trong quyển Dưới Chơn Thầy mới được
Điểm-Đạo lần thứ nhứt làm một vị Tu-Đà-Hườn (Shrotapatti).
2.
Vị Tu-Đà-Huờn phải chặt đứt 3 dây xiềng-xích đầu tiên.
a. Phàm-nhơn là ảo-ảnh.
b. Sự hoài-nghi.
c. Mê-tín - Dị-đoan.
mới được Điểm-Đạo lần thứ nhì làm một vị
Tư-Đà-Hàm (Sakridagamin).
3.
Vị Tư-Đà-Hàm phải lo mở-mang Thượng-Trí và tu-hành thêm mới được Ba lần
Điểm-Đạo làm một vị A-na-Hàm (Anagamin)
4.
Vị A-na-Hàm phải diệt 2 chướng ngại thứ tư và thứ năm :
Dục-vọng Hồng-Trần.
Oán giận – Thù hiềm.
mới được Điểm-Đạo lần thứ tư làm một vị La-Hán
(Arhat).
4. Vị La-Hán phải trừ tuyệt 5 chướng ngại chót mới được 5 lần Điểm-Đạo làm một vị A-sơ-Ca (Aseka) hoàn toàn sáng suốt.
*
Thường thường bực trung, Vị Tu-Đà-Huờn phải tu
7 kiếp mới lên tới bực La-Hán.
Vị La-Hán phải tu 7 kiếp nữa mới thành một vị A-sơ-Ca (Aseka).
Có thể rút ngắn thời gian nầy lại nhờ công phu luyện tập.
LẬP HẠNH HAY LÀ LUYỆN TẬP TÁNH-TÌNH
Muốn lập hạnh, ta phải chiêm ngưỡng
tánh tốt rồi đem thật-hành nó trong ngôn-ngữ, và hành-động hằng ngày.
Đức tánh nầy sẽ trở nên một thành-phần cố hữu của tánh nết ta.
Đây là một định-luật Thiên-nhiên bất di bất
dịch. Nên ghi nhớ khi con người
tập trung tư-tưỏng vào một đức tánh nào thì đức tánh đó sẽ dần dần thành ra
một thành-phần của tánh nết ta rồi về sau đức tánh đó sẽ biểu lộ một cách
tự-động, không khó-khăn chút nào.
NHỮNG ĐỨC TÁNH CẦN-THIẾT ĐỂ TẠO LẬP MỘT TÁNH
TÌNH SIÊU-PHÀM.
Trong chương thứ 16 của Thánh-kinh Bhagavad
Gita, Đức Sri Krishna có nói cho Arjouna biết những đức tánh cần-thiết để
tạo-lập một tánh tình
Siêu-phàm.
Bảng danh sách những đức tánh đó như sau :
1.
Tánh vô-úy (Absence de toute crainte).
2.
Tấm lòng trong-sạch (Pureté du coeur).
3.
Bền-chí luyện tập theo Pháp-môn Minh-Triết (Constance ou Fermeté dans le
Yoga de la Sagesse).
4.
Lòng nhân-đức (La Charité).
5.
Tự-chủ (Maitrise de soi).
6.
Hy-sanh (Sacrifice).
7.
Sự học-hỏi các Thánh-kinh (Etude des Ecritures).
8.
Khổ-hạnh (Austérité).
9.
Ngay-thật (Franchise).
10.
Ngây-thơ, chất-phác (Innocence).
11.
Chơn-thật (Véracité).
12.
Không hờn-giận (Absence de la colère).
13.
Dứt-bỏ, Từ-khước (Renoncement).
14.
Yên-tịnh (Paix).
15.
Không vu-khống (Absence de calomnie).
16.
Lòng từ-bi đối với mọi sanh-vật (Compassion pour tous les êtres vivants).
17.
Không ham muốn chi cả (Absence de tout désir).
18.
Tánh dịu-dàng (Douceur).
19.
Không thay đổi bất thường (Absence de caprice).
20.
Can-đảm (Gan dạ) (Audace).
21.
Độ-lượng khoan-hồng (Clémence).
22.
Đại-độ (Cao-thượng) (Magnanimité).
23.
Ngay-thẳng (Công-bình) (Droiture).
24.
Yêu thương, Yêu mến (Affection).
25.
Không kiêu-căng tự-phụ (Absence de tout Orgueil).
Đó là phần sở hữu của kẻ sanh ra với những đức
tánh thiêng-liêng.
Không bao giờ Sanh-viên có một lượt đủ hết
những đức tánh nầy đâu, nhưng lần lần nhờ sự lập hạnh, anh sẽ có đủ những
đức tánh đó.
Trong lúc nhàn rỗi, nếu anh cẩn-thận đọc lại
bảng danh-sách nầy thì anh sẽ thấy chúng nó có thể xếp được từng loại
rõ-rệt.
Tỷ như :
a. Tánh vô úy, Can đảm, Ngay thẳng, Chơn thật, Ngay thật, Khổ hạnh, Bền-chí trong sự luyện-tập theo Pháp-môn Minh-Triết, Dứt-bỏ có thể xếp vào một loại.
b.
Lòng Nhơn-đức, Lòng Từ-bi đối với sanh-vật.
Độ-lượng khoan-hồng, Đại-độ (Cao-thượng), Hy-sanh,
Không vu-khống, Dịu-dàng, Yêu-thương, Ngây-thơ, Chất-phát . . . có thể xếp
vào một loại, vân vân.
Quí bạn có thể sắp đặt một cách khác, tùy ý . .
.
Ban sơ, ta thật-hành mỗi đức tánh một cách bất
toàn, nhưng đều-đặn, không đứt quảng, từ ngày nầy qua ngày kia, dầu chưa
thành công chớ mỗi bước ta đều tiến
về mục-đích mà sau nầy thế nào ta cũng đạt được.
Quí bạn hãy để ý coi : những sợi chỉ vàng của
lòng vô tư lợi, của tình yêu thương, của tánh thơ ngây, đem dệt với lòng
can-đảm, với sức mạnh, với sự nhẫn-nại thì làm cho tánh nết được quân-bình
(thăng-bằng) một cách tuyệt-diệu.
Đó là tánh tình vừa cứng-cỏi, vừa dịu-dàng, vừa can-đảm, vừa từ-bi,
một tánh tình oai-nghiêm bất di bất dịch, sẵn-sàng hết lòng cứu giúp kẻ
yếu-đuối, một tánh tình rất sùng đạo, rất tinh-khiết, một tánh tình có
kỷ-luật, và nhờ như vậy mà được điều-hòa.
Quí bạn hãy nhận lấy một tánh tình như thế làm lý-tưởng để tham-thiền mỗi ngày, và đem ra áp-dụng từng chi-tiết. Trong một thời-gian sau, quí bạn sẽ tự thấy quí bạn đã thành một người mới.
BA YẾU-TỐ QUAN-TRỌNG CÚA SỰ LẬP HẠNH
Ba yếu-tố quan-trọng của sự lập hạnh là :
Tư-tưởng chơn-chánh.
Lời nói chơn-chánh.
Việc làm chơn-chánh.
I. TƯ-TƯỞNG CHƠN-CHÁNH
Đọc đoạn “Ảnh-hưởng của tư-tưởng tốt” chắc-chắn
quí bạn đã hiểu tư-tưởng chơn-chánh là thế nào rồi.
Tôi xin nói vài lời thêm.
Tư-tưởng chơn-chánh là tư-tưởng từ-bi, bác-ái,
cao-thượng, tốt đẹp, khoan-dung, đại-độ, can-đảm, hy-sanh, ngay thật,
trung-trực, không bao giờ tính-toán gạt-gẫm ai, hãm hại ai dầu cho được lợi
lộc cho mình bao nhiêu cũng vậy tức là vô tư lợi ; nói tóm lại là quên mình,
chỉ lo mưu hạnh-phúc cho quần-sanh đặng Phục-hưng Tinh-Thần của nhơn-loại.
CÁCH XUA ĐUỔI MỘT TƯ-TƯỞNG XẤU
Xin nhắc lại muốn cho tư-tưởng chơn-chánh thì
phải xua đuổi tư-tưởng thấp hèn, quấy-quá ra khỏi trí.
Phải tập-luyện cho có phương-pháp và
bền-chí bởi vì sự luyện-tập đòi hỏi một thời-gian dài lâu và vô cùng khó
nhọc, không kiên-nhẫn sẽ thất bại.
Có ba giai-đoạn.
Giai-đoạn thứ nhứt
; Đầu tiên, việc làm dễ hơn hết là đổi chiều hướng của tư-tưởng hay là
suy-nghĩ đến việc khác.
Giai đoạn thứ nhì : Rồi về sau,
không cho tư-tưởng xấu vô trí nữa.
Nhưng trước khi sanh-viên có đủ sức mạnh cần-thiết để đóng cửa cái
Trí, giữ được bình-tĩnh và thăng-bằng, không bị ảnh-hưởng bên ngoài chi phối
thì anh phải lấy một ý-tưởng nầy để
thay thế cho một ý-tưởng khác.
Anh phải luôn luôn lấy một tư-tưởng
cao-thượng có đặc-tánh trường-tồn thay thế cho một tư-tưởng thấp hèn,
phù-phiếm.
Tỷ như tư-tưởng chơn-chánh đánh đổ
tư-tưởng xảo-trá, tư-tưởng hiền-lương hất ra ngoài trí ta tư-tưởng hung-bạo,
vân vân .
Phương-pháp nầy có hai điều lợi :
-
Một là xua đuổi một tư-tưởng xấu.
-
Hai là tập cho cái Trí đứng vững-vàng nơi cảnh giới trường-tồn, khiến cho nó
nhận-định được HIỆN TẠI LUÔN LUÔN TRÔI MẤT, không đáng cho ta quan tâm đến.
Sự luyện tập nầy thêm sức mạnh cho Linh-hồn
trong lãnh-vực những vấn-đề trường-tồn, nó khiến cho Linh-hồn chăm-chú vào
CÁI VÔ THỈ VÔ CHUNG. ĐÓ LÀ
BÍ-QUYẾT CỦA MỌI SỰ AN-LẠC THIỆT THỌ TRONG CÕI TRẦN CŨNG NHƯ TRONG CÁC CÕI
KHÁC
Giai-đoạn thứ ba : Tới giai-đoạn thứ ba nầy, khi thí-sanh khá vững bước rồi thì anh cảm thấy trong tâm anh có một sức mạnh đương phát-triển, sức mạnh nầy phát sanh từ cái Tinh-thần vững chắc. Bây giờ anh trở nên khá mạnh-mẽ, có thể tập-trung tư-tưởng vào một nơi nào anh muốn và tâm trí cứ định ở đó mãi, bất di bất dịch, dầu xung quanh anh giông-tố nổi lên dữ-dội đến thế nào cũng mặc. Sự định-trí nầy mạnh-mẽ, không hề bị lay chuyển, đến đổi không một sức mạnh nào ở bên ngoài có thể đến khuấy-rối anh được.
Anh đạt đến một trình-độ vinh-diệu, không cần
phải lấy ý-chí diệt trừ những tư-tưởng xấu nữa.
Một khi chạm tới Thánh-Điện của
Linh-hồn thì những tư-tưởng đó rơi xuống tan-tành, không khác nào những mũi
tên bắn vào vách thành đồng phải gãy ngang và rớt xuống tả-tơi như lá rụng.
Cái Trí không còn cần phải bị kềm hãm nữa, nó
đã trở nên tinh-khiết, trong suốt, biết vưng lời.
Sự định-trí nầy được tượng-trưng như một ngọn
đèn để ở một chổ kín-đáo nên không có một luồng gió nào làm cho nó chập-chờn
được.
Chính là ở tại chổ nghỉ-ngơi nầy mà thí-sanh
bắt đầu hiểu được ý-chí là gì ? và chính ở nơi đó anh tìm thấy sự an-lạc
hoàn-toàn.
Đó là một nơi yên-ổn, ở dưới bóng mát của những
bức tường của Thánh-Điện mà kinh Kathopanishad (II-2) của Ấn-Độ đã nói đến
như sau đây :
“Thoát khỏi dục-vọng, thoát khỏi sự đau khổ,
Con người trong sự yên-tịnh của giác-quan Chiêm-ngưỡng vẻ tôn-nghiêm của
Linh-hồn mình”.
ĐỀ PHÒNG NHỮNG SỰ CÁM-DỖ VÀ NHỮNG SỰ TẤN-CÔNG CỦA KẺ NGHỊCH
Khi Sanh-viên tiến bước lần lần từng chặng thì
những cám-dỗ tế-nhị đến tấn-công anh.
Chúng không đá động đến Bản-ngã thấp hèn của anh mà mạnh bạo chống
lại với Bản-ngã cao siêu của anh.
Vì không thể thành-công với những dục-vọng và những cám-dỗ thấp hèn
thô-tục của xác-thân, chúng tìm cách dùng cái Trí khôn của kẻ Đệ-tử đặng
tiêu diệt anh, những sự cám-dỗ tế-nhị của cõi Trí-tuệ ào tới tấn-công anh
từng đám, hết đám nầy đến đám kia.
Chúng gài bẩy Linh-hồn.
Trong khi anh bước đi trên con đường Đạo
gian-lao hiểm-trở, chúng từ tứ phía chạy lại bao vây anh.
Người Đệ-tử phải hoàn-toàn làm chủ những hình tư-tưởng do chính anh
đã tạo ra, trước khi anh có thể tiếp tục lên đường.
Lãnh-đạm, trầm-tĩnh, trơ như đá,
vững như đồng giữa cái đám tư-tưởng linh-động, mãnh-liệt tựa bầy ong bay
nhanh đó. Không phải là cái Trí
thông-minh yếu ớt của người thường nơi Hạ-giới đã nuôi dưỡng những tư-tưởng
nầy mà chính là một năng-lực kinh-khủng, thuộc về bản-chất những thần-lực
của cảnh-giới thiêng-liêng, dĩ nhiên thuộc về khía cạnh tối-tăm chớ không
phải khía cạnh sáng-sủa, vì những mảnh-lực tàn phá nầy phát-sanh từ những kẻ
muốn giết chết Linh-Hồn, chớ không phải những kẻ sẳn lòng cứu vớt nó.
Ở sân ngoài, Thí-sanh đương đầu với những
tư-tưởng đó, và chúng tấn-công với tất cả sức mạnh của những lực-lượng
ghê-gớm ác độc. Nếu trong sân
ngoài, Thí-sanh không làm chủ được cái Trí khôn của mình, nếu anh chưa được
luyện tập cho quen để chống đối với những sự tấn-công ti-tiện ở ngoài đời
thường thì
làm sao anh có thể đương đầu với những đạo quân của
Ma-Vương. Làm sao anh có thể
vượt qua giai-đoạn cuối cùng của sân ngoài, chung quanh đó, những kẻ tử thù
của Linh-hồn tụ hợp đông đúc, chúng không bao giờ để ai đi lọt qua nơi đó,
nếu không phải là người hoàn-toàn giữ được sự An-tịnh nơi mình.
II. LỜI NÓI CHƠN-CHÁNH
Thế nào là lời nói chơn-chánh ?
Lời nói chơn-chánh phải có đủ 3 đúc tánh nầy :
-
Một là : có cần-thiết không ?
-
Hai là : có đúng với sự thật không ?
-
Ba là : có từ-thiện không ?
A.--CÓ CẦN-THIẾT KHÔNG ?
Cần-thiết đây có nghĩa là : đúng lúc
và hữu-ích. Lời nói chỉ có hiệu
quả tốt đẹp là khi nào nói có suy xét và cố ý chớ không phải nói suồng-sã,
tầm ruồng, đụng đâu nói đó, một cách vô tâm.
Lời nói phải từ nộ tâm phát ra. Âm-điệu du-dương chỉ có thể nảy sanh
trong khi vắng tiếng rầy-rà ồn-ào.
Lời nói chơn-chánh phải có tính cách giúp-đỡ phá tan
những đau-khổ, giải-quyết những sự khó-khăn, và đem lại hạnh-phúc cho con
người. Ngạn-ngữ Tây-phương :
“Phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, thật
đúng lắm vậy.
Một lời nói có thể gầy-dựng giang-sơn, mà một
lời nói cũng có thể làm tan tành sự nghiệp và mang tai-họa vào thân.
Những gương nầy, từ xưa đến nay, đã xẩy ra không biết bao nhiêu lần
rồi, nhưng vẫn ít có người thận trọng.
B.--CÓ ĐÚNG SỰ THẬT KHÔNG ?
Trong đạo Bát-Chánh của Phật-giáo, Chánh-ngữ tức là
lời nói chơn-chánh đưọc sắp vào hàng thứ ba sau Chánh-kiến.
(Thấy Chánh hay là Phân-biện), và Chánh Tư-duy (Tư-tưởng chơn-chánh).
Muốn cho lời nói chơn-chánh thì phải nói cho
thật đúng, hết sức thật đúng.
Chớ thật đúng một cách tầm thường như ngoài đời thì chưa thật là đủ.
Song được bao nhiêu đó cũng đã khá lắm rồi.
Người đệ-tử phải nói hết sức đúng với sự thật.
Phải nói thật một cách tuyệt đối.
Đây là một đức tánh cần-thiết hơn hết cho những
ai muốn đi theo con đường Huyền-Bí Học.
Phải thật đúng trong khi nhận-xét.
Phải thật đúng trong khi tường-thuật lại mọi
việc.
Phải thật đúng trong khi tư-tưởng.
Phải thật đúng trong lời nói, trong việc làm, trong lúc hành-động
Nếu không ngớt tìm kiếm sự thật, nếu không
chí-quyết để trở thành một người tự mình đúng với sự thật thì không thể nào
đi theo con đường Huyền-Bí Học được.
Huyền-Bí-Học sẽ là một sự nguy-hiểm,
một sự sa ngã mà thôi. Sự sa
ngã nầy càng đáng sợ, càng đau thương khi Sanh-viên càng lên cao.
Tại sao thế ?
Bởi vì đối với nhà Huyền-Bí-Học, sự thật đúng
vừa là một người chỉ đường, đưa lối, một người hướng-đạo,vừa là một bộ áo
giáp để che chở họ.
Sự thật đúng là người hướng-đạo vì nhờ nó mà
nhà Huyền-Bí-Học có được Trực-giác, khiến anh có thể phân-biệt con đường
chơn-chánh và con đường sai lầm : Chánh-đạo và Tà-đạo.
Nó là một bộ áo giáp, vì nếu nhà Huyền-Bí-Học không mặc áo giáp
Chơn-Thật đó thì không thể nào tránh khỏi cạm bảy của kẻ nghịch đưa ra,
Anh sẽ là nạn nhơn của ảo-ảnh và những hình thù quái-đản của những
cảnh giới mà anh phải đi qua.
Áp-Dụng Sự Thật Đúng Trong Tư-Tưởng, Lời Nói Và
Việc Làm Sẽ Lần Lần Thức-Tỉnh Được Cái Trực-Giác Tinh-Thần, Nó Thọc
Thủng
Tất Cả Những Tấm Màn Ảo-Tưởng Và Không Khi Nào Bị Một Thế-Lực Gì ở Đời Lừa
Dối Được. Những Tấm Màn Che Mắt
Giăng Khắp Mọi Nơi.
Trong cõi đời ảo-tưởng nầy, những hình-dáng
giả-dối từ tứ phía nổi lên, cho đến ngày nào mà Trực-giác, Tinh-Thần với tia
mắt nhìn thẳng-thắn và không sai lầm của nó đi xuyên qua được mặt nạ che
giấu sự vật thì ngày đó nhà Huyền-Bí Học mới vững bước trên con đường đầy
chông gai nầy.
Ta không thể đạt được Trực-giác đó nếu không
tập luyện để có được sự Thật đúng trong Tánh-tình, sự thật đúng trong
Trí-não, sự Thật đúng trong tâm địa mình.
Không có sự thật đúng, Ta sẽ thất bại, Ta sẽ
lầm-lạc, không bao giờ tránh khỏi điều nầy được.
Về sự Thật, đức Leadbeater nói cho chúng ta
biết rằng những danh-từ chính-xác và cụ-thể cái nghĩa của sự Thật trong
ngôn-ngữ là :
Đúng-đắn ; danh-từ chọn lựa kỹ-lưỡng rõ-ràng,
không chuốt ngót.
Trong Ấn-Độ giáo có một quan-niệm rất quen
thuộc với chúng ta là : âm-thanh tạo-lập vũ-trụ.
Âm- thanh đây có nghĩa là : mọi thứ rung động.
Đó là lý-do khiến cho người ta qui cho nó một năng-lực đặc-biệt.
Khi chúng ta nói, chúng ta phát ra một cái gì đó mà không thể thay
đổi được nữa. Lời nói chúng ta
làm tượng-trương cho tất cả những kết-quả do chúng ta gây ra và những
động-tác hành-vi, đủ hết các thứ.
Theo nghĩa tổng-quát nầy, chúng ta phải tập sao cho mỗi khi nói, làm
vang lên âm-điệu, trong-trẻo và đích-xác, thật đúng điệu.
Đó là một lý-tưởng cao thật, nhưng trong khi hoài-bão những lý-tưởng
của chúng ta và gắng sức làm cho đời sống của chúng ta phù hợp theo đó, ta
không nên “ Quên nghỉ đến sự Thật ”.
Đừng để có sự thoả hiệp với khuynh-hướng trì-độn, ngăn trở sự cố-gắng
và giảm bớt sự hy-sinh của chúng ta.
C.—CÓ TỪ-THIỆN KHÔNG ?
Quyển “Ánh-sáng trên đường Đạo” đã dạy
Trước khi được nói trước mặt Chơn-Sư, lời nói phải mất năng-lực, làm thương tổn.
Nói một cách khác dễ hiểu, lời nói phải dịu-dàng, không nhục-mạ ai, không
làm đau lòng ai. Sự dịu dàng và
sự Thật đúng không có chống đối nhau như người ta thường lầm tưởng như vậy.
Lời nói có thể Thật đúng trọn vẹn mà hết sức dịu-dàng, nhả-nhặn và
từ-ái. Và khi nó càng thật đúng
bao nhiêu thì nó càng phải dịu-dàng bấy nhiêu, mà chính ngay trong Trung-Tâm
của sự vật, Chơn-lý và lòng Từ-bi vẫn hằng sống đời đời bên cạnh nhau.
Vì bởi lời nói phải phản-chiếu cái Tinh Hoa sâu
kín nhứt của Vũ-trụ thì không nên vô cớ làm mích lòng người, hay sanh ra một
chút ngời vực nào cả. Vậy lời
nói phải Thật đúng, phải dịu-dàng, và nhã-nhặn.
Đó là sự khắc-kỷ về lời nói, sự thiệt thọ hãm mình trong ngôn-ngữ, sự
hy-sinh mà mỗi người Chí-nguyện phải thật-hành.
Qúi bạn sẽ hõi : Nếu phải cảnh-cáo hay
khiển-trách thì phải làm thế nào ?
Nếu cảnh-cáo hoặc khiển-trách là những điều có
khi phải cần đến thì kết-quả của nó phải có phần bổ ích.
Nó phải thức-tỉnh, khuyến-khích, sửa đổi, chớ
đừng làm cho người có lỗi ở trong tình-trạng ngã lòng, rủn chí.
Một đôi khi Chơn-Sư có thể tỏ ra
nghiêm-khắc trong lời nói, nhưng như thế là Ngài muốn cho Đệ-tử hiểu cái lỗi
đã phạm một cách rành-mạch và rỏ-ràng hơn.
Đồng thời Ngài cũng muốn làm cho tâm-hồn Đệ-tử được thêm phần mạnh-mẻ
và đầy nghị-lực.
CHỚ NÊN HIỂU LẦM SỰ NÓI THẬT ĐÚNG
Tuy nhiên cớ nên hiểu lầm sự nói Thật đúng với sự nói hành.
Không phải phanh-phui những tật xấu của
thiên-hạ hay là mắng xối trên đầu người ta rồi viện lẽ rằng : “mình nói sự
thật”. Không nên đem những sự
bí-mật trong nghề-nghiệp, trong gia-đình, trong xã-hội, trong nước nhà nói
trắng ra để tỏ ra mình tay thạo đời là mình thành thật.
Điều đó là khờ dại, là đần độn và chuốc lấy tai-họa vào thân. Ngạn-ngữ Tây-phương có câu :
“Không nên nói ra tất cả
những sự thật”.
Thật là đúng lắm vậy. Phải sáng
suốt, phải biết phân-biện, phải thận trọng từ chút, vì có nhiều việc dầu
biết rõ cũng phải giữ thái-độ im-lặng, vì đó là điều hay hơn hết đặng tránh
nhửng phiền-phức về sau có thể xẩy ra.
VIỆC LÀM CHƠN-CHÁNH
Việc làm chơn-chánh (Chánh-nghiệp) đứng vào
hàng thứ tư của Đạo Bát-Chánh.
Nếu tư-tưởng chơn-chánh và lời nói chơn-chánh thì lẽ dĩ nhiên việc làm cũng sẽ thành chơn-chánh vậy.
Cái nhân đã như thế thì cái quả cũng sẽ như thế, chớ không sao khác được.
Vì sự hành-động tức là sự biểu-lộ của sức mạnh nội-tâm và khi nào
tư-tưởng đã trong sạch, khi lời nói đã thật đúng và ngay thẳng thì sự
hành-động sẽ tất nhiên cao-thượng.
Phát nguyên từ ngọn suối êm-đềm, ngon ngọt thì
dòng nước cũng phải êm-đềm, ngon-ngọt, chớ không thế nào khác hơn được.
Phát sanh từ một tấm lòng và một khối óc tinh-khiết thì sự hành-động
chỉ có thể là chơn-chánh và từ-thiện mà thôi.
Tư-tưởng chơn-chánh.
Lời nói chơn-chánh. Việc
làm chơn-chánh là ba sợi dây liên-kết Người Chí-Nguyện một mặt với nhơn-loại
trong việc Phụng-sự cao siêu, một mặt với Sư-Phụ anh.
Ba sợi dây nầy không thế nào cắt đứt được.
Trong các tôn-giáo lớn, Ba sợi dây nầy là dấu
hiệu của sự hoàn-toàn tự-chủ ; tự-chủ về Tư-tưởng, Lời nói và Việc làm.
