|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
HÓA THÂN
(AVATARAS)
Tác giả Annie Besant |
|
Bốn bài thuyết tŕnh được tŕnh bày tại Hội nghị Thường niên lần thứ 24
của Hội Thông Thiên Học ở
Adyar, Madras, tháng 12 năm 1899
MỤC LỤC
1.
Hóa thân là ǵ?
2.
Nguồn gốc và Nhu cầu có Hóa thân
3.
Một số Hóa thân đặc biệt
4.
Đấng Shri Krishna
BÀI THUYẾT TR̀NH THỨ NHẤT
HÓA THÂN LÀ G̀?
1.
Thưa quư Huynh Đệ - mỗi khi chúng ta đến đây để cùng nhau nghiên cứu những
sự thật căn bản của mọi tôn giáo th́ tôi không thể không cảm thấy đề tài này
thật rộng lớn xiết bao, c̣n người tŕnh bày lại bé nhỏ xiết bao - đường chân
trời mở ra trước tư tưởng của ta thênh thang xiết bao, c̣n những từ ngữ phấn
đấu để phác họa nó trước mắt các bạn lại nhỏ hẹp xiết bao. Hết năm này tới
năm khác chúng ta đều gặp nhau, hết kỳ này tới kỳ khác chúng ta lại phấn đấu
thăm ḍ một số điều bí nhiệm vĩ đại của sự sống Tự ngă; chúng tạo thành để
tài duy nhất thật sự đáng cho con người tư duy sâu sắc nhất. Mọi thứ khác
đều phù du, mọi thứ khác nữa đều vô thường, mọi thứ khác nữa chẳng qua chỉ
là tṛ chơi của danh vọng và quyền lực nhất thời, sự giàu sang và khoa học -
trong cái thế giới ở bên dưới này th́ mọi thứ chẳng là ǵ hết so với sự lớn
lao của Tự ngă Vĩnh Hằng trong vũ trụ và nơi con người, là một trong tất cả
những biểu lộ đa tạp của nó, mầu nhiệm và mỹ lệ trong mọi h́nh tướng mà Ngài
sinh ra. Rồi tới năm nay, trong số mọi biểu lộ của Đấng Tối Cao ta sắp cả
gan nghiên cứu tới điều linh thánh nhất là những biểu lộ của Thượng Đế ở cái
thế giới mà Ngài tỏ ra là thiêng liêng đến cứu giúp cái thế giới mà Ngài đă
tạo ra, sáng chói trong bản chất cốt tủy của Ngài cái h́nh tướng chẳng qua
chỉ là một lớp màng mỏng hầu như không che giấu được thiên tính trước mắt
ta. Thế th́ ta dám tiếp cận nó ra sao? Ta dám nghiên cứu nó như thế nào, trừ
phi ta có một sự kính cẩn sâu sắc nhất và sự khiêm tốn sâu xa nhất, ấy là v́
nếu cần để nghiên cứu những công tŕnh của Ngài th́ ta phải có ḷng kiên
nhẫn, ḷng tôn kính và sự khiêm hạ, c̣n khi muốn nghiên cứu Ngài mà những
công tŕnh chỉ khai thị được Ngài một phần nào thôi, khi ta ra sức t́m hiểu
Hóa thân nghĩa là ǵ, đâu là ư nghĩa, là chủ đích của một sự khai thị như
thế?
2.
Hội trưởng chúng ta đă thật sự bảo rằng trong mọi tín ngưỡng trên thế
giới có niềm tin và những sự biểu lộ như thế và có cái công lư cổ truyền về
sự thật - vốn là cái dấu xác nhận tiêu chuẩn trên bạc cho thấy kim loại này
là thuần khiết - ở đây công lư cổ truyền ấy có giá trị và đă được tin tưởng
ở mọi nơi, được tin tưởng vào mọi lúc bởi mọi người cho rằng thế là đúng,
thế là thực tại. Các tôn giáo căi cọ nhau về nhiều chi tiết; con người tranh
căi với nhau về nhiều mệnh đề; nhưng khi tâm hồn và tiếng nói của con người
đều đồng thanh thốt lên một từ ngữ đơn thuần th́ ta ắt có dấu ấn của sự
thật, ta có dấu hiệu của thực tại tinh thần. Nhưng khi bàn tới đề tài này,
ta giáp mặt với một khó khăn đối với các bạn với vai tṛ là thính giả c̣n
đối với chính tôi trên cương vị là diễn giả. Trong mọi tôn giáo thời nay th́
sự thật đă bị cắt xén đi hết mọi tầm cỡ của nó; chỉ có trí năng không thôi
ắt không thể lĩnh hội được nhiều khía cạnh của một sự thật duy nhất. V́ vậy
ta có hết trường phái này tới trường phái khác, hết triết lư này tới tiết lư
khác; mỗi trường phái đều bộc lộ một khía cạnh của sự thật và lờ đi thậm chí
chối bỏ những khía cạnh khác vốn cũng là sự thật. Như vậy đă đâu hết, khi
thời gian trôi qua từ thế kỷ này sang thế kỷ kia, từ thiên niên kỷ này sang
thiên niên kỷ kia, th́ tri thức trở nên mờ nhạt đi, sự thấu triệt tinh thần
trở nên hiếm hoi đi, những kẻ chỉ lập đi lập lại vượt xa những người biết;
và những người nói với tầm nh́n trong sáng về sự thật tinh thần đều bị ch́m
lẫn vào trong đám đông vốn chỉ ôm khư khư lấy truyền thống mà nguồn gốc ḿnh
chẳng hiểu ǵ hết. Ta hăy dùng hai từ nổi tiếng là người tu sĩ và bậc đạo sư
vào thời kỳ sau này luôn luôn xung đột với nhau. Tu sĩ mang theo truyền
thống của thời xưa và y thường bị thất truyền các kiến thức khiến cho truyền
thống trở nên đúng thật. Bậc đạo sư thỉnh thoảng xuất hiện với lời thiêng
liêng nóng bỏng trên đầu môi chót lưỡi, nói ra sự thật ngàn đời để soi sáng
cho truyền thống. Những kẻ nào bám lấy ngôn từ của truyền thống thường hay
bị mù quáng bởi ánh sáng của lửa và gọi là kẻ ‘dị giáo’ cái người nói lên
chân lư mà ḿnh đă bị thất truyền. V́ thế cho nên hết tôn giáo này tới tôn
giáo khác, khi có một bậc đại đạo sư nào đấy xuất lộ th́ thường có sự chống
đối, la ó, bác bỏ, bởi v́ sự thật mà ngài nói ra quá mênh mông cho nên không
thể thu hẹp vào trong phạm vi hạn chế của cái con người đă bị mù hết một nửa
rồi. Và trong một đề tài mà ta đang nghiên cứu thời nay th́ một vài rảnh đă
được tạo ra có thể nói rằng một vài lối ṃn mà trí óc con người đang vận
hành trong đó, cho nên tôi biết rằng khi tŕnh bày sự thật huyền bí với các
bạn về một số điều nào đấy, tôi bắt buộc phải xung đột với những chi tiết
của một truyền thống, nói cho đúng hơn là được lập đi lập lại theo trí nhớ
chứ không hiểu hoặc lĩnh hội được sự thật bên dưới nó. Thế th́ xin các bạn
hăy thứ lỗi cho tôi nếu trong một bài thuyết tŕnh về đề tài lớn lao này đôi
khi tôi đi ngược lại một số đường ranh giới phân chia của những trường phái
tư tưởng khác nhau ở Ấn Độ. Tôi không thể và cũng không dám thu hẹp cái sự
thật mà tôi đă học hỏi được để thích ứng với những sự hạn chế đă chồng chất
nên do sự vô minh của thời gian, tôi cũng không thể khiến cho sự thật tinh
thần phù hợp với những truyền thống rỗng tuếch c̣n sót lại trong những tín
ngưỡng trên thế giới. Theo cái bổn phận mà mà Chơn sư tôi phụng sự đă sắp
đặt ra cho tôi theo cái sự thật mà Ngài đă ra lệnh cho tôi nói tận tai những
người thuộc mọi tín ngưỡng trong thế giới hiện đại này. Theo đó tôi phải nói
với các bạn điều ǵ đúng thật, bất chấp liệu các bạn có nhất thời đồng ư với
nó hay chăng. Ấy là v́ sự thật nói ra sẽ được tuân phục sau này nếu như
không vào lúc ngay bây giờ; và bất cứ ai nói tới các đấng Rishis thời xưa
đều phải nói ra những sự thật mà các ngài dạy dỗ vào thời ấy, chứ không lập
lại chỉ những điều tầm thường của các nhà b́nh luận thời nay cùng với những
thuyết chính thống nhỏ nhen reo vang khắp bên cạnh chúng ta và chia rẽ con
người với con người.
3. Để đơn giản đề tài lớn lao này, tôi đề nghị chia nó ra thành một vài đề
mục. Tôi đề nghị trước hết xin nhắc các bạn nhớ lại hai sự phân chia lớn
được công nhận bởi mọi người biết suy tư về đề tài này, thế rồi trong sáng
nay đặc biệt xem xét đề tài “Hóa thân là ǵ”. Ngày mai chúng ta sẽ nêu ra và
phấn đấu giải đáp ít ra cũng được một phần thắc mắc “Ai là cội nguồn của Hóa
thân?” Thế rồi về sau này ta sẽ xét tới những Hóa thân đặc biệt của cả vũ
trụ lẫn loài người. Thế là tôi hi vọng tŕnh bày với các bạn một sự liên tục
dứt khoát rơ rệt những ư tưởng về đề tài lớn lao này mà không yêu cầu các
bạn phải tin chúng bởi v́ tôi nói ra chúng, không yêu cầu các bạn phải chấp
nhận chúng bởi v́ chúng do tôi thốt ra. Lư trí của bạn là những đường gạch
kẽ mà những chân lư đúng với bạn đều phải đi theo đó; và bạn ắt sai lầm sâu
sắc hầu như chí tử nếu bạn để cho tiếng nói của thẩm quyền áp đặt lên cái
nơi mà bạn không đáp ứng được với tiếng nói của nó. Mọi sự thật chỉ đúng với
bạn như bạn nh́n thấy nó và như bạn soi sáng tâm trí ḿnh bằng nó; và cho dù
có đúng đi chăng nữa th́ sự thật đấy vẫn chưa đúng với bạn trừ phi tâm hồn
bạn cởi mở ra để tiếp thu nó giống như đóa hoa mở ḷng ḿnh tiếp nhận những
tia nắng của mặt trời buổi sáng.
4. Thế th́ trước hết ta hăy xét một phát biểu mà mọi người thuộc mọi tôn
giáo đều chấp nhận: thỉnh thoảng có những biểu lộ của Thượng Đế thuộc một
loại đặc biệt được diễn ra khi có nhu cầu xuất hiện; và những biểu lộ đặc
biệt này khác với những biểu lộ đại đồng vũ trụ của Thượng Đế trong càn khôn
của Ngài; ấy là v́ đừng bao giờ quên rằng đấng Ishavara có mặt trong tạo vật
thấp hèn nhất đang ḅ lê ḅ càn trên mặt đất cũng như trong Thiên thần cao
cấp nhất. Nhưng có một vài biểu lộ đặc biệt cần phân biệt với sự khai thị tự
ngă tổng quát trong càn khôn và chính những biểu lộ đặc biệt này được những
nhu cầu đặc biệt triệu thỉnh. Có hai từ ngữ đặc biệt được sử dụng trong Ấn
Độ giáo đánh dấu một sự phân biệt nào đấy trong bản chất của sự biểu lộ -
một là từ ngữ ‘Hóa thân’ (Avatara) c̣n một là từ ngữ ‘Avesha’. Nhất thời th́
ta chỉ cần tạm dừng một chút về ư nghĩa của từ ngữ quan trọng đối với chúng
ta v́ nghĩa đen của những từ ngữ này nêu ra sự khác nhau căn bản giữa hai từ
ngữ. Như bạn biết từ ngữ ‘Hóa thân’ Avatara có từ nguyên là ‘tri’ tức là
trải qua và tiền tố được thêm vào là ‘ava’ mang lại ư nghĩa giáng xuống,
đấng giáng lâm. Đó là nghĩa đen của từ ngữ này. C̣n từ ngữ Avesha có từ
nguyên là ‘vish’, tức là thấm nhuần, xuyên thấu, thấu suốt và ở đây ta có tư
tưởng về một điều ǵ đó bị thấm nhuần hoặc xuyên thấu. Thế là trong một
trường hợp tức Avatara, ta có tư tưởng sự giáng xuống từ bên trên, từ
Ishvara giáng xuống con người hoặc con thú; c̣n trong trường hợp kia nói cho
đúng hơn ta có ư tưởng là một thực thể đă tồn tại rồi chịu ảnh hưởng của
quyền năng Thượng Đế và bị nó thấu suốt, thấm nhuần, đặc biệt có thể nói là
được nó soi sáng. Thế là ta có một loại bước trung gian (nếu ta có thể nói
như vậy) giữa sự biểu lộ của Thượng Đế nơi Hóa thân và trong càn khôn - sự
biểu lộ một phần của Thượng Đế nơi người bị thấu suốt bởi ảnh hưởng của Đấng
Tối Cao hoặc của một thực thể nào khác hầu như khống chế cá thể, Chơn ngă bị
thấu suốt.
5. Thế mà đâu là cơ hội đưa tới những biểu lộ vĩ đại này? Về vấn đề này
không ai có thể nói với thẩm quyền mạnh mẽ hơn Đấng đă quang lâm là một Hóa
thân ngay trước khi bắt đầu thời đại của chúng ta, chính là đấng Shri
Krishna. Hăy quay sang bài thơ kỳ diệu là bộ Chí Tôn Ca, phần Adhyaya
thứ tư, các câu thơ số 7 và 8; trong đó Ngài có cho ta biết điều ǵ thu hút
Ngài sinh ra trong cái thế giới dưới h́nh dạng biểu lộ của Đấng Tối Cao.
6. “Khi Dharma - chánh pháp - đă suy đồi, khi Adharma tức phi pháp được lộng
hành th́ chính Ta sẽ giáng lâm: để bảo vệ điều thiện, để tiêu diệt điều ác,
để xác lập chánh pháp. Ta sinh ra hết thời đại này tới thời đại khác”. Đó
chính là điều mà Ngài dạy chúng ta về sự quang lâm của Hóa thân. Nghĩa là
nhu cầu của thế giới triệu thỉnh Ngài biểu lộ qua quyền năng thiêng liêng và
theo những lời dạy khác của Ngài th́ ta c̣n biết thêm rằng có những nhu cầu
của vũ trụ thêm vào những nhu cầu của con người mà ở những thời đại sơ khai
của thế giới cũng đă triệu thỉnh được những sự biểu lộ đặc biệt. Khi trong
ṿng tiến hóa lớn phải ban ra một ṿng tuần hoàn nữa, khi có một dạng thức
mới, một loại h́nh mới của sự sống xuất hiện th́ Đấng Tối Cao cũng được khai
thị, thể hiện cái loại h́nh mà Ngài phát khởi trong càn khôn của ḿnh, và
bằng cách này Ngài xoay chuyển pháp luân đời đời mà Ngài quang lâm với cương
vị là đấng Ishvara để chuyển luân. Thế th́ khi nói một cách hoàn toàn tổng
quát đó chính là ư nghĩa của từ ngữ này và mục đích của sự quang lâm.
7. Từ
đó ta có thể chuyển thích hợp sang thắc mắc đặc biệt hơn, “Hóa thân là ǵ?”
và chính ở chỗ này mà tôi phải yêu cầu các bạn chú ư mật thiết; không đâu,
cân nhắc kiên nhẫn khi những điều trong một chừng mực nào đó có thể là không
quen thuộc được tŕnh bày với các bạn; ấy là v́ tôi có bảo rằng, tôi đang
bộc lộ một phần quan điểm huyền bí về sự thật và những người nào chưa nghiên
cứu sự thật như vậy th́ cần phải suy nghĩ cẩn thận trước khi họ bác bỏ, cần
phải cân nhắc lâu dài trước khi họ từ chối. Khi chúng tôi ra sức giải đáp
thắc mắc những thẩm quyền lớn đă giúp ta hiểu được đến đâu th́ ta ắt thấy
việc thiếu tri thức khi đọc những thẩm quyền này đă khiến cho ta quan niệm
sai lầm đến đâu. Các bạn hẳn nhớ rằng cố học giả T. Subba Row trong những
bài thuyết tŕnh về Chí Tôn Ca có tŕnh bày một quan điểm nào đấy về
Hóa thân, đó là việc đấng Ishvara giáng xuống - hoặc theo lời ông khi dùng
thuật ngữ Thông Thiên Học là Thượng Đế Ngôi Lời, đó chỉ là hồng danh bằng
tiếng Hi Lạp của Ishvara - Ishvara giáng xuống hiệp nhất với linh hồn người.
Mặc dù hết sức kính trọng học vấn uyên thâm của vị học giả đáng thương tiếc,
tôi không thể không suy nghĩ rằng đây chỉ là sự định nghĩa một phần. Có lẽ
vào lúc ấy v́ rất có thể không có thời giờ, cho nên ông không muốn bàn hết
trường hợp này tới trường hợp khác, v́ có một địa hạt rất mênh mông để gói
ghém trong một số nhỏ những bài thuyết tŕnh của ông giới thiệu; v́ thế cho
nên ta có thể nói ông chỉ chọn ra một dạng khai thị của tự ngă và không đụng
chạm tới những trường hợp khác; giờ đây khi bàn tới chính đề tài này, ta lại
có đầy đủ thời giờ để nghiên cứu. Thế th́ tôi xin bắt đầu dường như thể vào
lúc khởi đầu để rồi cung cấp cho các bạn một vài thẩm quyền khiến cho ta dễ
chấp nhận quan điểm này hơn; tôi xin phát biểu mà tuyệt nhiên không che giấu
hoặc né tránh để xem Hóa thân thực sự là ǵ. Về căn bản th́ Ngài là kết quả
của sự tiến hóa. Trong những kiếp xa xưa, trong những thế giới khác hơn thế
giới chúng ta; không đâu, trong những vũ trụ xưa hơn vũ trụ của ta, các đấng
là Hóa thân đều leo lên từ từ, từng bước một cái thang tiến hóa rộng lớn,
leo từ giới khoáng vật lên giới thực vật, từ giới thực vật lên giới động
vật, từ giới động vật lên tới con người, từ con người lên tới Jivanmukta, từ
Jivanmukta c̣n lên cao hơn nữa, măi tới huyền giai đại hùng vượt quá tầm
những đấng đă giải thoát khỏi những ràng buộc của loài người, cho đến khi
cuối cùng khi leo lên như vậy các Ngài vứt bỏ chẳng những mọi sự hạn chế của
Biệt ngă, chẳng những phá tan những giới hạn của Biệt ngă mà c̣n nhập vào
chính đấng Ishvara rồi bành trưởng thành sự toàn tri toàn giác của Ngà́.
Hiệp nhất về tri thức cũng như đă từng hiệp nhất về bản thể với cái Sự Sống
vĩnh hằng mà các Ngài bắt nguồn từ đó; các Ngài sinh hoạt trong Sự Sống ấy,
là những trung tâm không có chu vi, là những tâm điểm sống động, hiệp nhất
với Đấng Tối Cao. Đứng sau cái Đấng Nhất Như ấy có mở ra vô số cái chuỗi mắt
xích, hết kiếp sống này sang kiếp sống khác, hết sự biểu lộ này sang sự biểu
lộ khác. Trong giai đoạn mà Ngài làm người, trong chu kỳ dài leo lên nấc
thang nhân loại có hai đặc trưng đặc biệt làm nổi bật Đấng Hóa thân tương
lai so với hàng ngũ con người. Một là ḷng sùng tín tuyệt đối của Ngài đối
với Đấng Tối Cao bởi v́ chỉ có tín đồ đă phối hợp được với tri thức mới có
thể đạt được mục tiêu này; ấy là v́ đấng Shri Krishna có dạy rằng nhờ vào
ḷng sùng tín “con người có thể nhập vào bản thể của Ta”. Và nhu cầu sùng
tín cho vị Hóa thân tương lai là như: Ngài phải giữ cho trung tâm có thể vẽ
được đường chu vi một lần nữa xung quanh tâm điểm để cho Ngài có thể xuất lộ
thành một biểu lộ mà Đấng Ishvara hiệp nhất với Ngài về tri thức, hiệp nhất
với Ngài về quyền năng, là chính Đấng Tối Cao trong sinh hoạt trần tục; v́
thế cho nên Ngài ắt phải có quyền năng tự hạn chế ḿnh vào h́nh tướng, v́
không một h́nh tướng nào có thể tồn tại trong vũ trụ trừ phi có một trung
tâm điểm mà h́nh tướng được thu hút vào xung quanh nó. Ngài phải hết sức
sùng tín để sẵn ḷng ở lại phụng sự vũ trụ trong khi chính Đấng Ishvara c̣n
thường tồn nơi đó để chia xẻ sự hi sinh liên tục của Ngài, sự hi sinh nhờ đó
vũ trụ vẫn c̣n sinh hoạt được. Nhưng đâu phải chỉ ḷng sùng tín mới đánh dấu
được Đấng Cao Cả đang leo lên con đường thiêng liêng. Ngài cũng phải yêu
thương nhân loại chẳng khác nào Đấng Ishvara. Nếu bên trong Ngài không cháy
bùng ngọn lửa yêu thương nhân loại - không đâu, nhân loại th́ vẫn c̣n quá
hẹp ḥi - nếu bên trong Ngài không cháy bùng ngọn lửa yêu thương mọi chúng
sinh di động và bất động trong vũ trụ này của Thượng Đế, th́ Ngài ắt không
thể xuất lộ thành Đấng Tối Cao mà sự sống và t́nh thương ở nơi mọi thứ Ngài
đă tạo ra từ sự sống vĩnh hằng và bất tận của ḿnh. Đấng Thân Thương có nói,
“Không một điều ǵ bất động hoặc di động có thể tồn tại mà không cần tới Ta”
(Chí Tôn Ca, x, 39) và nếu con người không thể làm việc đó đưa vào
bản chất ḿnh, nếu có người không thể yêu thương tất cả chúng sinh, chẳng
những là điều tốt đẹp mà c̣n là điều xấu xí, chẳng những là điều thiện mà
c̣n là điều ác, chẳng những là điều hấp dẫn mà c̣n là điều khiến người ta
dội lại, nếu người ta không thấy Tự ngă trong mọi h́nh tướng th́ y không thể
leo lên con đường dốc đứng mà Đấng Hóa thân phải bước trên đó.
8. Thế th́ đây là hai đặc trưng lớn của con người phải trở thành biểu lộ
đặc biệt của Thượng Đế - đó là bhakti, tức là yêu thương Đấng mà ḿnh phải
ḥa lẫn vào đó và yêu thương những sinh linh mà chính sự sống là sự sống của
Thượng Đế. Chỉ khi những thứ này xuất lộ nơi con người th́ y mới tiến lên
con đường để trở thành một Đấng Hóa thân trong những vũ trụ tương lai, trong
những kiếp tương lai xa xăm quang lâm làm Thượng Đế đối với con người.
9. Bây giờ tôi biết rằng có nhiều khó khăn xuất lộ đối với quan điểm về bản
chất của Đấng Hóa thân, nhưng đó là những khó khăn xuất lộ từ một quan điểm
riêng phần, thế rồi từ quan điểm ấy theo thông lệ người ta chỉ chấp nhận dựa
vào thẩm quyền của một danh xưng vĩ đại nào đấy, thay v́ người ta phải suy
nghĩ rồi thông hiểu toàn vẹn nó chứ không phải chỉ biết lập lại khẩu hiệu
thuộc giáo phái hoặc trường phái của chính ḿnh. Một khi đă chọn quan điểm
rồi th́ mọi văn bản trong loại kinh Shruti hay Smriti mà ngược lại quan điểm
đó đều bị méo mó quan điểm tự nhiên của nó, để khiến cho nó đồng ư với quan
điểm đă khống chế tâm trí. Đó chính là khó khăn của mọi tôn giáo; người nào
có được quan điểm theo truyền thống, theo thói quen, theo tập tục sinh ra
trong gia hệ, theo công luận, theo môi trường xung quanh vào thời đương đại
của chính ḿnh. Y t́m thấy trong kinh điển - vốn không thuộc về thời gian,
không thuộc về ngày tháng, không thuộc về một thời đại nào và không thuộc về
dân tộc nào, mà là biểu hiện cho kinh Phệ đà vĩnh hằng - th́ y đều thấy
trong đó có nhiều bản văn không phù hợp với cái khuôn khổ chật hẹp y đă tạo
ra; và v́ y rất thường chỉ quan tâm tới khuôn khổ hơn là quan tâm tới sự
thật nên y thao túng văn bản cho đến khi y có thể khiến nó phù hợp với khuôn
khổ theo một kiểu khập khiểng nào đấy; và sự tài t́nh của nhà b́nh luận rất
thường khi xuất hiện qua sự khéo léo của y khiến cho ngôn từ có vẻ ngụ ư
điều mà chúng không ngụ ư theo ư nghĩa ngữ pháp hiển nhiên. Thế mà những con
người thuộc mọi trường phái nhân danh hồng danh của những người biết chân lư
- nhưng họ chỉ có thể tŕnh bày một phần sự thật mà họ xét thấy là con người
vào thời ấy có thể tiếp thu được - th́ họ dùng tên tuổi của những vị này để
bao che cho những sự thuyết giải lầm lạc, thế là những bức tường được liên
tục dựng nên để phong bế sự sống đang thăng tiến của con người.
10. Bây giờ tôi xin xét một ví dụ từ một trong những danh xưng lớn nhất, họ
biết sự thật mà Ngài nói, nhưng cũng như mọi bậc đạo sư, Ngài phải nhớ rằng
trong khi Ngài là con người th́ những đấng mà Ngài ngỏ lời đều là những đứa
trẻ con không thể lĩnh hội được sự thật qua sự thông hiểu dứt khoát. Bậc đạo
sư vĩ đại ấy vốn sáng lập một trong ba trường phái của kinh Vedanta, đó là
Shri Ramanujacharya, trong phần b́nh luận về Chí Tôn Ca - một tác
phẩm vô giá mà mọi người thuộc đủ mọi trường phái đều có thể đọc được và
hưởng lợi từ đấy - khi bàn tới những câu kinh trong đó Đấng Shri Krishna
tuyên bố rằng Ngài đă trải qua “nhiều kiếp sinh ra” th́ đều nêu rơ những
kiếp sinh ra ấy thuộc đủ mọi loại như thế nào. Thế rồi khi hạn chế ḿnh vào
những biểu lộ thành Đấng Ishvara - nghĩa là sau khi Ngài đă đạt được tới
Đấng Tối Cao - th́ Ngài có thể hoàn toàn thực sự nói rằng, Ngài sinh ra do
tự nguyện, do nguyện lực chứ không phải do nghiệp lực cưỡng chế Ngài, không
có một lực nào bên ngoài Ngài cưỡng chế Ngài, mà chính Ngài tự nguyện sinh
ra thành Đấng Ishavara, rồi nhập thể dưới dạng này hay dạng khác. Nhưng
không có điều ǵ được nói ra trong đó về vô số bước đi mà Đấng đại hùng băng
qua trước khi Ngài ḥa lẫn vào Đấng Tối Cao. Những điều c̣n được dẹp sang
một bên, không đề cập tới, không ai chú ư, bởi v́ điều mà người viết nhắm
tới là tŕnh bày cho tâm hồn con người một Mục tiêu lớn lao để cho Ngài
ngưỡng mộ, mục tiêu này sẽ dần dần nâng người ta lên măi cho đến khi tới
lượt Tự ngă nở rộ nơi người ta. Người ta không nói ǵ tới những kiếp trước,
vũ trụ trải rộng ra tới tận đằng sau vào quá khứ vô biên khi Ngài nói rằng
ḿnh sinh ra là Chư thiên, là Long thần, là Nhạc thần, v́ có rất nhiều h́nh
dạng mà Ngài có thể chọn lựa tùy ư. Nếu bạn giở kinh Shrimad Bhagavata ra
th́ bạn có thể học biết được rằng có một danh sách các biểu lộ dài hơn hẳn
mười thứ thường được gọi là Hóa thân. Các Hóa thân thường được ban cho hết
h́nh tướng này tới h́nh tướng khác dường như là kỳ lạ đối với bạn đọc hời
hợt khi liên kết với Đấng Tối Cao qua tư tưởng hiện đại. Nhưng ta thấy ánh
sáng được chiếu soi lên những vấn đề qua một số từ ngữ khác của Đấng Chúa Tể
và ta cũng thấy trong một quyển sách nổi tiếng có đầy những lời bóng gió
huyền bí - mặc dù không có nhiều lời giải thích về những điều bóng gió được
tŕnh bày - trong quyển Yoga Vasishtha có một phát biểu rơ rệt là xác định
theo đó các đấng thần linh như Mahadeva, Vishnu và Brahma đều leo lên cao
tới tận những địa vị hùng dũng. [Phần II, Chương II, các câu kinh 14, 15,
16]. Và điều này ắt hẳn như vậy nếu bạn chịu khó suy nghĩ; không có điều ǵ
làm cho các Ngài mất giá trị về tư tưởng bởi v́ chỉ có một sự Tồn tại duy
nhất, suối nguồn vĩnh hằng của mọi điều xuất hiện dưới dạng chia rẽ, cho dù
chia rẽ trong vũ trụ như Đấng Ishvara hay là chia rẽ nơi bản sao vũ trụ là
con người, th́ chỉ có một Đấng độc nhất vô nhị thôi; chẳng có sự sống nào mà
không phải là Ngài; chẳng có sự độc lập nào mà không phải là Ngài; chẳng có
sự tự tại nào mà không phải là Ngài và chư thần linh cùng với con người và
tất cả chúng sinh đều bắt nguồn từ Ngài; tồn tại đời đời nơi và bởi sự sống
vĩnh hằng nhất như của Ngài. Các giai đoạn biểu lộ khác nhau, nhưng chỉ có
Tự ngă Nhất như trong mọi giai đoạn khác nhau ấy, Nhất bổn linh hoạt nơi Vạn
thù; và nếu đúng và quả thật đúng th́ Tự ngă nơi con người vốn “bất sinh,
bất diệt, thường trụ, vĩnh hằng, đời đời”, ấy là v́ Tự ngă nơi con người vốn
hiệp nhất với Đấng Tự tại Nhất như và chính Đấng Ishvara chỉ là sự biểu lộ
dũng mănh nhất của cái Đấng không biết tới một đấng thứ hai nào gần kề ḿnh.
Một thi sĩ người Anh có viết:
11. Ngài gần cận hơn hơi thở và gần gũi hơn tay chân.
12. Tự ngă nơi bạn và nơi tôi, cũng giống như Tự ngă nơi Đấng Ishvara, là
Đấng Nhất Như, vĩnh hằng, bất biến, bất diệt mà mọi sự tồn tại biểu lộ chẳng
qua chỉ là một tia vinh quang của nó. Điều được giảng dạy trong Yoga
Vasishtha là đúng như vậy; quả thật ngay cả Đấng Cao Cả nhất mà phải cúi đầu
tôn sùng Ngài th́ trong những thời đại mà con người không thể đếm được, Ngài
đă leo lên để hiệp nhất với Đấng Tối Cao và từ đó biểu lộ thành Thượng Đế
đối với thế giới.
13.
Nhưng giờ đây ta đi tới một sự phân biệt mà ta cần thực hiện v́ nó là đúng
thật. Ta đọc thấy có một Purnavatara là một đấng Hóa thân hoàn chỉnh, trọn
vẹn. Đâu là ư nghĩa của từ ngữ ‘trọn vẹn’ được áp dụng cho đấng Hóa thân?
Như ta biết hồng danh này được dành cho đấng Shri Krishna. Ngài đặc biệt
được phân biệt bằng hồng danh này. Thật ra th́ từ ngữ ‘Purna’ không thể áp
dụng cho đấng Vô hạn Vô biên; Ngài không thể bộc lộ qua bất kỳ h́nh tướng
nào; mắt phàm chẳng bao giờ nh́n thấy Ngài, chỉ có tinh thần vốn là chính
Ngài mới có thể biết được Đấng Nhất Như. Điều này ngụ ư như sau, trong phạm
vi giới hạn có thể của h́nh tướng th́ sự biểu lộ của điều không có h́nh
tướng trong chừng mực có thể được ắt xuất hiện thành một Đấng Cao Cả quang
lâm để cứu nhân độ thế. Điều này có thể giúp cho các bạn lĩnh hội được sự
phân biệt. Khi biểu lộ là của một Purnavatara th́ vào bất kỳ lúc nào tùy ư,
nhờ Yoga hoặc bằng cách khác, Ngài có thể siêu việt được mọi giới hạn của
h́nh tướng mà Ngài tự nguyện bị ràng buộc rồi tỏ lộ thành Đấng Chúa Tể của
Vũ trụ, mọi Vũ trụ đều được chứa đựng bên trong Ngài. Một lần nữa ta hăy suy
nghĩ một lúc về Đấng Shri Krishna, Ngài đă giảng dạy cho ta biết bao nhiêu
điều về vấn đề này. Ta hăy quay sang kho chứa lớn minh triết tinh thần, đó
là bộ Mahabharata, xem phần Ashvamedha Parva có bao hàm Anugita và các bạn
ắt thấy rằng sau trận đại chiến, Arjuna quên mất giáo huấn được ban cho trên
chiến trường Kurukshetra, cho nên mới yêu cầu Đạo sư lập lại giáo huấn một
lần nữa. Và Đấng Shri Krishna quở trách Arjuna v́ cái trí chập chờn bất định
và nêu rơ rằng Ngài không hài ḷng chút nào khi sự chập chờn ấy đă khiến
người ta quên đi tri thức. Ngài thốt ra những lời lẽ đáng chú ư sau đây: “Ta
không thể phát biểu nó trọn vẹn theo kiểu ấy. Ta giảng dạy cho con về Đấng
Brahma Tối Cao v́ ta đă tập trung vào Yoga”. Thế rồi Ngài tiếp tục tŕnh bày
cốt tủy của giáo huấn ấy nhưng không dưới cái dạng cao thượng mà ta có trong
Chí Tôn Ca. Đây là một điều cho các bạn thấy rằng Purnavatara ngụ ư
là ǵ, trong t́nh trạng Yoga mà Ngài tùy ư nhập vào, Ngài biết ḿnh
là Chúa tể của vạn vật, là Đấng Tối Cao mà vũ trụ được xây dựng dựa trên đó.
Không đâu, c̣n nhiều hơn thế nữa, ít ra là ba lần - tôi không chắc có được
bao nhiêu trường hợp hợp hơn nữa, nhưng ngay lúc này th́ tôi không thể nhớ
rơ được - ít ra là ba lần trong cuộc sống của Ngài là Đấng Shri Krishna,
Ngài bộc lộ ra thành Đấng Ishvara tức Đấng Tối Cao. Có một lần trong triều
đ́nh của Dhritarashtra, khi tên điên khùng Duryodhana nói tới việc giam hăm
trong những bức vách của xà lim Đấng Chúa Tể vũ trụ mà vũ trụ cũng không hạn
chế được th́ để chứng tỏ sự điên rồ ngông cuồng của vị hoàng tử ngạo mạn,
ngay giữa triều đ́nh trước mắt bá quan văn vơ, Ngài bộc lộ thành Đấng Chúa
Tể của vạn vật, khiến cho sự vinh quang của Ngài lấp đầy cả trời lẫn đất và
người ta thấy mọi h́nh tướng của con người và chư thiên, siêu nhân loại và
dưới nhân loại, đều tụ hội xung quanh Ngài trong sự sống mà họ bắt nguồn từ
đó. Thế rồi trên chiến trường Kurukshetra đối với Arjuna là đệ tử cưng của
Ngài mà Ngài dành cho cái tầm nh́n thiêng liêng thấy được Ngài dưới dạng
Vaishnava, tức là h́nh tướng của Đấng Vishnu, Đấng Tối Cao bảo dưỡng Vũ trụ.
Và sau này trên con đường trở lại Dvaraka khi hội ngộ với Utanka, Ngài và vị
hiền triết lại hiểu lầm, thế là vị hiền triết sắp sửa chửi rủa Đấng Chúa Tể
để khiến cho người hiền triết không phạm phải sự ngông cuồng thốt ra lời
chửi rủa Đấng Tối Cao, giống như đứa trẻ có thể ném một viên sỏi nhỏ vào một
tảng đá đă tồn tại không biết từ bao giờ, Ngài hiện ra trước mắt kẻ quả thực
là tín đồ của Ngài và chỉ cho Ngài thấy cái h́nh tướng Vaishnava vĩ đại là
h́nh tướng của Đấng Tối Cao. Thế th́ những sự biểu lộ đó hiện ra như thế
nào? Ngài có thể tùy ư hiện ra thành Đấng Chúa Tể của vạn vật, dẹp qua một
bên những h́nh tướng bị giới hạn nơi con người, dẹp qua một bên cái dáng vẻ
rất quen thuộc với những người xung quanh Ngài và Ngài có thể bộc lộ thành
Đấng đại hùng Ishvara vốn là sự sống của tất cả. Có một đặc điểm của đấng
Purnavatara, Ngài luôn luôn có thể tùy ư phát triển quyền năng bộc lộ thành
Đấng Ishvara.
14. Nhưng tại sao tâm trí của các bạn lại có thể nghĩ rằng mọi Đấng Hóa thân
thuộc loại này đâu phải như thế, bởi v́ tất cả đều thuộc Đấng Chúa Tể Tối
cao? Xin giải đáp rằng bằng ư chí của chính ḿnh, bằng quyền năng Maya của
chính ḿnh, Ngài ẩn ḿnh trong những giới hạn để phục vụ cho những tạo vật
mà Ngài đến giúp đỡ. V́ Đấng đại hùng, Ngài khác các bạn và và tôi biết
chừng nào! Khi chúng ta đang nói tới một người nào đó biết ít hơn chúng ta
một chút, th́ chúng ta nói hết những ǵ mà ḿnh biết để khoe khoang tri thức
của ḿnh, để tự bành trướng ḿnh đến mức có thể làm cho người mà ḿnh nói
chuyện phải ngạc nhiên và ngưỡng mộ, ấy là v́ chúng ta nhỏ mọn đến nỗi chúng
ta e rằng sự vĩ đại của ḿnh ắt chẳng ai nhận ra nếu ta không thể làm cho
chính ḿnh lớn đến mức gây ngạc nhiên th́ cũng phải làm cho nó có thể gây
khủng khiếp; nhưng khi Ngài quang lâm mà Ngài thật sự vĩ đại, Ngài thật sự
dũng mănh hơn bất cứ điều ǵ Ngài đă tạo ra th́ Ngài lại biến ḿnh thành ra
nhỏ bé để giúp đỡ những người mà Ngài yêu thương. Và thưa các huynh đệ, liệu
các bạn có biết chăng chỉ tỉ lệ với mức tinh thần Ngài thâm nhập vào chúng
ta th́ trong phạm vi nhỏ bé của ḿnh ta mới có thể góp phần giúp đỡ cái vũ
trụ mà Ngài là sự sống nhất như của nó; chừng nào qua mọi hành động và lời
lẽ của ḿnh ta c̣n chưa đặt vào bên trong cái người mà ta muốn giúp đỡ chứ
không đặt ḿnh bên ngoài người ấy, cảm nhận như người ta cảm nhận, suy nghĩ
như người ta suy nghĩ, nhất thời biết được như chính người đó biết với mọi
sự hạn chế của y mặc dù có thể có tri thức vượt ngoài tầm đó nữa, th́ ta
không thể thật sự giúp đỡ; đó chính là điều kiện mà mọi sự giúp đỡ chân
chính do con người dành cho con người, cũng như là điều kiện duy nhất để
giúp đỡ mà chính Thượng Đế dành cho con người.
15. Và thế là nơi những Đấng Hóa thân khác, Ngài hạn chế ḿnh v́ ích lợi của
con người. Ta hăy xét bậc Đại vương Shri Rama, Ngài bộc lộ điều ǵ? Đó là
bậc Sát đế lị lư tưởng trong mọi mối quan hệ của sinh hoạt Sát đế lị; với
vai tṛ là đứa con trai, toàn hảo như đứa con trai cũng như người cha biết
yêu thương và ghen tuông, nhất thời là người mẹ ghẻ không tử tế. Ấy là v́
các bạn hẳn nhớ rằng khi vợ của cha không phải là mẹ đẻ của Ngài bảo Ngài đi
ra rừng vào trước cái ngày Ngài đăng quang nối ngôi vua th́ Ngài dịu dàng
trả lời: “Thưa mẹ con đi”. Thật là một đứa con trai hoàn hảo. Thật là một
người chồng hoàn hảo; nếu Ngài không tự nguyện hạn chế ḿnh để bộc lộ ra
người chồng phải như thế nào đối với vợ, th́ làm sao Ngài có thể đi vào rừng
khi Sita đă bị Ravana cướp đi, bộc lộ nỗi đau buồn, thốt ra những lời than
văn bi thương khiến cho cả ngàn đôi mắt phải nhỏ lệ, khi Ngài kêu gọi cây
cỏ, chim muông, thú rừng, chư thần linh và con người hăy cho Ngài biết vợ
ḿnh ở đâu, đó là nửa bên kia của Ngài, sự sống của sự sống Ngài, nó đă đi
đâu mất rồi? Làm sao sao Ngài có thể dạy dỗ cho loài người, vợ phải đối với
tâm hồn chồng ra sao nếu Ngài không tự hạn chế ḿnh như vậy? Đấng thiêng
liêng có mặt ở khắp nơi một cách hữu thức mà lại không t́m thấy và t́m ra
người thân thương của ḿnh đă biến mất. Thế rồi trên cương vị là ông vua,
Ngài cũng là ông vua hoàn hảo giống như đứa con trai và người chồng toàn
bích khi phúc lợi của thần dân có dính dáng và khi nghĩ tới mối an nguy của
đất nước khi Ngài nhớ rằng ḿnh là vua, tượng trưng cho trời tức Thiên tử,
th́ ḿnh phải hoàn hảo trước mắt thần dân sao cho thần dân có thể trung
thành và vâng lời, thần dân chỉ có thể như vậy đối với người mà họ biết là
cao cả hơn chính ḿnh, th́ đến lúc ấy ngay cả vợ của Ngài cũng phải bị dẹp
qua một bên. Rồi tới sự thử thách của lửa đối với Sita vốn không bị nhiễm ô
và đang đau khổ; rồi Nàng phải trải qua thử thách đó để chứng tỏ rằng không
một tội lỗi hoặc sự ô nhiễm nào đă đến với ḿnh qua sự đụng chạm ô uế của
Ravana tức quỷ dạ xoa; thế rồi có yêu cầu là trước khi tâm hồn người chồng
phải bị tan nát th́ mới có thể có lại được vợ ḿnh. Bà phải xuất hiện là
người phụ nữ trinh khiết và mọi điều này là v́ Ngài là ông vua cũng như
người chồng và bàng dân thiên hạ vinh danh Ngài thiêng liêng trên ngai vàng
th́ chỉ có thể có sự trinh khiết, không t́ vết giống như tuyết rơi. Những sự
hạn chế này cần thiết để cho ta có thể đưa ra một ví dụ toàn bích đối với
con người, và con người có thể học cách leo lên bằng cách mô phỏng lại những
đức tính đă được thu nhỏ lại để cho tầm lĩnh hội nhỏ hẹp của y có thể tiếp
thu được chúng.
16. Chúng ta xét tới lớp lớn thứ nh́. Những sự biểu lộ mà trong phần đầu tôi
có nói rằng nó được gói ghém bằng một từ ngữ rộng lớn hơn là Avesha. Trong
trường hợp đó không phải một con người trong vũ trụ quá khứ đă leo lên và
hiệp nhất với Đấng Ishvara mà chính là con người leo lên cao đến nỗi trở nên
có nhân cách vĩ đại, hoàn hảo, đầy t́nh thương và ḷng sùng tín đối với
Thượng Đế và con người đến nỗi Thượng Đế có thể thấm nhuần y bằng một phần
ảnh hưởng của chính ḿnh, quyền năng của chính ḿnh, tri thức của chính ḿnh
rồi biệt phái y ra thế giới là một biểu lộ siêu nhân của chính Ngài. Chơn
ngă cá biệt vẫn c̣n đó và đây là điều phân biệt lớn. Con người vẫn c̣n đó
mặc dù quyền năng đang tác động là Thượng Đế biểu lộ. V́ thế cho nên sự biểu
lộ sẽ nhuốm màu những đặc trưng đặc biệt của Đấng mà sự tiếp điển này được
thực hiện; bạn có thể truy nguyên qua tư tưởng của bậc đạo sư được linh
hứng, những đặc trưng của giống dân, của cá thể, của cái dạng tri thức thuộc
con người đang nhập thể mà sự tiếp điển diễn ra. Đó là sự khác nhau căn bản.
17.