Và sau hết thì mọi sự sẽ ra sao ? Về ngôn-ngữ,
con người thật là bất lực, không sao miêu tả được đoạn chót của sự lập hạnh
nầy. Những màu sắc tối-tăm của
Trái Đất không sao miêu tả nổi cái vẻ mỹ-lệ của Lý-tưởng hoàn-toàn ấy mà
chúng ta hy-vọng một ngày kia sẽ đạt được, mà chúng ta biết rõ rằng một ngày
kia sẽ thành tựu được. Có bao
giờ Lý-tưởng nầy đã hiện rõ ra với chư huynh trong những lúc lặng-lẽ không ?
Chư huynh có bao giờ trông thấy cái phản-ảnh của nó trong sự an-tịnh của
trái đất cũng như trong sự tịch-mịch của Bầu Trời không ?
Chư huynh có bao giờ trông thấy các vị Tiên
Thánh còn sống và hoạt-động không ? Các vị trước kia đã là người và bây giờ
đã vượt qua trình độ của con người, đã trở thành những vị Siêu-nhân cao cả
oai-nghiêm. Sau nầy nhân-loại
cũng sẽ được như các Ngài, tuy bây giờ chưa đi đến trình-độ ấy, trừ ra ở
những vòng trong của Thánh-Điện.
NHỮNG ĐỨC TÁNH PHẢI TẬP
12 Đức tánh phải tập là :
1.
Từ-bi, Bác-ái.
2.
Nhẫn-nại.
3.
Khoan-dung.
4.
Điềm-tĩnh.
5.
Tinh-tấn.
6.
An-phận.
7.
Thành-thật.
8.
Thiệp-thế.
9.
Thiện-cảm.
10.
Can-đảm.
11.
Hy-sanh.
12. Phụng-sự.
Mỗi tháng phải tập một đức tánh, 12 đức tánh
trọn 12 tháng. Rồi trở lại đức
tánh thứ nhứt. Phải tập trọn
bẩy năm như vậy không gián-đoạn, chúng sẽ thành ra những phần-tử của tánh
nết của ta và theo ta từ kiếp nầy sang kiếp kia.
Đức tánh thứ tám.
Thiệp-thế nghĩa là xét đoán và hành-động chính-chắn luôn luôn đúng
với tập quán, sở thích và nghi-lể của người đời.
Có thể nói là xử sự khéo-léo.
LÃNH-ĐẠM
Tuy nhiên quí bạn hãy tập tánh
Lãnh-đạm,Lảnh-đạm đối với những nỗi vui buồn, lãnh-đạm đối với những
kết-quả, lãnh-đạm đối với những lời ngợi khen hay chê bai, lãnh-đạm đối với
những yêu thương hay ghen ghét, lãnh-đạm đối với thế-thái nhân-tình, lãnh
đạm đối với sự thành-công hay thất-bại, lãnh-đạm đối với những sự thử-thách,
hầu giữ vững thăng-bằng, vì quí bạn đánh đúng giá trị của chúng.
Không nên tưởng rằng : hể lãnh-đạm thì trở nên
vô tri vô giác không còn biết cảm-động nữa.
Trái lại, càng ngày Sanh-viên càng cảm thấy một cách rõ-rệt những sự
rung động nhỏ nhặt của sự sống trong người anh và ở ngoại cảnh.
Anh càng ngày càng tự điều-hoà với thiên-nhiên, cho nên càng ngày anh
càng trở nên nhạy cảm đối với mọi sự thay-đổi nhẹ-nhàng của mỗi tiết-điệu
trong vạn-vật.
Quí bạn hãy thật-hành tánh lãm-đạm không phải
bằng cách trở nên cứng-rắn, nhưng bằng cách tăng-trưởng lòng thiện-cảm của
mình, không phải bằng cách ẩn mình trong một cái vỏ cứng ngắt, khiến cho bạn
phải xa cách đồng loại, nhưng bằng cách ứng đáp với những sự rung động nhỏ
nhất ở bên ngoài, cùng trong một lúc, quí bạn giữ lấy một sự thăng-bằng
nội-tâm mà không có một sự gì có thể ảnh-hưởng tới, dù sự rung động cố làm
lay chuyển đến cả đáy lòng.
Nói tóm lại, lãnh-đạm là cứ lo làm tròn
bổn-phận, còn cái chi xảy đến cũng mặc, không hề nao núng, cứ bình-thãn và
phẳng lặng như mặt nước hồ thu.
Tâm-thức Sanh-viên càng ngày càng phát-triển, càng ngày càng thấy rõ-rệt sự
hợp nhứt của nó với Đại-thể, Tâm-thức của Thượng-Đế mà nó là một thành phần.
Từ tánh tự chủ và tánh lãnh-đạm bổng
nảy sanh ra tánh không thù ghét ai, người ta nhấn mạnh nhiều lần về đức tánh
nầy trong khi người Chí-nguyện lập hạnh để trở nên Đệ-tử.
Không được thù ghét một điều gì.
Phải thâu gồm tất cả trong phạm-vi của tình yêu thương.
Dù bề ngoài của mọi vật có đáng ghê-tởm đến đâu chăng nữa thì điều đó
cũng không quan-hệ gì, vì Sự Sống và Tình Thương ngự nơi Trung-Tâm của
vạn-vật. Vì vậy người Đệ-tử
đang học-hỏi không loại trừ một vật gì ra ngoài lòng từ bi của mình.
Anh bao hàm mọi sự sanh-linh trong tấm lòng thương yêu của mình và
chú ý đến sự nhạy cảm của chúng.
Anh thành người bạn của vạn-vật, anh thương yêu tất cả những
sanh-vật, dầu là những sanh-vật mà người đời gọi là vô tri vô giác vì tất cả
đồng là con của Đức Thượng-Đế, ngày nay ở vào trình-độ Kim thạch rồi sau
tiến lên thảo mộc, rồi tới cầm thú và con người như chúng ta hiện thời vậy.
OAI-LỰC CỦA LÒNG TỪ-BI
Con người mà lòng dạ nhơn-từ có thể đi qua rừng sâu mà không bị nguy-hiểm.
Y có thể đi vào hang thú dữ mà không bị vồ, có thể lấy tay bắt rắn vì
tấm lòng tràn ngặt tình thương nên không nhìn thấy ở đâu là thù hận cả.
Tình thương phóng ra những tia sáng ra khắp cõi đời và thu hút mọi
vật để phụng sự chúng chứ không phải để hại chúng, vì do sự thu hút nầy làm
thức tỉnh tình yêu chớ không phải lòng thù hận nơi vạn vật.
Vì vậy con cọp lăn mình dưới chơn nhà tu-sỉ
Yogui (Dô ghi) như một người bạn thân, con vật hung-dữ nhứt mang con đến gởi
cho vị Thánh Nhân nhờ Ngài che chở và cứu giúp, vì thế cho nên tất cả mọi
sanh vật đều đến với người có lòng nhân-đức thương yêu, vì vạn vật cũng có
nguồn cội thiêng-liêng. Tình
yêu là thiêng-liêng và khi nào con người thương yêu trọn vẹn thì y thu hút
vạn vật.
Có bạn hoài-nghi, khi đọc đoạn nầy sẽ nói ; Đây
là lý-luận mà thôi. Tôi xin
trình hai bằng chứng cụ-thể : một thuộc về đời xưa và một mới xẩy ra năm
ngoái, năm 1970 tại Ấn Độ.
CHUYỆN THỨ NHỨT
VUỐT-VE RẮN HỔ-MANG
Trong quyển Đông Phương Huyền-Bí trương 227 Ông
Paul Brunton có thuật chuyện ông gặp một con rắn trong chòi ông như sau đây
:
“ Khi vửa mở khóa cửa lớn, tôi sắp sửa bước vào
thì có một vật cựa quậy dưới đất và ngừng lại cách chân tôi trong gang tấc.
Những cử động im-lặng của nó và một tiếng huýt nhỏ như tiếng sáo mà
tôi nghe thoáng qua trong bóng tối trước khi tôi nhìn thấy rõ đó là vật gì,
nhắc-nhở cho tôi rằng có một con rắn ở trong chòi.
Trong một lúc, tôi cảm thấy trong lòng rối loạn vì sợ hải và không
biết phải làm thế nào.
Thần-kinh tôi bị căng-thẳng đến cực-độ.
Tôi nhìn con rắn không chóp mắt, và nó cũng vừa phùng mang vừa giưng
hai mắt nhìn lại tôi.
Sau cùng, tôi định tỉnh tinh-thần và hối-hả rút
lui. Tôi định đi tìm một cây
gậy lớn để đập cho nó một gậy đập xương sống, thì bỗng đâu người khách lạ
ngày hôm qua thình lình xuất hiện ở ngoài sân.
Gương mặt trầm-tỉnh và đôi mắt nhìn yên-lặng của y làm cho tôi bớt sợ
hãi và lấy lại sự bình-tỉnh. Y
đến gần chòi tranh với cái nhìn thoáng qua y đã thấu rõ tình hình và
thản-nhiên bước vào chòi. Tôi
bèn la lớn để báo động nhưng y không màng để ý tiếng kêu của tôi.
Một lần nữa tôi lại băn khoăn sợ hãi vì không có khí-giới y vẫn đưa
hai tay về phía con rắn.
Con rắn há miệng và le cái lưỡi dài như mũi
chĩa thò ra thụt vào, nhưng không định mổ vào người kia.
Trong khi đó có hai người đang tấm dưới ao gần bên, nghe tiếng kêu
của tôi bèn vội vã chạy tới.
Trước khi họ đến gần chòi tranh thì người khách lạ đã khom lưng ngồi gần bên
con rắn và lấy tay vuốt lưng nó trong khi con rắn cúi đầu sát đất và nằm êm
rơ !
Nó không còn phùng mang le lưỡi một cách dữ tợn
như trước nữa, cho đến khi hai người kia bước đến gần và làm cho nó giựt
mình. Khi ấy, nó bèn quẫy đuôi
dường như sực tỉnh, và trước bốn cặp mắt của chúng tôi nó nhanh nhẹ bò ra
khỏi chòi tranh và trong khoảnh khắc đã biến mất dạng trong khu rừng rậm”.
---“ Đó là con rắn hổ mang ! ” một trong hai
người đến sau bình phẩm. Người
này là một thương gia ở thành-phố gần bên, thường đến thăm đạo-viện để chiêm
ngưỡng đức Tôn-Sư hoặc đàm đạo với tôi.
Tôi bày tỏ sự ngạc-nhiên về việc người khách lạ giỡn với con rắn một
cách không chút sợ-sệt. Y bèn
giải-thích :
---“ À đó là đạo sĩ Ramiah, y là một trong
những đệ-tử cao-cấp nhứt của đức Maharichi.
Y là một tay có bản lỉnh khá lắm ”.
Trước khi từ-gỉả, tôi hỏi y (đạo sĩ Ramiah) về
chuyện con rắn hổ mang hôm trước. Y mỉn cười và viết bút đàm câu trả lời :
“Có gì mà phải sợ ! Tôi đến gần nó với tấm lòng
lành, không nuôi tư-tưởng ác, và với một tình bác-ái đối với tất cả chúng
sinh”.
CHUYỆN THỨ NHÌ
MỘT CHUYỆN PHI-THƯỜNG
Trong số xuất-bản ngày 9 Janvier 1970 (mồng 9
tháng giêng 1970), tờ Ấn-Độ Thời-Báo (Hindustan Times) có đăng hình một
du-khách lại gần chuồng của một con cọp trắng tên Rajah trong vườn Bách-thú
Delhi, thò tay vô song sắt vuốt ve con cọp nó liền hết gầm-gừ.
Phóng viên tờ Ấn-Độ Thời-Báo nói : “Du khách
mỉm cười và kêu tên con cọp : “Nầy Rajah”.
Du khách bước sang qua chuồng hai con cọp vàng,
chúng giành nhau để cho anh mơn trớn, không khác nào hai con chó con.
Rồi du khách đến chuồng một con báo Nam Mỹ (Jagur).
Con báo lại gần anh để cho anh rờ-rẫm nó, nó cạ mình vào song sắt coi
bộ thích thú lắm.
Phóng-viên tờ Ấn-Độ Thời-Báo lại nói : “Khi tôi
thử đụng tới con báo thì nó quay đầu lại, rống lên một tiếng dữ tợn hăm he”.
Các bạn muốn biết du khách đó là ai ?
-
Ấy là ông Francis Brunel, cả nước Pháp và nhiều nơi đều biết tiếng, ông là
Cựu Tổng Thư-ký Hội, Thông-Thiên Học Pháp quốc.
Ông giải thích rằng : Loài dã thú có một
thái-độ như thế là nhờ tình thương của ông ban rải cho chúng và chúng cảm
biết tình thương nầy. Ông nói :
“Không có sự sợ-sệt giữa tôi và chúng.
Tôi không sợ chúng mà chúng cũng không sợ tôi”.
Đi tới đâu ông cũng đề cao sự kính-trọng thiên-nhiên và bất cứ sự
sống nào, ông cũng nói về sự cần-thiết cấp bách chận đứng sự bóc-lột vô liêm
sĩ mà người ta đương thực hiện bây giờ đây.
Theo lời phóng-viên thì ông Francis Burnel
dự-định lập ở Ấn và ở Pháp một trường Đại-học kiểu mới gọi là trường Đại-học
của Sự sống chuyên khảo-cứu về thiên-nhiên.
(Thanh-Liên Tạp-chí Le Lotus Bleu của Hội
Thông-Thiên Học Pháp, tháng Chạp 1970 – Décembre 1970 – trích dịch bài
“Người đứng canh La Vigie của đức Sri Ram đăng trong tạp-chí The Théosophist
(Người Thông-Thiên Học) tháng Ba - Mars 1970).
Về sự luyện mình Sinh-viên có trước mặt một
thời-gian vô tận vô biên để thật-hành lý-tưởng của mình.
Quí bạn biết rằng Định-luật
thiên-nhiên vốn bất di bất dịch.
Sức mạnh của quí bạn tung ra nhứt định thế nào cũng phát-sanh những
kết-quả và mỗi hạt giống mà quí bạn đã gieo trồng chắc chắn là sẽ đơm bông
kết trái loại nào theo loại nấy và sau nầy quí bạn sẽ gặt hái được cái
kết-quả tương đương chớ không có gì khác được.
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
QUYỄN NĂM
TINH-THẦN HÓA VÀ HY-SANH
1971
SỰ CHIẾN- ĐẤU CUỐI CÙNG
Nhưng trước khi đạt được sự an-tịnh hoàn toàn,
có một lúc nguy-hiểm mà “ TIẾNG NÓI VÔ THINH” đã thốt lên để báo trước.
Có một lúc khi gần đạt được cái Điểm nơi đó ngọn đèn Tâm không còn
xao-xuyến nữa thì cái Trí và Linh-hồn vẩn còn chiến-đấu mảnh-liệt với nhau
trong một trận cuối cùng. Lúc
đó cái Trí vùng-vẫy như một con voi điên trong rừng.
Phải làm thế nào để thắng được nó.
Đó là trận chiến-đấu cuối cùng của cái Trí.
Đó là bản-ngã thấp-hèn cố gắng một lần chót để chống lại Chơn-Nhơn
cao cả để vứt bỏ cái ách mà nó thấy đang đè nặng trên vai nó.
Đó là sự nổi dậy của bản-ngã thấp hèn như những kinh sách nói về sự
Điểm-Đạo đã đề-cập đến.
Trong tất cả Kinh sách nói về Minh-Triết
Huyền-Bí điều có ghi rằng : Khi Thí-Sanh Đi Gần Đến Thềm-Cửa, Trước khi Bước
Vào Thánh-Điện, Tất Cả Những Sức Mạnh Của Thiên-Nhiên Điều Hợp Lại Để Cản
Bước Y. Tất Cả Những Mảnh-Lực
Của Thế-Gian Điều Chống Lại Y, Để Lôi Y Về Phía Sau.
Đó Là Trận Chiến-Đấu Cuối Cùng Trước Khi Hoàn-Toàn Thắng Trận.
Y phải làm thế nào để chiến-thắng ? –Trên con
Đường -Đạo đầy thử-thách, y phải làm thế nào để nối gót những vị Tiền-bối.
Lúc nầy, những lời dạy của Chơn-Sư lại đến cứu y, chính Ngài đã thốt
ra lời khuyên-nhủ để díu dắt ta.
Tiếng Nói Vô Thinh đã bảo : “ Cần phải có những cứ điểm để thu-hút
Linh-Hồn con người lên với Linh-Hồn Kim-Cương”.
LINH-HỒN KIM-CƯƠNG.
Vậy Linh-Hồn Kim-Cương là Linh-Hồn gì ?
Đó là Linh-Hồn đã hợp-nhứt được với Chơn-Linh
cao cả, đó là Linh-Hồn không khuyết-điểm, không dấu vết, trong suốt như một
viên Kim-cương, thuần-khiết, nó tập-trung Ánh-Sáng của Đức Thượng-Đế trong
một tiêu-điểu duy-nhất cho nhân-loại chúng ta.
Cái danh từ oai-nghiêm mà tôi (Bà A.BESANT) vừa kể trên đây, và tôi
còn có thể kể nhiều danh-từ khác nữa, chúng cũng có một ý-nghĩa tuy chúng
thuộc về những ngôn-ngữ của các quốc-gia khác nhau.
Danh từ nầy là tên của một Linh-hồn cao cả nhứt trong các Linh-hồn
cao cả, xứng đáng với danh-hiệu Linh-Hồn Kim-Cương.
Vì Ánh sáng của Thượng-Đế chiếu rọi qua Linh-hồn nầy không bị lu-mờ,
vì viên Kim-Cương hết sức tinh-khiết, vì cái Linh-hồn vô-giá nầy hết sức
trong trắng.
Trong những lúc ước-nguyện cao siêu, chúng ta
dâng cao tấm lòng lên Linh-Hồn Kim-Cương đó, và Linh-Hồn nầy chỉ cần phóng
ra một tia-sáng Mỹ-Lệ, một ngọn lửa liếm qua cũng đủ để thu-hút ta lên với
nó rồi.
Vì giống như bông hoa phát-triển về phía mặt trời, Linh-hồn con người phát
triển hướng về nguồn cội của chính bản-thể mình và những điểm thu hút nó
chính là những tia sáng huy-hoàng mà Linh-Hồn Kim-Cương phóng ra chung quanh
vậy. Linh-hồn người Đệ Tử mặc
dầu còn yếu-đuối và do-dự thì cũng đồng Bản Chất với Linh-Hồn cao cả.
Vì thế cho nên Linh-Hồn cao cả thu hút Linh-hồn con người bằng một
thần lực rất Thiêng-Liêng để hai bên được hợp-nhứt với nhau.
Và khi mà sự hiểu biết của Thí-sanh càng được minh-bạch thì y cành
hiểu được Linh-Hồn Kim-Cương là gì ? Y hiểu rằng một ngày kia Linh-Hồn
Kim-Cương cũng sẽ phát hiện nơi y.
“Ngươi hãy nhìn bản-thân ngươi, ngươi là Phật
đấy”.
Y hiểu rằng : Trí khôn của y cũng như thể xác của y
chỉ là những dụng-cụ của Linh-Hồn Kim-Cương mà thôi, nếu dụng cụ nầy không
thốt ra được những âm thanh xứng-đáng để có thể vang lên trên những cảnh cao
siêu hơn thì nó không hữu-ích và quí-báu gì cả.
Chính lúc đó những sợi dây đàn của Linh-Hồn phải nhờ lòng sùng-đạo hoàn toàn
mà được điều-hòa với nhau. Lúc
đó Linh-hồn trở thành một cây đàn xứng đáng để bàn tay của Chơn-Sư khảy, một
cây đàn có thể trổi vang lên tất cả những bản du-dương của cõi Trần và cõi
Thượng-thiên vậy.
Đi đến trình-độ nầy, Linh-Hồn được tự do bước
qua thềm Thánh-Điện và từ ở Sân ngoài đi vào trong Thánh-Điện của Đức
Thượng-Đế.
TINH-THẦN HOÁ hay là KHOA LUYỆN KIM TINH-THẦN
Thí-sanh cũng nên biết về : Tinh-thần hoá hay
là khoa luyện-kim Tinh-thần và Định-luật hy-sanh.
Thế nào là Luyện-kim Tinh-thần ? Theo ý nghĩa
bao-quát nhứt của nó, phương-pháp Luyện-kim Tinh-thần nầy có thể được coi
như một sự biến-hoá các mãnh lực.
Ai ai cũng có nơi mình Sự-Sống : năng-lực,
sức-mạnh, quyền-năng của ý-chí, vân vân…Đó là sức-mạnh mà con người phải
sử-dụng như khí-cụ. Đó là những
khả-năng sẽ giúp cho y đạt được mục-đích.
Theo một phương-phát mà người ta có thể gọi là
phương-pháp luyện-kim, y biến-hoá những mãnh-lực nầy bằng cách áp-dụng chúng
vào những mục-đích cao thượng hơn.
Y biến-đổi những năng-lực thô-bạo thành những năng-lực tinh-thần đã
được tinh-luyện.
Không phải y chỉ thay đổi mục-đích mà
thôi---không phải sự thay đổi mục-đích mà tôi (Bà A. Besant) muốn làm nổi
bật lên đây mà chính là y đã thay đổi và tinh-luyện những sức-mạnh đó mà
không làm hư-hoại cái bản-chất cốt-yếu của chúng.
Giống như một nhà luyện-kim lấy một thứ
vật-chất thô-sơ và bắt nó phải chịu một phương-pháp tinh luyện thâm-sâu ;
không những y chỉ loại ra những cặn bã ngoài mặt, mà để xúc-tiến sự
tinh-luyện đến mức sâu xa hơn nữa, y chuyển nó lên đến một trạng-thái
tinh-vi hơn, để khiến cho những nguyên-tố của nó tạo-thành được một thứ
kim-loại quí báu và thuần-túy hơn
Chư huynh có thể tưởng-tượng nhà luyện-kim tinh
thần nắm lấy mọi mãnh-lực trong bản-tánh mình, nhìn-nhận chúng như những sức
mạnh đáng kể và biết rõ sự hữu ích cùng tánh-cách cần-thiết của
chúng,--nhưng y biến đổi chúng, tinh-luyện chúng một cách có phương-pháp.
MỤC ĐÍCH THỨ NHÌ CỦA SỰ LUYỆN-KIM TINH-THẦN
Sự luyện-kim tinh-thần không phải chỉ có một
mục-đích duy-nhất là biến-hóa các mãnh-lực, tuy rằng điều nầy là mục đích
chánh-yếu của nó.
Nó còn mục đích thứ nhì nữa mà ta phải kể tới.
Những linh-hồn, chỉ vì những dục-vọng của mình
mà phải bị trói buộc vào đời sống hồng-trần, vào bánh xe sanh-tử, luân-hồi.
Chúng bị sự vô minh cột chặt vào đấy ; chúng bị ràng buộc bởi chúng
thèm muốn hưởng thụ những thú vui vật-chất, những niềm vui vật-chất, những
niềm vui được nếm trải trong sự chia rẽ, trong cảnh cô-đơn.
Luôn luôn hoạt-động, Linh-hồn tự buộc trói mình
bằng những sự hành động của mình.
Dù những hành động nầy là chí-thiện hay là tàn-ác, cứu-giúp hay là
hảm-hại kẻ khác, luôn luôn ở trong người tầm thường, chúng có một tánh-cách
chung là :
LÒNG HAM MUỐN VÀ CHÍNH LÀ LÒNG HAM-MUỐN RÀNG BUỘC VÀ
CỘT TRÓI CON NGƯỜI.
PHẢI LÀM THẾ NÀO ĐỂ CHO SỰ HÀNH-ĐỘNG CỨ
THỰC-HIỆN MÀ CON NGƯỜI VẪN ĐƯỢC TỰ-DO.
Đây cũng là một trường hợp luyện-kim
Tinh Thần. Nhờ sự luyện-kim
nầy, con người Tiến-Hóa nhất sẽ hành động một cách hết sức linh-hoạt để
phụng-sự nhơn-loại,---nhưng
việc của Ngài làm không ràng buộc Ngài vì Ngài là môt Linh-hồn đã được
giải-thoát.
Đó là một thí-dụ, thoạt đầu xem chừng nó có vẻ
mâu-thuẩn : một sự giúp-đỡ để cho người chủ được hoàn-toàn tự-do.
Nay khi đề-cập đến một sự luyện-kim tinh-thần,
nó khiến cho ta được hoàn-toàn tự-do, tôi muốn nói đến Định
Luật Hy-sanh căn-bản,---
đó là Định Luật tối-cao trong cõi Thế-giới hữu hình
nầy, nó là căn bản của mọi sự, luôn luôn nó được tuyên-bố từ xưa đến nay.
SỰ HY-SANH.
Trong cõi Hạ-giới, sự hy-sanh có thể được coi
như là một sự giúp-đỡ lẫn nhau; sự quay chuyền không ngừng bánh xe đời,
trong đó mỗi người thu-nhận và ban rải ra .
Con người không thể tránh sự thu-nhận, và không thể khước-từ sự ban
ra.
Trong sự làm quay chuyển bánh xe đời không
ngừng, mọi vật đều có dự-phần vào trong đó, dù một cách hữu-ý hay vô-tâm.
Sự hợp-tác của chúng có tánh-cách hữu-ý nhiều hay ít tùy theo chúng
đã tiến-hóa đến đâu.
Sự hy sanh theo cách đó đã được trình bình bày
rõ rệt, còn rõ-rệt hơn bất cứ ở nơi nào khác, trong Kinh Bhagavad Gita (Khúc
ca của Thượng-Đế), một trong những Thánh-Kinh của Ấn-Độ, nói về Bánh xe của
Sự Sống, trong đó chư huynh biết được cái điều cần phải biết, là
CÁI CÁCH-THỨC
HỢP NHỨT SỰ HY-SANH VỚI SỰ HÀNH-ĐỘNG.
THƯỢNG-ĐẾ, vị Sư-Phụ cao cả
nói :
“Thế-gian bị ràng buộc bởi một hành-động nào mà
không có sự hy sanh làm mục-đích.