Nhưng ở đây ta thấy rằng ta đi ngay tới những cấp độ vô tận, những biến thể
vô tận và chúng ta có thể từng bước đi xuống nấc thang càng ngày càng tiến
hóa kém hơn, cho đến khi ta tới cấp thấp mà ta gọi là sự linh hứng. Trong
trường hợp Avesha nó thường tiếp tục qua phần lớn cuộc đời và theo thông lệ
th́ phần sau cùng của cuộc đời tương đối ít khi phải ẩn dật. Như ta thường
hiểu, sự linh hứng là một chuyện mang tính riêng phần hơn, tạm bợ hơn. Quyền
năng giáng xuống soi sáng và tỏa chiếu cho con người nhất thời và nhất thời
y nói với thẩm quyền, tri thức mà trong trạng thái b́nh thường y có lẽ hầu
như không biểu hiện được. Đó là những đạo sư đă soi sáng cho thế giới từ
thời đại này qua thời đại khác, thời xưa đó là những vị Bà la môn vốn là
miệng của Thượng Đế. Thế th́ quá thật như tôi có nói, sự phân biệt không
phải giữa vị tu sĩ và bậc đạo sư; cả hai đều liên kết với nhau qua sự soi
sáng duy nhất, giáo huấn của vị tu sĩ và bài thuyết pháp của vị đạo sư đi
theo cũng một đường lối và sản sinh ra cùng một chơn lư vĩ đại. Nhưng về sau
này sự phân biệt có được do giới giáo sĩ đă thất bại khi vị tu sĩ theo đuổi
tiền bạc, danh vọng, quyền lực, đủ mọi thứ mà chỉ những linh hồn c̣n ấu trĩ
mới quan tâm - đó là những tṛ chơi của con người mà lũ trẻ nhân loại đang
chơi, rồi khi chơi như vậy sẽ khôn ngoan hơn, nhờ chơi mà tăng trưởng. Lúc
bấy giờ giới tu sĩ trở nên h́nh thức, các đạo sĩ, đạo sư trở nên càng ngày
càng hiếm hơn cho đến khi sự kiện vĩ đại là sự linh hứng đă hoàn toàn bị đắm
ch́m vào quá khứ dường như thể Thượng Đế và Con người đă thay đổi, con người
không c̣n có bản chất thiêng liêng nữa, Thượng Đế không c̣n sẵn ḷng ngỏ lời
vào tai con người. Nhưng sự linh hứng là một sự kiện ở mọi giai đoạn và nó
c̣n tiến xa hơn mức một số các bạn nghĩ tới được. Sự linh hứng của bậc đạo
sư dũng mănh về tinh thần và có tính thuyết phục ắt là cần thiết và họ đến
với thế gian để cung cấp một xung lực mới cho sự thật tinh thần. Nhưng có
một sự linh hứng tổng quát là bất kỳ ai cũng có thể chia xẻ được khi phấn
đấu bộc lộ sự sống Thượng Đế mà không c̣n người nào bị loại trừ khỏi nó, bởi
v́ mọi người đều là mặt trời của Thượng Đế. Có bao giờ bạn đă bị cuốn hút
nhất thời vào những cơi cao siêu hơn, an b́nh hơn khi bạn bước qua một điều
ǵ đó mỹ lệ, nghệ thuật, những điều kỳ diệu của khoa học và sự cao cả của
triết học? Có bao giờ bạn nhất thời quên đi những điều nhỏ nhen trên trần
thế, những sự rắc rối tầm phào, những lo âu và lo toan nhỏ mọn, rồi cảm thấy
ḿnh được nâng cao lên một cơi b́nh yên hơn vào trong cái ánh sáng không
phải là ánh sáng trần tục. Có bao giờ bạn đứng trước một bức tranh kỳ diệu
nào đấy, trong đó bảng chọn màu của họa sĩ đă được chọn lựa để làm nổi bật
lên trên khung vải mọi sắc thái của màu sắc đẹp đẽ mà nghệ thuật có thể cống
hiến cho con người nh́n thấy. Có bao giờ bạn nh́n thấy một tác phẩm điêu
khắc kỳ diệu với những đường cong sống động, nhă nhặn mà dao chạm trỗ đă
giải thoát được khỏi sự thô ráp của viên đá cẩm thạch? Hoặc có bao giờ trong
cơn ngây ngất của âm nhạc thiêng liêng bạn lắng nghe từng tiếng một, từng
bước nâng bạn lên cho đến khi bạn dường như nghe thấy những vị Nhạc thần
đang ca hát và hầu như tiếng sáo thiêng liêng đang được thổi lên và vang
vọng xuống hạ giới? Hoặc có bao giờ bạn đứng trên đỉnh núi xung quanh có
tuyết phủ rồi cảm thấy sự vĩ đại của thiên nhiên bất động bộc lộ Thượng Đế
cũng như tinh thần con người? Ồ, nếu bạn đă biết bất kỳ địa điểm an b́nh nào
trong sa mạc cuộc sống th́ bạn ắt biết sự linh hứng thấm nhuần vạn vật ra
sao; vẻ đẹp và quyền năng của Thượng Đế bộc lộ nơi con người và nơi thế giới
như thế nào; lúc bấy giờ nếu trước kia bạn chưa từng biết th́ bạn ắt biết sự
thật của lời tuyên cáo vĩ đại của Đấng Thân Thương, Shri Krishna: “Bất cứ
thứ ǵ thuộc hoàng gia, tốt đẹp, mỹ lệ và hùng vĩ th́ các con nên hiểu rằng
chúng đều xuất phát từ sự Huy hoàng của Ta”. (Chí Tôn Ca, x, 41) tất
cả đều là sự phản chiếu của tejas, tức sự Huy hoàng, quang huy, vốn của Ngài
và chỉ thuộc về Ngài thôi. Ấy là v́ không có điều ǵ trong vũ trụ mà lại
chẳng có t́nh thương và sự sống của Ngài; cũng vậy, không có vẻ đẹp nào
không phải là vẻ đẹp của Ngài vốn không phải là một tia của sự huy hoàng vô
tận, một chùm tia nhỏ xuất phát từ cội nguồn sự sống bất diệt.
BÀI THUYẾT TR̀NH THỨ HAI
NGUỐN GỐC VÀ NHU CẦU HÓA THÂN
19.
Thưa các huynh đệ, ngày hôm qua các bạn hẳn nhớ
rằng khi chia đề tài này ra thành những đề mục khác nhau, tôi có nêu ra một
vài thắc mắc mà ta sẽ xem xét theo thứ tự. Hôm qua tôi đă bàn tới thắc mắc:
“Hóa thân là ǵ?”, thắc mắc thứ nh́ mà chúng ta phải ra sức giải đáp đó là
“Đâu là nguồn gốc của Hóa thân”, đây là một thắc mắc đưa ta đi sâu vào những
bí nhiệm của càn khôn và ít ra ta phải phác họa sự tăng trưởng và tiến hóa
của càn khôn th́ mới đưa ra một giải pháp có thể hiểu được. Tôi hi vọng hôm
nay ḿnh cũng có thể bàn tới thắc mắc tiếp theo “Nhu cầu có Hóa thân xuất
hiện như thế nào?” Điều này khiến cho ngày mai sẽ là đề tài các Hóa thân đặc
biệt và nếu có thể được, nội trong bài thuyết tŕnh ngày mai tôi sẽ cố gắng
đề cập tới 9 trong số 10 vị Hóa thân đă được công nhận là nổi bật lên từ mọi
sự biểu lộ khác của Đấng Tối Cao. Thế rồi nếu tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ
th́ chúng ta c̣n một buổi sáng nữa mà tôi đề nghị được dành hoàn toàn cho
Hóa thân vĩ đại nhất là chính Đấng Shri Krishna, nếu có thể được, tôi sẽ cố
gắng nêu bật những đặc trưng lớn trong thân thế và sự nghiệp của Ngài và có
thể thỏa măn đáp ứng được một số lời phản đối của kẻ vô minh đặc biệt vào
thời sau này đă nổi lên chống lại Ngài, do người ta chẳng hiểu biết ǵ về
bản chất của Ngài cũng như công tŕnh hoành tráng mà Ngài quang lâm để thực
hiện trong thế giới này.
20. Bây giờ ta bắt đầu ngay hôm nay bằng cách ra sức trả lời thắc mắc: “Đâu
là cội nguồn của các Hóa thân”; và rất có thể là tôi phải đi theo một đường
lối tư tưởng khá xa lạ, có thể nói đưa ta ra ngoài những đường lối khảo cứu
b́nh thường vốn bàn nhiều hơn tới sự tiến hóa của con người và bản chất tinh
thần bên trong y. Nó đưa chúng ta tới những thời kỳ xa xưa mà hầu như ta
không hiểu nổi khi vũ trụ mới bước vào biểu lộ, khi có thể nói là nền móng
của nó mới được h́nh thành. Tuy nhiên để giải đáp thắc mắc này th́ chỉ cần
trả lời đơn giản. Trong mọi tôn giáo đều có công nhận những sự nhập thể của
Thượng Đế và bao gồm hết những tôn giáo lớn trên thế giới th́ người ta thừa
nhận rằng nguồn gốc của Hóa thân, nguồn gốc của sự nhập thể của Thượng Đế
chính là sự biểu lộ thứ nh́ hoặc chính giữa của Tam nguyên Thiêng liêng.
Việc người Ấn giáo gọi đó là Trimurti hay Kitô hữu gọi là Tam vị Nhất thể
th́ không quan trọng, ư tưởng cơ bản vẫn như nhau. Trước hết ta xét trong
một lúc khoa biểu tượng của Kitô giáo th́ hẳn thấy Kitô hữu đều cho biết sự
nhập thể duy nhất của Thượng Đế được công nhận trong Kitô giáo - bởi v́
trong Kitô giáo người ta chỉ tin vào một sự nhập thể đặc biệt thôi - bạn ắt
thấy rằng trong hệ thống thuật ngữ Kitô giáo th́ sự nhập thể của Thượng Đế
tức Hóa thân là Ngôi hai trong Tam vị Nhất thể. Không một Kitô hữu nào cho
bạn biết rằng có sự nhập thể của Chúa Cha vốn là Cội nguồn nguyên sơ của sự
sống. Họ cũng chẳng bao giờ cho bạn biết rằng đă có một sự nhập thể của Ngôi
ba trong Tam vị Nhất thể, Ngôi Chúa Thánh thần, Tinh thần Minh triết, Trí
tuệ sáng tạo vốn xây dựng nên những chất liệu của thế giới. Thế nhưng họ
luôn luôn bảo rằng chính Ngôi hai, Ngôi Chúa Con mới khoác lấy h́nh tướng
con người xuất hiện giống như nhân loại, biểu lộ thành một con người để cứu
nhân độ thế. Và nếu bạn phân tích ngụ ư của cụm từ ấy xem theo ư của Kitô
hữu th́ họ truyền đạt tư tưởng về Ngôi hai trong Tam vị Nhất thể ra sao -
nên nhớ rằng khi bàn tới một tôn giáo không phải là tôn giáo gốc của ḿnh,
bạn không nên t́m kiếm h́nh thức mà phải t́m kiếm tư tưởng, không t́m kiếm
nhăn hiệu mà phải t́m kiếm ư tưởng, v́ tư tưởng mang tính phổ quát c̣n h́nh
tướng là chia rẽ, ư tưởng đồng nhất c̣n nhăn hiệu là dấu hiệu của sự chia rẽ
- nếu bạn t́m kiếm tư tưởng căn bản th́ bạn ắt thấy nó như sau: dấu hiệu của
Ngôi hai trong Tam vị Nhất thể là lưỡng tính, Ngài cũng là sự sống ẩn bên
dưới thế giới, các thế giới được h́nh thành nhờ quyền năng của Ngài cho nên
chúng mới được bảo dưỡng, nâng đỡ và che chở. Bạn ắt thấy rằng trong khi
người ta nói Tinh thần Minh triết mang lại trật tự từ sự vô trật tự, tạo ra
càn khôn từ sự hỗn mang th́ chính Ngôi Lời của Thượng Đế biểu lộ, tức Ngôi
hai trong Tam vị Nhất thể, chính nhờ Ngài mà mọi h́nh tướng được xây dựng
trong thế giới này và đặc biệt là con người được kiến tạo theo h́nh ảnh của
Ngài. Cũng vậy khi ta quay sang cái điều có lẽ quen thuộc hơn với đại đa số
các bạn tức là khoa biểu tượng của Ấn giáo th́ bạn ắt thấy rằng mọi đấng Hóa
thân đều có cội nguồn nơi đấng Vishnu, Vishnu thấm nhuần vũ trụ v́ chính
Hồng danh Vishnu hàm ư đó là Đấng nâng đỡ, bảo vệ, thấm nhuần, xuyên suốt Sự
Sống khiến cho vũ trụ được nối kết lại với nhau và như vậy mới bảo dưỡng
được vũ trụ. Ta hăy xét những hồng danh của Trimurti vốn quen thuộc xiết bao
với tất cả chúng ta - không phải là danh xưng triết học - Sat, Chit, Ananda,
trong triết học những danh xưng này là thuộc tính của Brahman Tối Cao - ta
hăy xét ư tưởng cụ thể th́ ta có Mahadeva tức Shiva, Vishnu và Brahma: Đây
là ba hồng danh này như các tôn giáo khác, ta có ba hồng danh, thế nhưng ta
cũng có một sự kiện giống nhau đó là hồng danh ở giữa, tức trung tâm của cả
ba mới là cội nguồn của Hóa thân. Chưa bao giờ có Hóa thân trực tiếp của
Mahadeva tức chính Shiva. Những sự xuất hiện bên ngoài ư? Có chứ. Những sự
biểu lộ ư? Có chứ. Xuất hiện dưới h́nh tướng v́ một chủ đích đặc biệt mà
h́nh tướng ấy phục vụ ư? Có chứ. Ta hăy xét tác phẩm Mahabharata th́ thấy
Ngài xuất hiện dưới dạng kẻ đi săn là Kirata để trắc nghiệm trực giác của
Arjuna, vật lộn với Arjuna để trắc nghiệm sức mạnh của y, ḷng can đảm của y
và cuối cùng là ḷng sùng tín của y đối với chính Ngài. Nhưng đó chỉ là một
h́nh tướng được chọn dùng v́ một chủ đích là bị vứt bỏ vào cái lúc mà chủ
đích đă được phục vụ rồi; hầu như ta có thể nói rằng, đó chỉ là một điều hăo
huyền được tạo ra để phục vụ cho một chủ đích đặc biệt, thế rồi bị vứt bỏ đi
v́ đă hoàn tất điều mà người ta dự tính phải hoàn thành. Bạn c̣n thấy những
sự xuất hiện như vậy của Mahadeva trở đi trở lại. Bạn có thể nhớ một câu
chuyện đẹp đẽ nhất trong đó Ngài xuất hiện dưới dạng Chandala (một người
giai cấp hạ tiện tương đương với kè đi dọn rác) ở cổng vào đô thị của chính
Ngài là Kashi, khi người này đặc biệt được biểu lộ của chính Ngài tiếp điển,
nhà biểu lộ của Ngài là Shri Shankaracharya đến với các môn đồ nơi đô thị
linh thánh, ẩn ḿnh dưới dạng một kẻ thuộc giai cấp hạ tiện - bởi v́ đối
với Ngài th́ mọi h́nh tướng đều như nhau, những sự khác của con người chẳng
qua chỉ là những hạt cát biến mất trước vẻ uy nghi cao cả của Ngài - Ngài
cuộn ḿnh trong đất bụi trước cổng thành sao cho bậc đại đạo sư không thể
bước ngang qua mà không đụng chạm tới Ngài, rồi Ngài yêu cầu Chandala nhường
đường để cho vị Bà la môn có thể đi ngang qua không bị ô uế do chạm vào kẻ
thuộc giai cấp hạ tiện. Lúc bấy giờ Đấng Chúa Tể nói qua cái h́nh tưởng mà
Ngài đă chọn, quở trách chính cái người mà quyền năng của Ngài đang tiếp
điển, hỏi Ngài những câu mà người ấy không trả lời được để cho ḷng kiêu mạn
của người ấy bớt đi và dạy cho y tính khiêm tốn. Quả thật Ngài đă khoác lấy
những h́nh tướng như thế, nhưng đây không phải là điều mà ta có thể gọi là
Hóa thân. Chỉ những h́nh tướng thoáng qua chứ không phải những biểu lộ trên
trần thế nơi ta đang sống cuộc đời và đóng một vở tuồng lớn. Đấng Brahma
cũng như thế; thỉnh thoảng Ngài cũng xuất hiện, đă biểu lộ về một số chủ
đích đặc biệt nào đấy, nhưng không có Hóa thân của Brahma, điều mà ta có thể
nói tới bởi chính cái sự xác định và thuật ngữ mà ta thừa hiểu.
21.
Bây giờ xét về cái sự kiện này th́ phải có lư do
nào đây. Tại sao ta không t́m được nguồn gốc của các Hóa thân trong mọi sự
biểu lộ lớn lao này của Thượng Đế? Tại sao các Hóa thân lại chỉ xuất hiện từ
một Ngôi duy nhất là Ngôi Vishnu? Tôi không cần nhắc các bạn nhớ rằng chỉ có
một Tự ngă duy nhất và những danh xưng này như ta dùng là danh xưng của
những khía cạnh mà Đấng Tối Cao biểu lộ qua đó; ta không được tách rời chúng
ra với nhau nhiều đến mức quên đi sự đơn nhất căn bản. Ấy là v́ nên nhớ rằng
một người sùng bái Vishnu có cảm tưởng trong tâm hồn chống lại người sùng
bái Mahadeva th́ khi y cúi đầu trước h́nh ảnh của Hari, th́ khuôn mặt của
h́nh ảnh này được chia làm hai, đấng Shiva tức Hara xuất hiện ở một bên, c̣n
Vishnu tức là Hari xuất hiện ở bên kia, và cả hai mỉm cười như một khuôn mặt
duy nhất đối với kẻ sùng bái ngu tín, nói cho y biết rằng Mahadeva và Vishnu
chỉ là một. Nhưng xét về mặt chức năng th́ cần phải phân chia ra, các Ngài
biểu lộ theo những đường lối khác nhau có thể nói là trong vũ trụ để giúp đỡ
con người; cái đường lối xét theo biểu kiến là riêng rẽ này xuất hiện v́
chúng ta chứ không phải v́ Ngài.
22. Khi xét như vậy ta ắt có thể t́m ra câu trả lời cho thắc mắc của ḿnh,
chẳng những ai là cội nguồn của các Hóa thân mà c̣n là v́ tại sao đấng
Vishnu lại là cội nguồn ấy. Và chính ở đây mà tôi đi tới một bộ phận không
quen thuộc, và tôi sẽ yêu cầu các bạn đặc biệt chú ư tới việc xây dựng vũ
trụ. Ở đây tôi dùng từ ‘vũ trụ’ là Thái dương hệ của ta. Có nhiều Thái dương
hệ khác, mỗi Thái dương hệ đều tự ḿnh hoàn chỉnh và v́ vậy đúng ra được gọi
là một càn khôn, một vũ trụ. Nhưng mỗi một trong những hệ thống này đến lượt
nó lại là bộ phận của một hệ thống hùng mạnh hơn, và mặt trời của ta, trung
tâm Thái dương hệ của ta, mặc dù đó quả thật là thể xác biểu lộ ra của chính
đấng Ishvara, nhưng nó không phải là mặt trời duy nhất. Nếu bạn nh́n qua
những khu vực rộng lớn hơn trong không gian th́ ở đó có hàng tỷ mặt trời,
mỗi mặt trời là trung tâm của Thái dương hệ, tức vũ trụ, và mặt trời của ta
vốn tối cao đối với ta có thể nói chẳng qua chỉ là một hành tinh trong một
hệ thống rộng lớn hơn và quỹ đạo của nó uốn cong quanh mặt trời c̣n lớn hơn
nó nữa. Cũng vậy đến lượt cái mặt trời mà mặt trời của ta chạy ṿng quanh nó
lại là một hành tinh so với một mặt trời c̣n hùng vĩ hơn nữa, và đến lượt
mỗi tập hợp Thái dương hệ lại chạy ṿng quanh một mặt trời c̣n ở trung tâm
nhiều hơn nữa, cứ tiếp tục như vậy và ta cũng chẳng biết cái chuỗi mắt xích
đó có thể mở rộng đến chừng nào, thật là vô tận đối với ta, bởi v́ ai có thể
thăm ḍ được những chiều sâu và chiều cao của không gian hoặc t́m ra được
một chu vi biểu lộ khiến cho nó bao trùm mọi vũ trụ! Không đâu, chúng tôi
xin nói rằng số lượng của chúng là vô hạn và những biểu lộ của Sự Sống Nhất
Như là vô tận.
23. Bây giờ ta hăy xét tới cái đúng thực trên cơi vật lư. Ta hăy xem xét vũ
trụ vật lư qua con mắt tinh thần và bạn ắt thấy trong đó có h́nh ảnh của vũ
trụ tinh thần. Có lời lẽ vĩ đại được thốt ra bởi một trong các Chơn sư hoặc
đấng Rishis mà Hội của chúng ta vinh danh và tuân theo giáo huấn của Ngài.
Khi ngỏ lời với một trong các môn đồ Ngài có quở trách y bởi v́ Ngài nói
bằng những ngôn ngữ mà những kẻ nào đă đọc rồi chẳng bao giờ quên được: “Các
con luôn luôn xem xét những sự vật tinh thần bằng đôi mắt của xác thịt. Các
con cần phải làm cái điều là nh́n vào những sự vật xác thịt bằng đôi mắt
tinh thần”. Thế mà câu nêu trên ngụ ư là ǵ? Nó có nghĩa là thay v́ cố gắng
làm xuống cấp tinh thần rồi giới hạn nó vào bên trong những biên giới hạn
hẹp của vật lư và bảo rằng nó không thể mang tính tinh thần bởi v́ bộ óc
người không thể lĩnh hội nó được rơ rệt, ta nên quan sát vũ trụ vật lư bằng
một sự thấu triệt sâu sắc hơn và thấy trong đó h́nh ảnh, bóng dáng, sự phản
chiếu của thế giới tinh thần rồi học hỏi những sự thật tinh thần bằng cách
nghiên cứu những h́nh ảnh tồn tại về thế giới tinh thần ở ngay trong cái thế
giới vật lư xung quanh ta. Thế giới vật lư dễ hiểu hơn. Đừng có nghĩ rằng
thế giới tinh thần được định h́nh dựa trên thế giới vật lư; thế giới vật lư
trên căn bản được định h́nh trên thế giới tinh thần và nếu ta quan sát thế
giới vật lư bằng con mắt tinh thần th́ ta ắt thấy rằng thế giới vật lư là
h́nh ảnh của thế giới cao hơn; lúc bấy giờ ta có thể lĩnh hội được chân lư
cao siêu hơn bằng cách nghiên cứu những sự phản chiếu lờ mờ mà ta thấy được
nơi thế giới xung quanh. Đó là điều mà bây giờ tôi yêu cầu các bạn phải thực
hiện. Cũng giống như cái các bạn đă có mặt trời của ta và nhiều mặt trời
nữa, nhiều vũ trụ, mỗi vũ trụ là một bộ phận của hệ thống c̣n hùng mạnh hơn
nữa sao cho trong vũ trụ tinh thần có một huyền giai c̣n vượt ngoài tầm
huyền giai của các đấng thông tuệ tinh thần giống như các mặt trời của thế
giới tinh thần. Hệ thống vật lư của ta có trung tâm là đấng thông tuệ tinh
thần vĩ đại được biểu lộ thành một Tam vị Nhất thể, là đấng Ishvara của hệ
thống ấy. Thế rồi vượt ngoài tầm Ngài c̣n có một đấng hùng mạnh hơn nữa,
xung quanh Ngài có những đấng ở mức Ishvara của hệ thống ta c̣n xoay ṿng
quanh đó và coi Ngài là Sự Sống trung tâm của ḿnh. Vượt ngoài tầm Ngài c̣n
một Đấng nữa và vượt ngoài tầm Đấng đó c̣n những Đấng khác nữa, măi cho tới
khi giống như những vũ trụ vật lư vượt ngoài tầm suy nghĩ của ta, huyền giai
tinh thần cũng vượt ngoài tầm tư tưởng của ta, và khi bị lóa mắt, mù ḷa bởi
sự rực rỡ ấy ta lui lại trần thế giống như Arjuna bị lóa mắt khi h́nh tướng
của Vaihnava xuất hiện trước mắt Arjuna, thế rồi ta kêu lên: “Ôi! xin bộc lộ
cho chúng con trở lại cái h́nh tướng hạn hẹp hơn của Ngài mà chúng con có
thể biết được và sống theo đó. Chúng ta chưa sẵn sàng cho những biểu lộ hùng
mạnh hơn. Chúng ta bị lóa mắt không có ai trợ giúp bởi cái sự chói ḷa rực
rỡ này của Thượng Đế \”.
24.
Thế là ta thấy rằng muốn học hỏi th́ chúng ta phải hạn chế ḿnh - không đâu,
ta phải cố gắng mở rộng chính ḿnh - lên tới những giới hạn trong hệ thống
của chính ḿnh. Tại sao vậy? Tôi đă gặp những người không thật sự lĩnh hội
được cái thế giới bé nhỏ này, cái hạt bụi mà họ đang sống trong đó, họ không
thể bằng ḷng nếu bạn không giải đáp thắc mắc về Đấng Tự Tại duy nhất, Đấng
Para Brahma mà các vị thánh hiền đều im lặng tôn kính không dám nói tới nữa,
ngay cả khi họ đă có được cái trí sáng suốt biết được sự sống ở cơi Niết bàn
và đă mở rộng lên tới tâm thức Niết bàn. Con người càng vô minh bao nhiêu
th́ y lại càng nghĩ rằng ḿnh có thể lĩnh hội được nhiều bấy nhiêu. Con
người càng ít thông hiểu bao nhiêu th́ y càng bất b́nh khi nghe nói rằng có
một số điều vượt ngoài tầm lĩnh hội của trí năng, có những Đấng Tự Tại dũng
mănh đến nỗi y thậm chí chẳng bao giờ mơ tới được cái thuộc tính thấp nhất
đặc trưng của các Ngài. Về phần tôi vốn biết ḿnh c̣n vô minh và biết rằng
ḿnh c̣n phải trải qua nhiều thời đại trước khi có thể nghĩ tới việc bàn về
những vấn đề sâu sắc này, Đôi khi tôi đo lường sự vô minh của người thắc mắc
qua những câu hỏi mà y nêu ra về những điều tồn tại tối hậu và khi y muốn
biết cái gọi là nguồn gốc nguyên sơ th́ tôi biết rằng y thậm chí chưa lĩnh
hội được 1/1000 của cái nguồn gốc mà chính y thoát thai từ đó. V́ thế cho
nên tôi xin thành thật nói với các bạn rằng những Đấng đại hùng mà chúng ta
tôn thờ là Thượng Đế của hệ thống chúng ta th́ vượt ngoài tầm các Ngài c̣n
có những Đấng đại hùng hơn nữa, thế nhưng có lẽ c̣n cả tỷ kiếp sắp tới nữa
th́ ta mới có thể bắt đầu thấu hiểu và tôn thờ những Đấng này.
25. Thế th́ ta hăy hạn chế vào hệ thống của riêng ḿnh và lấy làm vui nếu ta
có thể nắm bắt được một tia vinh quang nào đó soi sáng cho nó. Vishnu có
những chức năng của riêng ḿnh cũng giống như Brahma và Mahadeva. Công tŕnh
sơ khởi trong hệ thống này được thực hiện bởi Ngôi ba trong ba Ngôi linh
thiêng tức là Brahma; các bạn đều biết rằng (v́ các bạn đă đọc biết) Trí tuệ
sáng tạo xuất hiện là Ngôi ba trong những biểu lộ của Thượng Đế. Tôi không
quan tâm tới khoa biểu tượng mà các bạn chọn dùng; biết đâu khoa biểu tượng
trong Vishnu Puranas lại là quen thuộc nhất, ở đó Vishnu không biểu hiện
dưới mặt nước, tượng trưng cho phần đầu tiên trong ba Ngôi thiêng liêng, rồi
tới Hoa sen tượng trưng cho phần thứ nh́ và Hoa sen nở ra cho thấy Brahma là
phần thứ ba tức Trí tuệ sáng tạo. Các bạn có thể nhớ rằng công tŕnh sáng
tạo bắt đầu bằng hoạt động của Brahma. Khi ta nghiên cứu theo quan điểm
huyền bí để xem hoạt động đó cốt ở điều ǵ th́ ta thấy nó cốt ở việc dùng sự
sống của chính Brahma để thấm nhuần chất liệu của Thái dương hệ; Ngài cung
cấp sự sống của chính ḿnh để kiến tạo hết h́nh tướng này tới h́nh tướng
khác của nguyên tử, tạo ra những sự phân chia lớn trong vũ trụ; nhờ vậy Ngài
h́nh thành năm loại chất liệu, hết thứ này tới thứ kia. Khi hoạt động bằng
trí tuệ - đôi khi Ngài được gọi là Mahat tức Trí tuệ Nhất như vĩ đại - th́
Ngài h́nh thành hết Tattvas này tới Tattvas khác. Theo bài giảng năm ngoái
các bạn có thể nhớ lại rằng Tattvas là nền tảng của nguyên tử và hiện nay có
năm loại Tattvas đang biểu hiện. Đó chính là công tŕnh đặc biệt của Ngài.
Thế rồi Ngài tham thiền và các h́nh tư tưởng xuất hiện. Đến đó th́ công
tŕnh biểu hiện của Ngài có thể nói là đă hoàn tất mặc dù Ngài vẫn duy tŕ
sự sống của nguyên tử. Xét về công tŕnh hoạt động của càn khôn th́ Ngài
nhường chỗ cho thần lực thứ nh́ hoạt động, đó là thần lực của Vishnu. Công
tŕnh của Vishnu là thu thập cái chất liệu đă được kiến tạo, định h́nh,
chuẩn bị làm linh hoạt rồi xây dựng chất liệu ấy thành ra những h́nh tướng
xác định theo những ư tưởng sáng tạo do sự tham thiền của Brahma sinh ra.
Vishnu ban cho chất liệu một lực liên kết, Ngài cung cấp cho chất liệu những
năng lượng giữ cho những h́nh tướng cố kết với nhau. Không h́nh tướng nào
tồn tại mà không có Ngài, cho dù h́nh tướng ấy là bất động hay di động. Biết
bao nhiêu lần đấng Shri Krishna ngỏ lời trên cương vị Vishnu tối cao đă nhấn
mạnh tới sự kiện Ngài là sự sống trong mọi h́nh tướng; nếu không có sự sống
này th́ h́nh tướng không thể tồn tại được, nếu không có sự sống đó h́nh
tướng ắt trở lại những nguyên tố nguyên sơ chứ không c̣n sống động dưới dạng
h́nh tướng nữa. Vishnu là sự sống thấm nhuần vạn vật cho nên một trong những
hồng danh của Ngài là ‘Đấng Nâng Đỡ Vũ trụ’. Trong vũ trụ, Mahadeva có một
chức năng khác, nhất là khi Ngài là đạo sĩ Yoga vĩ đại, nhất là khi Ngài là
đại Đạo sư Mahaguru; đôi khi Ngài được gọi là Jagatguru tức Đạo sư của thế
giới. Trở đi trở lại khi xét một ví dụ tương đối hiện đại chẳng hạn như
Gurugita - ta thấy Ngài là bậc Đạo sư mà Parvati đến thỉnh cầu xin thụ huấn
về bản chất của Guru. Chính Ngài đă xác định công tŕnh của Guru, chính Ngài
đă gợi linh hứng cho giáo huấn của Guru. Mọi đạo sư trên thế gian đều là sự
phản ánh của Mahadeva và được ủy thác cho nhiệm vụ ban sự sống của Ngài ra
cho thế gian. Đạo sĩ Yoga đắm ḿnh trong sự quán tưởng luôn luôn dưới dạng
tu sĩ khổ hạnh nêu bật chức năng của Ngài. Ấy là v́ những biểu tượng tŕnh
bày các Đấng cao cả trong giáo huấn không phải là vô nghĩa mà tràn đầy ư
nghĩa sâu sắc nhất. Và khi ta thấy Ngài được tŕnh bày là đạo sĩ Yoga đời
đời, tay cầm sợi dây, ngồi nhập định, tu khổ hạnh, th́ điều đó có nghĩa Ngài
là lư tưởng tối cao phép tu khổ hạnh, những người đặc biệt chịu ảnh hưởng
của Ngài phải xuất gia, ly gia cắt ái, sống ngoài ṿng những ràng buộc b́nh
thường của sự tiến hóa và hiến ḿnh sống cuộc đời khổ hạnh, cuộc đời xả bỏ,
tuy nhiên cũng chia xẻ một cách mong manh trong cái khoa Yoga dũng mănh giữ
cho vũ trụ được sinh tồn.
26.
Thế th́ Ngài biểu hiện không phải là Avatara tức Hóa thân, mà những biểu lộ
xuất hiện từ Ngài đều là Thượng Đế, là Tinh thần của cơ tiến hóa giúp cho
mọi h́nh tướng tiến hóa được. Chính v́ thế mà mọi Hóa thân đều bắt nguồn từ
Vishnu. Ấy là v́ chính Ngài do t́nh thương bao la đă ngự trong mọi h́nh
tướng mà Ngài tạo ra; kiên nhẫn không điều ǵ làm cạn kiệt được, yêu thương
không điều ǵ là mỏi mệt được, b́nh yên nhẫn nhục mà không một sự điên rồ
nào của con người có thể làm xáo động cái sự yên b́nh đời đời đó. Ngài sống
trong mọi h́nh tướng, uốn nắn nó để cho nó được định h́nh theo đúng sức thôi
thúc của Ngài, Ngài gắn kết rồi hạn chế ḿnh để cho vũ trụ ấy có thể tăng
trưởng. Ngài là Chúa tể của sự sống và cực lạc đời đời, ngự trong mọi h́nh
tướng. Nếu lĩnh hội được điều này th́ ắt bạn chẳng khó khăn ǵ khi bảo tại
sao các Hóa thân chỉ bắt nguồn từ Ngài thôi. C̣n ai nữa có được h́nh tướng
ngoại trừ Đấng Ban Cấp h́nh tướng? C̣n ai nữa hoạt động với t́nh thương vô
tận ngoại trừ Ngài, trong khi vũ trụ tồn tại đă nối kết để cho vũ trụ có thể
sống động và rốt cuộc chia xẻ được tự do của Ngài? Ngài có bị ràng buộc th́
vũ trụ mới có thể được tự do. Thế th́ khi nhu cầu đặc biệt xuất hiện c̣n ai
nữa xuất hiện ra đây?
27. Và Ngài cung cấp những loại h́nh lớn. Tôi xin nhắc các bạn nhớ lại quyển
Shrimad-Bhagavata, trong đó ở chương 3 của quyển 1 có tŕnh bày một danh
sách dài những h́nh tướng mà Vishnu khoác lấy, chẳng những là các Hóa thân
lớn mà c̣n là một số lớn h́nh tướng khác. Nghe đâu Ngài đă xuất hiện là Nara
và Narayana; nghe đâu Ngài đă xuất hiện là Kapila; Ngài đă khoác lấy h́nh
tướng người nữ v.v. . . trọn cả một danh sách dài được tŕnh bày về những
h́nh tướng mà Ngài khoác lấy. Rồi bây giờ quay sang một đoạn có nhiều thông
tin khác trong Mahabharata, ta thấy Ngài dưới dạng Shri Krishna giải thích
chân lư thâm thúy cho Arjuna.
28. Trong đó Ngài tŕnh bày những định luật của sự tŕnh hiện này: “Hỡi con
của Pritha, khi ta sống trong bộ Chư thiên th́ ta hành động giống như Chư
thiên xét về mọi mặt. Khi ta sinh hoạt trong bộ Nhạc thần (Gandharvas) th́
ta hành động như Nhạc thần xét về mọi mặt. Khi ta sinh hoạt trong bộ Long
thần (Nagas) th́ ta hành động như Long thần. Khi ta sinh hoạt trong bộ Dạ
xoa (Yakshas) hoặc bộ La sát (Rakshasas) th́ ta hành động theo cung cách bộ
ấy. Giờ đây khi sinh ra trong bộ nhân loại, ta phải hành động như một con
người”. Đây là một sự thật sâu sắc, một sự thật mà ít người thời hiện đại
công nhận. Mọi loại h́nh trong vũ trụ đều tốt khi đúng chỗ của nó; mọi loại
h́nh trong vũ trụ đều cần thiết khi ở đúng chỗ của nó. Không có sự sống nào
khác ngoại trừ sự sống của Ngài; thế th́ làm sao bất kỳ loại h́nh nào có thể
tồn tại tách rời khỏi sự sống đại đồng vũ trụ mà nếu không có sự sống này
th́ không điều ǵ có thể tồn tại được?
29. Ta thường nói tới những h́nh tướng tốt và xấu, và thật đúng như vậy xét
về sự tiến hóa của chính ta. Nhưng theo quan điểm rộng lớn hơn của vũ trụ
th́ tốt và xấu chỉ là những từ tương đối và dưới mắt của Đấng Tối Cao sinh
hoạt trong vạn vật th́ mọi thứ đều rất tốt. Làm sao một loại h́nh có thể tồn
tại được mà Ngài không thể sinh hoạt trong đó? Làm sao bất cứ thứ ǵ có thể
sinh hoạt và hoạt động trừ phi nó hiện tồn nơi Ngài? Mỗi loại h́nh đều có
công việc của ḿnh, mỗi loại h́nh đều có vị trí của ḿnh. Loại h́nh Dạ Xoa,
La Sát giống như loại h́nh Chư thiên, loại h́nh A tu la cũng giống như loại
h́nh Tu la. Tôi xin cung cấp cho các bạn một ví dụ nhỏ đơn giản và kỳ diệu,
thế nhưng lại có một sức mạnh minh họa nào đấy. Bạn có một một cực mà bạn
muốn di chuyển và cái cực này là cái cột ở trên một cột trụ giống như ngọn
núi dùng để khuấy đảo đại dương, cái cột này có hai đầu mà ta gọi là cực
dương và cực âm. Ta bảo rằng cực dương được đẩy theo phương hướng của ḍng
sông (chẳng hạn như ḍng sông chảy ở phía bên kia đầu mút của sảnh đường
Adyar). C̣n cực âm được đẩy theo hướng nào, đó chính là hướng đối nghịch
lại, và những người đẩy nó th́ có khuôn mặt xoay về hướng đối diện. Một
người nh́n vào ḍng sông c̣n người kia xoay lưng về hướng ḍng sông nh́n
theo hướng đối diện. Nhưng cái cực là cái cột vẫn xoay chuyển theo một hướng
mặc dù người ta đẩy nó theo những hướng khác nhau. Người ta xoay ṿng và cái
cột càng ngày càng chạy nhanh hơn bởi v́ nó được đấy từ hai đầu mút khác
nhau. Đó là bức tranh của vũ trụ ta. Lực dương th́ ta gọi là Chư thiên hoặc
A tu la và khuôn mặt của nó dường như xoay ngược khỏi Thượng Đế. Ồ, không
đâu! Thượng Đế ở khắp mọi nơi, ở mọi điểm trên ṿng tṛn mà họ xoay xung
quanh đó, cho nên khi họ xoay quanh ṿng tṛn th́ họ thực hiện ư chí của
Ngài chứ chẳng có ǵ khác; và về lâu về dài th́ mọi thứ đều
được b́nh an nơi Ngài.
30. Do đó chính Đấng Shri Krishna có thể nhập thể dưới dạng La sát và khi
dưới dạng này Ngài hành động như La sát chứ không như Chư thiên, thực hiện
cái phần việc thiêng liêng đó cũng hoàn hảo như những phần việc khác mà loài
người với tầm nh́n hạn hẹp gọi là việc thiện. Đây là một sự thật vĩ đại khó
lĩnh hội được. Tôi sẽ phải trở lại với nó chẳng bao lâu nữa khi nói về
Ravana, một trong những loại h́nh hùng mạnh nhất, có lẽ là vĩ đại nhất trong
tất cả các loài La sát. Và nếu theo sát mạch văn th́ chúng ta có thể hiểu
được chân lư thâm thúy thể hiện như thế nào. Nhưng nếu trong đầu quư vị c̣n
có sự ngần ngại khi chấp nhận điều đó th́ những lời lẽ mà tôi đọc ra không
phải của tôi, mà là của Đấng nói lên sự hiện thân của chính Ngài, Ngài đă
cho ghi lại trong giáo huấn của chúng ta, chính Ngài đă hiện thân dưới dạng
La sát và đă hành động theo cung cách của bộ đó.
31. Ta hăy bỏ lại đoạn này trong một lúc, v́ có một điều khác nữa mà tôi cần
phải nói trước khi nói tới nhu cầu có các Hóa thân, điều đó như sau: khi các
Đấng thiêng liêng ở trung tâm biểu lộ ra th́ các Ngài xuất hiện phát sinh ra
bảy Đấng thiêng liêng mà ta có thể gọi là thuộc cấp hai. Trong Thông Thiên
Học ta gọi các Ngài là Hành tinh Thượng Đế để phân biệt các Ngài với các
Đấng Thượng Đế Thái dương vĩ đại, tức là Sự Sống trung tâm. Mỗi Hành tinh
Thượng Đế có liên quan tới một trong bảy hành tinh thiêng liêng và với chuỗi
thế giới liên quan tới hành tinh đó. Thế giới của ta là một trong những mắt
xích của dăy thế giới này, bạn và tôi ắt đi ṿng ṿng qua nhiều mắt xích này
trong những kiếp nhập thể liên tiếp trên sân khấu cuộc đời vĩ đại. Thế giới
hiện nay là bầu hành tinh ở giữa của một dăy thế giới như thế. Một vị Thượng
Đế cấp hai chủ tŕ sự tiến hóa của dăy thế giới này. Ngài bộc lộ ra ba Ngôi
để phản chiếu các vị Thượng Đế vĩ đại vốn là trung tâm của hệ thống này. Có
lẽ các bạn đă đọc thấy hoa sen bảy cánh, tức Saptaparnapadma; khi nh́n vào
bằng tầm nh́n cao siêu, nh́n đăm đăm với tầm nh́n mở rộng của nhà thấu thị
th́ nhóm hùng mạnh các Đấng chỉ đạo và sáng tạo này trông giống như hoa sen
có bảy lá và các Đấng Cao Cả ở trung tâm của hoa sen. Dường như thể các bạn
ắt thấy được một hoa sen rộng lớn bung ra trong không gian, hai đầu mút của
bảy chiếc lá này là những Đấng Thông Tuệ đại hùng chủ tŕ sự tiến hóa của
các dăy thế giới. Biểu tượng hoa sen không chỉ là biểu tượng mà c̣n là một
thực tại cao siêu ta quan sát thấy nơi cái thế giới kỳ diệu phát sinh ra
biểu tượng được các nhà hiền triết chấp nhận. Và v́ các bậc đại Rishis thời
xưa đă nh́n bằng cặp mắt tri thức mở rộng, thấy được hoa sen bung ra trong
không gian, cho nên các Ngài coi đó là biểu tượng của càn khôn, là hoa sen
có bảy lá, mỗi lá có một Thiên thần hùng mạnh chủ tŕ một đường tiến hóa
riêng. Chúng ta chủ yếu quan tâm tới Đấng Thiên thần hành tinh của chính
ḿnh, rồi thông qua Ngài mới quan tâm tới các đại Thiên thần của Thái dương
hệ.
32. Bây giờ lư do tại sao tôi đề cập tới vấn đề này chính là để giải thích
một từ ngữ làm bối rối hội viên. Tại sao lại có h́nh dung từ đặc thù là
Mahavishnu tức đại Vishnu? Khi ta dùng cụm từ này th́ nó có nghĩa là ǵ? Nó
có nghĩa là Thái dương Thượng Đế vĩ đại, Vishnu xét về bản thể cốt tủy;
nhưng lại có một sự phản chiếu vinh quang của Ngài, quyền năng của Ngài,
t́nh thương của Ngài liên quan mật thiết hơn với chúng ta và thế giới của
ta. Đây là đại biểu của Ngài, là vị phó vương đại diện cho vua. Ta ắt thấy
một số Hóa thân xuất phát từ đấng Mahavishnu thông qua Hành tinh Thượng Đế,
có liên quan tới cơ tiến hóa của ta và sự tiến hóa của thế giới. Nhưng
Purnavatara tôi có nói tới ngày hôm qua lại trực tiếp xuất phát từ
Mahavishnu mà không có trung gian nào xuất hiện giữa chính Ngài với cái thế
giới mà Ngài đến cứu giúp. Ở đây có sự một sự phân biệt giữa Mahavishnu và
những người c̣n hạn chế hơn mà ngày hôm qua tôi không thể đề cập tới bởi v́
ở giai đoạn đó th́ những từ ngữ mà tôi sử dụng ắt không thể hiểu được. Ngày
mai khi chúng ta xét tới các Hóa thân như Matsya, Kurma v.v. . . tức là
những Hóa thân đặc biệt có liên quan tới sự tiến hóa của vài loại h́nh trên
thế giới, trong khi xuất phát gián tiếp từ Mahavishnu ắt đă đến đây qua
trung gian đại biểu hùng mạnh của Ngài đối với dăy thế giới của chính ta là
Đấng thông tuệ kỳ diệu truyền đạt t́nh thương của Ngài và vận dụng ư chí của
Ngài, là kinh dẫn để cho quyền năng của Ngài nâng đỡ và thấm nhuần vạn vật.
Khi ta xét tới việc nghiên cứu đấng Shri Krishna th́ ta ắt thấy rằng không
có trung gian. Chính Ngài là Đấng Tối Cao. Trong những trường hợp khác th́
có sự Hiện diện mà ta có thể coi là trung gian, c̣n trong trường hợp Đấng
Chúa Tể Sự Sống vĩ đại th́ không có trung gian.