Vậy hởi con cái của Kounti (1)
[(1)
Kounti là mẹ của 3 vị : Ardjouna, Bhima và
Souddhichthrita. ]
trong khi
hành-động, nhà ngươi phải lấy sự hy-sanh làm mục đích và tự giải-thoát “ ra
khỏi mọi điều ràng buộc”…..
Chư huynh có trước mặt cái bánh xe luân-chuyển của Sự-Sống, nó làm ra nền
tảng của sự Hy Sanh trong các Tôn-giáo.
Tôn-giáo càng tinh khiết, càng cao-thượng bao nhiêu thì cái ý-niệm
hy-sanh thấm nhuần nó lại càng tinh-khiết và cao-thượng bấy nhiêu.
Chư huynh hãy chú-ý rằng ở nơi đây, chúng ta thấy cái tư tưởng
luyện-kim là luôn luôn biến-đổi, đã thực-hiện đến mức-độ nào.
Đồ ăn biến-thành chất bổ dưỡng nuôi sanh-vật, nhưng muốn có đồ ăn thì
phải có mưa, muốn có mưa rơi xuống thì phải cúng-kiến Thần-minh, và
Thần-minh sẽ nuôi dưỡng sanh-vật.
Chư huynh luôn luôn gặp sự vận-chuyển rõ-ràng
theo cái vòng tròn nầy trong các Tôn-giáo lớn thời xưa.
Thí dụ người Bà-la-môn ném lễ vật vào lửa vì người ta nói rằng : Thần
Agni (Hỏa-Đức Tinh Quân) là miệng của các Đâng Thần-minh.
Ngày xưa người ta ném lễ vật vào lửa và đọc những câu thần-chú, những
câu châm-ngôn, do những những vị Minh-triết đặt ra.
Các Ngài cho những lời nói của câu thần-chú có ảnh-hưởng đối với
những mãnh-lực thấp-thỏi của Thiên-Nhiên---Cách dâng lễ vật như vậy khiến
cho những sức mạnh thiên-nhiên (mưa gió) được thuận-hòa, ảnh-hưởng đến trái
đất, sanh ra những rau trái, những thực-phẩm cho con người.
Tuy dâng lễ-vật là một
hành-động tượng trưng cho điều
có thật và sức mạnh được thốt ra tự miệng của nhà Tu-sĩ hành-lễ
tinh-khiết cũng có thật nữa. Sự
tượng-trưng nầy dạy cho dân gian biết rằng : đời sống chuyển-động theo vòng
tròn. Họ phải hiểu rằng
: trong bản-chất của nó, sự
hành-động phải là sự hy-sanh và tất cả mọi hành-động điều bắt-buộc
phải
có tánh cách
hy-sanh, hay là nói theo cách khác, ta phải hành-động vì đó là điều lành chớ
không phải là vì một lý-do nào khác.--- Phải hành-động để cho con người được
điều hòa với Định-Luật,---phải hành động vì đấy là cái cách con người
ứng-đối với Định-Luật, và đó là phần công-tác của y trong công-nghiệp chung.
Theo thuyết nầy thì sự hy-sinh là một sợi dây
bằng vàng liên-kết vạn-vật trong thế-giới hữu-hình nầy, và Hành-động là
căn-bản của sự hy-sinh, sự hành-động phát-sanh từ nơi Đức Thượng-Đế
sáng-tạo. Ngài tự biểu-lộ trong
Vũ-Trụ nên người ta nói rằng :
“Brahman, Đức Thượng-Đế ngự-trị trong mổi sự
hy-sinh. Từ đó mỗi bổn phận
điều coi như là một bổn-phận đối với thế-gian, không ham muốn gì cho cá-nhân
mình, không muốn điều lợi-ích riêng-tư nào cho mình, không mong-mỏi kiếm
được cái bản-ngã chia-rẽ; chính ở bản-ngã nầy ta thấy lộ ra cái lý-do
thấp-hèn ti-tiện, ích-kỷ, nó ngự sau nầy ở trong sự hy-sinh.
Đó là đặc-tính của sự luyện-kim, nó góp sức làm
quay-chuyển bánh xe của đời sống,
làm đầy đủ bổn
phận mình vì mến yêu bổn-phận, biến-hóa sự hành-động thành một sự hy-sinh,
đốt cháy những sợi dây ràng buộc của dục-vọng và giải-thoát con người đã
giác-ngộ. Được ngọn lửa Minh-triết tinh-luyện như vậy, sự hành-động không
còn ràng buộc được Linh-hồn nữa.
Linh-hồn hợp-tác với Thượng-Đế
trong thiên-nhiên, và mổi hành động được hiến dâng lên bàn thờ của
bổn-phận điều trở thành một sức-mạnh làm quay chuyển bánh xe của đời sống,
nhưng không còn có thể trói buộc Linh-hồn được nữa.
Sự trao đổi liên-tiếp bất-biến nầy, sự giúp-đỡ
lẩn nhau nầy, là hình-thức của Đại-Luật Hy-Sinh.
Sự biến-đổi đã xong xuôi, việc làm đã được
thực-hiện như một bổn-phận thì trở nên một thành-phần của sự điều-hòa của
Vũ-Trụ, thúc đẩy sự tiến-hóa và giúp cho nòi giống tiến-bộ một cách rõ-ràng.
Công việc của Tân Tín đồ ở Sân-ngoài là tự
luyện-tập lần lần để hành động trong cái Tinh Thần Hy-sinh đó,
y hiểu rõ-ràng rằng y làm như vậy mà không tìm kiếm
một sự gì, không mong mỏi một mối lợi gì, không nài xin một phần thưởng nào,
y làm vì bổn-phận chớ không phải vì một lý-do nào khác.
Hành-động như vậy tức là thực-hiện khoa luyện kim Tinh-thần, nó
tinh-luyện mỗi hành-động trong ngọn lửa của sự Minh-triết, và vì tự điều-hòa
một cách có ý-thức với Thiên-ý trong Vũ-Trụ hữu hình cho trở thành một sức
mạnh thúc đẩy sự tiến-hóa, một năng-lực nâng đỡ sự tiến-bộ.
Tất cả nhơn-loại điều được hưởng quả tốt của sự hành-động nầy; nếu nó
không có tánh-cách hy-sinh thì nó sẽ chỉ đem lại cho kẻ chủ-động một kết-quả
cá-nhân mà thôi, và cái kết-quả đến lượt nó, lại trở thành một sợi dây ràng
buộc Linh-hồn, làm giảm bớt những khả-năng tiềm-tàng của nó trong điều
thiện.
Đó là lối tác-động của Định-Luật Hy-sinh được
xem-xét theo quan-điểm thấp kém.
QUAN-ĐIỂM CAO-SIÊU CỦA ĐỊNH-LUẬT HY-SINH
Bây giờ ta hãy nghiên-cứu nó trên một Quan-Điểm
cao siêu.
Cái tư-tưởng mà tôi xin chư huynh có ngay lúc
ban đầu là xem-xét sự hy-sinh ở trong bản-chất theo tôi dường như
Hy-sinh có nghĩa là cho ra, ban rải
ra phía ngoài. Lý do của nó
là muốn cho ra, cái tinh-hoa của bản-chất nó là rất muốn ban rải ra ngoài
một vật sở-hữu, một vật mà người chủ rất quí-trọng, vì đó là một báu vật nên
người sở-hữu muốn ban phát nó ra để giúp đỡ và làm vui lòng kẻ khác.
Vậy thì lần nầy,
tự một quan-điểm nội-tâm, chớ không phải theo ở bề ngoài, ta phải coi sự
Hy-sinh trong thiên-nhiên là sự cho ra, sự ban rải ra ngoài để cho kẻ khác
được sung-sướng. Vì vậy nên sự
Hy-sinh trong căn-bản của nó, là một niềm vui chớ không phải là một nổi
đau-khổ. Có thể nói rằng :
đặc
tính của sự hy-sinh là niềm-vui vì được tự hiến dâng.
Chư huynh sẽ hỏi tôi : Tại sao lại trong
niềm-vui ?---Vì tôi đã xin chư-huynh đi theo tôi đến trái tim sự-sống và
trung-tâm của cõi đời hữu-hình nầy.
Tôi đã dám nói ở một cuốn sách khác (Minh-Triết Cổ truyền--La Sagesse
antique) rằng : sự hy-sinh cao cả là cái hành-động do đó, Đức Thượng-Đế, tức
là Đời Sống Duy-nhất, tự hạn-chế lấy mình, do đó Ngài đã sanh ra Đức
Thượng-Đế hữu-hình, dưới hình-thức, năng-lực
Vậy thì Định-Luật Hy-sinh có
nguồn-gốc nơi Bản tánh thiêng-liêng.
Sự Hy-sinh cao cả sinh-sản ra Vủ-Trụ, chính là Thiên-Nhiên Chí-Phúc,
tự Hiến-Dâng, vì vậy tất cả điều có mục-đích, chia sớt, ban rải Hạnh-phúc.
Sau chót, cội rễ của sự Hy-sinh của Thượng-Đế là niềm vui, vì được tự
ban rải ra ngoài để có thể hợp nhứt nhiều Linh-hồn lại với Ngài,---hiệu-quả
của sự hợp nhứt nầy là sự “AN-LẠC TUYỆT VỜI” không thể quan niệm được……….
Một khi đã rõ thì ý-tưởng nầy khiến
ta nhận-thức rõ-ràng được Định-Luật Hy-sinh và nhìn thấy hai khía cạnh của
nó trong sự cho ra.---Trước nhứt là có sự vui, nhưng
Bản-ngã thấp-hèn lại tham-lam
hơn là rộng-lượng cho nên theo
quan-niệm của Bản-ngã thấp-hèn “Sự Hy-sinh không ngớt là đau-khổ” Nhưng mà
chỉ tại người ta chưa thông hiểu Luật Nhân-Quả,---Người ta tưởng rằng hể
Bố-thí thì mất tiền của, không dể kiếm lại được.---Nhưng mà thật-sự : khi
mình bố-thí bao nhiêu thì chẳng bao lâu, Thiên-Đình sẽ cho mình có lại bấy
nhiêu,---mà thường thường, của thâu vô còn cao hơn số mình đã xuất ra nữa.
Ai có kinh-nghiệm điều chứng minh rằng : Sự nầy
quả luôn luôn có thật như vậy, không bao giờ sai.
Làm những việc Phước Đức với
tấm-lòng Vô-Tư-Lợi tức là Hy-sinh, không hề trói buộc Hành-giả vào bánh xe
Luân-hồi.
SỰ HY-SINH CỦA TIÊN-THÁNH VÀ CÁC VỊ ĐỆ TỬ
Người ta đã nói với chúng ta về những vị Đệ-Tử
Hy-sinh, không màng lên cõi Thiên-Đường, xin trở lại thế-gian liền đặng
Phụng-Sự. Các vị Tiên-Trưởng
Hy-sinh từ khước cảnh Niết-Bàn.
Như vậy chúng ta phải hiểu rằng : mặc dầu chúng
ta cảm thấy điều nầy môt cách mơ-hồ,---tất cả những vị nầy đã hợp-nhứt với
các huynh-đệ của mình cho đến mức sự chia sớt cái kết-quả của những cố-gắng
của các Ngài với kẻ khác là một bổn-phận thiêng-liêng của các Ngài vậy ; ---
cái phần-thưởng thiệt thọ của các Ngài không phải là niềm vui ở Thiên-Đường,
không phải là những hạnh-phúc tuyệt vời không thể tưởng-tượng được ở cảnh
Niết-Bàn. Các Ngài chỉ muốn
hưởng một niềm vui duy-nhất là chỉ cổi bỏ những sở-hữu của các Ngài, cổi bỏ
những gì mà các Ngài có thể thụ-hưởng, đặt chúng vào một nơi để làm của
chung cho tất cả mọi người.
Theo cách đó : các Ngài thúc đẩy sự tiến-hóa tổng quát ; các Ngài dự một
phần vào cái công việc thúc đẩy sự tiến-bộ của nhơn loại, trong đó các Ngài
cũng là những phần-tử.
TẠI SAO NGƯỜI ĐỆ-TỬ PHẢI CÓ MỘT HẠNH-KIỂM VƯỢT BỰC NGƯỜI THƯỜNG
Trước khi kết-thúc, tôi tưởng phải nhấn mạnh
một lần nữa về việc bắt buộc người Đệ-tử phải có một Hạnh-kiểm vượt bực
người thường.
Chu huynh hãy thí-dụ rằng y
hãy còn có những nhược-điểm rất thông-thường của thế-tục; như là : các lổi
lầm của những kẻ xung-quanh hãy còn làm cho y nổi giận, những việc thường
xảy ra trong đời sống hằng ngày còn làm được cho y nản lòng, bối rối ; chư
huynh thử thí-dụ y không làm chủ được sự bình-tỉnh của mình, y không có một
tấm lòng từ-bi luôn luôn tăng-trưởng, một tấm lòng thiện-cảm bao-la và
rộng-rải, chu huynh thử thí-dụ rằng một khi bị chửi rủa, y nổi giận chớ
không phát tâm từ-bi, y quạu quọ chớ không tha thứ, nói tóm lại là y
hẹp-lượng khoan-hồng và không kiên-nhẩn---nếu thu-nhận một người như vậy vào
trong Thánh-Điện, nếu đặt vào tay y, dù rất ít, những quyền-năng phi-phàm
vượt mức người thường thì kết quả ra sao ? --Người ta sẽ lo ngại hay biết
chắc-chắn rằng những lổi-lầm nhỏ bé đó---rất thông-thường với những người
thế-tục sẽ xảy ra những tai-hại kinh-khủng.
Nếu một người Đệ-tử hay nổi giận thì những quyền-năng mới được nảy nở
nơi Linh-hồn y, cái sức mạnh của ý-chí y, cái sức mãnh-liệt của Tư-Tưởng y
nếu không được ngự-trị thì y sẽ là nguồn gốc của sự nguy-hiểm cho các
đồng-loại. Thí-dụ y không lòng
khoan-dung, y không biết thương-xót, không thông cảm với những ai còn có
những khuyết-điểm mà y đã ngự trị được rồi, không hiểu được rằng sự sa-ngã
là một việc rất dễ-dàng, thì người đã được Điểm-Đạo sẽ sống cách thế nào
giữa nhơn-loại ?
Y có thể nhìn rõ những tư-tưởng, phân biệt những nhược-điểm, nhìn thấy cái
hào-quang mà chúng ta vừa nói đến ở trên kia, và có thể đọc ở đó như đọc
trong một cuốn sách mở rộng mà biết những nét đặc-biệt sâu kín của tánh nết
mà con người thường phải giấu-giếm nhau dưới lớp che-đậy bề ngoài, người có
Thần-nhản nhìn thấy thực-trạng của tâm-hồn đồng-loại mình, chớ không phải
dáng-điệu của họ muốn phô-trương đâu, một người như vậy thì sẽ ra sao ? Dĩ
nhiên không phải là làm mộtviệc chánh-đáng hay hữu-ích khi trao quyền-năng
như vậy---và đó là một quyền-năng nhỏ bé nhất của kẻ đã được Điểm-Đạo---cho
một người mà sự thử-thách vốn chính y đã trải chưa tập cho y biết thương-xót
những người yếu-đuối hơn, một kẻ mà sự hồi-ức lại những làm-lỗi cũ của chính
mình y, không khiến y cúi xuống để cứu giúp và tội-nghiệp cho người tội lỗi
nhất trong đám đông mà y gặp trên đường.
Thật là một điều công-bằng và tốt lành khi bắt
buộc người Đệ-tử phải có đầy-đủ những điều-kiện gắt-gao bất di bất dịch đó
trước khi bước qua thềm Thánh-Điện.
Y bắt buộc phải loại trừ một phần lớn những lổi-lầm thông thường của
con người trước khi được thu-nhận vào Thánh-Điện Oai-Linh là nơi chỉ để dành
cho người phụ-tá đã hiến mình cho công việc phụng-sự và cỏi lòng tràn-trề
tình yêu nhơn-loại. Và cái công
việc mà y phải hoàn-thành có vẻ vĩ-đại đến nỗi ở bước đầu, y phải thực-hiện
được một sự tấn-bộ rõ-ràng, đó là một điều cần-thiết.
Vì công việc nầy chính là việc tiêu-diệt mọi dấu vết của những
nhược-điểm của con người, hoạch-đắc tất cả những sự hiểu biết trong giới-hạn
vũ-trụ của chúng ta, phát-triển nơi bản-thân những quyền-năng có thể để sự
hiểu biết ở trước mặt mình và cần tự chú-định vào một phương-hướng nào thì
ngay khi đó thâu thập được tất cả những gì đáng hiểu.
Đó quả thật là cái trạng-thái của các vị
Chơn-Tiên. Vị Chơn-Tiên là
“Người không còn học hỏi về một điều gì nữa” trong Thái-Dương-hệ nầy và quả
vị Chơn-Tiên chỉ là đoạn chót của con Đường-Đạo ở bên trong Thánh-Điện mà
hiện giờ chúng ta đang xem xét đây, và chúng ta phải vượt qua trong vài kiếp
ngắn-ngủi,--
đó là một công việc vĩ-đại, một sự thực-hiện cao siêu
đến nỗi nếu không có những người đã hoàn-thành được nó trong dĩ-vãng, nếu
không có kẻ khác đang hoàn-thành nó trong hiện-tại thì nó sẽ dường như là
không sao thực-hiện nổi. Theo
quan-điểm của những người tầm-thường thì không thể nào làm được khi ấn-định
cho năm bảy kiếp sống ngắn-ngủi phải thực-hiện một sự tiến-bộ phi-thường, nó
đem người Đệ-tử từ một trình độ tương-đối thấp kém của sự Điểm-Đạo lần thứ
nhứt tiến lên đến cái chót đỉnh cao-siêu của các vị Chơn-Tiên toàn-thiện,
các Ngài là những đóa hoa, là cái kết-quả rực-rỡ của sự tiến-hóa của nhơn
loại. Và nếu đó là công việc
khó-khăn mà chúng ta phải hoàn-thành và nếu trong con người của vị La-Hán
sắp bước qua kỳ Điểm Đạo chót không còn một dấu vết gì của sự yếu-đuối và sự
vô-minh của thế-tục, thì thật không có chi là đáng ngạc-nhiên khi phải
cố-gắng rất nhiều ngay từ khi chưa được bước qua Thềm Thánh-Điện ; không có
gì là đáng ngạc nhiên nếu những nền móng mà chúng ta đã nói đến ở trên
kia---chúng ta phải chịu đựng cái sức nặng của một toà lâu-đài khổng-lồ thì
chúng phải thật chắc-chắn vững-vàng.
ĐOẠN-KẾT
Trong khi miêu-tả những giai-đoạn của con đường Nhập-Môn, trong khi dùng
những danh-từ vụng-về mà nói về những điều đang đợi chờ chúng ta ở phía bên
kia những Kim-Môn, những cánh cửa bằng vàng, có khi tôi tỏ ra là quá
nghiêm-khắc chăng ?---Có đôi khi tôi miêu-tả con Đường-Đạo với những màu sắc
đen tối quá chăng ? Nếu có vậy thì đó là lỗi ở nơi tôi, chớ không phải tại
con Đường-Đạo ; nếu có vậy thì tại diễn-giả bất tài chớ không phải tại những
điều mà tôi rán miêu-tả một cách khuyết-điểm.
Vì tuy có sự khó khăn, có sự chiến-đấu và có sự đau-khổ, nhưng thật
vậy, ai đã vào Sân-Ngoài---chớ không cần phải nói gì về những người đã vượt
cửa Kim-Môn---một khi đã vào đến Sân-Ngoài thì tất cả kho tàng của trần-gian
cũng không còn quyền-năng cám-dỗ họ phải đi xuống cái điạ-vị cũ của họ.---Và
đối với những ai đã bước qua thềm cửa, thì hỏi có một niềm vui nào, một lời
hứa-hẹn nào của trần-gian lại còn có thể sai khiến họ quay nhìn lại cõi đời
mà họ đã bõ, dù chỉ trong chút lát ?
Vì những nỗi khó-khăn của con Đường-Đạo đang ở trước ta đây còn đáng
giá hơn là những niềm vui của hồng-trần ; những sự đau-khổ của con đường nầy
còn vinh-quang hơn những sự thịnh-vượng của thế-gian.
Nếu chư huynh có thể thâu hết, trong một kiếp người tất cả những niềm
vui mà cõi trần có thể hiến-dâng, nếu chư huynh để cho trọn đời chứa toàn
thú vui với cái khả-năng thụ-hưởng không ngừng không nghỉ, nếu trong một
kiếp người, chư huynh có thể thâu góp mọi thú vui của giác- quan, mọi thú
vui của trí-thức mà con người có thể hưởng được, nếu chư huynh có thể xóa bỏ
được mọi dấu vết của sự đau-khổ và mệt-mỏi, nếu chư huynh có thể lấy
điều đó làm một đời sống lý-tưởng
như là cõi đời có thể cung-cấp cho chư huynh một lý-tưởng như vậy, nếu chư
huynh mang tất cả những thứ ấy mà so-sánh với những cấp-bực của con
Đường-Đạo, thì mặc dầu ở phía ngoài nhìn vào, những cấp bực nầy có vẻ như
nghiêm-khắc, khó-khăn đến đâu đi nữa, đời sống đầy những thú vui hồng-trần
nầy như ti-tiện và đen tối, những tiết-diệu du-dương của cõi trần giống như
những âm-thanh hỗn-độn nếu đem so-sánh chúng với những cung đàn tuyệt-diệu
đang vang lên ở cõi cao-siêu.
Vì trên con Đường-Đạo nầy, mỗi khi tiến về phía trước thì không làm sao còn
thối lùi lại phía sau được nữa ; mỗi sự đau-khổ mà ta phải chịu, dù sâu-xa
đến đâu mặc lòng, cũng là điều tốt lành, vì nó đã dạy cho ta một bài học.
Và khi mà sự vô-minh được giảm bớt đi, thì con
Đường-Đạo được trở nên sáng-suốt hơn trước, khi mà sự yếu-đuối tan đi thì
con Đường-Đạo trở nên yên-tịnh hơn trước, khi mà những làn rung động
Hồng-Trần không thể phá quấy và làm mếch lòng ta nữa, thì con Đường-Đạo trở
nên bình-thản êm-ả hơn lên.
Riêng chỉ có những Đấng đã Thành-Đạo mới có thể nói rằng ở mức cao nhứt của
con Đường nầy là có những gì ; chỉ riêng những Đấng Cao-cả đang đứng ở chót
đỉnh để đợi chờ chúng ta trải qua những thế-kỷ mới có thể nói lên điều đó
được. Nhưng những kẻ mới đặt
chơn lên những giao-đoạn thấp điều bìết rằng : những nỗi buồn-rầu của con
Đường-Đạo lại là những niềm vui khi ta so sánh chúng với những thú vui
hồng-trần và cái bông-hoa nhỏ nhứt mọc lên trên Đường-Đạo có giá-trị
tương-đương với tất cả những bảo-vật ở thế-gian.
Và cái ánh-sáng luôn luôn soi tỏ con Đường-Đạo là như thế đó, khi
người Đệ-tử càng ngày càng tiến bước và chỉ có một tia sáng của nó thôi cũng
đủ làm cho lu-mờ ánh-sáng của Thái-dương-hệ ở trần-thế.
Những ai đi trên con đường nầy điều biết sự an-tịnh không thể
tưởng-tượng được, sự hoan-lạc mà không một nỗi khổn-khó nào của cõi trần làm
cho tiêu-diệt được. Họ an-hưởng
một sự nhàn-hạ vô-biên trên một tảng đá mà không một trận địa-chấn nào có
thể làm cho tan vỡ và Niềm Chí-Phước tức là Hạnh-Phúc tuyệt vời luôn luôn
đang ngự-trị ở trong Thánh-Điện.
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
QUYỂN SÁU
SỰ TRONG SẠCH CỦA XÁC THÂN
LÒNG SÙNG ĐẠO
1971
SỰ TRONG-SẠCH CỦA XÁC-THÂN
Mục-đích của Pháp-Môn
RAJA-YOGA.
(Du-Già Vương-Giả)
Pháp-Môn Raja-Yoga hay là Du-Già Vương-Giả là
sự tìm kiếm đấng Duy-Nhất bằng cách phát-triển những đức-tánh cao-cả của cái
Trí, của cái Vía và của Xác-Thân.
Theo phương-pháp nầy Sanh-Viên sẽ tiến từ
Hạ-Trí đến Thượng-Trí, từ cái Vía tới Kim-Thân hay là Trực-Giác, từ Xác-Thân
đến Ý-Chí.
Khi công việc hoàn-thành thì đời sống nội tâm
sẽ thay thế đời sống tầm-thường của con NGƯỜI, và Tâm-Thức cao-siêu sẽ
hoạt-động mạnh-mẽ. Chơn-Nhơn sẽ
điều-khiển Phàm-Nhơn và tất cả bản-tính sẽ trở-thành sự biểu-lộ của
Tinh-Thần.
Sanh-viên muốn theo Pháp-Môn Du-Già Vương-Giả
thì phải có ;
---một Xác-thân tinh-khiết, lành-mạnh
---một cái Vía trong sạch, tốt đẹp,
---Một cái Trí khương-kiện, tinh-tấn, lanh-lẹ.
Cả ba điều phải hoàn-toàn dễ sai-khiến, dễ uốn-nắn, dễ nhạy-cảm và triệt-để phục-tùng mạng-lịnh của Chơn-Nhơn dưới ba phương-diện :
Ý-Chí, Minh-Triết và Hoạt-Động
XÁC-THÂN
Xác-Thân là thể được cấu-tạo hoàn-toàn nhứt và
cũng tiến-hóa nhứt trong 7 thể của con NGƯỜI.
Tuy nhiên đối với các nhà Huyền-Bí-học thì nó
lại là một trong những thể khó sai-khiến nhứt, bởi vì phải làm cho nó vừa
nhạy-cảm đối với những sự rung-động của mấy cõi cao mà đồng-thời vừa
lãnh-đạm đối với những sự rung-động của các cảnh thấp.
Hai điều nầy trái ngược nhau, dường như khó thực-hiện được.