33. Thế th́ ta sẽ dành chuyện đó để triển khai thêm nữa vào ngày mai, bây
giờ ta hăy cố gắng trả lời thắc mắc tiếp theo “Nhu cầu có các Hóa thân xuất
hiện như thế nào?”, bởi v́ trong tâm trí một số người hoàn toàn tự nhiên là
có một khó khăn nảy sinh. Khó khăn mà nhiều người biết suy nghĩ cảm nhận
được nó có thể được tŕnh bày như sau: “Chắc chắn toàn thể kế hoạch của thế
giới đă ở trong tâm trí của Thượng Đế ngay từ đầu và chắc chắn chúng ta
không thể giả định rằng Ngài lại hoạt động giống như một công nhân con người
và không hoàn toàn thông hiểu điều mà ḿnh đang nhắm tới. Ngài phải là kiến
trúc sư cũng như công tŕnh sư, Ngài phải tạo ra kế hoạch thiết kế rồi thi
công nó, chứ đâu có giống như người thợ nề đặt viên đá vào bức tường theo
chỉ thị và chẳng biết ǵ về kiến trúc của ṭa nhà mà ḿnh đang góp phần xây
dựng. Ngài là tổng công tŕnh sư, đại kiến trúc sư của vũ trụ và mọi thứ
trong kế hoạch của vũ trụ phải có sẵn trong tâm trí Ngài trước khi vũ trụ
bắt đầu ra đời. Nhưng nếu đă như thế - và ta không thể suy nghĩ khác hơn -
th́ sao lại có nhu cầu can thiệp đặc biệt? Chẳng lẽ cái sự kiện can thiệp
đặc biệt lại không hàm ư đă xuất hiện một khó khăn nào đó không được dự
kiến? Nếu có một loại can thiệp để triển khai kế hoạch th́ phải chăng điều
này có vẻ như trong kế hoạch nguyên thủy đă bỏ sót không tính tới một loại
lực nào đó, đă không thấy trước một khó khăn nào đó, đă không chuẩn bị sẵn
đối với một điều ǵ đó xuất lộ? Bằng không th́ tại sao lại cần phải can
thiệp mà xem ra có vẻ được dùng để đối phó với một diễn biến không được dự
kiến? Đây là một thắc mắc tự nhiên hợp lư và hoàn toàn ṣng phẳng. Ta hăy cố
gắng giải đáp thắc mắc này. Tôi không tin vào việc né tránh những khó khăn,
tốt hơn là nên nh́n thẳng vào mặt chúng để xem liệu có thể giải đáp được
chăng.
34. Bây giờ tôi giải đáp đi theo ba đường hướng khác nhau. Có ba lớp sự kiện
lớn, mỗi lớp đều đóng góp vào nhu cầu và như được Thượng Đế dự kiến mỗi lớp
đều dứt khoát được chuẩn bị để cho nhu cầu có một sự biểu lộ đặc thù.
35. Đường lối đầu tiên trong ba đường lối xuất hiện từ việc tôi có thể gọi
là bản chất của sự vật. Ngay từ đầu bài thuyết tŕnh này, tôi có nhận xét về
sự kiện vũ trụ của ta, hệ thống của ta là một phần của một tổng thể lớn hơn
không riêng rẽ, không độc lập, không nguyên phát ở quy mô tương đối thấp
trong vũ trụ. Mặt trời của ta là một hành tinh trong một hệ thống lớn hơn.
Thế mà điều này hàm ư là ǵ? Xét về mặt chất liệu tức Prakriti th́ nó hàm ư
là Thái dương hệ của ta được xây dựng từ chất liệu đă tồn tại rồi, từ chất
liệu đă được phú cho một vài phẩm tính, từ chất liệu lan tràn khắp không
gian và mọi Đấng Thượng Đế đều rút ra chất liệu từ đó, biến đổi nó theo kế
hoạch của riêng ḿnh và theo ư chí của riêng ḿnh. Khi nói tới Mulaprakriti
tức gốc rễ của vật chất th́ điều này không ngụ ư là nó tồn tại dưới dạng vật
chất mà ta biết. Không một triết gia nào, không một nhà tư tưởng nào lại mơ
tới việc bảo rằng điều lan tràn khắp không gian đồng nhất với vật chất của
chính Thái dương hệ sơ cấp của ta. Đó là gốc rễ của vật chất, điều mà mọi
h́nh tướng chất liệu chỉ là những biến thái. Điều này ngụ ư là ǵ? Nó ngụ ư
là Đấng Chúa Tể Cao Cả của ta khi khai sinh ra Thái dương hệ ta đă chấp nhận
loại chất liệu có sẵn một vài phẩm tính được ban cho nó bởi Đấng c̣n có
nhiều quyền năng hơn chính Ngài. Trong loại chất liệu ấy ba gunas tồn tại
cân bằng và chính thần khí của Thượng Đế đă khiến cho chúng mất thăng bằng
và gây ra sự vận động khai sinh ra Thái dương hệ của ta. Phải có sự mất
thăng bằng bởi v́ thăng bằng nghĩa là Pralya, trong đó không có sự vận động,
không có bất kỳ biểu lộ nào của sự sống và h́nh tướng. Khi sự sống và h́nh
tướng xuất hiện th́ sự thăng bằng phải bị xáo trộn và giải phóng sự vận động
giúp cho h́nh thành nên thế giới. Nhưng ngay khi các bạn lĩnh hội được sự
thật này th́ các bạn cũng thấy rằng ắt phải có một vài sự hạn chế do chính
cái loại chất liệu mà Đấng thiêng liêng đang hoạt động trong đó để tạo ra hệ
thống của ḿnh. Quả thật là khi ở bên ngoài hệ thống ḿnh khi không bị chế
định, hạn chế và bị hạn hẹp, bởi nó theo đúng ư chí tốt đẹp nhất của Ngài
th́ đúng là Ngài làm chủ được cái loại chất liệu đó do Ngài đă hiệp nhất
được với Sự Sống có quyền lực nhiều hơn ở trên Ngài; nhưng khi muốn xây dựng
cái thế giới mà Ngài phải tự hạn chế ḿnh trong phạm vi Maya của chính ḿnh,
th́ Ngài phải hoạt động trong những điều kiện của những chất liệu giới hạn
hoạt động của ḿnh mà ta đă nói đi nói lại rồi.
36. Thế mà khi có sự tương tác không ngừng của Sattva, Rajas và Tamas th́
Tamas chiếm ưu thế. Có thể nói nó được Rajas góp phần trợ lực sao cho chúng
khống chế được Sattva trong cơ tiến hóa đă dự kiến; khi hai quyền năng phối
hợp lại đè bẹp được quyền năng thứ ba, khi lực hiếu động của Rajas, lực ù ĺ
và ngoan cố của Tamas móc ngoặt với nhau để khống chế tác động sự hài ḥa,
những phẩm chất mang lại khoái lạc của Sattva th́ đó chính là một trong
những ngoại duyên khiến cho Đấng Chúa Tể phải xuất hiện để khôi phục lại cái
điều đă làm xáo trộn sự tương tác thăng bằng của ba gunas khiến cho có trở
lại sự thăng bằng giữa chúng với nhau để cho cơ tiến hóa có thể tiến triển
trơn tru và tiến lên mà không bị trục trặc. Ngài tái lập sự thăng bằng quyền
lực tạo ra chuyển động đều cái trật tự đă bị xáo trộn do hai gunas kia cấu
kết với nhau khống chế gunas thứ ba. Vậy th́ lư do thứ nhất của nhu cầu có
Avataras Hóa thân ở nơi những thuộc tính căn bản của vật chất tức là ba
gunas này.
37. Nhu cầu thứ nh́ có liên quan tới chính con người và giờ đây ta trở lại
qua cả nhu cầu thứ nh́ lẫn nhu cầu thứ ba để trở về vấn đề thiện ác mà tôi
đă nói rồi. Khi đấng Ishvara phải xử trí sự tiến hóa của con người th́ tôi
xin kính cẩn nói rằng Ngài có một nhiệm vụ khó khăn hơn để thực thi so với
cơ tiến hóa của các dạng sinh linh thấp hơn. Thiên lực được áp đặt lên các
dạng sinh linh này và chúng phải tuân theo sự thôi thúc của nó. Đối với giới
khoáng vật th́ thiên luật có tính cưỡng chế, mọi khoáng vật đều vận hành
theo thiên luật mà không đưa ra bất kỳ sức thôi thúc nào của chính ḿnh để
chống lại ư chí của Đấng Nhất Như. Trong thế giới thực vật, thiên luật được
áp đặt và mọi cây cỏ đều tăng trưởng theo phương pháp có thứ tự đúng với
định luật nội tại, phát triển đều đều và theo kiểu trật tự của riêng ḿnh
th́ không đưa ra một sức thôi thúc nào của riêng ḿnh. Không đâu, ngay cả
trong thế giới động vật - có lẽ ngoại trừ khi ta xét tới những thành viên
cao nhất - th́ thiên luật vẫn c̣n là một luật áp đảo mọi thứ khác, lôi kéo
mọi thứ phía trước ḿnh mang nó đi cùng với mọi sinh vật. Một bánh xe xoay
trên đường có thể mang theo con ruồi đậu trên trục ngẫu nhiên tấp vào đó;
con ruồi không gây chướng ngại nào cho sự xoay ṿng của bánh xe. Nếu con
ruồi đi ra tới tận chu vi của bánh xe rồi chống lại chuyển động của bánh xe
th́ nó ắt bị nghiền nát và bánh xe tuyệt nhiên không hề hấn ǵ khi quay
tṛn, h́nh tướng không c̣n tồn tại nữa và sự sống khoác lấy những h́nh dạng
khác.
38. Vậy th́ bánh xe thiên luật trong ba giới thấp của thiên nhiên là như
thế. Nhưng đối với con người th́ không phải như vậy. Con người tự đặt cho
ḿnh theo h́nh ảnh của chính đấng Ishvara, cho nên nó không giống như trường
hợp các giới thấp trong thiên nhiên. Khi sự sống tiến hóa th́ hết lực này
tới lực kia xuất hiện và sự sống trung tâm bắt đầu xuất lộ nơi con người v́
đă tới lúc có sự tiến hóa của quyền năng ư chí siêu việt, các chuyển động tự
phát khởi vốn là một phần sự sống của Đấng Tối Cao. Đừng có hiểu lầm tôi,
bởi v́ đây là một đề tài tinh tế; trong vũ trụ chỉ có một ư chí duy nhất là
ư chí của đấng Ishvara và mọi thứ phải tuân phục ư chí ấy, mọi thứ phải bị ư
chí ấy chế định và mọi thứ phải vận hành theo ư chí đó, nó vốn vạch ra đường
tiến hóa thẳng tắp. Không thể có việc quẹo sang bên phải hoặc bên trái. Chỉ
có một ư chí duy nhất mà theo khía cạnh này đối với ta th́ nó tự do, nhưng
về sự sống của ta là sự sống của chính đấng Ishvara, v́ chỉ có một Tự ngă
duy nhất và Tự ngă ấy là của bạn, của tôi, cũng như của Ngài - ấy là v́ Ngài
đă ban cho chúng ta Tự ngă của chính Ngài để trở thành sự sống và Tự ngă của
ta - cho nên ở một giai đoạn trong sự tiến hóa kỳ diệu này phải có sự tiến
hóa của quyền năng ư chí vương giả mà ta thấy nơi Ngài. Từ Atma bên trong ta
- vốn là chính Ngài ở nơi ta - tuôn ra ư chí siêu việt nhập vào những lớp vỏ
mà Atma dường như bị giam giữ trong đó. Thế mà điều xảy ra là như sau: Lực
đi ra qua các lớp vỏ để cung cấp cho chúng một số bản chất của chính nó, mỗi
lớp vỏ bắt đầu dựng một số phản đối ư chí theo kiểu của riêng ḿnh và bạn
thấy ‘bản ngă’ của thể xác muốn đi đường này c̣n ‘bản ngă’ của đam mê hoặc
xúc động muốn đi đường kia, rồi ‘bản ngă’ của cái trí lại muốn đi con đường
thứ ba và chẳng có con đường nào nêu trên là con đường của Atma tức Đấng Tối
Cao. Đây là những ư chí hăo huyền của con người và có một cách thức để cho
bạn phân biệt được chúng với ư chí chân chính. Mỗi ư chí này đều có phương
hướng được xác định bởi lực thu hút ở bên ngoài; thể xác con người muốn đi
theo một hướng đặc thù v́ có một điều ǵ đó thu hút nó hoặc có một điều ǵ
khác đẩy nó ra: nó đi tới cái mà nó thích, mà nó cho là phù hợp, nó chạy ra
khỏi cái mà nó không thích và cảm thấy ḿnh bị đẩy ra xa. Nhưng chuyển động
đó của thể xác chẳng qua chỉ là chuyển động có thể nói là được xác định bởi
đấng Ishvara ở bên ngoài hơn là bởi đấng Ishvara ở bên trong, bởi vũ trụ vây
quanh chứ không phải bởi Tự ngă ở bên trong, Tự ngă này chưa làm chủ được vũ
trụ bên ngoài; đối với những xúc động hoặc đam mê cũng thế: chúng bị thu hút
theo kiểu này hoặc kiểu kia bởi những sự vật của giác quan, ‘các giác quan
chạy theo những đối tượng thích hợp với ḿnh’ chứ đâu phải Tự ngă vận động.
Đối với cái trí cũng vậy, ‘Cái trí vốn chập chờn và lăn xăn, Hỡi Krishna
dường như khó mà uốn nắn được, nó giống như ngọn gió’ và cái trí để cho các
giác quan chạy lồng lên theo những đối tượng giống như một con ngựa bị sút
dây cương chạy theo mọi thứ mang theo người kỵ sĩ không biết cưỡi ngựa. Mọi
lực này đều được xác lập và c̣n có một điều nữa ta cần phải nhớ. Các lực này
củng cố guna rajas và góp phần mang lại sự chiếm ưu thế mà tôi có nói tới,
mọi thứ ham muốn chập chờn ấy vốn không tuân theo ư chí duy nhất vẫn c̣n cần
thiết để cho ư chí có thể tiến hóa và để cho con người được rèn luyện và
phát triển.
39.
Bạn ắt hỏi tại sao ư? Làm sao bạn có thể học được điều đúng nếu bạn không
biết điều sai? Làm sao bạn nhận ra được ánh sáng nếu không có bóng tối? Làm
sao bạn có thể chọn được điều thiện nếu bạn không biết điều ác? Làm sao bạn
nhận ra được ánh sáng nếu không có bóng tối? Bạn ắt di chuyển như thế nào
nếu không có sức đối kháng? Những lực mà ta gọi là bóng tối, lực của La sát,
của A tu la, của tất cả những ǵ có vẻ hoạt động chống lại th́ những lực ấy
đă khêu gợi sức mạnh bên trong của Tự ngă nơi con người, và khi chiến đấu
chống lại những lực đó cái lực của Atma bên trong con người muốn được phát
triển, và nếu không có chúng th́ con người cứ đời đời ở măi trong trạng thái
Pralaya. Đó là một cái ao hoàn toàn tù đọng nơi không có chuyển động, rồi ở
đó bạn sẽ bị thối rữa chứ không có sự sống. Sự tiến hóa của lực chỉ có thể
được thực hiện bởi sự phấn đấu, sự chiến đấu, sự tinh tấn, sự thao tác và
chừng nào mà Đấng Ishvara c̣n xây dựng con người chứ không phải là những đứa
trẻ con th́ Ngài phải lấy ra hết những thần lực của con người bằng cách xô
đẩy chống lại sức mạnh của chúng, khiến cho chúng phải phấn đấu để thành
tựu, và do đó làm linh hoạt ra biểu lộ bên ngoài cái sự sống bằng không cứ
cuộn tṛn bên trong ḿnh. Sự sống ẩn tàng bên trong hạt giống, nhưng nó ắt
không tăng trưởng nếu ta bỏ mặc hạt giống một ḿnh. Cứ đặt nó lên bàn ở đây,
rồi một thế kỷ nữa quay trở lại th́ ta ắt thấy rằng nó vẫn c̣n là một hạt
giống chứ chẳng có ǵ thêm nữa. Atma nơi con người cũng vậy. Trước khi bắt
đầu có sự tiến hóa và phấn đấu. Hăy trồng hạt giống xuống đất sao cho các
lực bên trong đất gây sức ép lên nó và các tia sáng mặt trời từ bên ngoài
tạo ra những rung động tác động lên nó, nước mưa đi xuyên qua đất ngấm xuống
nó rồi khiến cho nó trương nở ra; thế là hạt giống bắt đầu tăng trưởng,
nhưng khi nó bắt đầu tăng trưởng th́ nó lại thấy xung quanh ḿnh có đất. Nó
làm sao tăng trưởng được nếu không có cái ǵ thúc đẩy nó và để thể hiện ra
bên ngoài những năng lượng sự sống ẩn bên trong? Rễ cây bắt đầu đâm xuống
đất chống lại lực kiên cố, cái mầm tăng trưởng vươn lên chống lại sự đối
nghịch của đất và chính nhờ đất chống đối lại cho nên các lực mới tiến hơn
khiến cho hạt giống tăng trưởng và cái cây nhỏ xíu hiện bên trên mặt đất.
Thế rồi có gió thổi ra sức lôi cuốn nó đi để sống chứ không chịu chết, nó
phải đâm rễ xuống sâu hơn nữa để có một sức chịu đựng tốt hơn chống lại sự
vùi dập của gió; thế là cái cây tăng trưởng chống lại những lực ra sức xé
toạc nó đi. Nếu không có những lực này th́ rễ cây ắt không tăng trưởng. Rễ
của Ishvara tức sự sống bên trong ta cũng vậy; nếu mọi thứ xung quanh ta đều
dễ dàng và trơn tru th́ ta ắt vẫn cứ nằm ườn ra, rủ rượi, chẳng màng tới ǵ
hết. Chính ngọn roi đau đớn, đau khổ, thất vọng, mới quất ta tiến lên và làm
hiển lộ các lực trong sự sống nội tâm của ta mà nếu không có chúng th́ các
lực này vẫn không phát triển được. Bạn muốn cho con người tăng trưởng không?
Thế th́ đừng có đặt y vào một cái giường nệm ấm chăn êm, rồi mang tới những
món ăn tọng vào miệng y, sao cho y chẳng cần nhấc chân tay cũng chẳng cần
phải động năo. Cứ quẳng y vào sa mạc nơi kiếm không ra thực phẩm và nước
uống, cứ để cho ánh nắng mặt trời thiêu đốt trên đầu y, gió lồng lộng thổi
xung quanh y th́ trí óc y mới được huy động để nghĩ cách đáp ứng với nhu cầu
của thể xác và con người tăng trưởng thành một kẻ trưởng thành chứ không
phải là khúc gỗ. Chính v́ thế mà có những lực được gọi là điều ác. Trong vũ
trụ này không có điều ác, mọi điều đến với ta từ đấng Ishvara đều là điều
thiện, nhưng có khi nó đội lốt điều ác để khi chống lại nó ta mới hiển lộ
được sức mạnh của ḿnh. Thế th́ ta bắt đầu hiểu được rằng những lực này là
cần thiết và chúng ở trong kế hoạch của Ishvara. Chúng trắc nghiệm cơ tiến
hóa, chúng củng cố cơ tiến hóa sao cho nó ắt không tiến một bước kế tiếp
chừng nào nó c̣n chưa đủ sức mạnh để trụ vững, khi bị chống đối nó trụ vững
được th́ mới có thể tiến thêm bước nữa. Nhưng khi do ư chí xung đột của con
người mà cái lực tác động làm tŕ trệ, giữ con người lại cho đến khi y có
thể khắc phục được chúng rồi tiếp tục tiến lên khi chúng được củng cố bởi
những ham muốn ngang ngược của con người, khi chúng có thể nói là bắt đầu đe
dọa sự tiến bộ; lúc bấy giờ trước khi sự kiểm soát ấy xảy ra th́ có sự tăng
cường từ phía bên kia: sự hiện diện của Hóa thân gồm các lực đe dọa sự tiến
hóa ắt triệu thỉnh sự hiện diện của Hóa thân đưa tới sự tiến bộ của nhân
loại.
40. Chúng ta xét tới nguyên nhân thứ ba. Hóa thân không xuất hiện nếu không
có sự triệu thỉnh. Nghe đâu trái đất nặng trĩu gánh nặng điều ác. Chư thiên
xuất hiện và kêu gào: “Hỡi Đấng Tối Cao xin hăy cứu giúp chúng con”. Để đáp
lại lời kêu gọi đó Đấng Chúa Tể sẽ xuất hiện. Nhưng khi từ nơi giả sử là có
một cụm từ kỳ lạ cố t́nh khiến cho bạn chú ư khi tôi nói có một Hóa thân của
điều ác th́ điều đó nghĩa là ǵ? Do ư chí của Đấng Tối Cao duy nhất, có một
đấng hiện thân dưới h́nh tướng tụ tập lại những lực gây ra sự tŕ trệ để cho
khi chúng tụ tập lại chúng có thể bị lực thiện chống đối tiêu diệt, để cho
sự thăng bằng có thể được tái lập và sự tiến hóa tiếp tục theo con đường đă
quy định. Chư thiên làm việc v́ điều vui, v́ phần thưởng là cơi trời. Trụ xứ
của các ngài là Svarga và họ phụng sự Đấng Tối Cao v́ những niềm vui mà họ
có được ở cơi trời. La sát cũng phụng sự Đấng Tối Cao trước hết để cai trị
trên trần thế cùng với quyền năng nắm giữ và hưởng thụ nơi cơi thấp. Cả hai
bên đều phục vụ để được thưởng và có động cơ thúc đẩy là những điều làm cho
ḿnh vừa ḷng.
41. Khi ta sắp hết giờ th́ để cho tôi có thể đưa ra một ví dụ điển h́nh
chứng tỏ những điều này tác động ra sao. Tôi xin xét một ví dụ hoành tráng
là Ravana ở Lanka mà ta có thể cung cấp một dạng cụ thể cho một tư tưởng khá
trừu tượng và khó hiểu. Như các bạn đều biết, Ravana là trí tuệ dũng mănh,
là La sát triệu thỉnh sự quang lâm của Shri Rama. Nhưng khi nh́n lại quá khứ
th́ y là ǵ? Đó là kẻ canh giữ cơi trời của Vishnu, là người giữ cổng của
Đấng Chúa Tể oai hùng, là tín đồ hoàn toàn tận tụy với Đấng Chúa Tể. Khi
nh́n vào quá khứ của y và khi ta thấy có một tín đồ của Mahadeva nào lại tận
tụy sùng tín hơn người sau này là Ravana? Chính y đă đâm đầu vào lửa để
phụng sự Mahadeva. Chính y nhân danh Ngài đă viết ra một số câu kinh kỳ diệu
nhất toát ra tinh thần hoàn toàn sùng tín; trong một câu kinh các bạn hẳn
nhớ rằng - và các bạn khó ḷng đưa ḷng sùng tín lên tới mức cao hơn nữa -
chính qua miệng của Ravana người ta thấy thốt lên những lời lẽ cầu khấn đấng
Mahadeva và miêu tả Ngài là bị vây quanh bởi những h́nh tướng bất hảo nhất
và đáng ghê tởm nhất. Bu quanh Ngài mọi phía là các yêu tinh pisachas và các
tinh linh bhutas. Đối với chúng ta, đó dường như chỉ là hiện thân bóng tối
của bực thềm cháy bỏng những h́nh tướng mà mọi vẻ đẹp đều bị rút ra từ đó. Y
kêu lên qua ḷng đam mê yêu thương:
42. Tốt hơn là nên khoác lấy h́nh tướng yêu tinh pisachas, sao cho
chúng
Đời đời ở cận kề chầu
chực bên Ngài.
43. Thế th́ làm sao y lại trở thành kẻ cám dỗ Sita và kẻ thù của Thượng Đế?
44. Các bạn hẳn biết do thiếu trực giác, do thiếu khả năng nhận ra được ư
nghĩa của một trật tự theo những từ ngữ không phải của tinh thần, theo cái
bề ngoài chứ không phải cái bên trong, y từ chối không chịu mở cổng trời khi
Sanat Kumara quang lâm đ̣i mở cửa. Để chu toàn điều đang thiếu sót, để có
được điều đang thiếu thốn, cái gọi là một lời nguyền rủa đă được thốt nên,
một lời nguyền rủa là phản ứng tự nhiên đối với lỗi lầm. Người ta cật vấn y
rằng: “Phải chăng có bảy kiếp nhập thể thân hữu với đấng Vishnu hoặc ba kiếp
trong đó ngươi là kẻ thù của Ngài và chống đối lại Ngài?” V́ y là một tín đồ
sùng tín chân chính và v́ mỗi lúc vắng mặt mà Đấng Chúa Tể ngụ ư cho y đó là
địa ngục hành hạ cho nên y đă chọn ba kiếp thù địch để cho y đi ngược trở
lại sớm hơn tới chân của Đấng Thân Thương hơn là bảy kiếp hạnh phúc thân
hữu. Tốt hơn là một thời hạn ngắn hoàn toàn thù địch so với một thời gian
c̣n lại dài hơn với hạnh phúc biểu kiến. Chính t́nh thương chứ không phải
ḷng hận thù đă khiến cho y chọn h́nh tướng một La sát hơn là h́nh tướng một
đấng Rishi. Đây là điều chú thích đầu tiên để ta giải thích nó.
45. Thế rồi khi xuất hiện dưới dạng La sát, y phải làm bổn phận là La sát.
Đây không phải là con người yếu đuối bị những đối tượng phù du, những tư
tưởng tạm bợ lôi cuốn. Y có mọi học thức trong kinh Phệ đà. Đối với y, nghe
đâu học vấn trong kinh Phệ đà đă qua rồi, đối với y nó đă biến mất khỏi trần
thế. Y biết bổn phận của ḿnh. Bổn phận của y là ǵ? Để hiển lộ mọi lực
trong bản chất dũng mănh của ḿnh sẽ kiểm soát được sự tiến hóa, thế là
triệu thỉnh mọi lực nơi con người chỉ có thể hiển lộ qua việc khắc phục năng
lượng chống đối; tụ tập xung quanh ḿnh mọi lực chống lại sự tiến hóa, khiến
cho ḿnh là vua của toàn thể, là trung tâm và người mang lại luật pháp cho
mọi lực được xác lập chống lại ư chí của Đấng Chúa Tể, tụ tập chúng lại
dường như thể chỉ có một cái đầu duy nhất, triệu thỉnh chúng lại thành ra
một cánh tay duy nhất sao cho khi sự chiến thắng biểu kiến của chúng khiến
cho lời kêu cầu của trần thế lên tới tận đấng Vishnu th́ lời đáp lại có thể
xuất hiện qua Hóa thân Rama để cho chúng bị tiêu diệt và làn sóng sinh hoạt
có thể tiếp diễn.
46. Y làm điều này một cách cao thượng và thi hành bổn phận của ḿnh hoàn
toàn. Nghe đâu ngay cả các bậc thánh hiền cũng bối rối về thiên chức Dharma
và quả thật rất tinh tế, khó lĩnh hội được toàn thể Dharma, mặc dù cái mảnh
vụn mà kẻ phàm phu thấy được th́ ắt đơn giản thôi. Thiên chức của y là thiên
chức của một La sát thống lĩnh toàn bộ lực lượng điều ác chống lại đấng mà y
yêu thương trong tận linh hồn nội tại của ḿnh để rồi bị che khuất mờ đi.
Khi Shri Rama quang lâm, khi y lang thang trong rừng th́ làm sao y có thể
kích động Ngài rời bỏ sự sống của Ngài. Y yêu thương Sita và quang lâm trên
trần thế để làm công việc của ḿnh. Bằng cách lấy đi của y cái điều duy nhất
mà y bám víu, bằng cách lấy đi của y người vợ mà y yêu thương như chính Tự
ngă của ḿnh, bằng cách đặt nàng vào cái nơi hội tụ mọi lực của điều ác, như
vậy tạo ra một đầu mối hủy diệt để cho mũi tên của Shri Rama có thể tiêu
diệt được. Thế rồi có cuộc chiến đấu hoành tráng, thế rồi có sự phấn đấu với
mọi lực trong bản chất cao cả của y để cho thiên luật có thể được tuân theo
đến mức cực độ, được chu toàn đến mức hết sức và món nợ được hoàn trả hết
rồi; đến lúc bấy giờ, không đến lúc bấy giờ th́ ngọn giáo của Đấng Thân
Thương, rồi mũi tên của Shri Rama mới tiêu diệt cái điều của kẻ dường như là
kẻ thù của tín đồ chân thực. Từ xác chết của La sát gục xuống băi chiến
trường gần Lanka, tín đồ mới lên tới tận Goloka (tên của một trong các cơi
trời) để ngồi dưới chân Đấng Thân Thương và tạm nghỉ cho đến khi trải qua
kiếp nhập thể thứ ba.
47. Đó là một số lư do khiến cho sự quang lâm của Hóa thân xảy ra được. Và
thưa các huynh đệ, hôm nay tôi xin nói lời cuối cùng với các bạn chẳng qua
để tránh cái khả năng phạm phải một lỗi lầm mà khi ta ch́m sâu vào luồng tư
tưởng này th́ rất có thể nảy sinh ra. Nên nhớ rằng mặc dù mọi quyền năng đều
thuộc về Ngài, mọi thần lực đều của Ngài, La sát cũng như Chư thiên, A tu la
cũng như Tu la, th́ nên nhớ rằng cơ tiến hóa của bạn th́ bạn phải đứng về
phía điều thiện và phấn đấu chống lại điều ác đến mức tối đa. Đừng để cho
những tư tưởng mà tôi vừa nêu ra dẫn dắt các bạn vào một vũng lầy, vào cái
hố sâu địa ngục trong đó bạn có thể nhất thời bị hủy diệt, bởi v́ điều ác
chỉ là tương đối, bởi v́ nó chỉ tồn tại do một ư chí duy nhất, bởi v́ La sát
cũng là Ngài, chẳng khác ǵ Chư thiên, cho nên bạn sẽ tiếp tục sát cánh với
chúng và đi theo con đường của chúng. Không phải như thế đâu. Nếu bạn khuất
phục ḷng tham vọng, nếu bạn khuất phục trước ḷng ngă mạn, nếu bạn tự đặt
ḿnh chống lại ư chí của đấng Ishvara, nếu bạn chiến đấu cho biệt ngă của
ḿnh, nếu giờ đây bạn tự đồng nhất hóa ḿnh với cái quá khứ mà bạn đă ở
trong đó thay v́ tự đồng nhất hóa ḿnh với cái tương lai mà bạn nên dấn bước
hướng về đó; thế th́ nếu nghiệp quả của bạn ở một tŕnh độ nào đấy bạn ắt
chuyển vào hàng ngũ những kẻ chiến đấu như những quân thù, bởi v́ bạn đă
chọn lựa cái số phận đó cho chính ḿnh theo sự thôi thúc của bản chất thấp
hèn. Lúc bấy giờ với sự đau khổ cay đắng nội tâm - cho dẫu hoàn toàn tuân
phục - bạn ắt chấp nhận nghiệp quả phiền năo vô biên v́ phải triển khai ư
chí của ḿnh chống lại ư chí của Đấng Thân Thương và cảm nhận được sự quằn
quại của việc tách rời sự sống bên trong với sự sống bên ngoài. Ư chí của
đấng Ishvara đối với bạn là sự tiến hóa, những lực này được tạo ra để giúp
cho bạn tiến hóa, miễn là bạn phấn đấu chống lại chúng. C̣n nếu bạn tuân
phục chúng th́ chúng sẽ mang bạn đi. Lúc bấy giờ bạn không hiển lộ được sự
sức mạnh của ḿnh mà chỉ củng cố được chúng. V́ thế cho nên, hỡi Arjuna, hăy
đứng lên và chiến đấu. Đừng có nằm ườn ra đó; đừng có tuân phục những lực
này: chúng có ở đó để làm hiển lộ những năng lượng của con bằng cách chống
lại chúng và con không được quị xuống trên cái sàn của chiến xa. Và lời cuối
cùng của tôi cũng là lời của đấng Shri Krishna nói với Arjuna: “Con hăy nhặt
chiếc cung, đứng lên và chiến đấu”.
BÀI THUYẾT TR̀NH THỨ BA
MỘT SỐ HÓA THÂN ĐẶC BIỆT
50. Thưa các huynh đệ, đề tài sáng nay xét về một phương diện nào đó th́ dễ
và xét theo phương diện khác th́ lại khó; dễ bởi v́ những câu chuyện về Hóa
thân có thể dễ dàng được kể lại và lĩnh hội; khó là v́ ư nghĩa ẩn bên dưới
những biểu lộ này xét về một số phương diện có thể không quen thuộc, có thể
hoàn toàn không được nghĩ tới bởi cá nhân các thính giả. Và tôi phải bắt đầu
bằng một lời tổng quát nói về các Hóa thân đặc biệt này. Các bạn có thể nhớ
rằng tôi đă nói toàn thể vũ trụ được coi là Hóa thân của Đấng Tối Cao, là sự
khai thị Tự ngă của Đấng Ishvara. Nhưng chúng ta không bàn tới sự khai thị
tổng quát này về Tự ngă, thậm chí chúng ta cũng không xét tới nhiều sự khai
thị thỉnh thoảng đă xảy ra được chỉ dấu bởi những đặc trưng đặc biệt. Ấy là
v́ khi tham chiếu một hoặc hai tác phẩm xưa cũ, chúng ta thấy rằng có nhiều
danh sách được tŕnh bày về sự quang lâm của Đấng Chúa Tể và ngày nay chúng
ta chỉ quan tâm tới một số sự khai thị này, những sự khai thị được chấp nhận
chuyên biệt là Hóa thân.
51. Bây giờ có một điều bản thân tôi phải thú nhận là đang bối rối ngay từ
đầu và tôi không biết liệu trong kho tài liệu công truyền, người ta có minh
giải về cách thức lựa chọn ra mười Hóa thân này, ai là người chọn lựa chúng
từ một danh sách dài hơn và danh sách này được tuyên cáo dựa trên thẩm quyền
nào. Về vấn đề này tôi chỉ xin nêu rơ nó ra và để mặc cho nó chưa được giải
đáp. Đây có thể là một vấn đề quen thuộc với những người đă khảo cứu về kho
tài liệu công truyền. Trong lúc này đó không phải là một điều quan trọng đến
mức ta phải dành cho nó thời gian và công sức qua cái mà ta có thể gọi là
đường lối khảo cứu huyền bí. Thế th́ tôi xin dẹp nó qua một bên v́ có một lư
do duy nhất tại sao một số những thứ này lại nổi bật lên một cách rơ ràng và
xác định. Chúng đánh dấu những giai đoạn tiến hóa của thế giới. Chúng đánh
dấu những đột phá mới qua sự tăng trưởng của sự sống đang phát triển; và cho
dù sự kiện này liệu có là một nền tảng của sự chọn lựa công chuyện hay
chăng, th́ tôi cũng không thể nói được; nhưng chắc chắn là tự thân sự kiện
ấy cũng đă biện minh cho sự phân biệt đặc thù mà người ta thực hiện.
52. Có
một điều tổng quát khác nữa mà ta phải xét đến. Ta thấy trong kinh Puranas
có đề cập tới những Hóa thân này; trong những tác phẩm cổ truyền khác ta
thấy có nói bóng gió tới một trong các đấng Hóa thân, nhưng khi ta xét tới
nhiều chi tiết th́ ta phải quay lại phần tường tŕnh trong kinh Puranas. Các
bạn thừa biết rằng khi tŕnh bày kinh Puranas, các bậc thánh hiền thường
miêu tả sự vật theo như ḿnh nh́n thấy trên các cơi cao và chỉ miêu tả sự
thật căn bản gồm những sự kiện và diễn biến. Ta có những sự tŕnh hiện được
miêu tả nghe ra rất xa lạ đối với hạ giới; ta có những sự kiện được quả
quyết chỉ khơi dậy rất nhiều sự thách thức trong thời hiện đại. Khi ta đọc
trong kinh Puranas có những h́nh tướng kỳ lạ và những dáng vẻ mầu nhiệm, khi
ta đọc sự tường tŕnh về những tạo vật có vẻ không giống như bất cứ thứ ǵ
mà ta đă từng nghe nói tới hoặc mơ tới ở đâu đó th́ đầu óc hiện đại vốn có
những hạn chế khá hạn hẹp thường nổi loạn chống lại những kiểu tường tŕnh
được tŕnh bày; đầu óc hiện đại được rèn luyện trong phạm vi giới hạn của
khoa học quan sát, tất yếu bị hạn chế bên trong những giới hạn ấy và những
giới hạn đó miêu tả cực kỳ hẹp ḥi; chúng là những giới hạn chỉ thuộc về
thời hiện đại, hiện đại đối với loài người theo đúng nghĩa của từ này, mặc
dù những sự khảo cứu địa chất học dĩ nhiên chạy dài về tận tới xa lắc xa lơ
so với thời điểm đêm đen của thế kỷ thứ 19. Nhưng các bạn phải nhớ rằng khi
địa chất học vượt xa thời kỳ hữu sử vốn chỉ là một khoảnh khắc trong lịch sử
thế giới th́ nó có nhiều phỏng đoán hơn là những sự kiện, nhiều lư thuyết
hơn là những bằng chứng. Nếu bạn chọn năm bảy nhà địa chất hiện đại rồi lần
lượt hỏi họ xem mỗi người cho biết ngày tháng của thời kỳ vẫn c̣n ghi chép
lại trong một số nhỏ những di chỉ hóa thạch được thu thập, th́ bạn ắt thấy
rằng hầu như mọi người đều đưa ra một ngày tháng khác nhau và họ xét tới
những sự khác nhau về hàng triệu năm dường như thể đó chỉ là hàng giây, hàng
phút so với chúng ta. Việc này khiến cho bạn phải nhớ rằng điều mà khoa học
có thể nói với bạn về thế giới, cho dù có chính xác đi chăng nữa th́ vẫn bị
hạn chế, những giới hạn ấy cực kỳ hẹp ḥi, hẹp ḥi theo nghĩa khi ta đo
lường nó bằng cách nh́n lướt qua hết kiếp này tới kiếp khác trong quá khứ,
và biết rằng cái trí của Đấng Tối Cao không bị hạn chế trong những biểu lộ
vài trăm ngàn năm, mà lùi lại tới hết triệu năm này tới triệu năm khác, trăm
triệu năm này tới trăm triệu năm khác; và có đủ thứ h́nh tướng khác nhau rất
nhiều về loại h́nh, đủ loại tạo vật kỳ diệu xuất phát từ cái óc sáng tạo
tưởng tượng đó vốn thực sự siêu việt được mọi thứ mà tâm trí con người có
thể mơ tới và chính những h́nh ảnh hoang đường nhất mà con người có thể tạo
ra được vẫn kém xa những thực tại quả thật là tồn tại trong những kiếp quá
khứ vũ trụ đă trải qua. Ta cần đưa ra lời cảnh báo này cũng như cảnh báo
rằng trên các cơi cao, sự vật xem ra khác hẳn những ǵ ta nh́n thấy chúng
dưới đây. Ở đây ta chỉ có một sự phản ánh phần nào về những dạng tồn tại
trên các cơi cao. Ở đó không gian có nhiều chiều đo hơn trên cơi vật lư và
mỗi chiều đo của không gian ắt thêm vào một biến thái căn bản mới mẻ cho
h́nh tướng; để minh họa cho điều này tôi xin sử dụng một ví dụ tương tự mà
tôi thường dùng, có lẽ nó truyền đạt cho các bạn chút ít ư tưởng về điều tôi
ngụ ư. Tôi dùng hai ví dụ tương tự để soi sáng chút ít cho đề tài rất khó
hiểu này. Giả sử một bức tranh được tŕnh bày với bạn về một h́nh tướng rắn
chắc, bức tranh này được vẽ bằng bút máy hoặc bút ch́ trên một tờ giấy ắt
chỉ tŕnh bày trên tờ giấy - nó thực tế chỉ có hai chiều đo v́ là một mặt
phẳng - tŕnh bày một h́nh tướng ba chiều đo, v́ thế cho nên nếu muốn biểu
diễn một vật thể rắn chắc như một cái b́nh, bạn phải vẽ nó phẳng ra và bạn
chỉ có thể biểu diễn tính rắn chắc của cái b́nh đấy bằng cách cầu viện tới
một vài thủ thuật về ánh sáng và vẽ bóng; cái thủ thuật nhân tạo mà ta gọi
là phép phối cảnh để tạo ra một sự giống như hăo huyền về chiều đo thứ ba.
Trên mặt phẳng ta có được một sự tŕnh hiện của h́nh khối và mắt bị đánh lừa
khi nó nghĩ rằng nó nh́n thấy một h́nh khối trong khi thực ra nó chỉ nh́n
vào một h́nh phẳng. Bây giờ giả sử bạn đưa bức tranh ấy cho một người dă
man, người này chưa phát triển, hoặc đưa cho một đứa trẻ con c̣n rất nhỏ th́
họ ắt không thấy h́nh khối mà chỉ thấy h́nh phẳng. Họ ắt không nhận ra bức
tranh vẽ về một vật thể h́nh khối mà họ đă nh́n thấy trong thế giới xung
quanh; họ ắt không thấy rằng sự biểu diễn nhân tạo ấy được dụng ư để phô
diễn một khối rắn chắc quen thuộc và nó xuất hiện trước mắt họ mà không gây
ra một ấn tượng nào trong tâm trí; chỉ nhờ việc giáo dục con mắt th́ ta mới
có thể thấy được h́nh ảnh của một vật h́nh khối trên một bề mặt phẳng. Thế
mà bằng cách cố gắng tưởng tượng, liệu bạn có thể nghĩ tới việc h́nh khối là
biểu diễn của một h́nh tướng có thêm một chiều đo và được tŕnh hiện bằng
một loại phối cảnh chăng? Lúc bấy giờ bạn có thể lĩnh hội được một ư tưởng
mơ hồ về việc chúng tôi ngụ ư ǵ khi nói tới một chiều đo thêm nữa trong
không gian. Cũng giống như bức tranh về một cái b́nh, cũng vậy, cái b́nh đối
với một vật thể có chiều đo nhiều hơn mà chính cái b́nh chỉ là một sự phản
chiếu. Lại nữa nếu bạn nghĩ rằng chẳng hạn như đóa hoa sen mà hôm qua tôi có
nói tới, nó chỉ có những đầu mút của lá sen nổi trên mặt nước và mỗi đầu mút
có vẻ như là một vật thể riêng rẽ. Nếu bạn biết trọn cả mọi thứ th́ bạn biết
rằng chúng đều là bộ phận của một vật thể duy nhất, nhưng khi chỉ xem xét
trên bề mặt nước th́ bạn ắt chỉ thấy những đầu mút thôi, đó là một trong
những chiếc lá của hoa sen bảy lá. Cũng như vậy, mọi bầu hành tinh trong
không gian xét theo biểu kiến là một vật thể riêng rẽ, trong khi thực ra nó
chẳng riêng rẽ chút nào hết mà là bộ phận của một tổng thể tồn tại trong một
không gian có nhiều chiều đo hơn và sự riêng rẽ chỉ là vọng tưởng do sự hạn
chế của những quan năng của ta.
53. Giờ đây khi tôi đă dẫn nhập để cho bạn thấy khi đọc kinh Puranas, trước
sau như một, bạn đều có sự kiện trên cơi cao được mô tả theo kiểu cơi thấp,
hậu quả là nó có vẻ không dễ hiểu, dường như không thể hiểu nổi; thế rồi ta
có cái gọi là ẩn dụ, nghĩa là một thực tại có vẻ giống như một sự hoang
tưởng ở dưới đây, nhưng là một sự thật sâu sắc hơn so với sự hăo huyền của
vật chất trên cơi vật lư và nó gần với thực tại các sự vật nhiều hơn các sự
vật mà ta gọi là có thực một cách khách quan. Nếu bạn tuân theo đường lối tư
tưởng đó th́ bạn ắt đọc kinh Puranas một cách thông tuệ và chắc mẫm hơn,
cũng như kính cẩn hơn so với mức một số người Ấn giáo hiện tại thường biểu
hiện khi đọc kinh này; và bạn ắt bắt đầu hiểu được khi một tầm nh́n khác mở
ra th́ người ta nh́n thấy những sự vật theo một đường lối khác hơn khi người
ta nh́n thấy chúng trên cơi vật lư và điều có vẻ là không thể được trên cơi
vật lư lại chính là điều thực sự được nh́n thấy khi ta vượt qua những giới
hạn của cơi vật lư.
54. Thế là những câu chuyện xuất phát từ kinh Puranas.
55. Tôi xin xét ba Hóa thân đầu tiên tách rời với những Hóa thân c̣n lại v́
lư do bạn sẽ dễ dàng hiểu được khi ta đi suốt qua chúng. Chúng ta xét Hóa
thân được gọi Matsya tức con cá; Hóa thân được gọi là Kurma tức con rùa; Hóa
thân được gọi là Varaha tức con heo rừng. Ba h́nh tướng thú vật này kỳ lạ
xiết bao, học viên hiện đại ắt nghĩ như thế. Kỳ lạ thay khi Đấng Tối Cao lại
chịu khoác lấy h́nh tướng của những con thú hạ đẳng như con cá, con rùa, con
heo rừng. Thật là điên rồ ấu trĩ xiết bao! Các học giả của thế giới Âu Mỹ ắt
bảo rằng đây là “sự bập bẹ của một giống dân c̣n non nớt”. Đừng có chắc mẫm
như thế. Tại sao ta lại kiêu căng về h́nh dạng con người? Tại sao các bạn
và tôi lại chỉ là những vật chứa đáng giá của Đấng thiêng liêng duy nhất
xuất phát từ cái Trí vô lượng xuyên qua những thời đại? Trong h́nh tướng đặc
thù gồm có cái đầu, tứ chi và thân ḿnh này, liệu có ǵ khiến cho nó là cái
vật chứa đáng giá duy nhất được dùng làm sự biểu lộ của đấng Ishvara tối cao
chăng? Tôi biết chẳng có điều ǵ kỳ diệu chỉ ở h́nh tướng bên ngoài, khiến
cho h́nh dạng ấy duy nhất xứng đáng để biểu diễn một số khía cạnh của Đấng
Tối Thượng. Biết đâu theo quan điểm của Ngài th́ những sự khác nhau lớn lao
mà ta thấy giữa chính chúng ta và những người mà ta gọi là các dạng chúng
sinh thấp kém hơn có thể hầu như là Ngài không nhận thấy được bởi v́ Ngài đă
siêu việt chúng hết rồi? Một đứa trẻ con thấy bản thân nó khác rất nhiều và
có lẽ nó cao hai bộ rưỡi so với một đứa trẻ sơ sinh chỉ cao có một bộ rưỡi,
rồi nghĩ nó là một con người so với cái h́nh tướng nhỏ nhắn ḅ lổm ngổm trên
mặt đất v́ không thể bước đi được. Nhưng đối với người lớn đă trưởng thành
th́ chiều dài của hai đứa bé không khác nhau bao nhiêu và đứa này có vẻ rất
giống đứa kia. Trong khi chúng ta rất bé nhỏ th́ ta thấy có những sự khác
nhau lớn giữa chính chúng ta và người khác; nhưng đứng trên đỉnh núi mà nh́n
xuống th́ túp lều và cung điện không khác nhau thật nhiều về chiều cao.