Nhưng chúng ta phải cố-gắng mãi.
Sự tinh-luyện Thể-Xác.
Muốn có sự nhạy-cảm thì phải Tinh-luyện
Xác-thân bằng cách giữ kỹ-lưỡng những điều sau đây :
---cẩn-thận chọn lựa thức-ăn hạp với mình.
---có điều-độ trong mọi sự : bữa ăn, giấc ngủ,
giải-trí, thể-dục,…nhứt là tiết-dục.
---sạch-sẽ từ y-phục cho tới thân-mình.
I
SỰ CHỌN LỰA THỨC-ĂN
a)---Phải trường chay, chưa được thì tập lần.
Chớ nên đương dùng mặn mà dứt ngang rồi ăn chay trường liền, e cho
xác-thân chưa quen, phát đau ốm, rồi phải trở lại ăn mặn như trước.
Máu huyết, xương thịt và từ-điển thú-vật vô
mình ta biến thành máu huyết, xương thịt của ta.
Vì thế, về phương-diện đạo-đức, ăn mặn không được tinh-khiết.
Như quyển DƯỚI CHƠN THẦY đã nói : Thói mê-tín
và hung bạo ám-ảnh con người rằng cần phải dùng thịt đặng nuôi dưỡng
xác-thân.
Ăn thịt thì xác-thân trở nên thô-kịch và nhiều
chứng bịnh hiểm-nghèo lại sanh ra.
Nhưng trong tất cả những lý-do nầy, có một lý-do sâu-xa hơn hết là
muốn dùng thịt thì phải sát hại những sanh-vật vô-tội, vui sống, biết
đau-khổ và thật ra có khi rất hữu-ích cho con người.
Dùng thịt là phạm tội nghịch với lòng từ-ái và
tự mình dựng lên một bức rào trên đường mình đi, trong khi chúng ta đi tìm
kiếm các Đức Chơn-Sư Từ-Bi Minh-Triết.
Một sự cố-gắng nghiêm-trang và đúng-đắn không
thể đi đôi với sự sát-hại thú-vật đặng ăn thịt.
Hành động như vậy sẽ phạm đến oai-đức của các Tôn-Sư chúng ta, ---như
vậy xác-thân của chúng ta không thích-nghi với công việc phụng-sự
Sanh-viên phải là người tiên-khu về đời sống
trong-sạch của thể-xác và bàn tay không bao giờ dính máu của một sinh-vật
nào cả.
Khuyên người có thiện-ý mà đồng-thời gieo-rắc
sự hãi-hùng và nghi-kỵ, nói chuyện hữu-ái mà đồng thời còn tàn-sát là một
điều vô-lối và phi-lý hết sức.
Chúng ta đã sẵn có bao nhiêu sự khó-khăn phải
lo chiến-thắng mà chúng ta lại còn khuyến-khích thú tánh của chúng ta và làm
yếu bộ óc cùng là những dây thần-kinh của chúng ta, để cho bị khó-khăn thêm
nữa thì thật là đáng buồn biết bao.
b)---Phải bỏ rượu, thuốc lá và các chất ma-túy.
Rượu làm hư 2 hạch quan-trọng trong óc ta, ấy
là : Hạch mũi (corps pituitaire ou hypophyse) và Hạch óc (Tùng-quả-tuyến,
---Glande pinéale).
Hạch mũi là cơ-quan để luyện Thần-nhãn.
Hạch óc là cơ-quan để chuyển-di tư-tưởng ; bị rượu, chúng nó không
còn làm môi-vật cho nhiều thế-lực huyền bí-nữa.
Còn thuốc lá, thuốc phiện và các chất ma-túy
khác làm hư-hại cái Vía. Sau
khi bỏ Xác, lên cõi Trung-giới thì những người ghiền sẽ giống như những
người xụi bại ở cõi trần, họ bị tê-liệt trong một thời-gian khá lâu, cho tới
chừng nào chất độc trong Vía tiêu-tan hết, họ mới cử-động được.
Sanh-viên Huyền-Bí-học nên hiểu thật rõ rằng :
“Những luật thiên-nhiên không
nên vi-phạm”.
Không nên tưởng rằng : Anh chỉ thừa nhận về mặt
lý-thuyết và anh không thể khinh-thường chúng là đủ.
Điều mà thiên-nhiên đưa đến cho chúng ta đều liên-quan đến những hành-vi của chúng ta, dầu chúng ta biết hay không biết cũng mặc. Không có một sự tha-thứ nào, không có một mưu mẹo nào có thể ngăn-trở hiệu-quả được, khi mà chúng ta làm sái Luật Trời.
II
CÓ ĐIỀU-ĐỘ TRONG MỌI SỰ VIỆC
Phải tuân theo mới bảo-vệ được sức khoẻ
a)---Về bữa ăn
Nói cho đúng phép : Đói mới ăn, khát mới uống.
Không nên ăn quá sức chịu đựng của dạ-dày, mà cũng không nên ăn ít
quá, vì không đủ những chất cần-thiết để bồi-bổ sức-lực đã hao mòn.
Điều hay hơn hết là phải ra công học hỏi
Xác-thân, coi nó cần dùng món chi hạp với nó để có đủ sức hoạt-động mạnh-mẽ
và loại ra món nào nó không thích.
Thường khi những món ngon miệng không hữu-ích cho xác-thân mà còn gây
nhiều tai-hại như : Rượu và Thịt chẳng hạn.
Ngoài ba bữa ăn chánh, không nên ăn cái chi cả.
Ăn Ngọ được rất tốt, song điều nầy không phải mỗi người điều
thực-hiện được một cách dễ-dàng, trừ ra những người đã lớn tuổi.
b)---Về giấc ngủ.
Đừng ngủ ít quá mà cũng đừng ngủ nhiều quá.
Ngủ ít quá, bộ thần-kinh căng-thẳng, sanh ra nóng-nảy, quạu-quọ.
Ngủ nhiều quá thì sanh ra lười biếng, đần-độn.
Hảy ngủ cho vừa phải ; phải xem-xét coi
Xác-Thân của chúng ta cần phải ngủ mấy giờ.
Về điều nầy mỗi người mỗi khác.
Thường thường lớn tuổi thì ngủ ít hơn hồi còn trẻ.
Nên ngủ trong trong khoảng
10 giờ tối (22 giờ) tới 6 giờ sáng là vừa.
c)---Về mấy việc khác.
Đừng làm việc quá sức, đừng làm quá độ.
Phải tự lượng sức mình.
Việc nào không nổi thì bỏ, đừng quá rán sức mà có hại cho thân, và công việc
cũng sẽ hư.
Nên luôn luôn nhớ đến năng-lực, làm việc thế
nào cho khỏi bị mệt nhọc, và bộ thần-kinh khỏi bị suy-nhược.
Nên tập thể-dục vừa sức.
Đừng tập dượt những môn thể-thao mệt-nhọc, có thể đi bộ, cỡi xe đạp
cũng được.
d)---Phải tiết-dục
Nên biết rằng sự giao-hợp là một phương-tiện để
tạo ra một hình-hài đặng cho Linh-hồn nhập vào hầu tiếp-tục sự tiến-hoá đã
bỏ kiếp mới rồi, chớ không phải vì sự vui sướng của xác-thịt.
Nếu phung-phí lực sanh-hoá một cách vô-lối thì
là tự giết mình lần mòn.
Bộ Thần-kinh sẽ suy-nhược, xác-thân sẽ xanh-xao
yếu-đuối, dễ làm mồi cho bịnh-hoạn.
Nếu không cải-hối kịp-thời thì e cho phải chết
sớm, trước ngày giờ mà Thiên-Đình đã định sẵn cho mình, mà lại còn gây những
nghiệp-quả xấu cho 3 thể Thân, Vía, Trí kiếp sau nữa.
Thế nên phải hết sức tiết-dục.
Thật là :
Có Trời mà cũng có ta.
Tu là cội Phúc.
Hãy quan-niệm cuộc đời một cách vui-vẻ.
Hãy tiếp-nhận một cách can-đảm và hân-hoan các
sự thử-thách đưa tới.
Đừng lo ngại những sự khó-khăn, vì đó là con
đường để mở-mang ý-chí, và giúp cho xác thân trở nên cường-tráng.
Hãy thưởng-thức vẻ đẹp thiên-nhiên, hãy
trau-giồi lòng mến thiên-nhiên, hãy sống gần thiên-nhiên
mổi khi có thể được, điều nầy
tối quan-hệ : không-khí trong-sạch rất cần cho sức-khoẻ.
Nếu Sanh-viên bị bắt-buộc sống trong đô-thị, thì
mổi khi có thể làm được, nên
sống môt ngày hay nhiều ngày ở nơi thôn-dã, rừng núi, biển sông.
Sự tập thở dài hơi và cho đều, rất hữu-ích.
Sau cùng, hãy suy-nghĩ và phác-hoạ một cách
đại-khái, cách sống cho đúng vệ-sanh, rồi hãy theo đúng chương trình đó,
đều-đặn, tùy theo lẽ phải.
Một khi đã tập quen được cái nếp sống đó rồi,
thì đừng bận tâm tới nó nữa.
Nếu cần phải nghĩ đến xác-thân thì quí bạn hãy
nghĩ rằng : nó mạnh-mẽ, nó tinh-khiết và trầm-lặng.
Xác-thân ta phải là con ngựa của ta cỡi.
Một khi đã sắp sẵn tất cả mọi điều để cho nó được lành mạnh thì
thỉnh-thoảng nhìn xét nó một cách qua loa cũng đã đủ, vì thời-giờ và
tư-tưởng ta còn phải tập-trung vào những việc cần thiết và hữu-ích khác.
XÁC-THÂN TRỰC-TIẾP LIÊN-HỆ TỚI TIÊN-THỂ (Corps Atmique)
Xác-thân trực-tiếp liên-hệ tới Tiên-thể (Corps
Atmique), lớp vỏ của ATMA (1),
[(1) Kinh sách xưa của Ấn-Độ
thường dùng chử ATMA đồng-nghĩa với Chơn-Thần (Monade).]
ngôi thứ Nhứt của Chơn-Nhơn, trên cõi Niết-Bàn hay là Cảnh Giới
thiêng-liêng.
Nó là Thể đặc-biệt của Ý-chí và do đó là
Cơ-quan của sự Hành-động.
Vì thế tinh-luyện nó là một việc tối
quan-trọng. Tinh-luyện nghĩa là phục-hưng, cải-tạo lại xác-thân để dùng nó
vào nhựng mục-đích tinh-thần; vì vậy,---tinh-thần-hoá xác-thân là điều hết
sức trọng-hệ và rất cần-thiết.
Xác-Thân chỉ phải chứa đựng những hợp-chất nào
thanh-bai, tinh-khiết nhứt của ba chất :
Chất đặc
Chất lỏng, và
Chất hơi,
ba cảnh chót Hồng-Trần là :
cảnh thứ năm, cảnh thứ sáu và cảnh thứ bảy cùng
những hợp chất của 4 chất dỉ-thái Hồng Trần, làm ra cái Phách, ấy là :
Chất dĩ-thái thứ nhứt, hay là nguyên tử, căn
bản Hồng-Trần,
Chất dĩ-thái thứ nhì,
Chất dĩ-thái thứ ba, và
Chất dĩ-thái thứ tư của 4 cảnh cao Hồng-Trần
tức là Cảnh thứ nhứt, thứ nhì, thứ ba và thứ tư.
Ai mà có một xác-thân được cấu-tạo như thế thì
nội trong kiếp nầy sẽ đi đến quả-vị Chơn-Tiên.
Tại sao Xác-thân của Sanh-viên Huyền-bí-học phải tráng-kiện ?
Sách DƯỚI CHƠN THẦY đã dạy chúng ta về điểm nầy rồi. Tôi xin lặp lại ở đây :
“Thân con là con thú của con nuôi, con
ngựa của con cỡi, bởi vậy phải đối đãi với nó cho tử-tế và phải săn-sóc nó
kỹ-lưỡng. Đừng bắt nó làm quá
sức và phải nuôi nó cho đúng phép với những đồ ăn uống tinh-khiết và giữ-gìn
cho nó sạch sẽ luôn luôn ; đừng dung-dưỡng một mảy bợn-nhơ.
Bởi vì, nếu không có một xác-thân tinh-khiết và tráng-kiện thì không
thế nào con lo nổi công việc khó-khăn trong lúc tập-luyện đặng bước vào cửa
Đạo, con không chịu nổi những nổ-lực cần-thiết và lặp đi lặp lại mãi”.
Mới đọc sơ qua thì không thấy chi là lạ, là
khó khăn. Nhưng chừng có
kinh-nghiệm rồi mới biết những lời nầy thật là đúng tới bực nào.
Sự huấn luyện huyền-bí bắt buộc thể xác phải
rán sức rất nhiều, bộ thần-kinh phải mảnh-mai, và luôn luôn căng-thẳng.
Như thế mới trở nên nhạy-cảm được.
III
SẠCH-SẼ TỪ Y-PHỤC CHO TỚI THÂN-MÌNH.
Vấn đề sạch-sẽ vẫn không kém phần quan-trọng
chẳng những về phương-diện vệ-sanh mà còn về phương-diện huyền-bí nữa.
Sanh-viên có thể làm một vận-hà để chuyển-di
thần-lực của Chơn-Sư cho kẻ khác.
Thần-lực nầy theo mười đầu ngón tay, và mười đầu ngón chơn mà ra.
Nếu y-phục và thân-thể của Sanh-viên không được sạch-sẽ thì thần-lực
nầy sẽ bị nhiễm trược, nó không giúp ích được.
Điều nầy không khác nào nước ngon-ngọt trong vắt theo một ống dẫn
nước đóng đầy bùn sét mà chảy ra ngoài.
Nó sẽ hóa ra đục-ngàu, không thể dùng đặng uống hay nấu ăn được.
Trước khi chấm dứt, tôi xin lập lại những lời
khuyên-nhủ của Đức Bà A.BESANT như sau đây :
NHỮNG LỜI KHUYÊN-NHỦ CỦA ĐỨC BÀ A. BESANT :
“Hãy tự kiểm-soát lấy mình một cách chặt-chẽ
hơn. Phải nhắm thực-hiện một sự
phối-hợp tế-nhị giữa bên trong và bên ngoài,
luôn luôn nhận xét một cách cẩn-thận
ảnh hưởng của Hạnh-kiểm mình đối với kẻ khác, và hết sức tránh đừng để kẻ
thù có dịp thốt ra những lời phi-báng, lăng-mạ”.
Huyền-bí-học không có những kẻ thù khác hơn là
những người em non dại trong cái nhà chung, và mỗi người trong chúng ta có
bổn-phận đừng cho kẻ khác có cơ hội nói xấu những điều tốt lành của chúng
ta, vì chúng ta thiếu tánh thích-nghi với những hoàn-cảnh mà nghiệp-quả
chúng ta, hay là ý-muốn của Sư-phụ đặt-để chúng ta vào đó.
Do sự lãnh-đạm của chúng ta đối với cảm-tình của kẻ khác, do tật hay
quạo-quọ, giận-dữ của chúng ta trong những việc nhỏ mọn, chúng ta có thể
khiến cho họ xa lánh con đường mà chúng ta đương theo đuổi.
Quí huynh hãy tìm những dịp phát-triển các đức
tánh mà quí huynh không có, và chắc-chắn quí huynh sẽ gặp những dịp đó.
Chính sự tỉm kiếm nầy giúp quí huynh tập-trung thần-trí vào những sự
thực-tại,--- trong giữa những tình thế của cuộc đời.
Cái trường huấn-luyện và rèn tập quí huynh, chính nó ở trong đời sống
của quí huynh. Nếu quí huynh
không tìm thấy nó ở trong đó thì quí huynh không còn thấy nó ở đâu nữa.
Hãy rán hiểu những nỗi thăng-trầm đã trải qua và hãy lợi-dụng chúng
mỗi khi chúng hiện ra. Cứ sau
một giai-đoạn làm việc vô cùng bận rộn, lại kế tiếp đến một thời-kỳ
nghỉ-ngơi an-tịnh, xa hẳn thế-gian náo-nhiệt.
Những kẽ không thông-hiểu, than-phiền về những sự thay đổi nầy.
Khi được gọi đi làm việc thì họ nuối-tiếc sự thanh-nhàn nghỉ-ngơi ;
được đặt để vào chốn nghĩ-ngơi yên-tịnh thì họ lại đòi hoạt-động.
Người khôn-ngoan thì biết rằng mỗi tình-thế
điều có cái giá-trị của nó. Mỗi
khi ở vào trong tình-thế nào thì y cố-gắng học hỏi những bài học của
tình-thế đó và không mong-mỏi thay đổi hoàn-cảnh.
Không bao giờ mong muốn cái điều không có, không xua đuổi cái gì hiện
đang có ; đó là cái phương-thức của người Sanh-viên thực-sự học hỏi đời
sống.
Hãy lấy công việc Phụng-Sự làm lý-tưởng.
Nếu quí huynh học hỏi thì phải mến sự hiểu-biết, nhưng cũng phải học
hỏi để dạy-dỗ những ai không biết.
Nếu quí huynh Thương-yêu thì hãy thương-yêu người mà quí huynh
tận-tâm trìu-mến cho hết lòng, nhưng xin
đừng bao giờ
quên rằng năng-lực thương-yêu phải lan rộng khắp vạn-vật.
Nếu quí huynh làm việc. hãy tìm thấy nguồn vui trong sự hoạt-động có
tánh-cách sáng-tạo, nhưng xin hãy coi công việc mình làm như một sự công-tác
với THƯỢNG-ĐẾ, Ngài là người thợ duy-nhất cải-thiện thế gian và làm cho
nòi-giống tiến-hoá ; nếu không thì sự hiểu biết, lòng sùng Đạo, sự
hoạt-động, có thể trở-thành những xiềng-xích, trói chặc quí-huynh vào
quyền-lợi của bản-ngã thấp hèn, chớ không còn là những dây liên-lạc, có thể
nâng quí huynh lên cao trong bầu không-khí rộng-rãi của Lương-thức cao-siêu.
LÒNG SÙNG-ĐẠO hay là SÙNG-TÍN
Đức Bà A. BESANT nói : “Tôi thường nghe câu hỏi
nầy : Tôi phải làm thế nào để phát-triển lòng Sùng-Tín” ?
Sau đây là những lời giải-thích của Bà :
Làm thế nào để phát-triển
lòng Sùng-Tín ?
Muốn có lòng Sùng-Tín thì trước nhứt ta phải thương-mến và tận-tâm đối với
những bực Trưởng-thượng mà ta gặp trong đời sống hằng ngày.
Đó là mầm giống đầu-tiên của một mối cảm-xúc lớn lao hơn nữa sau nầy.
Ta thương-mến mọi người mà ta cảm biết là
cao-thượng hơn ta và trau-dồi tình-thương đó cho được trong sạch.
Ta hết lòng tìm thế giúp-đỡ người, đủ mọi phương-diện, một cách
kín-đáo, không bao giờ trong mong y trả ơn hay là biết ơn, nhưng ta giúp-đỡ
vì có lòng thương nên giúp mà thôi.
Như thế ta diệt-trừ được ý muốn chiếm-hữu và lòng khao-khát được
thụ-hưởng sự đền-bù ; điều nầy làm cho tình-thương trở nên nhơ bợn vì vấy
bùn dơ. Ta tìm thế hành-động
một cách âm-thầm, không phô-trương cho ai biết rằng mình đã làm điều đó, chỉ
vui thích cho ra là đủ rồi.
Vui hưởng tình-thương của người ta báo-đáp lại
không phải là một điều quấy hay là có tai-hại.
Không ai ngăn cản chúng ta, không cho chúng ta vui thích khi ta gặp
lại người mà ta thương yêu : điều nầy không phải là một chuyện ích-kỷ.
Chơn-Sư tỏ ra vui lòng khi Ngài thấy các Đệ-tử
thương-yêu và tôn-kính Ngài.
Chính Lòng-thương là món lễ-vật duy-nhứt mà con
người có thể dưng lên cho các vị Thượng-Đế.
Các Ngài dùng tình-thương nầy vào chỗ nào đâu, nhưng các Ngài vẫn cúi
xuống đặng nhận-lãnh nó.
Việc nầy không khác nào :
“Làm như mặt trời cần phải cám ơn ta”
“Khi ta để cho ánh-sáng rọi vô nhà”.
Khi chúng ta có thể hy-sinh một cách thung-dung
và vui-vẻ như vậy, mặc dầu người ta biết hay không biết, cám ơn hay không
cám ơn, thì tới chừng đó, chúng ta không còn sợ lòng thương của kẻ khác biểu-lộ
với chúng ta làm cho chúng ta trở nên ích-kỷ.
Nhưng mà ngày nào mà chúng ta chưa được như thế thì ngày đó chúng ta
nên phân-tách kỹ-lưỡng động-cơ của chúng ta và tìm cách rửa lòng cho trong
sạch.
Chúng ta đừng quá lo sợ lòng quá thương yêu nếu
nhờ đó mà chúng ta vun-trồng được tình bác-ái vị-tha.
Sức mạnh của tình-thương, cũng như tất cả những vật có sự sống, nhờ
sự luyện-tập mà phát-triển càng ngày càng nhiều.
Trái lại nó sẽ héo mòn nếu nó không hoạt-động.
Chúng ta nhận-thức lần lần Chơn-nhơn nơi những
kẻ mà chúng ta thương-yêu ; chúng ta quí trọng Đền-thờ vì lòng ta yêu báu-vật
của nó chứa đựng và để chiếu sáng trước mặt chúng ta.
Chúng ta sẽ thờ-ơ với cái vỏ bên ngoài để đi đến Con Người nội-tâm,
tức là Ngôi thứ Ba (Manas) nhập với Ngôi thứ Nhứt (Atma), xuyên qua Ngôi thứ
Nhì (Bouddhi)
Kẻ nào có thể thương-yêu đậm-đà và tận-tụy với
một người bạn thì sẽ mở-mang được sự Sùng-Bái cao-thượng khi mà anh gắng-sức
đạt được nó. Và anh bắt đầu
hiểu được đôi chút về “Chơn-Sư là sao ?” và lòng Sùng-Bái của anh sẽ hướng
về Ngài.
PHƯƠNG-PHÁP LUYỆN-TẬP
Vì thế muốn thành một người Bhakta (người sùng
đạo hay yêu thương) thì phải Tham-thiền về đấng Chơn-Sư và cố-gắng hình-dung
Ngài.
Tình-trạng nầy không nên tự ép buộc cho có
được, nó phải nảy-sanh một cách tự nhiên thì Sanh-viên mới tiếp-xúc được với
Ngài trong Nội-tâm và Ngài thành ra một sự thật đối với anh.
Tuy-nhiên người ta có thể
giúp cho nó phát-triển :
a)---bằng cách Suy-nghĩ đến những đoạn miêu-tả
những đức-tánh của đấng Chơn-Sư trong quyển “Tiếng-Nói vô-thinh” (La voix du
Silence).
b)---bằng cách Tham-Thiền những đoạn tiết-lộ
tư-cách của đấng Shri Krishna (Đức Sư-Phụ lý-tưởng) trong quyển Thánh-kinh
Bhagavad Gita.
c)---bằng cách suy nghĩ về nghị lực,
về tánh Dịu-dàng âu-yếm
về đức Minh-Triết,
về lòng Từ-Bi,
tất
cả phải tăng-cường đến mức-độ cực-điểm, Hiện Thân nơi người Toàn-Thiện ,
d)---bằng cách duy-trì Trí óc trong trạng-thái
yên-tịnh và tìm thế vượt qua Trí-óc với một tấm lòng mong-mỏi nhiệt-liệt để
gặp mặt Chơn-Sư.
Sự giao-thiệp và chuyện-trò với những người
Sùng-Đạo thường phát-sanh lòng Sùng-Bái.
Cũng như một ngọn lửa nầy do một ngọn lửa khác sanh ra, một tâm-hồn
nầy nhờ tiếp-xúc với một tâm-hồn khác mà trở nên nhiệt-thành.
Đức Shri Krishna có nói :
“Các bực Hiền-Triết say mê trong sự Sùng-Bái
Ta. Trong tinh-thần họ chỉ có
Ta mà thôi. Đời sống của họ
ẩn-tàng nơi Ta. Người nầy soi
sáng người kia, luôn luôn họ nói tới Ta, họ toại lòng và vui-vẻ, ( Bhagavad
Gita X, 8-9 ).
Ở Đông-Phương, người ta luôn luôn
khuyên nhủ Sanh-viên nên tìm kiếm những bậc Đạo-Đức và nghe những lời Họ
nói, để nhờ đó mà khêu gợi một đốm nhỏ yêu-đương và nhiệt-thành cho cháy
bừng lên, đặng thành một ngọn lửa to.
Chỉ có một Tâm hồn mạnh-mẽ, cương-quyết mới giữ được lòng nhiệt-thành
trong cảnh cô-đơn, còn vị Tân Tín-đồ tốt hơn là không nên bỏ qua một cơ-hội
nào để tăng-cường nguyện-vọng của mình bằng cách lân-la với những kẻ đồng
một chí-hướng.
MỘT PHƯƠNG-PHÁP CHẮC-CHẮN HƠN HẾT
Trong tất cả những phương-pháp để nhen-nhúm
lòng Sùng-Bái, có một phương-pháp chắc-chắn hơn hết là :
a)---Tuân theo ý-chí của Chơn-Sư trong đời sống
hằng ngày.
b)---Làm tròn nhiệm-vụ như một sự hy-sanh đem
hiến-dâng cho Ngài.
c)---Nhận-lảnh mọi sự đau-khổ như
: một phương-thế tinh-luyện Phàm-nhơn để được xứng-đáng đứng trước
mặt Ngài.
d)---Ra ngoài đời chỉ để thật-hành Ý-chí của
Ngài.
f)---Hiến cho Ngài tất cả nghị-lực và quyền
năng của mình.
j)---Xem tất cả những sự vui-thích điều vô-vị,
khi mà còn một bức màn che khuất không cho ta thấy Ngài.
g)---Và cho mọi công việc để thực-hành Ý-chí
của Ngài điều là thú-vị.
Sự Sùng-bái thực-tiễn tuyệt-đối của một Tâm Hồn
như thế, lâu ngày sẽ phá tan bức rào dựng lên bởi huyễn-tưởng và vô-minh
giữa kẻ Chí-nguyện và Chơn-Sư và tới chừng đó vị Đệ-tử mới biết được cái
Hạnh-phúc vượt qua ngoài sức hiểu-biết phàm-tục.
Nhiều người sẽ cho sự miêu-tả trên đây là
thái-quá và tình-cảm như thế là quá-đáng.
Đúng vậy, nhưng chúng ta muốn sống một cuộc đời
siêu-phàm. Vậy thì mấy vị ấy hãy
hấp-thụ giáo-lý về mặt lý-trí tùy theo sức họ, họ hãy sống cách nào cho
cao-thượng hơn-hết, họ hãy giữ đúng theo lý-tưởng và thực-hiện một cuộc đời
trong sạch và vị-tha, họ sẽ tiến bước một cách thích-đáng với tinh-khí họ.
Tuy nhiên, sau nầy có lẽ họ cũng có nguyện-vọng tìm kiếm Lạc-Y,
(Anandamayamosha-Robe de Joie) và mặc vào ; (đây là cách nói bóng-dáng về
một trạng-thái tinh-thần thuộc về cõi Bồ-Đề hay là Kim-Thân).
Dầu sao họ cứ đi theo con đường thích-hợp nhất với họ, nhưng mà họ
chớ khiển-trách hay khinh-bỉ những Huynh-Đệ
theo đuổi con đường Sùng-Bái.
Tất cả chúng ta điều có vài điều có thể đem dạy
lại kẻ khác mà trái lại cũng còn có nhiều điều cần phải học hỏi thêm nữa và
đức Khoan-dung là một trong những đức-tánh mà kẻ Chí-nguyện là Đệ-tử phải
có.
HAI MẨU NGƯỜI SÙNG-TÍN
Có hai mẫu người Sùng-Tín
:
a)---Mẩu thứ nhứt là những
người Sùng-Tín thụ-động.
b)---Mẩu thứ nhì là những người Sùng-Tín hoạt-động.
Đặc-tính chung của hai mẫu nầy là : Lòng
mến-yêu tập-trung về Đấng mà họ tôn sùng thờ-phượng.
Tuy-nhiên họ khác nhau về điểm nầy : người thụ-động cảm-thấy một niềm
vui triệt-để trong sự chiêm-ngưỡng.
Còn người hoạt-động thấy một sự vô-cùng vui vẻ trong công việc
phụng-sự Đấng mình tôn-sùng.
Hai hạng người nầy điều có thể là những người thông-minh, nhưng sự thông
minh nầy luôn luôn phụ thuộc vào cái năng-khiếu chánh-yếu là tôn-sùng.
Ở nơi họ, cội rễ của đời sống ở trong trái tim
chớ không phải ở trong trí óc.
Họ sống trong những mối cảm-xúc của họ.
Họ tiến lên cao bằng Trực-giác chớ không phải bằng sự Hành-động hay
là Ý-chí.
I
MẨU NGƯỜI SÙNG-TÍN THỤ-ĐỘNG
Người ta thường gặp những người Sùng-tín
thụ-động ở Ấn-Độ hay là trong nhóm người Thần-bí của cơ Đốc giáo.
Người Sùng-tín Ấn-Độ tham-thiền hằng giờ trong
niềm hoan-hỉ cực-lạc. Họ lìa xa
quả Địa-cầu vì họ tập-trung tư-tưởng vào Thượng-Đế hay là Sư-Phụ họ.
Không bao giờ họ tách rời các Ngài ra khỏi sự tôn-sùng của họ vì
Sư-Phụ hợp-nhứt với Thượng-Đế và Thượng-Đế sáng-chói nơi Sư-Phụ.
Đời sống của họ là chiêm-ngưỡng, tôn-sùng và ca-ngợi, xưng-tụng trong
trạng-thái xuất-thần. Đối với
những người ở chung-quanh thì họ dịu-dàng, âu-yếm hay chìu-chuộng, hay
giúp-đỡ, luôn luôn sẵn-sàng dìu-dắt.
Đó là những vị Thánh và những nhà Thần-bí.
Họ tự coi như quá đỗi hèn-mọn để cảm được cái niềm vui càng mãnh liệt
hơn khi họ chiêm-ngưỡng Chúa họ, khi họ quì dưới chơn Ngài.
Những Dòng tu kín trầm-mặc của Cơ-Đốc-giáo
La-mã, lấy một tấm lòng Sùng-Đạo như thế làm lý-tưởng, vì họ cũng muốn
chịu-đựng trong sự kín-đáo những tội-lổi và đau-khổ của thế gian.
Họ đem nước Cam Lồ tưới cho tất cả những vết thương mà không muốn cho
những người được họ săn-sóc trong cảnh-giới tinh-thần, thiêng-liêng biết đến
họ.
Mong rằng không một ai coi thường sự hy-sanh của họ, khinh-khi cách phụng sự của họ. Tất cả những người như thế trong các cấp bực, trong các Tôn-giáo, ở khắp mọi nơi hợp-thành một cơ-quan duy-nhất. Đó là Trái-Tim của lòng Sùng-Tín Thuần-khiết và cần-thiết cho đời sống Tinh-thần của thế-gian.
II
MẨU NGƯỜI SÙNG-TÍN HOẠT-ĐỘNG
Hạng người nầy chia sớt với người Sùng-Tín
thụ-động sự cần phải chiêm-ngưỡng trong sự trầm-lặng Đấng mà họ thờ-phụng,
nhưng họ coi đó như là một sự nghỉ ngơi, một niềm khuyến-khích.
Người Sùng-Tín hoạt-động
không muốn ở mãi trong đền-thờ, nhưng thỉnh-thoảng tới đây :
a---để tìm cảm-hứng và niềm an-ủi trong các
bóng tối mát-mẻ của những cửa tò vò hình vòng cung.
b---trong những hương-thơm của trầm nhang.
c---trong những điệu du-dương của âm-nhạc.
d---và nhất là trong sự hiện-diện của Đấng
Thiêng-liêng. Ngài thấm-nhuần
mọi vật, khiến cho :
Bóng tối được mát-mẻ,
Trầm nhang được thơm ngát,
Âm-nhạc có uy-lực phấn-khởi lòng người.
Nhưng nếu cần tới thời-kỳ nghỉ-ngơi yên-tịnh
như thế thì : cái cách tự phát-biểu cao-cả của anh, cái niềm vui sâu-kín
nhứt của anh là thực-hiện ý muốn của Đấng mà anh thờ-phượng mến-yêu :
---trong một sự cộng-tác tràn
đầy nhiệt-tâm hoan-hỉ với Ngài.
---trong cái cảm-giác được Hợp-Nhất với Ngài ;
---được trở nên một phần-tử của Đấng Cao-cả mà
anh mến-yêu.
Nếu mà họ sống trong thời-đại mà người ta hành-hà và ngược-đãi những người
khác Đạo thì họ vừa đi, vừa ca hát khi lên giàn hỏa, không có một chúc chi
nao-núng. Họ tử vì Đạo mà không
hề nhận-thức được cái trạng-thái hấp-hối lâm-chung của mình trong một niềm
vui xuất-thần được hiệp-nhứt với Chúa mình.
LÚC ĐẦU-TIÊN HỌ LÀ NHỮNG NGƯỜI THẾ NÀO ?
Lúc đầu-tiên họ là những người có niềm âu-yếm
mãnh-liệt, có bản-tính quyến-luyến.
Khi còn là trẻ thơ, họ yêu-mến tôn-thờ một người bạn lớn hơn nhưng
thường ở rất xa. Một lời nói,
một nụ cười của người bạn làm trái tim họ rộn-rực vì sung-sướng.
Tuy không biết gì về điều nầy cả, họ sẽ được Chơn-nhơn của họ dẫn họ
đến công việc và cách giải-trí làm phát-triển những đức-tánh cần-thiết sau
nầy, hiện giờ còn ẩn-tàng nơi họ.
Khi lý-tưởng của họ thay đổi thì chính họ cũng
thay đổi, lý-tưởng của họ phụng-sự cái gì thì họ cũng tìm cách phụng-sự cái
nấy.
CÁC HÀNH-ĐỘNG CỦA HỌ
Mắt luôn luôn châm-chú nhìn Đấng mà họ
thờ-phượng, sùng-bái ; họ lấy làm vinh-hạnh mà bắt-chước Ngài, không phải
trở nên cao cả, nhưng mà để giống hệt Đấng mà họ thờ-phượng.
Sau cùng, cái lý-tưởng thật-sự của họ bắt đầu
ban rải ánh-sáng lên họ, tuy rằng cái mặt thực của lý-tưởng hãy còn bị
giấu-kín.
Họ sẽ dần-dần biết được những đức-tánh
cần-thiết cho người Đệ-tử và cố-gắng hoạch-đắc chúng.
Họ nóng lòng đi trên con đường Đạo để đến gần Sư-Phụ và theo
khăn-khít những bước chơn của Ngài đi.
Họ không lưu-tâm đến sự thâu-nhận những Môn-đồ
nếu không phải là để dắt-dẫn mấy người nầy đến một sự vinh-quang hơn địa-vị
hiện thời của chúng.
Họ muốn có ý-chí, muốn có sự hiểu-biết, nhưng
luôn luôn để tặng sự vinh-quang của Chúa họ, để Phụng-sự Ngài một cách
đắc-lực hơn và để được Hiệp-nhứt hơn với đời sống của Ngài.
Mỗi sự hoạch-đắc của họ đều được coi như là một phương-tiện để
thờ-phượng chớ không có một giá
trị nào khác.
Họ tiếp đón nồng-nhiệt mỗi người Tân Tín-Đồ, vì
đó là thêm được một người đến thờ-phượng trước bàn-thờ của Đấng mà họ
mến-yêu tôn-kính.
Lòng ích-kỷ, tánh ganh-ghét, sự độc-quyền, các
tật xấu đó trong tình-yêu thuộc về cảnh-giới thấp sẽ tiêu tan trong cái
ý-muốn nồng-nhiệt làm cho mọi người biết đến sự tôn-sùng Ngài, thờ-phượng
Ngài. Giống như con chim
sơn-ca, trong khi lao mình bay vút lên trời xanh, cho trái đất dưới thấp
biết được vẻ huy-hoàng của vầng Thái-Dương không bị mây che phủ, người
Sùng-tín xưng-tụng, ca-ngợi cái vinh-quang của Thần-Tuợng mình, kêu gọi
những kẻ khác, dầu ở quốc-gia nào, ở Tôn-giáo nào, ở giai cấp nào, đến
chiêm-ngưỡng sự vinh-quang biểu-lộ của Chúa y giáng-lâm trong một hình-hài,
để tới nhập học với y mà ca-ngợi và xưng-tụng Đức Thượng-Đế giáng-lâm.
CON ĐƯỜNG SÙNG-TÍN DẮT ĐI ĐẾN ĐÂU ?
Con đường Sùng-tín thường dất-dẫn những khách
lữ-hành đi trên đó đến Khu-bộ của những vị Giáo-chủ nhân-loại mà vị Thủ-lãnh
là Đức Bồ-Tát, Đức Bồ-Tát
hiện-kim, các đức Chơn-Sư K.H., D.K. và Jésus.. đã theo con đường nầy.
Đức K.H. sẽ thành vị Bồ-Tát vị-lai, tức là vị Bồ-Tát của giống dân
chánh thứ sáu, trong sáu, bảy trăm-năm nữa.
Đó cũng là con đường của đức Jinarajadasa, của đức G.S. Arundale và
của Alcyone.
Cũng có vị đã thành-đạo hoạt-động dưới sự
điều-khiển của các vị Nirmanakayas và gia-nhập vào cấp bực của các Ngài,
luôn-luôn tuôn thần-lực vào cho đầy những Kho dự-trữ thiêng-liêng, để cho
những người làm việc sốt-sắng tới đó lấy những phương-tiện để cứu-giúp
nhơn-loại. Các Ngài là những
tia-sáng mặt trời, những làn mưa dịu-dàng khiến cho thế-giới tinh-thần đâm
chồi nẩy lộc, những vị trầm-tĩnh ban phước lành cho khẻ khác, và cũng được
kẻ khác ca-tụng công-đức.
Nhiều vị Đệ-tử Phật thuở xưa đã gia-nhập vào hàng-ngũ của những vị Nirmanakayas.
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
QUYỄN BẢY
TINH-THẦN AN-PHẬN
TÁNH KÍN ĐÁO—TÁNH ĐÚNG ĐẮN
1971
TINH-THẦN AN PHẬN
Sách DƯỚI-CHƠN-THẦY đã giải rành-rẽ về điều nầy trong chương “AN-PHẬN” : “Phải
vui lòng trả quả của con, dầu cách nào cũng vậy.
Phải nhận lảnh sự đau-đớn
khổ-sở như một sự vinh-diệu, vì nó chứng-minh rằng : Các đức NAM-TÀO BẮC-ĐẨU
thấy con đáng giúp đở”.
Lẽ dĩ-nhiên muốn có tinh thần An-Phận thì phải
thật biết cái nào là định-mạng, cái nào là tự-do ý-chí, tức là thông-hiểu
luật Nhân-Quả một cách rành-mạch.
Định-mạng hay là số-phận của ta kiếp nầy, vốn
do ta đã tạo ra trong nhiều kiếp trước và nhứt là kiếp mới rồi, ấy là
Quả-muồi phải trả, không thể nào tránh khỏi.
Ta lấy thân-hình Nam hay Nữ, phải sanh vào một
gia đình thuộc về quốc-gia nào, chủng-tộc nào, được thương yêu chìu-chuộng
hay là ghét bỏ hành-hạ, sức khoẻ dồi-dào hay suy-kém, trí-hóa minh-mẫn hay
u-mê đần-độn, thân-thế ta, sự-nghiệp ta và những cơ-hội đưa đến, dầu tốt hay
xấu, vốn do nghiệp-quả của ta gây ra với một số người khác, chớ nào phải tại
Tạo-hóa bất-công trong sự sanh-sản cho nên mới có những người tài ba
lỗi-lạc, cao sang quyền-quí và những kẻ tầm-thường ngu-dại, dốt-nát,
bần-hàn, khổ-cực.
Chúng ta ở trong một thế-giới do Định-Luật
chi-phối thì những điều trái-ngược đó không thể nào lại xảy ra được bao giờ.
Nếu đúng ngày trái mới chín muồi và rụng xuống
thì phải đúng ngày giờ, chúng ta mới trả cái gì mà trước kia chúng ta đã
vay.
Nhưng thường thường con người hay than thân,
trách phận, đổ lỗi cho Trời Đất, tại sao sanh mình ra thua sút chúng bạn,
chớ ít khi nhìn-nhận tại nhiều kiếp trước mình đã vụng đường tu, nghĩa là
những hành-vi của mình dữ nhiều lành ít, cho nên mới tạo ra hoàn-cảnh
hiện-tại.
Chúng ta đã gieo thì bây giờ phải gặt, giống
nào theo giống nấy.
Sự An-Phận cắt-nghĩa theo Huyền-Bí-Học.
Nhưng mà tại sao chúng ta phải An-Phận ? Bởi vì
khi chúng ta vui lòng nhận-lãnh nghiệp-quả thì cái Vía chúng ta giãn ra, lớn
hơn trước nhiều, màu sắc lại thêm xinh-đẹp, tư-tưởng chúng ta lại vô trí của
những người ở chung quanh làm cho họ thêm phần phấn-khởi.
Trái lại khi những sự khó-khăn, đau khổ (1)
[(1) Chớ nên tưởng rằng mổi lần chúng ta bị đau-khổ là tại kiếp trước
chúng ta đã gieo những nhân chẳng lành.
Không phải luôn luôn như vậy đâu.
Cũng có thể ngày nay chúng ta bị nhiều người khác làm cho bị đau-khổ
vì một lý do nào đó, hoặc tánh ích-kỷ hay là quyền-lợi cá-nhân của họ, cũng
có khi bị ta tính-toán sai lầm.
Muốn tìm ra nguyên-nhân đầu tiên, do ở kiếp hiện-tại hay ở kiếp quá-khứ thì
phải mở tới Huệ-nhãn xem xét.
Chúng ta chớ nên ức-đoán điều chi cả.
Gặp đau-khổ thì cứ lo giải-trừ mà thôi. ] đưa tới mà chúng ta
buồn-bực, than-van thì cái Vía chúng ta thắt lại làm cho trái tim ta nhiều
khi bị đau nhói,---tư tưởng chúng ta lại còn gây ra những sự phiền-hà
nóng-giận cho những kẻ ở gần bên chúng ta, vì bởi tư-tưởng truyền-nhiễm.
Thế thì trong lúc chúng ta chưa trả hết quả cũ
mà lại còn đương-nhiên gây thêm những quả xấu mới khác nữa.
Cứ tiếp-tục như vậy mãi từ kiếp nầy qua kiếp
kia, biết tới chừng nào chúng ta mới thoát đọa Luân-hồi dưới trần-thế.
Một lẽ khác nữa : Lòng bất-mãn làm nảy sanh ra
trong Trí và Vía những lằn rung-động rối-ren, không đều-đặn, khiến cho
hào-quang của hai thể nầy chớp-chớp như run-rẩy, nó xua đuổi một cách
hung-hăng những ảnh-hưởng tốt lành đến gần con người.
Những lằn rung-động của những ảnh-hưởng tốt
lành thì điều-hòa và có tiết-điệu.
Khi đụng vào các lằn rung-động như gió lốc của cái Vía và Cái Trí,
thì chúng bị đẩy lui ra ngoài xa.
Những lằn rung-động xấu-xa nầy lại còn hấp-dẩn
những lằn rung-động của những tinh-chất u-buồn, làm tăng thêm cái tai-hại đã
có sẵn.
Còn sự An-phận phóng ra những lằn rung-động
điều-hòa và dịu dàng. Trái với
những lằn rung-động chậm-chạp, chúng hấp dẩn những tinh chất tinh-anh và đem
vào mình những ảnh-hưởng vui-tươi, tốt lành làm cho cái Vía và cái Trí trở
nên xinh-đẹp.
Hiểu được sự An-Phận về phương-diện huyền-bí
thì con người phải vui lòng trả quả.
Và
AN-PHẬN có nghĩa là :
Chẳng oán Trời, trách Đất,
giận vật, hờn người, mà chỉ lo thanh-toán những mối nợ-nần đã vay khi xưa mà
thôì.
Khi chúng ta có được đặc-ân kết thúc sổ kế-toán
ghi những mối nợ-nần thiếu ở tiền-kiếp, khi chúng ta đã trang-trải xong
những món nợ ấy thì từ nay, đã lật qua một trang mới của cuốn “Bộ-Đời lớn”
nơi đó không còn thấy những lổi-lầm của dĩ-vãng nữa.
PHẢI CẢI-TẠO HOÀN-CẢNH
Chúng ta phải có tinh-thần An-Phận.
Đúng vậy, tuy nhiên An-Phận không phải cứ ở mãi một chỗ không dám
hoạt-động để sửa đổi hoàn-cảnh; đừng nói ; tại Trời sanh tôi như vậy thì tôi
phải chịu chớ biết làm sao bây giờ.
Hiểu An-Phận như thế thì rất sai lầm.
Có Định-mạng mà cũng có Tự-do ý-chí đặng cải-thiện đời sống của ta và
đồng thời cũng tạo ra hoàn- cảnh của kiếp sau nữa.
Kiếp nầy là kết-quả kiếp trước, còn kiếp sau là
kết-quả của kiếp nầy. Ta hiểu
chậm thì đừng biếng-nhác, cứ lo học hỏi ngày nầy qua ngày kia, trí-hoá ta sẽ
mở-mang lần lần.
Ta yếu-đuối thì phải giữ đúng phép vệ-sanh,
dùng thuốc men đặng bồi-bổ sức lực và năng tập thể dục đặng trở nên tráng
kiện. Về phương-pháp tập-luyện
thì phải tùy thuộc tuổi-tác, sức khoẻ và công việc hằng ngày, điều nầy, mỗi
người đều mỗi khác nhau.
Ta không được khá-giả thì phải cần-cù làm việc
và tiện-tặn---không phải hà-tiện,---không tiêu-xài vô lối thì trong một thời
gian sau ta có thể đủ ăn, đủ mặc.
Ta cứ lo tập-rèn tánh-nết cho thật tốt, bằng
cách sửa đổi tư-tưởng, lời nói và việc làm của ta ra chơn-chánh.
Ta cố-gắng không ghen-tỵ, không ích-kỷ và sẵn sàng giúp-đỡ bất-câu là
ai, tùy khả-năng và phương-tiện của ta.
Đó là những yếu tố giúp chúng ta cải-thiện được
phần nào số-mạng của ta kiếp nầy và còn tạo ra nhiều ảnh-hưởng tốt đẹp cho
kiếp sau nữa.
Chúng ta phải bắt-chước
những ghe bầu
chạy cấn : gặp gió ngược mà vẫn
giương buồm chạy tới được. Mới
nghe qua thật là phi-lý, nhưng đó là sự thật, một trăm phần trăm,---tôi đã
thấy chuyện nầy tận mắt nhiều lần rồi.
Sự An-Phận của cách Sanh-viên Huyền-Bí Học
Tôi vẫn biết : những cơ-hội để học-hỏi
Huyền-Bí-học theo bề ngoài có nhiều cách.
Những Sanh-viên cư-trú tại đô-thị được dự những cuộc hội-hộp có
kỳ-hạn đều đều để thọ-lãnh tất cả những giáo-huấn cần-yếu.
Những Sanh-viên ở đồng-quê không được hưởng
ưu-thế đó và những người sống lẻ-loi, tản mác, chỉ nhờ có thơ tín để học hỏi
mà thôi.
Nhưng số-phận của mổi người
đều do nghiệp duyên định-đoạt, và sự bất-mãn làm cho tất cả những sự giúp-đỡ
khác phải bị đẩy lui mà không đến được.
Chúng ta nên hiểu rằng : Sanh-viên nào chuẩn-bị
đầy-đủ thì trong lúc tham-thiền ân-huệ sẽ ban xuống, và ban đêm trong lúc
ngủ, sự giáo-huấn cũng thường đưa đến cho cái Trí, hoặc giả, Sanh-viên cũng
có thể đi tới một chỗ kia để học hỏi chung với các bạn, mặc dầu sáng ra thức
dậy không nhớ chi cả.
Sự cô-đơn không làm trở-ngại những phương-thế
giúp-đỡ, nhưng mà lòng bất-mãn dựng lên một bức tường không thể vượt qua
được.
Còn muốn hiểu cặn kẽ tại sao “phải vui lòng
nhận lãnh sự đau-đớn khổ-sở như một sự vinh-diệu vì nó chứng-minh rằng các
đức Nam-Tào Bắc-Đẩu thấy con đáng giúp đỡ”, xin quí bạn đọc quyển
Giảng-Lý DƯỚI CHƠN
THẦY, đoạn
AN-PHẬN, và quyển
CON ĐƯỜNG CỦA NGƯỜI ĐỆ-TỬ, từ
trương 92 : d)
Đức-tánh thứ tư :
TITIKSHA cho tới câu chót” y có
thể đạt được cái đức-tánh thứ năm của thể
TRÍ, đó là
SHRADDHA, chương
97.
BỀN-CHÍ
Một ngày kia Đức Bà Blavatsky nói với một cô
Sanh-viên thân-mến như vầy : “Em ơi! Em phải uống cho cạn ly rượu bền-chí,
không chừa, một chút cặn nào mới được”.
Người ta có thể đem lời nầy lập lại cho mổi
Sanh-viên huyền-bí học.
“Trong khoa Huyền-bí-học, hầu hết những
công-việc tạo-tác đều thật-hiện một cách âm-thầm, kín đáo, Sanh viên không
biết mình đã tiến tới đâu về các phương-diện cao-siêu, cho đến khi bức màn
vén lên một cách thình lình.
Lúc bấy giờ anh mới thấy được trình-độ tiến-hoá của anh và đoạn đường của
anh đã vượt qua trong những năm không thấy kết-quả ra sao, và đã đi tới đâu
rồi.”
Luôn luôn trong lúc đầu tiên, chúng ta có
khuynh-hướng yêu-cầu những huấn-thị mới, xin cho được những sách mới, những
giáo-huấn mới và giảng-giải mới.
Chúng ta có cái cảm-tưởng rằng chúng ta chỉ được tiến-bộ là khi nào
chúng ta có được cái gì mới và không thể đem chia sớt cho kẻ khác ở ngoài.
Đó là một cảm-tưởng sai lầm, sản-phẩm của Rojas, (động-tác của
giác-quan) và thường có nhiều vô-minh trong đó.
Nên biết cái thói quen thông-thường của người
đời là cái chỉ cũng muốn biết, nhưng biết một cách qua loa vậy thôi, chớ ít
khi chú-trọng đến vấn-đề nào đi sâu vào vấn-đề đó.
Người học Đạo phải tránh điều nầy.
Sự
tiến-bộ do nơi sự đồng-hóa mà có, chớ không phải do nơi sự hấp-thụ suông mà
được. Những người xin những giáo-huấn mới thường không phải là những người
đã đồng-hoá những giáo-huấn cũ.
Sanh-viên còn phải nghiên-cứu những sách vở có
chứa một giáo-huấn mới và thực hành cho kỳ được, mặc dầu những giáo-huấn đó
đã phô-bày trước mắt đại-chúng, nhưng vẫn còn nhiều giá-trị mà ít người nhận
ra.
Tỷ như
Sanh-viên phải hiểu rõ những lời dạy trong những quyển sau nầy :
1---Những luật căn-bản của Thông-Thiên-Học
(Lois fondamentales de la Théosophie).
2---Con người và những Thể của nó (L’homme et
ses corps)
3---Cõi Trung-giới (Plan Astral)
4---Cõi Thượng-giới hay Thiên-Đường (Monde
Céleste).
5---Nhân-Quả (Karma).
6---Luân-Hồi (Réincarnation).
7---Trước thềm Thánh-Điện (Vers le Temple).