Chúng đều trông giống như những tổ kiến, có kích thước rất giống nhau và thế
là theo quan điểm của Ishvara trong những huyền giai rộng lớn từ giới khoáng
vật cho tới vị Thiên thần cao nhất th́ những sự phân biệt chẳng qua chỉ là
những tổ kiến đối với Ngài và dạng thức này hoặc dạng thức khác cũng đều có
giá trị như nhau để cho nó thích hợp với chủ đích của Ngài và biểu lộ ư chí
của Ngài.
56.
Bây giờ ta xét tới Hóa thân Matsya, th́ câu chuyện mà itất cả các bạn đều
biết là khi Đức Bàn Cổ vĩ đại Vaivasvata - ta gọi Ngài là Căn Bàn Cổ (Bàn Cổ
của Giống dân chánh) tức là không chỉ Bàn Cổ của một giống dân thôi mà là
Bàn Cổ của trọn một cuộc tuần hoàn trong cơ tiến hóa vũ trụ, chủ tŕ bảy bầu
hành tinh liên kết với nhau để cho thế giới tiến hóa - Ngài là một Đức Bàn
Cổ đại hùng, một ngày kia Ngài đắm ch́m vào cơn đại định th́ thấy một con cá
nhỏ đang ngáp ngáp mong có nước; bởi ḷng từ bi giống như mọi Đấng cao cả
khác Ngài nhặt con cá nhỏ lên rồi bỏ nó vào một cái chén - con cá tăng
trưởng cho đến khi nó được chứa đầy trong cái chén th́ Ngài bỏ nó vào trong
một b́nh nước cho đến khi nó tăng trưởng lên kích thước b́nh nước; thế rồi
Ngài lấy nó ra khỏi b́nh nước ấy bỏ nó vào b́nh nước lớn hơn, rồi sau đó bỏ
vào một thùng phi nước, một ao nước, một con sông, biển cả, thế mà con cá kỳ
diệu vẫn cứ tăng trưởng lên măi. Khi đă đến lúc sắp có sự thay đổi lớn - một
trong những sự thay đổi này được gọi là một chu kỳ Pralya thứ yếu - và những
hạt giống của sự sống phải được chuyển từ chu kỳ pralya này sang chu kỳ
manvantara kế tiếp. Đó gọi là một chu kỳ pralya thứ yếu và chu kỳ manvantara
thứ yếu. Nghĩa là thế nào? Nghĩa là chuyển những những hạt giống sự sống từ
bầu hành tinh này sang bầu hành tinh khác; từ cái ta gọi là bầu hành tinh
trước bầu hành tinh của ta sang chính bầu trái đất. Đức Căn Bàn Cổ nhờ sự
giúp đỡ và dẫn dắt của Hành tinh Thượng Đế có chức năng chuyển dời những hạt
giống sự sống từ bầu hành tinh này sang bầu hành tinh kế tiếp để trồng những
hạt giống đó vào một mặt đất mới cho chúng có thể tăng trưởng thêm nữa. Khi
nước dâng lên, nước vật chất nhấn ch́m bầu hành tinh đang chuyển sang chu kỳ
pralaya th́ có một cái tàu xuất hiện; đấng Rishi vĩ đại bước vào tàu cùng
những thứ khác, các Ngài mang theo những hạt giống sự sống và khi các Ngài
đi trên mặt nước th́ có một con cá lớn dũng mănh xuất hiện và cái tàu được
buộc vào sừng của con cá ấy bằng một sợi dây thừng; con cá dắt toàn thể an
toàn đi tới vùng đất thuộc đất liền nơi Đức Bàn Cổ bắt đầu trở lại công việc
của ḿnh. Đây chỉ là một câu chuyện, thế nhưng câu chuyện đó nói lên sự
thật, v́ khi xem xét nó diễn ra trong lịch sử thế giới th́ ta thấy đại dương
vật chất gợn sóng, Đức Căn Bàn Cổ và những Điểm đạo đồ cao cấp thu thập các
hạt giống sự sống từ thế giới đă hoàn thành công việc rồi với sự dẫn dắt và
giúp đỡ của đấng Vishnu hành tinh, các Ngài đưa chúng tới bầu hành tinh mới,
nơi mà xung lực mới được dành cho sự sống và lư do tại sao h́nh tướng con cá
lại được chọn lựa chỉ là v́ trong khi xây dựng trở lại thế giới th́ thoạt
tiên thế giới bị nước bao phủ và chỉ có h́nh tướng sinh linh ấy mới có thể
hoạt động được từ ban đầu xét về sự sống trên cơi vật lư thô trược.
57. Trong giai đoạn đầu tiên này ta có cái mà các nhà địa chất gọi là thời
đại Silure, thời đại những con cá khi biểu lộ vĩ đại của thiêng liêng đều
toàn là các dạng sinh linh này. Kinh Puranas đúng ra Bắt Đầu nơi Kiếp trước,
đúng ra khởi đầu những sự biểu lộ bằng sự biểu lộ dưới dạng con cá. Xét cho
cùng th́ không ǵ lố bịch lắm, ta thấy đó khi đọc bằng kiến thức chứ không
phải bằng sự vô minh, sự thật theo kinh Puranas chứa đầy chân lư nếu ta đọc
chúng bằng sự thông tuệ chứ không phải bằng thành kiến.
58. Nhưng một số bạn có thể bảo rằng có sự lẫn lộn về những Hóa thân đầu
tiên này; trong nhiều cách tường thuật th́ ta thấy con Heo rừng đứng đầu,
quả thật như vậy nhưng mấu chốt của nó là như sau; Hóa thân Heo rừng khởi
đầu cơ tiến hóa mà tiếp theo sau không gián đoạn là giai đoạn con người; c̣n
hai Hóa thân kia dẫn nhập những giai đoạn lớn, mỗi giai đoạn được coi là một
kiếp (kalpa) riêng rẽ và nếu ta nh́n vào kinh Vishnu Puranas th́ ta ắt thấy
trong đó có mấu chốt; v́ khi nó bắt đầu tường thuật sự nhập thế của con Heo
rừng th́ đă có một câu trong đó cho rằng các Hóa thân Matsya và Kurma thuộc
về những kiếp trước.
59. Bây giờ nếu ta xét tới thuật ngữ TTH th́ ta ắt thấy rằng mỗi một kiếp
này bao gồm cái ta gọi là một Căn chủng và ta nhớ lại rằng Căn chủng thứ
nhất của loài người không có h́nh tướng con người ǵ hết mà là một khối trôi
nổi có thể sống dưới nước lúc bấy giờ đang bao phủ mặt đất. Nó chỉ bộc lộ
những sự vận động thông thường của nguyên sinh chất liên quan tới một loại
h́nh sự sống như thế vốn khả dĩ vào giai đoạn tiến hóa này. Nó chỉ là một
hạt giống h́nh tướng hơn là chính h́nh tướng; đó là hạt giống được đấng Bàn
Cổ gieo trồng trên nước của trái đất mà nhân loại có thể tiến hóa ra từ đó.
Nhưng lộ tŕnh tiến hóa vật lư nói chung đă chuyển qua giai đoạn con cá, và
thế là địa chất học đă tŕnh bày một sự kiện đúng đắn mặc dù nó dĩ nhiên
không hiểu là ư nghĩa ẩn tàng, c̣n kinh Puranas th́ cung cấp cho bạn thực
tại của sự biểu lộ cùng với sự thật sâu sắc hơn ẩn bên dưới những giai đoạn
tiến hóa của thế giới.
60. Thế th́ khi truy nguyên thêm nữa ta thấy rằng giai đoạn lớn này đă qua
rồi và thế giới bắt đầu trồi lên trên mặt nước. Thế th́ có loại h́nh nào
xuất hiện để cho cơ tiến hóa có thể tiếp diễn? Loại h́nh lớn kế tiếp phải
thích hợp với cả trên đất liền lẫn dưới nước bởi v́ giai đoạn kế tiếp của
trái đất, nước dần dần rút đi để cho mặt đất xuất hiện và những tạo vật vốn
là đặc trưng nổi bật của thời đại này phải tồn tại một phần trên mặt đất c̣n
một phần dưới nước. Ở đây lại phải có sự biểu lộ của loại h́nh sự sống mà
lần này ta gọi là loại h́nh loài ḅ sát. Con Rùa được chọn làm tạo vật tiêu
biểu và trong khi con rùa tiêu biểu cho loại h́nh phải được tiến hóa th́
loài ḅ sát là những tạo vật lưỡng cư theo đủ loại miêu tả lúc nhúc trên
trái đất trở nên có đặc trưng càng ngày càng giống như đất liền khi tỷ lệ
đất liền so với nước gia tăng. Trong khi đó ở vùng ‘thánh địa bất diệt’ vẫn
tiếp diễn sự chuẩn bị cho cơ tiến hóa thêm nữa. Có một phần của trái đất
không thay đổi ngay từ đầu và vẫn tồn tại trong khi trái đất đang tồn tại,
nó được gọi là ‘thánh địa bất diệt’. Các đấng Rishis vĩ đại tụ tập ở đó và
các ngài đă xuất phát từ đó để giúp đỡ con người, ấy đó là vùng thánh địa
bất diệt đôi khi được gọi là ‘cực linh thánh của trái đất’. Bản thân cực này
không tồn tại trên cơi vật lư mà tồn tại ở cơi cao hơn, sự phản chiếu của nó
có thể nói xuống tới tận một địa điểm không bao giờ thay đổi, luôn luôn được
canh giữ để cho kẻ phàm phu không thể xâm phạm được. Ở đó diễn ra một hiện
tượng mang lại nhiều thông tin nhất. Loại h́nh tiến hóa lúc bấy giờ có trước
là con Rùa tức Thượng Đế dưới dạng này biến Ngài thành cơ sở của trục tiến
hóa đang xoay ṿng. Nó được tiêu biểu bằng rặng núi Mandara khi được đặt
trên lưng con Rùa làm cho xoay ṿng bởi đội quân các Tu la và A tu la, một
đội kéo đầu con rắn c̣n đội kia kéo đuôi - đó là những lực dương và âm mà
hôm qua tôi có nhắc tới. Thế là sự khuấy đảo bắt đầu trong vật chất làm cho
các loại h́nh sinh linh tiến hóa. Loại h́nh này bao giờ cũng tiến hóa trước
khi có biểu lộ thấp hơn, loại h́nh này xuất hiện trước khi những bản sao của
nó sinh ra trong hạ giới. Và các học viên của chính các bậc đại Đạo sư đă
thấy chính sự việc đó xảy ra; việc khuấy đảo nước vật chất làm sinh ra mọi
loại h́nh gồm nhiều chủng loại được sinh ra nơi hạ giới; ta có thể gọi đó là
những nguyên mẫu thiết kế của các lớp tạo vật luôn luôn được tạo ra để chuẩn
bị cho cơ tiến hóa tiến lên. Các nguyên mẫu thiết kế xuất hiện từng bước
một, con voi, con ngựa, người phụ nữ v.v. . . hết thứ này tới thứ kia vạch
đường cho cơ tiến hóa tiến lên và trước hết là nước cam lồ Amrita xuất hiện,
biểu tượng của sự sống nhất như luân chuyển qua mọi h́nh tướng và sự sống đó
xuất hiện bên trên mặt nước khoác lấy điều cần thiết để cho mọi h́nh tướng
có thể sinh tồn được.
61. Chúng ta không thể tŕ hoăn các chi tiết; tôi chỉ có thể hối hả phác họa
chỉ cho các bạn thấy sự thật ẩn bên dưới câu chuyện có thực đến mức nào, và
khi điều đó dần dần tiến triển cùng với các loại h́nh đă sẵn sàng rồi khi
xảy ra việc thế giới bị nhận ch́m dưới nước và các lục địa biến mất trong
một thời gian.
62. Thế rồi tới Hóa thân thứ ba là Varaha. Người ta c̣n chưa thấy đất liền;
nước lụt đă nhận ch́m nó. Các loại h́nh được tạo ra trên đất liền đang chờ
đợi ở vùng cao hơn để có chỗ biểu lộ ra. Làm thế nào mà đất liền đă bị nhận
ch́m dưới nước lại nổi lên được? Bây giờ một lần nữa ta lại thấy cần có đấng
Cứu trợ vĩ đại, Thượng Đế, đấng Bảo trợ cơ tiến hóa. Lúc bấy giờ dưới dạng
một con Heo rừng dũng mănh mà h́nh tướng lấp trọn bầu trời, nó lặn xuống
nước mà chỉ có nó mới làm rẽ nước ra được, Đấng Cao Cả giáng xuống. Ngài
nâng đất lên từ vùng thấp nơi đó đang chờ Ngài quang lâm và đất liền lại nổi
lên từ bên dưới mặt nước lụt và lục địa Lemuria vĩ đại là đất liền của thời
đại xa xăm đó. Ở đây cũng góp lời đúng mức cho rằng trên lục địa Lemuria đă
có nhiều loại h́nh sinh linh phát triển và các động vật có vú xuất hiện ở đó
lần đầu tiên. Đúng như vậy, đó chính là điều mà các bậc hiền triết đă dạy dỗ
cách đây hàng ngàn năm khi con Heo rừng là loại h́nh lớn động vật có vú đă
lặn xuống nước để nâng đất liền lên; thế rồi bắt đầu sự tiến hóa của loài
động vật có vú và lục địa lúc bấy giờ được cứu thoát khỏi trận lụt bèn đầy
dẫy những h́nh tướng của động vật có vú. Cũng giống như con cá tiêu biểu cho
thời kỳ Silure, cũng giống như con Rùa khởi sự sự tiến hóa của loài lưỡng cư
vĩ đại, th́ cũng vậy con Heo rừng là động vật có vú tiêu biểu khởi sự chu kỳ
tiến hóa của loài động vật có vú, và chúng ta đến với lục địa Lemuria với đủ
thứ kỳ diệu h́nh tướng các sinh linh thuộc loài động vật có vú. Bạn thấy xét
cho cùng th́ kinh điển cổ truyền đâu có dốt nát lắm. Ấy là v́ ngày nay người
ta chỉ khám phá lại những ǵ nằm trong tay của các tín đồ, các đấng Rishis
cách đây hàng ngàn, hàng vạn năm.
63. Thế rồi ta xét tới một sự nhập thể kỳ lạ trên lục địa Lemuria này: có sự
xung đột dễ sợ, chúng ta đang tới gần điều mà kho tài liệu Thông Thiên Học
gọi là giữa Giống dân thứ ba và con người chính hiệu cũng chẳng bao lâu nữa
sẽ xuất hiện với mọi đặc trưng bản chất của ḿnh. Y c̣n chưa hoàn toàn ra
đời, người ta thấy có những h́nh tướng kỳ lạ nửa người nửa thú, hoàn toàn kỳ
quặc; những sự đấu tranh khủng khiếp xảy ra giữa các h́nh tướng quái vật này
mà người ta nói sinh ra từ bùn lỏng - từ những di tích của cơ sáng tạo trước
kia - và sự sống mới mẻ cao siêu hơn mà cơ tiêu hóa tương lai được giữ kín
trong đó. Trong kinh Puranas người ta biểu diễn những h́nh tướng này là
giống người Datyas, họ cai trị trần thế, chiến đấu chống lại biểu lộ của Chư
thiên; thỉnh thoảng họ chinh phục được Chư thiên rồi khống chế Chư thiên,
ngự trị cả trời lẫn đất và đặt mọi thứ dưới quyền cai trị của ḿnh. Trong
những câu kinh kỳ diệu của quyển Thiền thư mà H. P. B. có tŕnh bày
với chúng ta, ta có thể đọc thấy nói bóng gió về cuộc chiến đấu dũng mănh có
đầy trong kinh Puranas, một cuộc chiến đấu cũng có thực như bất kỳ cuộc
chiến đấu nào sau này, đó là một sự kiện lịch sử hoàn toàn đúng mà nhiều
người trong chúng ta đă hoàn toàn đúng. Nhiều người trong chúng ta đă chứng
kiến. Chúng ta được dạy đi dạy lại rằng có một cuộc xung đột dễ sợ về các
h́nh tướng: các h́nh tướng trong quá khứ có đường nét và sức mạnh quái vật
chống lại các Con của Ánh sáng khiến cho các đấng Hỏa Đức Tinh Quân vĩ đại
phải giáng lâm. Một trong những cuộc xung đột này lớn hơn hết được tŕnh bày
trong câu chuyện Hóa thân mà ta gọi là Narasimha tức người Sư tử. Các bạn
hẳn biết câu chuyện này. Người Ấn giáo nào mà chẳng biết câu chuyện
Prahlada? Ngài tiêu biểu cho tính linh mới chớm nở được biểu hiện qua các
giống dân cao cấp Daityas khi họ chuyển sang tiến hóa dứt khoát là con
người, và h́nh tướng của họ mở đường cho con người có giới tính sinh ra. Tôi
không cần nói dông dài về câu chuyện quen thuộc của tín đồ đấng Vishnu, cách
thức mà cha của Daitya ra sức giết y v́ danh xưng Hari luôn ở trên đầu môi
chót lưỡi của y; cách thức mà cha nó ra sức giết chết nó bằng một cây gươm
và cây gươm bị găy khi chém vào cổ của đứa bé; rồi cách thức mà cha y đầu
độc y, rồi Vishnu xuất hiện trước hết ăn cơm bị bỏ bă sao cho đứa trẻ vẫn ăn
được cơm mà trên đầu môi chót lưỡi vẫn tŕ niệm danh xưng Hari; cách thức mà
cha nó cố gắng giết nó bằng con voi nổi khùng, bằng răng nọc độc của con
rắn, bằng cách ném nó xuống vực sâu và bằng cách nghiền nát nó dưới một tảng
đá. Nhưng bao giờ lời tŕ niệm ‘Hari, Hari’ cũng mang lại sự giải thoát, bởi
v́ Hari bao giờ cũng có mặt nơi con voi, nơi răng nọc độc của loài rắn, nơi
vực sâu và nơi tảng đá; tín đồ của Hari luôn luôn an toàn khi có sự hiện
diện của Ngài; thế rồi cách thức mà cuối cùng khi cha nó thách đố sự có mặt
khắp nơi của Đấng thiêng liêng, chỉ tay vào cột trụ bằng đá và nói với một
giọng gian tà: ‘Liệu Hari của mi cũng có trong cột trụ này chăng?’ Đứa trẻ
kêu lên ‘Hari, Hari’ và cột trụ bục vỡ ra, h́nh tướng dũng mănh xuất hiện
giết chết Daitya đang nghi ngờ để cho y có thể học được bài học Đấng Tối Cao
có mặt ở khắp nơi. Một câu chuyện ư?, đó là những sự kiện chứ không phải hư
cấu; đó là sự thật chứ không phải tưởng tượng và nếu ta có thể nh́n lại thời
kỳ có những cuộc đấu tranh này th́ ta thấy dường như trong câu chuyện không
có ǵ kỳ lạ hoặc bất b́nh thường; ấy là v́ bạn ắt thấy rằng nó c̣n được lập
lại một cách kém sinh động hơn trong những cuộc chiến đấu nhỏ hơn khi các
Con của Lửa tẩy trược và cứu chuộc trái đất để cho cơ tiến hóa sau này của
loài người có thể diễn ra.
64. Chúng ta đă điểm qua bốn Hóa thân. Mỗi người quang lâm trong ṿng cái
được gọi là Chu kỳ Thánh đức của trần thế - nên nhớ rằng đó không phải là
một giống dân, không phải là chu kỳ nhỏ, mà là của trái đất - Chu kỳ Thánh
đức của trái đất nói chung khi các thời kỳ kéo dài rất lâu và khi sự tiến bộ
vô cùng chậm chạp. Thế rồi tới thời đại kế tiếp mà ta gọi là Tetra Yuga, tức
thời tượng pháp mà theo niên đại Thông Thiên Học - tôi xét hai thứ cùng với
nhau để cho học viên có thể mở đường đi ra về chi tiết - vào lúc giữa Căn
chủng thứ ba khi nhân loại tiếp nhận ánh sáng từ bên trên và khi con người
chính hiệu bắt đầu tiến hóa. Cơ tiến hóa đó bắt đầu như thế nào? Bằng sự
quang lâm của Đấng Tối Cao dưới dạng con người là Vamana, nghĩa là người
Lùn. Người Lùn sao? Đúng vậy, v́ con người cho đến nay vẫn c̣n lùn theo kích
thước đúng thực của con người, mặc dù xét theo bề ngoài th́ đă lớn rồi, c̣n
Ngài quang lâm là chơn nhơn nội giới, nhỏ, thế nhưng mạnh hơn h́nh tướng bên
ngoài; Bali vốn mạnh nhưng chỉ biểu hiện h́nh tướng bên ngoài chống lại
Ngài, c̣n Vamana người Lùn biểu hiện con người lư tưởng. Và khi Bali đă có
sự hiến tế vĩ đại th́ người Lùn lại xuất hiện là khất sĩ dưới dạng người Bà
la môn.
65. Vấn đề giai cấp của Hóa thân thật là kỳ lạ. Khi ta từng xét tới Hóa thân
mang h́nh dạng con người th́ các bạn đều biết các Hóa thân này hầu hết là
giai cấp Sát đế lị nhưng trong hai trường hợp th́ họ thuộc giai cấp Bà la
môn, và đây là một trong hai trường hợp này; ấy v́ Ngài là khất sĩ mà giai
cấp Sát đế lị th́ không thể xin ăn. Chỉ có kẻ coi của cải trần thế là không
có ǵ, không tích trữ của cải, coi vàng cũng giống như đất th́ chỉ người ấy
mới có thể đi xin ăn, đó là giai cấp Bà la môn thời xưa chứ không phải Bà la
môn hiện đại.
66.