8---Con Đường của người Đệ-tử (Le Sentier du
Disciple)
9---Những nguyên-lý Thông-Thiên-Học, dịch ra
tiếng pháp là Evolution occulte de l’humanité (Sự tiến hoá huyền-bí của
nhân-loại)
10---Cái Phách (Double éthérique).
11---Cái Vía (Corps astral)
12---Cái Trí (Corps mental)
13---Nhân thể (Corps causal).
14---Thái-Dương hệ (Le système solaire)
Ngoài ra còn 7 cuốn nữa, quí vô giá :
1---Những Luân-xa (Les Chakras)
2---Huyền-Bí-Học trong thiên-nhiên
(L’Occultisme dans la nature---2 quyển).
3---Khía cạnh huyền-bí của Sự-Vật (Le côté
cache des choses)
4---Tâm-thức học (Etude sur la Conscience).
5---Giảng-lý
DƯỚI CHƠN THẦY (commentaires sur Aux Pieds du Maitre).
6---Giảng-lý
TIẾNG NÓI VÔ-THINH (Commentaires sur La Voix du Silence).
7---Giảng-lý
ÁNH-SÁNG TRÊN ĐƯỜNG-ĐẠO (Commentaires sur La Lumière sur le Sentier)
(1) [ (1) Còn nhiều quyển viết bằng Anh-văn chưa dịch ra tiếng Pháp].
Bốn quyển đầu tiết-lộ nhiều sự bí-mật huyền-bí.
Ba
quyển sau để đào-tạo các Đệ-tử Chơn-Sư.
Sự nhẫn-nại để học-hỏi của Sanh-viên thêm vào
do sự Tham-thiền hằng ngày sẽ chóng mở rộng quan-điểm của anh về cuộc đời và
rèn tập anh về phương-diện Huyền-bí-học.
TÁNH KÍN-ĐÁO
Các nhà Huyền-bí-học và các nhà Thần-bí-học đều
công-nhận rằng : “Cái lưỡi là phần-tử cứng đầu, kỳ khôi, bất phụng-tùng”.
Kiểm-soát nó là một điều tối quan-trọng.
Khi xưa, qui-luật của trường Pythagore bắt buộc
thí-sanh phải nín-thinh trong một thời gian hai năm---có khi kéo dài tới 5
năm---chỉ được nghe lời của Thầy giảng-giải chớ không được phép hỏi-han chi
cả. Điều nầy có 2 điều lợi :
dinh-dưỡng luân-xa ở yết-hầu và tập cho sanh-viên quen tánh ít nói, kín-đáo,
và phải suy-nghĩ kỹ-lưỡng trước khi mở lời.
Chúng ta đã từng thấy ở ngoài đời, tánh hay nói
không kín-miệng được, và thường sanh ra những chuyện thù-oán, bất-hoà, có
khi đem tai-họa vào thân.
Trong đường Đạo còn có nhiều sự nguy-hiểm
lớn-lao hơn nữa.
Tỷ như sự
luyện-tập thân-thể là việc riêng của mổi cá-nhơn, và phải luôn luôn ở dưới
quyền điều-khiển của Chơn-Sư hay là một vị cao-đồ của Ngài.
Nếu đem nói ra cho người thường chưa chuẩn-bị biết, họ bắt chước hành
theo thì cái kết-quả là điên-khùng hay là bỏ mạng.
Một lẽ khác, có nhiều quyền-năng mạnh gắp cả
trăm, cả ngàn lần điển-khí, làm lợi cũng được, mà làm hại cũng được.
Vị nào lòng còn tràn-trề dục-vọng hay oán-chạ thù-vơ, mà luyện được
những quyền-năng nầy thì sẽ gây tai-hại khủng-khiếp cho đời, mà không biết
sao mà lường được, vì họ còn hiệp bè lũ với nhau và dạy-dỗ nhau nữa.
Vì vậy có nhiều điều giáo-huấn mà sanh-viên đã
thọ-lãnh hay sẽ thọ-lãnh, không thể đưa ra trước công-chúng vì họ chưa đủ
điều-kiện để nhận-thức. Nếu
chưa hoàn-toàn đồng-hoá những giáo-lý căn-bản của Thông-Thiên-Học thì không
khi nào họ chấp-nhận, các Hạ Bí-Pháp của Huyền-Học.
Chẳng những như vậy mà thôi, nỗi e họ còn trở
lại nhạo-báng và công-kích là khác nữa.
Sách DƯỚI CHƠN THẦY đã cảnh-cáo chúng ta :
“Bây giờ đây, tốt hơn là tập tánh suy nghĩ cho kỹ lưỡng trước khi nói ; bởi
vì khi con được Điểm-Đạo, con phải giữ-gìn từ lời nói, sợ e không được
kín-miệng”. Vậy con
hãy tập cho quen thói “Nghe hơn là Nói”.
Nếu người ta không ân-cần hỏi ý-kiến của con thì con đừng tỏ ra.
Có một câu gom hết các đức-tánh phải tập là : Trí, Cảm, Nguyện, Mặc,
nghĩa là phải Hiểu-biết, phải Can-đảm, phải Chí-quyết và phải Nín thinh (
Savoir, oser, vouloir, se taire), mà cái tánh chót “Nín-thinh” là khó hơn
hết.
Nói cho đúng, những bí-mật trong “Sự Điểm-Đạo” của Quần-Tiền-Hội
không hề bao bị tiết-lộ ra ngoài.
Vị Đệ-tử nào quên lời thề, vừa muốn mở miệng ra thì đã quyên hết
những điều mình có ý phanh-phui ra, cả tháng như vậy.
Nguyên-tắc của mấy vị Hồng-Thập-Tự-Giá (Rose
Croix) là : Ai muốn tiến mau trên
con đường Huyền-bí-học thì phải biết những Luật Thiên-nhiên rồi có can-đảm
đem chúng ra áp-dụng.
Muốn sử-dụng quyền-năng cao-siêu mà người ta
giao-phó cho chúng ta trên con đường Đạo nầy thì chúng ta phải có một
nghị-lực cương-quyết, cứng như sắt đá đặng điều-khiển chúng, và chúng ta
phải hoàn-toàn tự-chủ nữa. Sau khi
thành-công rồi thì phải thận-trọng, đừng nói tới điều đó.
Xin nhắc lại một lần nữa rằng : đối với những
người ngoài chưa biết thì những sự thật về phương-diện vô-hình của
Thiên-nhiên, nhiều khi xem dường như không thể tin được và vô-lối nữa.
Nếu không cẩn-thận, đem những điều đó ra nói không đúng chỗ thì chỉ
làm cho họ đã không buồn nghe mà lại không thèm nghiên-cứu những giáo-lý
khác, như Luật Nhân-Quả và Luân-hồi chẳng hạn, nói chi tới giai-cấp trên
Thiên-Đình và các Đấng Chơn-Sư Minh-Triết từ bi.
Khi xưa đức Khổng-Tử tới
viếng một toà cổ miếu thấy một hình người quấn khăn, bịt miệng tới ba lớp,
Ngài day lại dặn các môn-đệ khá cẩn-ngôn, cẩn-hạnh.
Gương nầy để cho chúng ta soi chung.
TÁNH ĐÚNG-ĐẮN
Hiện nay vì sự sanh-hoạt càng ngày càng
khó-khăn và phức-tạp cho nên chúng ta khó tổ-chức một đời sống Đạo-Đức cho
đúng phép. Tuy vậy mặc dầu
chúng ta phải cố-gắng, được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Trong việc làm, bữa ăn, giắc ngủ, phải có
điều-độ.
Phải tham-thiền cho đúng giờ khắc.
Phải làm cho tròn bổn-phận và nhiệm-vụ được giao-phó.
Phải đọc kỹ những qui-luật và ghi nhớ vào tâm trí đặng đem ra
ứng-dụng khi cơ-hội đưa đến.
Sanh-viên thường đưa ra những câu hỏi mà người
ta có thể trả lời bằng cách : Xin anh đọc lại trương sách đã giải-bày điều
anh muốn biết mà anh đã quên hay không để ý tới.
Anh nên đọc đi, đọc lại “Những
nắc thang vàng” hoặc những sách dạy về tham-thiền, hay là những sách
Đạo-Đức chân-chính, rồi suy-nghĩ và đồng-hóa cho trọn-vẹn, vì nhờ sự lặp đi
lặp lại đó nó làm cho Huấn-thị thực-dụng thành ra tập quán của đời sống anh.
Như thế anh sẽ lợi-dụng những cơ-hội đưa đến cho anh được nhiều và
anh sẽ tiến bước mau chóng hơn là để cho sự náo-động của cái trí kích-thích
và tìm kiếm những sách mới, những tài-liệu mới trong khi anh chưa giữ đúng
những qui-luật đã học-hỏi.
PHỤNG-SỰ
Tấc cả những ai có lòng mộ Đạo đều đi tìm kiếm
Chơn-Sư, vì đó họ trở-thành những người tự Hiến-dâng cho công việc Phụng-Sự.
Quần-Tiên-Hội có ra đây là để Phụng-Sự
Thượng-Đế và các vị Thiên-Tôn, phụ-tá Ngài trong việc cai-trị vũ-trụ chúng
ta.
Các Chơn-Sư thâu nhận Đệ-tử để một khi được các
Ngài giúp-đỡ, họ có thể phụng-sự một cách đắc lực hơn.
Các Ngài chọn Đệ-tử trong nhóm người cố-gắng Phụng-Sự và có
nguyện-vọng. Nguyện-vọng
Phụng-Sự một cách hoàn-hảo hơn.
Vì thế cho nên tất cả chúng ta đều phải dự một phần hoạt-động vào công việc
Phụng-Sự, hoặc bằng cách nầy, hoặc bằng cách khác.
Tất cả chúng ta đều phải có công việc làm trong thế-giới bên ngoài
Thế nên tất cả 3 con đường : Sùng-Tín, Trí-Huệ,
Hành-động đều là những con đường Phụng-Sự , tất cả đều dắt-dẫn đến cái việc
Phụng-Sự toàn-hỏa. Công-nghiệp
của Quần-Tiên-Hội trong thế-giới chúng ta hay những Hệ-thống Thiên-liêng
khác, tức là những bầu Hành-tinh khác trong khắp cả Thái-dương-hệ.
Vậy thì chúng ta hãy đi trên con đường mà chúng
ta có thể theo đuổi. Điểm chót của
con đường là : công việc Phụng-Sự, Phụng-Sự trong hàng-ngũ Quần-Tiên-Hội,
Bảo-trợ thế-giới chúng ta.
Bởi thế chúng ta sụp quì dưới chơn các Đấng
Phụng-Sự thế-gian và cầu xin ở nơi các Ngài sự giúp-đỡ và hướng-dẫn ; nhờ
những điều nầy mà chúng ta mới đạt được mục-đích.
LỜI CẦU-CHÚC CỦA BÀ A. BESANT.
Hỡi các Huynh-Đệ của tôi ! Các anh đã khởi sự
bắt tay vào một công-việc vô cùng Vinh-Quang, mà cũng cực kỳ khó-khăn.
Cầu xin các anh sớm thấy được Ánh-sáng mà các anh tìm kiếm và Sư-Phụ
tác-thành cho các anh được SANH RA LẦN THỨ NHÌ
(1) [(1) [Tức là
Điểm-Đạo lần thứ nhứt]
A. BESANT
CHUNG
◊◊◊
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
QUYỄN TÁM
DÃY ĐỊA-CẦU CHÚNG TA
---CÁC GIỐNG DÂN
---CÁC CHÂU THẾ-GIỚI
Tự do tín ngưởng
Tự do tư tưởng
1971
DÃY ĐỊA-CẦU CHÚNG TA
Dãy Địa-Cầu chúng ta hiện giờ gồm 7 Bầu Hành
tinh :
---Bầu thứ nhứt không có tên xin gọi là Bầu A.
---Bầu thứ nhì không có tên xin gọi là Bầu B.
---Bầu thứ ba là Hỏa Tinh (Mars).
---Bầu thứ tư là Trái Đất (Terre).
---Bầu thứ năm là Thủy tinh (Mercure).
---Bầu thứ sáu không có tên xin gọi là Bầu F.
---Bầu thứ bảy không có tên xin gọi là Bầu G.
BẢY BẦU NẦY Ở CÕI NÀO?
---Bầu thứ nhứt và Bầu thứ bảy ở cõi Hạ Thiên.
---Bầu thứ nhì và Bầu thứ sáu ở cõi Trung Giới
---Bầu thứ ba
:
Hỏa Tinh
}
---Bầu thứ tư
:
Trái Đất
} ở tại cõi
Trần
---Bầu thứ năm
:
Thủy Tinh
}
Xin xem đồ hình đễ hiễu hơn.
DÃY TRÁI ĐẤT CỦA CHÚNG TA HIỆN GIỜ LÀ DÃY THỨ MẤY ?
Dãy Trái Đất của chúng ta hiện giờ là Dãy thứ tư.
Ba Dãy trước mãn nhiệm kỳ tan rã đã lâu lắm
rồi.
Nhưng Dãy thứ ba còn để lại một di tích là Mặt
Trăng để soi sáng chúng ta lúc ban đêm.
Vì vậy người ta gọi Dãy Thứ Ba là dãy mặt trăng hay là dãy Nguyệt
Tinh.
Mặt trăng ngày nay là một Bầu HànhTinh chết chờ
ngày tan rã, nó không còn sanh khí nữa.
Sách Tàu gọi là Cung Trăng là Quảng-Hàn-Cung
tức là Cung Lạnh thật đúng lắm.
Danh từ nầy chắc chắn do một nhà Huyền Bí Học Trung Hoa đặt ra.
Ngày nay Phi Hành Gia Mỹ lên tới Nguyệt Cầu
thì thấy ở đó khí hậu rất lạnh lẽo.
(1) [ (1) Ban ngày ở
ngoài nắng thì 130 độ (130*C) ở trong bóng mát 50 độ dưới không độ (--50*C)
. Ban đêm thì 170 độ dưới không
độ (--170*C) hết sức lạnh. ]
Còn câu chuyện Hằng Nga trong Nguyệt Điện đúng
mà không đúng. Đúng là nhân
loại của cuộc Tuần Hườn Thứ Bảy tại Mặt Trăng đều gần thành Tiên Thánh cho
nên thân hình rất phương phi đẹp đẽ.
Đó là câu chuyện đã xãy ra mấy triệu năm trước
rồi.
Còn bây giờ, mà tin rằng có Hằng Nga ở trên
Cung Trăng thì không đúng. Tại
Cung Trăng không còn sanh vật nữa.
Câu chuyện Vua Đường Minh Hoàng du Nguyệt Điện
vốn do ảo thuật của Đạo sĩ La Công Viễn hóa ra chớ sự thật không có chi hết.
NHƠN VẬT TRÊN DÃY ĐỊA CẦU CHÚNG TA.
Trên mỗi Hành Tinh của Dãy Điạ Cầu chúng ta đều
có bảy loài kể ra như sau đây :
1---Loài Tinh-Chất thứ nhứt (1ère essence
élémentale).
2---Loài Tinh-Chất thứ nhì (2e essence
élémentale).
3---Loài Tinh-Chất thứ ba (3e essence
elementale).
4---Loài Kim Thạch.
5---Loài Thảo Mộc.
6---Loài Thú Vật.
7---Loài Người.
Tôi không kể vô đây các Hàng Thiên-Thần, Ngũ
Hành (Esprits de la nature) và các loài khác.
Bãy loài trên đây liên quan mật thiết với nhau.
1---Loài Tinh Chất thứ nhứt sau đầu thai qua
loài Tinh Chất thứ nhì
2---Loài Tinh Chất thứ nhì sau đầu thai qua
loài Tinh Chất thứ ba.
3---Loài Tinh Chất thứ ba sau đầu thai qua loài
Kim Thạch.
4---Loài Kim Thạch sau đầu thai qua loài Thảo
Mộc.
5---Loài Thảo Mộc sau đầu thai qua loài Thú
Vật.
6---Loài Thú Vật sau đầu thai qua Hàng Ngũ Hành
hay là Con người.
7---Còn loài Người thì thành Tiên Thánh.
BÃY GIỐNG DÂN TRÊN DÃY ĐỊA CẦU
Trên mỗi Bầu Hành-Tinh kều có 7 Giống Dân Chánh
(Race-Mère)
Mổi Giống Dân Chánh sanh ra 7 Nhánh gọi là 7
Giống Dân Phụ (Sous-Race)
Mỗi Giống Dân Phụ sanh ra 7 chi nhỏ nữa gọi là
Nhánh của Giống Dân Phụ (Branche de Sous-Race)
Như vậy có tất cả là : 7x7x7= 343 Nhánh.
Không phải 7 Giống Dân Chánh sanh ra một lượt
với nhau.
Khi Giống Dân thứ nhứt sanh ra, hoạt động và
gần tàn rồi thì Giống thứ nhì mới sanh ra.
Giống thứ nhì gần tàn rồi thì Giống thứ ba mới sanh ra rồi cứ tiếp
tục như thế cho tới Giống thứ bảy.
Khi Giống thứ bảy tàn rồi thì không có sự sanh
hóa nữa. Đã đúng thời kỳ nghỉ
ngơi rồi.
XIN NHỚ NHỮNG NGUYÊN TẮC TỖNG QUÁT NHƯ SAU ĐÂY
Một là : Khi Nhơn Vật qua
Bầu Hành Tinh nào thì thân hình phải làm bằng chất khí đã cấu tạo ra Bầu
Hành tinh đó. Như thế mới sống
và hoạt động tại Bầu Hành Tinh đó được.
Hai là : Trên mỗi Bầu
Hành Tinh, mỗi loài, từ loài Tinh Chất thứ nhứt cho tới Loài Người đều có
những bài học riêng biệt : loài nào , bài nấy.
Khi học hết chương trình rồi thì tới thời kỳ
Bãi Trường. Nhơn Vật về một cõi
kia nghỉ ngơi
Chờ hết lúc nghỉ ngơi thì qua Bầu Hành Tinh kế
đó đặng tiếp tục sự tiến hoá và học những bài học mới khác nữa.
Đây là Thời kỳ Tựu trường của niên khoá mới.
Ba là
: Tuy nhiên trên mỗi Bầu HànhTinh đều có một số nhỏ Nhơn Vật bị bỏ lại nghĩa
là không được qua Bầu Hành Tinh kế đó.
Sau sự Phán xét cuối cùng của một Bầu Hành Tinh thì họ phải ở lại Bầu
Hành Tinh cũ đặng học lại những bài học mả họ chưa thuộc.
Họ ở vào một Tình Trạng gọi là Tình Trạng của Nội Cảnh Tuần-Huờn
(Ronde Intérieure) (Xin xem tới chỗ những cuộc Tuần-Huờn sẽ rõ).
Bốn là
: Khi Nhơn Vật bỏ Bầu Hành Tinh nào đó, rồi thì bầu đó nhỏ lại, Sanh khí còn
đủ để nuôi dưỡng nhơn vật bị bỏ lại mà thôi.
NHƠN VẬT TẠI BẦU TRÁI ĐẤT CỦA CHÚNG TA HIỆN GIỜ
Tại Trái Đất của chúng ta hiện giờ có 7 loài;
1---Tinh Chất thứ nhứt ở tại Cõi Thượng Thiên.
2---Tinh Chất thứ nhì ở tại Cõi Hạ Thiên.
3---Tinh Chất thứ ba ở tại Cõi Trung Giới.
Còn 4 loài nữa ở tại Cõi Trần là :
4---Kim Thạch.
5---Thảo Mộc.
6---Thú Vật.
7---Con Người.
Còn các Hàng Thiên Thần, Ngũ Hành và các loài
khác nữa.
Tất cả đều đã có ở 3 Bầu Hành Tinh trước là Bầu
A, Bầu B và Bầu C là Hỏa Tinh.
Cũng có một số người tiến hóa cao vì nhân quả, ngày nay đầu thai ở Cõi Trần
nầy chớ xưa kia không có đầu thai ở HỏaTinh.
Chúng ta không hiểu rõ duyên cớ nào đó, mà có tiết lộ ra cũng thấy
không có ích lợi gì, bởi chung điều nầy chúng ta không quan niệm được.
CÁC GIỐNG DÂN TẠI ĐỊA CẦU CHÚNG TA
Tại Địa Cầu chúng ta Giống Dân thứ nhứt và
Giống Dân thứ nhì đã tàn lâu lắm rồi.
Hiện giờ Giống Da Đen ở Phi Châu, Á Châu, Úc
Châu, Mỹ Châu là cháu chắt của Giống Dân thứ ba là giống Lê-mu-ri-den
(Lémuriens) Giống Da vàng, Da
Đỏ là cháu chắt của Giống Dân thứ tư là Giống Ắt-Lăn (Atlantes).
Giống Da Trắng là cháu chắt Nhánh thứ tư và thứ năm của Giống thứ năm
là Giống A-ri-den (Aryen).
CÁC GIỐNG DÂN
GIỐNG THỨ NHỨT
Thân hình
: Thân hình làm bằng chất dĩ thái đặc lại, giống như nguyên sanh chất
(protiste) đi đứng, bay, nhảy đều được.
Người ta gọi là những bóng.
Cách sanh sản : Không có
nam nữ. Khi sanh sản nứt mình
ra làm hai hoặc mọc những mầm.
Mỗi mầm rớt ra là một người.
Giác quan : Không có giác
quan như chúng ta ngày nay, chỉ có một quan hoạt động là Thính giác ứng đáp
với lửa..
Vẫn có 7 Nhánh song khó phân biệt.
GIỐNG THỨ NHÌ
Thân hình :
Thân hình cứng hơn Giống thứ nhứt, có tòng, có tụi.
Cách sanh sản
: Có 2 cách chánh.
---Một
là : Nứt mình ra làm hai hoặc mọc những mầm như Giống thứ nhứt.
---Hai
là : Thân hình càng ngày càng cứng hơn trước không thể nứt ra làm hai
nữa nhưng sanh ra những cục nhỏ như giọt mồ hôi, nhớt nhớt và trong trắng
rồi lần lần trở nên cứng có hình người.
Người ta gọi họ là “GIỐNG DO MỒ HÔI SINH RA” (Nés de la sueur).
Họ bán nam, bán nữ, hai bộ phận sanh mới dục
mới tượng chưa thấy rõ ràng. Có lẽ
ngày nay người ta gọi là Những Bộ Nấp.
Giác quan
: Có hai quan hoạt động : Thính giác và Xúc giác, ứng đáp với Hỏa và Phong
(Lửa và Gió). Cũng không thể phân biệt Nhánh nầy với Nhánh kia.
GIỐNG THỨ BA
Giống thứ ba thân hình vạm vỡ rất mạnh mẽ, cao
lớn, màu da đỏ có pha nhiều màu khác, trán trợt, mủi xẹp, hàm rộng.
Ban đầu có một con mắt ở chính giữa trán, đời sau gọi họ là Xi-Lốp
(Cyclopes), sau hai con mắt mới mọc ra hai bên, còn con mắt chính giữa thụt
vô trong đầu thành ra hạch óc (Glande pinéale).
Cách sanh sản : Có 3 giai
đoạn :
---NOÃN SANH--- GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT
Một là :
Nhánh thứ nhứt : Cũng do những
giọt mồ hôi sanh ra. Ban đầu
thì cái trứng mền, sau lần lần có vỏ cứng.
Con người đã khởi sự thấy bán nam, bán nữ rõ rệt.
Hai là : Nhánh thứ nhì :
Cũng do những giọt mồ hôi sanh ra.
Con người thấy bán nam, bán nữ rõ rệt.
GIAI ĐOẠN THỨ NHÌ
Ba là : Qua Nhánh thứ Ba
con người cũng vẫn ở trong trứng.
Chừng nở ra rồi thì thân hình nở nang đầy đủ bán nam, bán nữ thật sự
và giống như gà con, đi đứng, chạy đều được.
Bốn là : Tới nhánh thứ
Tư, khi trứng nở ra con người tuy bán nam, bán nữ, song hai bộ phận sanh dục
bắt đầu chênh lệch nhau một cái lớn, một cái nhỏ.
Rồi về sau khi đứa nhỏ sanh ra thì trai hay gái rõ rệt.
Từ phân chia nam nữ đến nay đã 16 triệu rưởi
năm rồi.
Đến lúc Nhánh thứ Tư gần tàn, thì đứa nhỏ sanh
ra rồi thì yếu đuối không đi đứng được nữa.
GIAI ĐOẠN THỨ BA
Thai sanh
: Tới nhánh thứ Năm trứng ở trong mẹ.
Qua nhánh thứ Sáu và thứ Bảy sự sanh sản như
ngày nay mới thành đại đồng.
Giác quan : Họ dùng được
3 quan : Thính giác, Xúc giác và Thị giác ứng đáp với hỏa, phong, thủy.
Tiếng nói : Nhánh thứ
Nhứt và Nhánh thứ Nhì chỉ biết hét la, khi vui mừng, thương yêu hay đau đớn.
Qua nhánh thứ Ba tiếng nói mới thành độc âm.
GIỐNG THỨ TƯ
Giống thứ Tư là Giống Ắt Lan ( Atlantes) tổ tiên giống da vàng và da đỏ bây
giờ. Giống thứ Tư mới thật là “Giống
Con Người”. Từ Giống thứ Tư
sắp sau con người mới có thân hình như ngày nay và càng ngày thêm xinh đẹp.
Giác quan : Giống thứ Tư có 4 quan hoạt động : Thính-giác, Xúc-giác, Thị-giác và Vị-giác
Tiếng nói : Tiếng nói líu lo, sau theo thời gian nó biến đổi lần lần và có những tiếng nói như bây giờ.
BẢY NHÁNH CỦA GIỐNG DÂN THỨ TƯ
1---Nhánh thứ nhứt là Giống Rmoahal.
2---Nhánh thứ nhì là Giống Tiavatlis.
3---Nhánh thứ ba là Giống Toltec.
4---Nhánh thứ tư là Giống Touranien.
5---Nhánh thứ năm là Giống Sémites.
6---Nhánh thứ sáu là Giống Akkadien.
7---Nhánh thứ bảy là Giống Mongol (Mông Cổ)
GIỐNG THỨ NĂM
Giống thứ năm là Giống Aryen (A-ri-den), tổ tiên Giống
da trắng bây giờ.
Giác quan : Dùng được ngũ
quan : Thính giác, Xúc giác, Thị giác, Vị giác, Khứu giác.
BÃY NHÁNH CỦA GIỐNG THỨ NĂM
1.---Nhánh thứ nhứt cũng gọi là Giống Aryen
(A-ri-den) tổ tiên người Ấn Độ da trắng.
2.---Nhánh thứ nhì gọi là Giống Aryo-sémitique
hay là Choldéenne cũng gọi là Giống Á-rập (Arabes)
3.---Nhánh thứ ba gọi là Giống Iranien tức là
Giống Ba Tư.
4.---Nhánh thứ tư là Giống Celtique tổ tiên
người Pháp, Ý, Bỉ, Irlandais, Hi-Lạp, Thụy Sĩ miền Tây.
5.---Nhánh thứ năm là Giống Teuton (Tơ-Tông).
Tổ tiên của người Slavons, Nga, Serbes, Na-Uy, Thụy-Điển, Mỹ.
6.---Nhánh thứ sáu : Đã sanh ra ở Úc Châu, Tân
Tây lan, Mỹ Châu và nhiều nơi khác.
Chưa có tên, chưa đủ số đặng lập một quốc gia.
7.---Nhánh thứ bảy : Sẽ sanh ra ở Nam Mỹ Châu.
GIỐNG DÂN THỨ SÁU
Giống Dân thứ sáu, sáu hay bảy trăm năm nữa sẽ
sanh ra tại Californie (phía Tây Hoa Kỳ).
GIỐNG DÂN THỨ BẢY
Sẽ sanh ra ở Úc Châu song không biết là bao lâu nữa.
Hai Giống Dân nầy cũng như Giống Dân trước, mỗi
Giống cũng có bảy Nhánh vậy
ĐẶC TÁNH CỦA MỖI GIỐNG DÂN
Tại Địa cầu của chúng ta.
---Giống thứ Nhứt và Giống thứ Nhì mới tượng
hình người.
---Giống thứ Ba mở mang Sức mạnh của xác thân.
---Giống thứ Tư mở mang Tình cảm.
---Giống thứ Năm mở mang Trí thức.
---Giống thứ Sáu mở mang Trực giác hay Bồ Đề
Tâm.
---Giống thư Bảy mở mang Tinh Thần.
BỀ CAO CỦA NĂM GIỐNG DÂN CHÁNH
---Giống Dân Chánh thứ Nhứt hồi mới sanh ra cao
173 pieds (1) hay là 53 thước.
[(1) Pied là đơn vị để
đo chiều dài thuở xưa bằng 0,324 thước bây giờ. ]
---Giống Dân Chánh thứ Nhì, Giống Mồ Hôi, hồi
mới sanh ra, cao 120 pieds hay là 37 thước.
---Giống Dân Chánh thứ Ba, Giống Lê-mu-ri-den
hồi mới sanh ra, cao 60 pieds hay là 18 thước.
---Giông Dân Chánh thứ Tư, Giống Ắt lăn
(Atlantes) hồi mới sanh ra, cao 27 pieds hay là 8 thước.
---Giống Dân Chánh thứ Năm, Giống A-ri-den
những người đầu tiên cao hơn người cao hơn hết của người da trắng bây giờ
lối vài tấc, có lẽ họ lối 2,5 thước bề cao.
TẠO VẬT ÔN LẠI
Lâu lâu Tạo Vật ôn lại những việc đã làm.
Người ta thấy đờn bà đẻ trứng, những người lại-cái, những bộ nấp.
Hiện nay trong lòng người mẹ, bào thai trước lấy hình dạng của Giống
Dân thứ nhứt tức là như nguyên sanh chất; có tòng tụi như Giống Dân thứ nhì;
không nam nữ rồi bán nam, bán nữ của Giống Dân thứ ba, cuối cùng thì nam hay
nữ. Nhưng mà mỗi Giống Dân đều
giữ một phần của bộ sanh dục của Giống kia.
Vì vậy ngày nay mới có việc đờn bà hoá ra đàn ông, đàn ông hoá ra đờn
bà mà lâu lâu ta thấy các báo có đăng những chuyện như thế đã xảy ra nhìều
nơi trên Điạ Cầu.
Sự
biến đổi bộ phận sanh dục làm cho thân hình và tánh tình của con người thay
đổi vốn do một sự Bí Mật của Tạo Công.
Con người căn cứ theo vật chất mà giải thích không bao giờ thật trúng
đâu.
VÀI MẪU CHUYỆN THAY HÌNH ĐỔI DẠNG
Báo “ Miami Herald” tiết lộ rằng Charles Ernest
Mac Leod cựu binh sĩ trong quân đội Mỹ biến thành phụ nữ đã thành hôn với
ông Ralph Heidal cách đây một tháng ở Miami.
(Dân Nguyện số 1004 ngày 15-16 tháng 11 năm
1959).
MỘT NỮ GIÁO SƯ DẦN DẦN BIẾN THÀNH ĐÀN ÔNG
RỒI RŨ QUẾN MỘT CÔ GIÁO CÓ CHỒNG 5 CON
Luân Đôn.--- Trong xã Surrey ở Chilworth (Anh) ai cũng biết cô Thorp là một
thiếu nữ siêng năng, thùy mị đã đỗ bằng tấn sĩ triết học và được bổ dạy tại
trường Đại học Y Khoa.
Tạo
hoá trớ triêu, than thể nữ giáo sư lần lần biến đổi, cô Thorp biến ra đàn
ông và được giới y học thừa nhận như thế.
Chuyện bất ngờ hơn hết là ông giáo sư Thorp đổi
tên là John Martin Thorp kia mới rồi lại rủ quến một cô giáo tên Jean Geed,
có chồng đã 5 con. Cã hai cùng
dẫn nhau đi xây tổ uyên ương ở vùng Yorkshire, để chờ đợi cô giáo xin ly dị
được với chồng, rồi sẽ làm lễ cưới chánh thức sau.
(Dân Nguyện, Thứ Tư, ngày 01 tháng 04 năm 1959)
MỘT HỒI KÝ ĐỘC ĐÁO CỦA MỘT NGUỜI
19 TUỎI : LẤY CHỒNG.
29 TUỔI : LẤY VỢ
Robert Allen hiện giờ là một nhà quang tuyến học ở Luân-Đôn vừa công bố trên
thông tấn xã Odette Arnaud một thiên hồi ký hết sức “độc đáo” nói về cuộc
đời kỳ lạ của “Ông” : trong mười năm, hai lần làm lễ hôn nhân, lần thứ nhứt
(1933) lấy chồng và lần thứ hai (1944) lấy vợ.
Tạo sao lại có chuyện kỳ lạ vậy ?
Đó là vì Robert Allen trong mười năm ấy đã biến
từ một người đàn bà tên Joyce Allen sang làm đàn ông tên Robert Allen.
(Dân Chúng, Thứ sáu, ngày 17 tháng 4 năm
1964)
ĐÀN ÔNG HÓA GÁI
(Đây là trường hợp của một nhà thông thái đã có ba con)
Ông Franz Little một nhà thông thái Anh, chuyên
môn nghiên cứu về điện tử, có vợ 3 con, vừa tuyên bố với báo chí là ông đã
biến thành hoàn toàn ra đàn bà.
NHỮNG CHÂU THẾ-GIỚI
Cơ Trời là Luật Tiến Hóa. Hể
nói đến tiến hóa thì phải nói sự thay hình đổi dạng từ vật chất đến tinh
thần.
Mặt Địa Cầu của chúng ta đã thay đổi nhiều lần
rồi.
Khi mỗi giống dân sanh ra thì có một châu thế
giới nổi lên đặng chứa đựng nó
Châu thứ nhứt chứa đựng giống dân thứ nhứt.
Châu thứ hai chứa đựng giống dân thứ nhì v.v..
Châu nào chứa giống dân ấy.
Khi một giống dân gần tàn rồi thì châu chứa đựng nó lần lần sụp xuống
biển mất dạng, châu khác nổi lên đặng chứa giống dân kế đó.
1. CHÂU THỨ NHỨT
Châu thứ nhứt tên Thánh là Shvetadvipa có chỗ
cũng gọi là Pushkara. Ấy là
Châu Địa Linh Bất Diệt (Terre sacrée impérissable) nổi lên ở Bắc cực. Bắc
cực đây là Bắc-cực tinh-thần, không có tiết lộ ra nó ở đâu.
Sự thật Pushkara là tên của Châu thứ Bảy.
Kinh sách Tàu gọi là Shvetadvipa (Ile blanche)
là Bồng-Đảo hay là Bồng Lai
2. CHÂU THỨ NHÌ
Châu thứ nhì tên Thánh là Plaska (Continent
hyberboréen) xin gọi là Cực Lạc Thanh Châu.
Nó ớ phía Bắc Á Châu nối liền cù Lao Groenland
và Kamtchatka, phía Nam là mênh mông đại hải.
Khí hậu nhiệt đới.
Khi giống dân thứ ba sanh ra được ít lâu cốt
trái đất nghiêng. Khí hậu ở Bắc cực hóa ra lạnh lẽo.
Những Nhánh cũa Giống dân thứ hai còn lại và một phần của giống dân
thứ ba đều chết hết!
MỘT BẰNG CHỨNG CỤ THỂ CHỨNG MINH RẰNG KHI XƯA
Ở BẮC CỰC KHÍ HẬU MIỀN NHIỆT-ĐỚI
HÃY PHÁ VỠ NHỮNG THÀNH KIẾN SAI LẦM
…Cũng về thời tiết, phần đông dân chúng đều
nghĩ rằng Bắc-Cực là một vùng lạnh lẽo nhứt và tuyết rơi quanh năm, thành
kiến nầy có lẽ dựa vào sự kiện một quốc gia càng xa xích đạo chừng nào thì
càng lạnh chừng nấy. Nhưng Bắc Cực là một miền khô ráo, không lạnh lắm và ít
có tuyết rơi; số tuyết rơi ở Virginie nhiều hơn ở Bắc Cực và ở Montana (Huê
Kỳ) lạnh hơn miền Bắc Cực 6 độ, cũng như ở
Reykjavik, một thành phố cạnh Bắc Băng Dương, nhiệt độ cao hơn Nữu
Ước (New-York).
Bắc Cực không phải là một vùng quanh năm u
tối. Vì quanh năm có trăng và
ánh trăng phản chiếu trên những tảng đá có thể giúp những nhà thám hiểm đọc
sách dễ dàng. CŨNG KHÔNG PHẢI
LÀ MỘT VÙNG VẮNG VẼ KHÔNG SANH VẬT, VÀO MÙA HÈ, CÓ KHI NÓNG ĐẾN 35 ĐỘ, KHÔNG
KÉM GÌ SÀIGON VÀ TỪNG ĐÀN BÒ, NAI ĐÃ SỒNG ĐƯỢC NHỜ Ở NHỮNG CÁNH ĐỒNG
MÊNH MÔNG ĐẦY HOA CỎ.
Các quốc gia như Anh, Pháp, Nhựt, Nga đều có
đặt nhiều căn cứ khảo cứu khoa học và quân sự. CÁC NHÀ BÁC HỌC ĐÃ TRỒNG ĐƯỢC
TRÁI SU, KHOAI TÂY VÀ CẢ HOA HỒNG, HOA LAN VÀ THEO HỌ, Ở DƯỚI NƯỚC CÓ NHIỀU
CÁ VÀ CÁC GIỐNG VẬT KHÁC Ở MIỀN NHIỆT ĐỚI.
(Trích trong Tạp chí “Thời Nay” số 93 ngày 1-8-1963.
Xin tác giả thứ lỗi vì tôi đã mất số nầy nên không nhớ tên đặng để vô
đây)
3. CHÂU THỨ BA
Châu Thứ Ba là Châu Lémurie hay là Shalmali.
Chổ nó choán khi xưa là Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương.
Đúng ngày giờ thì nó trầm xuống biển và để lại
vài di tích như Cù lao Madagascar, Úc Châu, Tân Tây Lan, Cù lao Pâques, vân
vân.
4. CHÂU THỨ TƯ
Châu thứ Tư là Châu Ắt-Lăn-Tích (Atlantide) hay
là Kusha.
Năm 75.025 trước Chúa Giáng-Sanh, Châu
Ắt-Lăn-Tích bị một trận Đại Hồng Thủy nhận chìm xuống đáy biển với 64 triệu
sanh linh và một nền văn minh rực rỡ có nhiều điểm mà tới ngày nay chúng ta
chưa sánh kịp.
Chổ Châu Ắ-Lăn-Tích nằm khi xưa là Đại Tây
Dương bây giờ. Châu Ắ-Lăn-Tích
còn để lại vài di tích là những cù lao ở giữa biển Đại Tây Dương, mà cù lao
Acores là chót núi cao hơn hết của Châu Ắt-Lăn-Tích.
Lý do của sự biến cố nầy là : các đạo sĩ của
Châu Ắt-Lăn-Tích thần thông quãng đại dùng tài phép không cho dân chúng mở
mang vài năng khiếu và bắt họ làm tôi mọi cả chục ngàn năm như vậy.
Thiên Đình đã cảnh cáo nhiều phen mà các Đạo sĩ
không ăn năn chừa cải. Cuối
cùng Thiên Đình phải ra lệnh nhận chìm Châu Ắ-Lăn-Tích đặng tẩy uế quả Địa
Cầu.
Xin nói rằng những người lương thiện đều được
di cư qua nơi khác tránh khỏi tai nạn nầy.
Nhân nào quả nấy và đây cũng là một bài học cho
những người kiêu căng tự phụ, ỷ tài sức không sợ oai Trời.
5. CHÂU THỨ NĂM
Châu thứ năm là Krauncha bây giờ gọi là Âu Châu.
6. CHÂU THỨ SÁU
Châu thứ sáu tên là Shâka (Sa-ka) sẽ
lần lần nổi lên ở Thái Bình Dương đặng chứa đựng giống dân thứ Sáu.
7. CHÂU THỨ BẢY
Châu thứ Bảy là Châu Pushkara sẽ nổi lên ở tại
chỗ Nam Mỹ Châu giờ đặng chứa đựng giống dân thứ bảy.
Xin nhắc lại : Nói một cách tổng quát, trên mỗi
bầu Hành Tinh, bất cứ là bầu nào, khi nhánh thứ Bảy của giống dân thứ Bảy
tàn rồi thì Tiểu kiếp của bầu Hành Tinh chấm dứt nghĩa là không còn sự sanh
hóa và sự tiến hóa trên bầu Hành Tinh đó nữa.
Các
loài vật đều về cõi Niết-Bàn nghỉ ngơi, chờ đúng ngày giờ thì sẽ qua Bầu
Hành Tinh kế đó đặng tiếp tục học hỏi và kinh nghiệm những bài học mới khác.
Có bạn sẽ hỏi : Làm sao biết được mấy việc đã
kể ra trước đây.
Tôi xin trả lời liền : Trước khi sanh hóa Thái
Dương Hệ nầy Đức Thái Dương Thượng Đế đã sắp sẵn một bản đồ gọi là Thiên Cơ
có ghi trước ngày giờ sanh hóa các Dãy Hành Tinh, và những Nhơn Vật trên mỗi
Dẫy. Từ Dãy thứ Nhứt cho tới
Dãy thứ Bảy, mỗi loài phải tiến tới trình độ nào, có đủ những chi tiết rành
rẽ.
Các vị Phụ Tá của Ngài cứ coi theo đó mà thi
hành phận sự không sai một mảy.
Tu hành tới bực La Hán có Huệ nhãn thì thấy
được Thiên Cơ. Đây là nói về
những việc vị lai.
Còn nói về quá khứ, thì những biến cố đã xãy ra
từ thuở Khai Thiên Tịch Điạ, những tư tưởng, ý muốn, lời nói và việc làm của
con người từ lúc mới sanh trên dãy Điạ Cầu cho tới ngày nay đều có dọi bóng
và ghi trên chất Tiên Thiên khí A-Ca-Sa (AKasa) làm ra những Tiên Thiên ký
ảnh. Ngày nào Thái Dương Hệ nầy
tan rã chúng nó mới tiêu mất.
(Xin xem cuốn Nhân Quả của tôi, đoạn nói về Tiên Thiên ký ảnh).
Và cũng nên nhớ rằng những việc của chúng ta đã làm đều liên lạc với
chúng ta cũng như con nhện dính với những đường tơ của nó giăng.
Người có mắt Thánh dòm vô thấy rõ ràng. Nhờ xem
những Tiên Thiên ký ảnh mà Cao đồ của Chơn sư mới tri ra được những kiếp
trước của một người nào đó. Có
người đã nói theo khoa học, cái chi ngũ quan nhận thức được mới nên tin.
Nhưng tại cõi Trần những lời nầy chỉ đúng có phân nữa mà thôi.
Tỹ như những vi trùng những Hành Tinh ở xa xăm như Hỏa Tinh, Mộc
Tinh, chẳng hạn, nếu không nhờ những kiến hiển vi, những viễn vọng kính thì
làm sao thấy được chúng. Con
mắt phàm không phân biệt ngôi sao nầy với ngôi sao kia.
Giác quan của chúng ta còn yếu và có khi thua
giác quan của nhiều con thú như chó, ngựa của chúng ta nuôi nữa.
Chỉ nên biết rằng : cõi Trần không phải ở riêng
biệt một mình nó. Còn 6 cõi
khác thâm nhập nó, mặc dầu những cõi nầy làm bằng vật chất song con mắt phàm
không thấy được nên gọi là những cõi vô hình.
Bảy cõi nầy đều liên quan mật thiết với nhau.
Mỗi cõi đều có những luật Lệ riêng chi phối.
Những hiện tượng đã xảy ra ở cõi Trần mà có nguồn gốc ở Trung Giới
thì không thế nào lấy những Luật Vật lý ở cõi Trần mà cắt nghĩa cho đúng
được. Cõi nào Luật nấy.
Cũng như ma hiện hình, liệng đá gạch hay là
chuyển di tư-tưởng là những việc có thật, nhưng không thể nào giải thích cho
mọi người đều hiểu được bây giờ, bởi vì hiện tượng nầy có nguồn gốc ở cõi
Trung Giới hay là Thượng Giới.
Tuy nhiên, không phải mọi việc đều nhắm mắt tin
càn, như vậy thì sẽ hóa ra mê tín và tin dị đoan.
Phải phân biệt, phải suy xét, thuyết nào hợp lý và hữu ích cho tất cả
mọi người thì công nhận thuyết đó đi.
Chúng ta còn ở trong vòng tương đối, không thể nói một cách tuyện đối
được.
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
QUYỄN CHÍN
NHỮNG CUỘC TUẦN-HƯỜN
SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG CỦA :
---MỘT BẦU HÀNH-TINH
---MỘT DÃY HÀNH-TINH
1971
SỰ TIẾN HÓA ĐI THEO VÒNG TRÒN
Sự tiến hóa không phải đi theo đường thẳng mà
nó đi theo vòng tròn.
Ta đã biết rằng trên mỗi Bầu Hành Tinh đều có
những bài học cho con người và các loài vật.
Những bài học nầy, mỗi Bầu mỗi khác và càng ngày càng khó hơn trước
nhiều..
Điều nầy quí bạn chớ lấy làm lạ.
Con người phải học hỏi và kinh nghiệm từ Bầu
Hành tinh nầy qua Bầu Hành tinh kia, từ Cõi Phàm cho tới Cõi Tối Đạt Niết
Bàn hầu ngày sau, khi làm một vị Thái Dương Thượng Đế rồi thì mới biết
phương pháp tạo lập một Tiểu Vũ Trụ khác như Thái Dương Hệ nầy vậy.
Những giáo lý bí truyền khi xưa vốn để dạy các
đệ tử đã được chọn lựa trong các tu viện, các đạo viện do nhân viên của Quần
Tiên Hội điều khiển từ hai Châu Lê-mu-ri (Lémurie) và Ắt-Lăn-Tích
(Atlantide) cho tới sau nầy ở Trung-Hoa, Ấn-Độ, Tây Tạng, Ba Tư, Kal-Đê
(Chaldée), Ai Cập, Hi Lạp….chớ không có tiết lộ ra ngoài
Những chương đầu của khoa nầy mới được phép đem
ra công khai chỉ từ năm 1875 tới nay có 96 năm mà thôi.
Vì vậy có nhiều điều mới nghe qua rất lạ tai, khác hẳn những kinh
sách của các Tôn giáo đã phổ biến.
Vì thế có nhiều đoạn cần phải lập đi lập lại nhiều bận mới có thể
giúp quí bạn hiểu được phần nào.
BẢY CUỘC TUẦN HUỜN
(Les 7 Rondes)
Trên mỗi Dãy Hành tinh đều có 7 cuộc Tuần huờn.
Xin nói về một Dãy thì sẽ hiểu được 6 Dãy kia.
Thí dụ : Dãy Địa cầu của
chúng ta hiện giờ Dãy thứ tư.
Nó gồm 7 bầu hành tinh :
---Bầu thứ nhứt là Bầu A.
---Bầu thứ nhì là Bầu B.
---Bầu thứ ba là Bầu C ( Hỏa Tinh--- Mars ).
---Bầu thứ tư là Bầu D (Địa cầu chúng ta).
---Bầu thứ năm là Bầu E ( Thủy Tinh---Mercure
).
---Bầu thứ sáu là Bầu F.
---Bầu thứ bảy là Bầu G.
CUỘC TUẦN HUỜN THỨ NHỨT
Trước hết Nhơn vật, từ loài Tinh chất thứ nhứt
cho tới loài Người, tất cả là 7 loài, sanh ở tại Bầu thứ nhứt A, đặng học
hỏi và kinh nghiệm, không khác nào các học sanh vào trường nghe lời giảng
dạy của các vị giáo sư, giáo chức.
Tới cuối niên học hết chương trình rồi nghỉ
ngơi. Cũng thế đó, khi Nhánh
thứ bảy của Giống Dân thứ bảy tàn rồi thì các loài vật không còn cái chi học
hỏi ở Bầu hành tinh thứ nhứt nữa.
Nhơn vật về Cõi NIẾT BÀN (1)
[(1) Nói cho đúng là cõi Niết Bàn giữa 2 Dãy Hành Tinh (Nirvana
intercaténaire)] nghỉ ngơi rồi
chờ đúng ngày giờ qua Bầu thứ nhì đặng học hỏi thêm, cũng như các học sanh
qua niên học mới lên lớp mới, lớp khác học chương trình mới vậy.
Rồi cứ tiếp tục như thế cho tới Bầu thứ bảy.
Đây có nghĩa là Nhơn vật ban đầu ở bầu thứ nhứt, hết ở bầu thứ nhứt
thì qua Bầu thứ nhì rồi Bầu thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu và cuối cùng là
Bầu thứ Bảy. Nhơn vật bỏ Bầu
nào thì Bầu đó trống trơn.
Như vậy thì nên hiểu rằng trong 7 Bầu chỉ có
một Bầu hoạt động còn 6 Bầu kia nghỉ ngơi và im lìm bất động, Bảy Bầu thay
phiên nhau mà hoạt động, hết bầu nầy tới bầu kia chớ không phải 7 Bầu hoạt
động một lượt.
Khi Nhơn vật đi hết một vòng thứ nhứt gồm 7 Bầu
hành tinh thì gọi là đã trải qua cuộc Tuần huờn thứ nhứt (1ère Ronde).
Nhơn vật đã học hết những bài học của Cuộc Tuần huờn thứ nhứt.
Nhơn vật tiến lên một bực.
Hết Cuộc Tuần huờn thì Nhơn vật nghỉ ngơi cũng
như là một cuộc Bãi Trường lớn.
Thời kỳ nghỉ ngơi nầy dài hơn thời kỳ nghỉ ngơi khi bỏ một Bầu Hành tinh.
CUỘC TUẦN HUỜN THỨ NHÌ
Qua Cuộc Tuần huờn thứ nhì, Nhơn vật cũng phải
trở lại Bầu Hành tinh thứ nhứt đặng học hỏi những bài học mới khác.
Rồi qua Bầu thứ nhì, Bầu thứ ba, Bầu thứ tư,
Bầu thứ năm, Bầu thứ sáu và Bầu thứ bảy.
Mỗi Bầu đều có những bài học và những sự kinh nghiệm khác nhau.
Hết Cuộc Tuần huờn thứ nhì, Nhơn vật cũng tiến
lên một bực rồi cũng nghỉ ngơi như Cuộc Tuần huờn thứ nhứt.
CUỘC TUẦN HUỜN THỨ BA
Hết lúc nghỉ ngơi thì phải bắt đầu học những
bài mới khác. Chương trình mỗi
lớp mỗi khác, không hề giống in nhau.
Qua Cuộc Tuần huờn thứ ba thì bài vở khó hơn
trước nhiều. Nói tóm lại Nhơn
vật phải trả qua 7 cuộc Tuần huờn, nghĩa là : phải đi 7 lần, mỗi lần là một
vòng gồm 7 Bầu Hành tinh, mới hết 7 Cuộc Tuần huờn.
SỐ PHẦN CỦA CON NGƯỜI VÀ CÁC LOÀI VẬT
Hết cuộc Tuần Huờn thứ Bảy Con Người Thành Tiên
Thánh và về cõi Niết Bàn.
Còn 6 loài dưới : Thú Vật
Thảo mộc
Kim thạch và
3 loài Tinh Chất.
Về cõi Niết-Bàn nghỉ ngơi rất lâu.
Thời gian nầy dài hơn thời gian nghỉ ngơi khi hết một cuộc Tuần Huờn,
chờ đúng ngày giờ thì sẽ qua Dãy Hành Tinh thứ Năm đặng tiếp tục sự tiến hóa
thêm nữa.
DÃY ĐỊA CẦU TAN RẢ
Xin nhắc lại Dãy Địa Cầu của chúng ta hiện giờ
là Dãy Hành Tinh thứ Tư.
Khi cuộc Tuần Huờn thứ Bảy chấm dứt rồi thì 7
Bầu Hành Tinh sẽ tan rả. Dãy
Địa Cầu không còn nữa.
Dãy Hành Tinh thứ Năm sẽ sanh ra thay thế nó.
NHƠN VẬT CỦA DÃY HÀNH TINH THỨ NĂM
Thú
vật của Dãy Địa Cầu chúng ta qua Dãy thứ Năm sẽ đầu thai làm Người.
Thảo mộc của Dãy Địa Cầu chúng ta sẽ đầu thai
thành Thú vật.
Kim Thạch cũa Dãy Địa Cầu chúng ta sẽ đầu thai
thành Thảo mộc.
Tinh chất thứ Ba của Dãy Địa Cầu của chúng ta
sẽ đầu thai làm Kim thạch.
Tinh chất thứ nhì của Dãy Địa Cầu của chúng ta
sẽ đầu thai làm Tinh chất thứ Ba.
Tinh chất thứ nhứt của Dãy Địa Cầu của chúng ta
sẽ đầu thai làm Tinh chất thứ nhì.
Còn thiếu Tinh chất thứ nhứt Đức Thái Dương
Thượng Đế sẽ sanh ra.
Kinh sách nói : Hết Bảy cuộc Tuần Huờn thì có
sự Thay Hình Đổi Dạng. Nhưng
thật sự là qua Dãy Hành Tinh sau mới có sự thay đổi hình dạng và Loài nầy
tiến lên loài kia.
SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG
Có 2 sự Phán xét cuối cùng chánh :
1.---Sự Phán Xét cuối cùng của một Bầu Hành
Tinh, và
2.---Sự Phán Xét cuối cùng của một Dãy Hành
Tinh.
1.---SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG CỦA MỘT BẦU HÀNH TINH
Nói rằng : Nhơn vật từ Bầu Hành Tinh nầy qua
Bầu Hành Tinh kia là nói một cách Tổng quát.
Sự thật là thế nào?
Ở trên mỗi Bầu Hành Tinh, trong bảy loài, từ
Loài Tinh chất cho tới loài Người đều có một số phần tử không theo kịp chúng
bạn, vì lẽ nào, không rõ, hoặc yết sức, hoặc biếng nhác, bê trễ…
Vì thế cho nên có sự Phán xét cuối cùng của một
Bầu Hành Tinh.
Những phần tử nào thua sút chúng bạn rất xa đều
bị bỏ lại, không được qua Bầu Hành Tinh kế đó, bởi vì Thiên Đình thấy rằng :
Dầu cho họ đi theo chúng bạn thì họ cũng không hiểu nổi những bài học khó
khăn cao hơn sự hiểu biết của họ.
Họ là những linh hồn còn trẻ trung chưa có kinh nghiệm nhiều.
Tốt hơn là để họ ở lại học hỏi tại Bầu Hành Tinh củ.
NỘI CẢNH TUẦN HUỜN
Họ ở vào một Tình Trạng gọi là Tình Trạng của Nội Cảnh Tuần Huờn (Ronde
Intérieure).
Số phần tử bị bỏ lại không sanh sản thêm một
đơn vị nào cả. Cứ giữ số cũ thì
kiếp nầy qua kiếp kia.
Tỷ như số ở lại là 5 triệu thì cứ 5 triệu mải,
không thêm một phần tử nào nữa là 5 triệu lẽ một.
Nếu có 50 chục người chết thì 50 người nầy đầu thai lại, đủ số 50 đã
mất.
HỌ Ở LẠI BẦU HÀNH TINH CŨ BAO LÂU
Họ ở lại ở bầu hành tinh trọn một cuộc Tuần
Huờn.
Thí dụ : Họ bị bỏ lại ở
Bầu thứ nhứt A trong cuộc Tuần Huờn thứ nhứt.
Họ phải chờ anh em bạn của họ trải qua 6 Bầu
nữa :
---Bầu thứ nhì.
---Bầu thứ ba (Hỏa tinh).
---Bầu thứ tư (Trái Đất).
---Bầu thứ năm (Thủy Tinh).
---Bầu thứ sáu và
---Bầu thứ bảy.
Chừng anh em của họ, trong cuộc Tuần thứ nhì
trở lại Bầu thứ nhứt A, họ mới nhập bọn đặng học hỏi những bài học chung như
trước, nhưng họ đã xuống thấp một bực.
Hiện giờ chúng ta ở phân nữa Cuộc Tuần Huờn thứ
tư. Tại Bầu A, Bầu B, Bầu C là
Hỏa Tinh, có những người bị bỏ lại trong cuộc Tuần Huờn thứ tư nầy.
Ngày sau, khi nhơn loại từ giã bầu Trái Đất nầy thì cũng có một số
nhơn vật bị bỏ lại. Họ sẽ ở vào
Tình trạng Nội Cảnh Tuần Huờn.
Ở trên Thủy Tinh và Hai bầu Hành Tinh thứ sáu F
và thứ bảy G cũng có nhơn vật bi bỏ lại vậy, song họ là Nhơn vật của cuộc
Tuần Huờn thứ Ba. Quí bạn chớ lấy làm lạ, bởi vì họ bị bỏ lại hồi cuộc Tuần
Huờn trước là cuộc Tuần Huờn thứ Ba. Trong cuộc Tuần Huờn thứ tư nầy nhơn
vật đã trải qua 3 bầu : Bầu thứ nhứt A, Bầu thứ nhì B, Bầu thứ ba C là Hỏa
Tinh. Ngày nay nhơn vật mới đi
tới Bầu thứ Tư là Trái Đất mình đây.
Và cũng bởi Bầu Trái Đất là Bầu thứ tư ở chính giữa 7 bầu cho nên mới
có câu : “PHÂN NỬA CUỘC TUẦN HUỜN THỨ TƯ”.
Chừng nhơn vật qua Bầu Thủy Tinh, Bầu F và Bầu
G thì những người và vật bỏ lại ở 3 bầu nầy mới nhập với các bạn cũ học hỏi
đặng tiến hóa nữa.
SỰ HỮU ÍCH CỦA NỘI CẢNH TUẦN HUỜN
Chúng ta nên biết muốn tạo ra hình thể của vạn
vật, nhứt là con người thì các vị Thiên Thần phải tốn công phu trong một
thời gian tính ra cả chục triệu năm hay là cả trăm triệu năm không chừng,
chớ đâu phải là một chuyện dễ dàng, một ngày một bữa mà xong.
Thí dụ : Trong cuộc Tuần Huờn thứ nhứt tất cả
các loài đều bỏ bầu thứ nhứt A mà qua bầu thứ nhì B.
Như vậy thì Bầu thứ nhứt A sẽ là bầu Hành Tinh chết, như mặt trăng
bây giờ. Hết cuộc Tuần Huờn thứ
nhứt thì 7 Bầu đìều tróng rổng.
Qua Cuộc Tuần Huờn thứ nhì, khi nhơn vật trở lại Bầu A thì phải đợi các vị
Thiên Thần làm ra hình thể các loài hoàn toàn rồi mới nhập vô đặng tiến hóa.
Xin quí bạn nhớ danh từ nhơn vật tôi dùng đây là Linh Hồn của các
loài chớ không phải những hình thể nầy đâu.
Nếu qua mỗi Bầu Hành tinh phải chờ có những
hình thể mới thì sự tiến hóa phải đình trệ trong một thời gian cã trăm triệu
năm.
Còn như mỗi Bầu đã có sẵn những nhơn vật rồi
thì khi các loài trở lại bầu nào thì bầu đó sẽ có những sự hoạt động rộn
rịp. Các loài vật sanh sản mau
lẹ và càng ngày càng tăng thêm nhiều, không còn sự hạn chế như xưa nữa.
Bây giờ đây ta mới thấy Nội Cảnh Tuần Huờn rất
có ích lợi về những phương diện sau nầy :
---Một là : Đỡ tốn công
phu cho các Thiên Thần khỏi phải ra sức làm những hình thể mới, nhờ vậy sự
tiến hóa có thể tiếp tục mau lẹ.
---Hai là : Nó giúp cho
những Linh Hồn còn trẻ trung có thì giờ ôn lại những bài học chưa thiệt
thuộc. Nó là Trường Tiến Hóa
của các Linh Hồn nầy.
Có một điều ta nên nhớ rằng : Số phận của nhơn
vật bị bỏ lại và ở vào tình trạng Nội cảnh Tuần Huờn rất đáng thương hại,
bởi vì sau khi chúng bạn họ từ giã một Bầu Hành tinh hay là khi hết một Cuộc
Tuần Huờn thì được nghĩ ngơi một thời gian.
Còn họ thì lại cứ tiếp tục làm việc và học hỏi từ kiếp nầy qua kiếp
kia, không có ngày giờ nghỉ ngơi nào cả và như thế không biết bao nhiêu
triệu năm.
2- SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG CỦA MỘT DÃY HÀNH TINH
Bài học càng ngày càng khó khăn và thần lực
càng ngày càng tuôn xuống thêm nhiều làm cho những tánh tốt thì càng hết sức
tốt mà các tánh xấu lại càng hết sức xấu.
Cái nào cũng tột bực cả.
Vì vậy phải có sự PHÁN XÉT CUỐI CÙNG của một
Dãy Hành Tinh.
Sự Phán xét nầy rất gắt gao.
Những linh hồn nào tới thời kỳ đã ấn định mà không đủ những đức tánh
do Luật Trời qui-định thì bị ngưng lại không được đi đầu thai nữa. Họ phải
chờ cho Dãy Hành Tinh sanh sau kế đó thành lập rồi và nhơn loại của Dãy đó
tiến gần tới trình độ của họ, họ mới xuống Dãy đó đầu thai đặng tu hành thêm
cho tới khi thành những vị Siêu Phàm được giải thoát.
SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG CỦA DÃY ĐỊA CẦU CHÚNG TA
Sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy thứ tư là Dãy Địa
Cầu chúng ta sẽ xảy ra vào phân nửa Cuộc Tuần huờn thứ năm là Cuộc Tuần huờn
sau.
Những ai không được Điểm Đạo lần thứ nhứt nghĩa
là không có đủ những đức tánh đã kể ra trong cuốn DƯỚI CHƠN THẦY điều bị bỏ
lại, không được đi đầu thai nữa nữa.
Như đã nói ở trên, họ sẽ qua Dãy Hành tinh thứ
năm đầu thai lại, đặng tiếp tục học hỏi và kinh nghiệm.
Cuối cùng họ cũng sẽ Đắc Đạo thành Chánh Quả song thua sút chúng bạn
cũ cả trăm triệu năm.
Thế nên quyển “DƯỚI CHƠN THẦY” rất hửu ích cho
chúng ta hiện thời hơn những quyển kinh sách khác.
Nó để dành đào tạo các vị Đệ Tử Chơn Sư và những vị thiện nhân.
Một vị Cao Đồ của Chơn Sư đã nói : “ Ai mà giữ
được những lời dạy trong quyển Dưới Chơn Thầy đúng một trăm phần trăm thì sẽ
làm một vị Chơn Tiên!”.
Hai vị Đại Đức, Annie Besant và Leadbeater,
có viết quyển Giảng Lý Dưới Chơn Thầy, quyển nầy hết sức rành rẽ, hết
sức hay, nhưng tôi tưởng cần phải giảng lý quyển Giảng Lý Dưới Chơn Thầy
người ta mới hiểu, bởi vì hầu hết tín đồ các tôn giáo đã quen với những giáo
lý công truyền, nên khi đọc tới những sách tiết-lộ vài sự bí mật của Tạo
Công đã truyền dạy trong Cửa Đạo thì rất bợ ngợ với những danh từ mới và
những lời giải thích mới. Phải
đợi một thời gian sau, có kinh nghiệm rồi mới lãnh hội được chơn lý.
SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG CỦA BA DÃY HÀNH TINH TRƯỚC
Dãy Hành Tinh thứ nhứt có Sự Phán Xét Cuối Cùng
hay không ? Chẳng rõ.
Sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy Hành Tinh thứ nhì
đã xảy ra ở Cuộc Tuần Huờn thứ bảy.
Sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy Hành Tinh thứ ba là Dãy Nguyệt Tinh đã
xảy ra ở Cuộc Tuần Huờn thứ sáu.
Sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy Hành Tinh thứ tư
là Dãy Địa Cầu chúng ta sẽ xảy ra vào phân nữa Cuộc Tuần Huờn thứ năm.
Còn sự Phán Xét Cuối Cùng của 3 Dãy Hành Tinh
sau : Dãy thứ năm, Dãy thứ sáu và Dãy thứ bảy ?
Không biết, nhưng dựa theo những sự kiện trước
đây ta có thể nghĩ rằng :
---Sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy thứ Năm sẽ xày
ra trong cuộc Tuần Huờn thứ Tư.
---Sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy thứ Sáu sẽ xảy
ra trong cuộc Tuần Huờn thứ Ba.
---Sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy thứ Bảy sẽ xảy
ra trong cuộc Tuần Huờn thứ Nhì.
Nhưng đây chỉ là ức đoán thôi, chớ không dám
chắc trúng.
DÂN SỐ TRÊN DÃY ĐỊA-CẦU
Dân số trên Dãy Địa Cầu nhứt định là 60 ngàn
triệu. Hiện giờ tại Trái Đất
chúng ta mới có 4 ngàn triệu thôi.
Còn 56 ngàn triệu nữa ở đâu.
Một số theo đường tiến hóa của Nội Cảnh Tuần-Huờn, một số đã bỏ xác
phàm về cõi Trung Giới và Thiên Đường chưa đúng kỳ đi đầu thai, có lẽ một số
còn ở lại cõi Niết Bàn giữa hai Dãy Hành tinh.
Nhưng xin nhớ không phải cả thảy điều xuống một lược đâu.
Họ chia ra từng đợt. Đợt nầy
xuống được ít lâu thì bỏ xác phàm, kế đợt kia xuống thay thế, vân vân…
Không bao giờ có nạn nhơn mãn.
Đức Thượng Đế đã sắp đặt sẳn chương trình sanh
hóa thì không bao giờ Ngài để cho Địa Cầu nầy không đủ chổ chứa đựng Con
Người và để cho cả trăm triệu phải chết đói.
SỐ NGƯỜI ĐƯỢC GIẢI THOÁT SẼ LÀ BAO NHIÊU
Lấy sự tiến hóa bình thường của nhơn loại ngày
nay mà xét đoán thì Thiên-Đình phỏng định rằng :
Trong số 60 ngàn triệu sanh linh sẽ có :
---12 ngàn triệu được 5 lần điểm đạo, hoàn toàn
giải thoát.
---12 ngàn triệu được 4 lần điểm đạo, thành
những vị La Hán
---12 ngàn triệu được điểm đạo từ 1 lần tới 3
lần là những vị Tu-Đà Hườn, Tư-Đà-Hàm và A-Na-Hàm.
Còn lại 24 ngàn triệu bị loại ra trong sự Phán
xét cuối cùng của cuộc Tuần Huờn thứ Năm.
Nhưng nói cho đúng trong số 60 ngàn triệu chỉ
có 12 ngàn triệu thành công trong chu kỳ tiến hóa nầy mà thôi.
Còn những vị La-Hán, A-Na-Hàm, Tư-Đà Hàm và
Tu-Đà-Hườn cũng phải qua Dãy Hành Tinh thứ Năm đặng tu hành thêm cho tới khi
được Đắc Đạo thành Chánh Quả.
Mấy vị nầy chỉ khác với chúng bạn bị loại ra là các Ngài ít bị khổ cực hơn
mà thôi vì các Ngài sẽ đi mau tới mục đích đã định sẳn nhờ công phu những
kiếp trước ở Dãy Địa Cầu chúng ta.
1.---NHỮNG ĐIỀU NÊN BIẾT
TẠI SAO THÂN HÌNH GIỐNG DÂN THỨ NHỨT LẠI IN NHƯ NGUYÊN SANH CHẤT
Chúng ta ở vào cuộc Tuần Huờn thứ Tư, đáng lẽ
thì con người sanh ra trên Địa Cầu nầy thì phải có thân hình như ngày nay,
mà tại sao xác thân của Giống Dân thứ nhứt lại giống như nguyên sanh chất.
Ấy vì chúng ta ở vào Trung-Tâm của Cuộc Tiến
Hóa, Trái Đất là Bầu thứ tư của Dãy Hành Tinh thứ Tư, mà lại ở vào Cuộc Tuần
Huờn thứ Tư nữa. Thế nên mới có
sự ôn lại những công việc của ba Tuần huờn trước mới bắt đầu khởi sự công
việc của Cuộc Tuần huờn thứ Tư.
Sự ôn nầy cũng là một dịp tốt, một lần chót, để cho những thú vật mau có cá
tánh đặng đầu thai làm người.
Sự sanh hóa Giống Dân thứ nhứt ôn lại công việc
của các Thiên Thần tạo ra thể xác con người trong cuộc Tuần huờn thứ nhứt.
Sự sanh hóa Giống Dân thứ nhì ôn lại công việc
của các Thiên Thần tạo ra thể xác con người trong cuộc Tuần huờn thứ nhì.
Sự sanh hóa Giống Dân thứ ba ôn lại công việc
của các Thiên Thần tạo ra thể xác con người trong cuộc Tuần huờn thứ ba như
là : Thân hình con người có da thịt, xương cốt và phân chia nam nữ.
Sự sanh hóa Giống Dân thứ tư là khởi đầu công
việc Tuần huờn thứ tư. Giống
Dân thứ tư mới thiệt là Giống Con Người.
Ba trăm triệu năm đã trôi qua từ khi con người
mới sanh ra tại Địa Cầu chúng ta.
Ba Giống Dân đầu sanh ra hồi nào không biết,
Giống Dân thứ tư sanh ra đã 8 triệu năm nay, còn Giống Dân thứ năm sanh ra
đã một triệu năm rồi.
Trong mỗi cuộc Tuần huờn, ngoài việc tạo ra thể
xác con người và các loài khác, các vị Thiên Thần còn phải lo sửa đổi cuộc
diện của các Bầu Hành tinh và nhiều công việc khác nữa mà chúng ta không
hiểu được.
CHỪNG NÀO CỬA ĐẠO MỚI MỞ CHO CON NGƯỜI
Khi mà “ Cánh cửa Thiên Nhiên đóng lại giữa Con
Người và Thú Vật ” nghĩa là không còn con thú nào đủ sức đi đầu thai làm
người nữa từ đây cho tới cuộc Tuần huờn thứ Bảy, thì Cửa Đạo mới mở cho Con
Người bước vào.
1.---Danh hiệu của những vị Đắc Đạo thành Chánh
Quả ở Dãy Hành Tinh thứ Nhứt là Asura.
A-su-ra Tàu gọi là A-Tu-La.
2.---Danh hiệu của những vị Đắc Đạo thành Chánh
Quả ở Dãy Hành Tinh thứ Nhì là Agnishvatta—A-nhi-Hoát-Ta.
3.---Danh hiệu của những vị Đắc Đạo thành Chánh
Quả ở Dãy Hành Tinh thứ Ba là (Dãy Nguyệt Tinh) là Barishad (Ba-rít-sa).
4.---Danh hiệu của những vị Đắc Đạo thành Chánh
Quả ở tại Địa Cầu chúng ta hiện giờ là Jivanmukta (Ji-hoăng-mút-ta) Phật
giáo gọi là Aseka (A-sơ-ca). Ấn
giáo (Hindouisme) gọi là Atila.
XIN ĐỪNG LÀM LỘN DANH TỪ
ASURA---A-TU-LA
Xin nhắc lại lúc Giống Dân thứ ba là Giống
Lê-mu-ri-den mới sanh ra thân hình họ rất xấu xí.
Tiên Thánh mới bảo một nhóm Linh hồn tiến hóa khá cao Cái Vía màu đỏ
vỏ cam, đầu thai vào những Bộ-lạc mà các Ngài chỉ định, hầu họ sửa đổi thân
hình của những người nầy càng ngày càng thêm tốt đẹp.
Nhưng họ cứng đầu và rất kiêu căng tự phụ, họ chê xác thân của Giống
nầy không xứng đáng với họ, họ không thèm nhập vô.
Bà Blavatsky gọi họ là ASURA (A-TU-LA).
Xin đừng lầm lộn ASURA nầy với ASURA là danh hiệu của vị đã Đắc Đạo ở
Dãy Hành tinh thứ nhứt.
Chính là Đức Bà A. Besant đã lầm lộn hai danh
từ nầy trong quyển Nhân Phổ (Généalogie de L’homme) của Bà viết.
Nhưng sau đó Bà đính chánh lại trong quyển : “ CON NGƯỜI TỪ ĐÂU ĐẾN
RỒI VỀ ĐÂU”. Trương 27 chú giải (2).
(L’homme d’òu il va—Note 2 page 27).
Ở BA DÃY HÀNH TINH TRƯỚC ĐƯỢC MẤY LẦN ĐIỂM-ĐẠO
MỚI THÀNH CHÁNH QUẢ THOÁT ĐỌA LUÂN HỒI.
1.--- Ở Dãy Hành tinh thứ nhứt được một lần
Điểm Đạo thì thành một vị Siêu Phàm được giải thoát.
2.--- Ở Dãy Hành tinh thứ nhì được ba lần Điểm
Đạo thì làm Chánh Quả.
3.--- Ở Dãy Hành tinh thứ ba (Dãy Nguyệt Tinh)
được bốn lần Điểm Đạo thì làm một vị Siêu Phàm.
4.--- Ở Dãy Hành tinh thứ tư là dãy Địa Cầu
chúng ta phải tới 5 lần Điểm Đạo mới được giải thoát.
Còn 3 Dãy Hành tinh sau không rõ.
KẾT-LUẬN
Như tôi đã nói, những lời giải trong quyển của
tôi đã soạn ra vốn là những mẩu tự A B C của Huyền Bí Học hay là Khoa Minh
Triết Cổ Truyền. Còn nhiều sự
khó khăn khác nữa.
Tuy nhiên chúng có thể giúp quí bạn “ TỰ BIẾT
MÌNH ”, đó là điều kiện tối cần cho sự thành công trong cửa Đạo, cũng như ở
ngoài đời.
Cho hay Vũ trụ vô tận vô biên, càng học nhiều
chừng nào thì con người mới càng thấy mình còn dốt nhiều chừng nấy.
Chúng ta phải tiến từ chỗ thấp lên chỗ cao, từ chỗ dễ đến chỗ khó.
Những sự bí mật của Tạo Công phô bày trước mắt
chúng ta từ trong núi non, biễn cã, sông ngòi, cho đến các loài kim-thạch,
thảo mộc, cầm thú và con người.
Đó là một cuốn sách dở ra, chúng ta thấy mà không đọc được, bởi vì chúng ta
chưa có đủ những điều kiện cần thiết.
Những điều kiện đó là :
Tư tưởng trong sạch,
Lời nói trong sạch,
Việc làm trong sạch, và
Lo mưu hạnh phúc cho quần sanh.
Nếu chúng ta có đủ 4 yếu tố nầy thì tự nhiên sẽ
có những bực cao minh tới điểm hóa và chỉ cho chúng ta phương pháp luyện tập
đặng sáng mắt hầu lần lần vén lên những bức màn vô minh ngày đêm đương bao
phủ chúng ta.
Chúng ta nên biết rằng : chung quanh chúng ta
là những luật trời, luôn luôn ngày đêm hành động không nghỉ, không ngừng.
Chúng ta phải học hỏi thông suốt những Luật đó, từ khu vực nầy tới
khu vực kia, rồi nương theo chúng mà tiến tới.
Chớ khá vi phạm những luật đó.
Hễ vi phạm thì sẽ có sự phản ứng lại.
Chúng ta sẽ lãnh những hậu quả khóc hại của những sự làm không ngôn
ngoan của chúng ta.
Chúng ta có bổn phận phải mở trí thông minh, mà
đồng thời cũng phải mở tâm cho sáng suốt đặng giữ cho cán cân được thăng
bằng. Tâm và trí điều hòa thì
sẽ tiến mau đến mục đích đã định sẳn cho nhơn loại trong chu kỳ tiến hóa
nầy.
Nếu ỷ mình học rộng, tài cao, làm những việc
bội Thiên nghịch Địa thì là kêu cái họa đến cho mình, chẳng kíp thì chầy.
Nhân nào quả nấy, lưới Trời tuy thưa mà không có chi lọt khỏi.
Muốn Đắc Đạo thành Chánh Quả, thoát khỏi đọa
Luân Hồi thì phải chặt đứt mười dây xiềng xích, trói buộc chúng ta.
Phật giáo gọi là Samyojana, có chỗ dịch như vầy :
1.---Phàm nhơn là mộng ảo.
2.---Sự hoài nghi về cơ tiến hoá và Luật Nhơn
quả, Luân Hồi.
3.---Tin dị đoan.
4.---Dục vọng hồng trần.
5.---Sự thù hận.
6.---Muốn có một đời sắc tướng.
7.---Muốn có một đời sống vô sắc tướng.
8.---Kiêu căng.
9.---Sự xao động của Cái Trí.
Tâm chưa yên tịnh.
10.---Vô minh.
Chớ nào phải có tài lấp biển dời non, kêu mưa,
hú gió, chỉ đá hoá vàng mà được danh đề Tiên Tịch.
Từ cổ cập kim, trên Thiên Đình vẩn trọng đức
hạnh hơn tài trí. Nếu chúng ta
quyết chí sống môt đới sống Đạo hạnh cao siêu thì chúng ta sẽ thành công,
sớm hay muộn, tùy theo công phu luyện tập của chúng ta.
Nếu kinh thành Ba Lê không thể tạo tập trong
một ngày mà hoàn tất, cũng thế đó, con người không thế nào thành Tiên thành
Phật trong một thời gian vài ba năm.
Phải tu tâm, luyện tánh từ kiếp nầy qua kiếp kia, không bao giờ dừng
chơn nghỉ ngơi.
Tôi xin lấy câu nầy mà kết luận :
“ HỮU PHƯỚC THAY NHỮNG NGƯỜI TẤM LÒNG TRONG
SẠCH ! ”
“ HỌ SẼ THẤY ĐƯỢC THƯỢNG ĐẾ ”.
LÀNH THAY ! LÀNH THAY !
Ở giữa trần ai chớ nhiểm trần,
Xem kinh dồi trí luyện tâm thần.
Ra công tu đức trau mình trước,
Đuốc huệ sau nầy rọi thế nhân.
VƯƠNG-CHÂU
đầu mục lục quyển 1 2 3 4 5 6 7 8 9 cuối
HOME TÌM HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN HÌNH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 QUEST MAGAZINES