Ngài quang lâm với b́nh bát khất thực để xin ăn vua chúa, bởi v́ sự hiến tế
có ích lợi ǵ nếu không có ǵ để hiến tế. Thế mà Bali là người cầm quyền mộ
đạo, đứng về phía cơ tiến hóa đang qua đi và vui ḷng hiến tặng. Ngài bảo
‘Hỡi người Bà la môn hăy nhận quà tặng của ḿnh’, người Lùn bảo rằng ‘Tôi
chỉ yêu cầu có ba bước trên trái đất thôi’. Cái người nhỏ xíu này chắc chắn
là đi ba bước chẳng bao trùm được bao nhiêu và vị Đại vương với lănh thổ
rộng khắp thế giới có thể vui ḷng nhường ba bước trên mặt đất cho người Lùn
bé nhỏ và yếu đuối này. Nhưng một bước đă bao trùm hết đất và bước kế tiếp
bao trùm cả bầu trời. Thế th́ bước thứ ba sẽ bước đi đâu sao cho tặng vật
được hoàn chỉnh. Bali chẳng c̣n ǵ để hiến tặng ngoại trừ bản thân ḿnh;
chẳng có ǵ để hoàn tất tặng vật và ông không thể nuốt lời ngoại trừ tặng
chính bản thân ḿnh. Thế là khi nhận ra Đấng Chúa Tể tất cả, ông phủ phục
trước mặt Ngài và bước thứ ba dẫm lên trên thân ông đă hoàn tất lời hứa của
vị vua khiến cho ông trở thành người cai trị hạ giới Patala. Câu chuyện là
như thế. Nó chứa đầy ư nghĩa biết bao. Cái chơn nhơn nội giới này - ở giai
đoạn đó vẫn nhỏ xíu nhưng thật sự là dũng mănh đă cai trị được cả đất lẫn
trời, th́ bước thứ ba không thể là chỗ nào khác để dẫm chân lên ngoại trừ
dẫm lên chính bản chất thấp hèn của ḿnh; y cứ tiến như vậy măi; điều này
được nói bóng gió trong bước thứ ba. Thật là một h́nh ảnh sinh động về cơ
tiến hóa được tŕnh bày trước cơ tiến hóa kỳ diệu giờ đây mới bắt đầu.
67. Và nhân tiện tôi xin nhắc các bạn nhớ cho rằng trong kinh Rig Veda th́
có một lời đề cập tới chính Hóa thân này, đó là nguồn tranh căi vô tận về ư
nghĩa của nó vốn được phát biểu như sau:
68. Trải qua mọi thế giới mà đấng Vishnu bước trên đó th́ ba lần chân Ngài
dẫm lên và toàn thể được thu thập lại trong cát bụi của bước chân Ngài
(quyển I, mục xxii, 17) [Xem thêm quyển I, mục 154 nói tới ba bước của Ngài
mà mọi sinh linh đều cư trú bên trong ba bước đó; ba bước được gọi là ‘đất,
trời và mọi chúng sinh’. Ở đây Bali được dùng làm biểu tượng của mọi sinh
linh]
69. Đó cũng là một trong ‘lời bập bẹ của nhân loại ấu trĩ’. Tôi chẳng biết
có h́nh ảnh nào được sử dụng về con người vĩ đại nhất mà lại thơ mộng hơn,
đầy ư nghĩa hơn mang ảnh tượng cao cả hơn toàn thế giới được thu thập trong
đất bụi của bước chân Đấng Tối Cao. Ấy là v́ thế giới là ǵ nếu chẳng phải
là đất bụi trong bước chân của Ngài, và thế giới có bất kỳ sự sống nào chăng
nếu chân Ngài không chạm tới nó?
70.
Chúng ta trải qua như thế vẫn c̣n tiến bước trong Tetra Yuga và đi tới một
sự biểu lộ khác, đó là biểu lộ của Parashurama; bạn có thể nghĩ rằng đây là
một Hóa thân kỳ lạ, tôi xin nói đó chỉ là Hóa thân một phần khi ta đi đến
mức quan sát cuộc đời của Ngài và đọc những lời lẽ do Ngài thốt ra. Thời kỳ
Yuga bây giờ đă tiến xa rồi cho nên giai cấp Sát đế lị đă vươn lên và nắm
quyền cai trị, khi có quyền năng nó có thể có thẩm quyền lớn và là giai cấp
chiến sĩ cầm quyền, tiếc thay nó đă lạm dụng quyền lực v́ con người thường
như thế khi linh hồn vẫn c̣n đang rèn luyện và c̣n ấu trĩ đối với môi trường
xung quanh. Giai cấp Sát đế lị lạm dụng quyền lực được kiến tạo để cho ḿnh
cai trị th́ nên nhớ rằng bổn phận của người cai trị cốt yếu là che chở,
nhưng những người sử dụng quyền lực không che chở mà cướp bóc, không giúp đỡ
mà lại đàn áp. Ta phải dạy một bài học khủng khiếp cho giai cấp cầm quyền để
cho nó có thể học nếu có thể được rằng bổn phận của việc cầm quyền là phải
che chở, nâng đỡ và giúp đỡ chứ không phải tàn bạo, cướp bóc. Bài học lớn
đầu tiên được dành cho ông vua trên trần thế, những kẻ cai trị loài người,
đó là một bài học phải được lập đi lập lại măi v́ người ta vẫn chưa thuộc
bài. Một sự biểu lộ thiêng liêng đă quang lâm để có thể dạy được bài học
này, và bậc Đạo sư không thuộc giai cấp Sát đế lị ngoại trừ do mẹ của ḿnh.
Đây là một câu chuyện kỳ lạ, chuyện về việc sinh ra đời. Người ta cung cấp
thực phẩm cho hai phụ nữ thuộc giai cấp Sát đế lị, mỗi người phải sinh ra
một đứa con trai mà chồng của hai bà này đều thuộc giai cấp Bà la môn; hai
người phụ nữ trao đổi lương thực có nghĩa là việc sinh ra một đứa con trai
thuộc giai cấp Sát đế lị là do người phụ nữ có chồng thuộc giai cấp Bà la
môn. Người ta ắt bảo rằng đây là một tai biến mà trong một vũ trụ có nhiều
luật lệ th́ không có ǵ là tai biến. Thế là thực phẩm tràn đầy năng lượng
Sát đế lị v́ được cung cấp cho gia đ́nh Bà la môn nên không thể thích hợp
được khi người Sát đế lị này lại hủy diệt những người Sát đế lị khác. Thế là
bài học này đă không được dạy dỗ cẩn thận cho thế gian. Điều này khiến cho
ta có hiện tượng kỳ lạ là giai cấp Bà la môn quang lâm với một cây ŕu để
giết chết người Sát đế lị và ba lần bảy lượt cái ŕu này được vung lên để
chém giết, cắt đứt thân h́nh người Sát đế lị ra khỏi bề mặt trái đất. Nhưng
khi Parashurama c̣n ở trong thân xác th́ có một Hóa thân lớn hơn quang lâm
để chứng tỏ một vị vua Sát đế lị lư tưởng ra sao. Parashurama đă quét sạch
những người Sát đế lị lạm dụng quyền lực và địa vị, và trước khi Ngài rời bỏ
trần thế nơi Ngài dạy dỗ bài học cay đắng th́ người Sát đế lị lư tưởng giáng
lâm để thân giáo bài học lư tưởng Sát đế lị sau khi đă cưỡng chế bài học
không phải Sát đế lị là ǵ. Đứa trẻ Rama chào đời mà giờ đây ta không có
thời giờ để nói chuyện dông dài, đó là một nhà cai trị lư tưởng, một quân
vương hết sức hoàn hảo. Trong khi c̣n là một đứa trẻ trai th́ Ngài đi với
bậc đại Đạo sư là Visvamitra để bảo vệ cho phép hiến tế của đạo sĩ Yoga. Các
bạn nên nhớ rằng nó chỉ là một đứa trẻ trai mà lại có khả năng xua đuổi đám
La sát can thiệp vào lễ hiến tế, thế rồi nó và người anh thân thương là
Lakshmana và đạo sĩ Yoga tiếp tục đi tới triều đ́nh của vua Janaka. Ở đó
ngay tại triều đ́nh có một cây cung lớn, cây cung này thuộc về chính đấng
Mahadeva. Giương được cây cung là nhiệm vụ người nào muốn cưới Sita, là đứa
trẻ sinh ra một cách mầu nhiệm, là cô trinh nữ nảy sinh từ luống cày khi cái
cày đi ngang qua mặt đất, cô không có cha hoặc mẹ trên cơi vật lư. Ai sẽ
cưới cô trinh nữ vô song ấy vốn là hiện thân của Shri Lakshmi, phu quân của
Vishnu. Ngoài Hóa thân của chính Vishnu ra th́ ai mà cưới được cô. Vậy là
chẳng có ai giương được cây cung mạnh mẽ này cho đến khi đứa trẻ Rama tới,
Rama cầm cây cung lên với sự vô ư vô tứ của trẻ con, rồi giương nó lên mạnh
đến nỗi nó bị găy làm đôi, sự găy đổ này được vang vọng qua trời và đất.
Rama cưới Sita, cô gái đẹp, rồi đi cùng với nàng và với người anh là
Lakshmana cùng với chị dâu, cùng với cha đi đám cưới, đó là một lễ rước dềnh
dang đi ṿng con đường trở lại thị trấn của ḿnh là Ayodhya. Việc bẻ găy cây
cung của Mahadeva vang vọng khắp thế giới, làm chấn động mọi thế giới và tất
cả loài người và Chư thiên đều biết rằng cây cung đă bị găy. Trong đám tín
đồ Mahadeva th́ Parashurama nghe thấy tin đồn là cây cung bị găy, đó là cây
cung của Đấng mà Parashurama tôn thờ; khi hănh diện về sức mạnh của cường
lực của Ngài và vẫn c̣n năng lượng của Vishnu nơi ḿnh, Parashurama đi gặp
đứa trẻ hỗn láo dám bẻ găy cây cung mà không cánh tay nào giương cung nổi.
Parashurama thách thức nó rồi treo cây cung của chính ḿnh, bảo nó thử làm
cái điều mà ḿnh làm được là bắn một mũi tên từ dây cung? Rama cầm lấy cây
cung được trao cho, giương cung rồi đặt mũi tên lên dây cung. Thế rồi Rama
dừng lại v́ trước mắt ḿnh có thân xác của một người Bà la môn, liệu Rama có
bắn cung vào h́nh tướng đó chăng? Khi hai Ramas đứng đối diện với nhau th́
nghe đâu năng lượng của người lớn tuổi truyền sang cho người trẻ tuổi hơn,
năng lượng của Vishnu là năng lượng của Đấng Tối Cao rời bỏ h́nh tướng mà nó
ngự trong đó để nhập vào sự biểu lộ cao siêu của h́nh tướng thiêng liêng đó.
Cái cung được giương lên và mũi tên đă chờ đó, nhưng Rama không bắn cung kẻo
sẽ xảy ra điều tai hại chừng nào ḿnh c̣n chưa xoa dịu được đối thủ của
ḿnh; thế rồi cảm nhận được năng lượng truyền sang, Parashurama cúi đầu
trước Rama v́ thấy Rama thiêng liêng hơn ḿnh, hoan nghênh Ngài là Đấng Chúa
Tể Tối Cao của các thế giới, kính cẩn trước mặt Ngài rồi bỏ đi. Hóa thân ấy
đă qua rồi mặc dù h́nh tướng mà năng lượng c̣n ở trong đó vẫn tồn tại. Chính
v́ thế tôi gọi đó là một Hóa thân thứ yếu. Khi ta có h́nh tướng vẫn c̣n tồn
tại mà ảnh hưởng đă được rút lại th́ ta có bằng chứng rơ rệt rằng ở đó ta
không thể nói là sự hiện thân đă hoàn chỉnh; việc chuyển dời từ người này
sang người kia là dấu hiệu của việc Đấng Ban cấp năng lượng thu hồi nó lại
rồi đưa sang một dẫn thể mới mà công việc mới cần được thực hiện.
71. Bạn hẳn biết câu chuyện về Rama, ta không cần theo dơi nó tỉ mỉ thêm
nữa. Hôm qua ta đă nói tới nó dưới khía cạnh cao siêu nhất là chiến đấu
chống lại lực ác và có thể nói là đổi mới thế giới trở lại. Ta thấy Rama ngự
trị lâu dài trong 10.000 năm của chu kỳ Dvapara, đó là chu kỳ mà đấng Shri
Krishna giáng lâm vào cuối chu kỳ này.
72. Thế rồi tới Đấng Đại Hùng, là chính Đấng Shri Krishna mà hôm nay tôi
không nhắc tới; ngày mai chúng ta sẽ nghiên cứu Hóa thân này một cách sáng
suốt đầy kính cẩn. Thế th́ ta hăy bỏ qua điều đó trong lúc này để dành nó
cho việc nghiên cứu đầy đủ hơn. Và ta xét tới Hóa thân thứ 9 được gọi là Đức
Phật. Thế mà xung quanh vấn đề này nảy sinh ra nhiều sự tranh căi và hiện
nay có một thuyết cho rằng trong số tín đồ Ấn giáo th́ Đức Phật mặc dù là
một hiện thân của Vishnu lại quang lâm để dẫn đi lạc đường những kẻ không
tin vào kinh Phệ đà, gieo rắc sự hỗn loạn trên trần thế. Vishnu là Đấng Chúa
Tể của trật tự chứ không phải sự vô trật tự; là Chúa tể của t́nh thương chứ
không phải Chúa tể của sự hận thù; Chúa tể của ḷng từ bi chỉ giết để cho sự
sống tiến lên khi h́nh tướng đă trở thành một chướng ngại và người ta ắt
báng bổ khi bảo rằng một hiện thân của Đấng Tối Cao mà lại quang lâm để dẫn
đi lạc đường cái thế giới Ngài đă tạo ra. Chính học giả của các bạn là T.
Subba Row đă nói tới cái thuyết đó với sự khinh bỉ phát xuất từ kiến thức;
ấy là v́ không ai có chút ít hiểu biết về huyền bí, không ai biết chút ít ǵ
về sự thực tại nội giới của cuộc sống mà lại có thể nói về cái sự biểu lộ
đẹp đẽ và tử tế của Đấng Tối Cao hoặc có thể mơ tới rằng Ngài khoác lấy h́nh
tướng đại hùng của một Hóa thân chỉ để dẫn đi lạc đường.
73. Nhưng có một điều khác nữa mà ta phải tŕnh bày về Hóa thân này, có lẽ
tôi ắt xung đột với thiên hạ về một khía cạnh khác. Ấy v́ đây là khó khăn
nhằm giữ được trung đạo là con đường mỏng như lưỡi dao cạo không lệch sang
tả cũng như sang hữu mà đấng đại Đạo sư dẫn dắt ta dọc theo đó. Ở hai phía
tả và hữu ta đều thấy có việc phản đối giáo huấn Trung đạo. Theo nghĩa thông
thường của từ này th́ Đức Phật không phải là Đấng mà ta định nghĩa là Hóa
thân. Ngài là người đầu tiên trong nhân loại của chúng ta đă leo lên tới mức
đó và đă ḥa lẫn vào đó với Thượng Đế Ngôi Lời để được toàn giác. Ngài không
phải là một thể xác mà Thượng Đế khoác lấy với mục đích để tự khai thị, mà
là kiếp cuối cùng trong vô vàn kiếp sống Ngài đă leo lên, bỏ qua đi để cuối
cùng ḥa lẫn với đấng Ishvara. Đó không phải là điều thường được gọi là một
Hóa thân mặc dù các bạn có thể bảo rằng kết quả thực ra cũng giống như vậy.
Nhưng trong trường hợp Hóa thân th́ những kiếp đă tiến hóa trong các thiên
kiếp trước kia và Hóa thân xuất hiện sau khi con người đă ḥa lẫn vào Thượng
Đế và Ngài khoác lấy cơ thể đó để được khai thị. nhưng đấng trở thành Phật
Thích Ca đă leo lên hết kiếp này tới kiếp kia ngay trong chính thiên kiếp
của ta cũng như những thiên kiếp trước kia; Ngài đă nhập thể nhiều lần khi
Giống dân lớn thứ tư cư trú nơi lục địa Atlantis hùng vĩ và Ngài đă vươn lên
đảm nhiệm chức vụ Đức Phật v́ Đức Phật chỉ là tôn danh của một chức vụ chứ
không nhằm nói tới một con người đặc thù. Rốt cuộc nhờ sự phấn đấu của chính
ḿnh, Ngài là người đầu tiên trong nhân loại đă có thể đạt tới chức vụ cao
cả ấy trên thế giới. Chức năng đó là ǵ? Đó là Đạo sư của trời và người. Các
Đức Phật trước kia đều là Phật giáng lâm từ một hành tinh khác, v́ nhân loại
chưa sống lâu đến mức đủ ở đây để tiến hóa ra đứa con của chính ḿnh leo lên
tới đỉnh cao đó. Đức Phật Thích Ca sinh ra trong loài người, Ngài đă tiến
hóa qua Giống dân thứ tư để nhập vào gia đ́nh đầu tiên của giống dân Aryan ở
Ấn Độ. Hết kiếp này tới kiếp kia sinh ra ở Ấn Độ, Ngài đă hoàn tất lộ tŕnh
của ḿnh và mang xác người lần cuối cùng ở xứ Ấn Độ. Aryavarta để tuyên cáo
chánh pháp cho nhân loại.
74. Nhưng việc tuyên cáo này không chủ yếu dành cho Ấn Độ. Nó được đưa ra ở
Ấn Độ v́ Ấn Độ là nơi mà theo ư chí của Đấng Tối Cao, những sự khai thị lớn
về tôn giáo đều xuất phát từ đó. V́ vậy Ngài sinh ra ở Ấn Độ, nhưng chánh
pháp của Ngài đặc biệt dành cho những quốc gia ở ngoài biên giới Ấn Độ sao
cho họ có thể học được một nền đạo đức thanh khiết, một nền luân lư cao cả,
tách rời - bởi v́ đây là thời kỳ hắc ám - khỏi mọi giáo huấn phức tạp mà ta
thấy có liên quan tới tín ngưỡng của Ấn giáo vốn siêu h́nh và tinh vi.
75. V́ thế cho nên trong giáo huấn của Đức Phật ta thấy chia ra hai phần
lớn; một là triết lư dành cho người có học, rồi tới luân lư tách rời khỏi
triết lư xét về đại chúng là cao cả, thanh khiết và vĩ đại; thế nhưng lại dễ
hiểu. Ấy là v́ Đức Thế Tôn biết rằng chúng ta đang bước vào một thời đại duy
vật càng ngày càng đắm ch́m sâu hơn, và những quốc gia khác sắp vươn lên, Ấn
Độ nhất thời sắp ch́m xuống để cho những quốc gia khác vươn lên vượt trên nó
trong bậc thang các quốc gia. V́ thế cho nên cần đưa ra một giáo huấn về đạo
đức thích hợp với một thời đại duy vật hơn sao cho ngay cả khi các quốc gia
không tin vào thần linh th́ họ vẫn có thể thực hành đạo đức và tuân theo
giáo huấn của Đức Thế Tôn. Để cho quê hương này không bị đau khổ mất mát và
để cho Ấn Độ không bị thất truyền giáo huấn tinh vi siêu h́nh cùng với việc
mọi giai tầng nhân dân đều tin tưởng vào sự tồn tại rộng răi của Chư thiên
và vai tṛ của Chư thiên trong sự việc của loài người thi công tác của Đức
Phật đă được hoàn thành rồi. Ngài để lại nền đạo đức được xây dựng trên cơ
sở không thể bị lung lay bởi bất kỳ sự thay đổi tín ngưỡng nào, và sau khi
đă hoàn thành sứ mạng Ngài tịch diệt. Thế rồi lại có một Đấng Cao Cả khác
được biệt phái tới và được tiếp điển bởi quyền năng của Đấng Mahadeva, đó là
Shri Shankaracharya để cho Ngài đưa ra giáo huấn về thuyết Bất nhị của Phệ
đàn đà. Đây là triết lư mang lại cho giới trí thức điều mà Đức Phật đă hoàn
thành về mặt đạo đức; giới trí thức ấy ắt bảo vệ được tính linh và để cho
thời đại duy vật cắn nát được cái hạt nhân cứng rắn là triết lư không có t́
vết. Vậy là ở Ấn Độ tôn giáo siêu h́nh đă toàn thắng trong khi giáo huấn của
Đức Thế Tôn được truyền ra khỏi lănh thổ Ấn Độ, thực hiện sứ mệnh cao cả của
ḿnh ở nước khác hơn xứ Ấn Độ, Ấn Độ phải không lung lay niềm tin vào Chư
thiên, ở xứ này người cao nhất cũng như kẻ thấp nhất đều phải cúi đầu phục
tùng quyền lực của Chư thiên. Đó là sự thật về vấn đề bị tranh căi nhiều
nhất là giáo huấn của Hóa thân thứ 9; sự kiện chính là việc giáo huấn của
Ngài không dành cho nơi chôn nhau cắt rún mà dành cho những quốc gia khác
c̣n non trẻ hơn vươn lên xung quanh không đi theo kinh Phệ đà nhưng vẫn cần
giáo huấn về con đường công chính; giáo huấn của Ngài được ban ra là để dẫn
dắt họ chứ không đưa họ đi lạc đường. Nhưng tôi có nói và có lập lại rằng
điều có thể gây hại cho Ấn Độ nếu bị bỏ mặc đó, lại được ngăn ngừa bởi sự
quang lâm của bậc đại Đạo sư của thuyết Bất nhị. Các bạn phải nhớ rằng hết
thế kỷ này tới thế kỷ khác đều có người mang danh xưng là Shankaracharya;
nhưng đấng Shri Shankaracharya mà quyền năng của Đức Mahadeva sinh ra qua đó
chỉ giáng sinh một số năm sau khi Đức Phật đă nhập diệt theo ghi chép của
Dwaraka Math cho thấy rơ rằng khi truy nguyên trở lại th́ Shri
Shankaracharya chỉ ra đời trong ṿng 60 - 70 năm sau khi Đức Phật nhập diệt.
76. Rồi tới Hóa thân thứ 10 trong tương lai là Hóa thân Kalki. Ta chẳng thể
nói được bao nhiều về Ngài, nhưng biết đâu có thể đưa ra một hai lời nói
bóng gió. Khi Ngài quang lâm th́ một thời đại sáng sủa hơn đă ló dạng; c̣n
Chu kỳ Mạt pháp đă qua rồi; Ngài quang lâm cùng với sự ra đời của một giống
người cao cả hơn, khi Căn chủng thứ sáu đă sinh ra trên trần thế. Lúc bấy
giờ có một sự thay đổi lớn trên thế giới, biểu lộ chân lư rất nhiều đó là
chân lư huyền bí và khi Ngài quang lâm th́ huyền bí học lại có khả năng hiển
lộ trên thế gian qua những bằng chứng mà không ai có thể thách đố hoặc chối
bỏ được. Và khi quang lâm Ngài ắt trao lại quyền cai trị Căn chủng thứ sáu
lại cho hai vị vua mà các bạn có đọc thấy trong kinh Kalki Puranas. Khi ta
nh́n lại ḍng thời gian quá khứ th́ ta thấy xuất hiện đi xuất hiện lại hai
nhân vật vĩ đại sát cánh với nhau đó là vị Vua lư tưởng và Tu sĩ lư tưởng.
Họ cùng nhau làm việc, người này cai trị c̣n người kia thuyết pháp, một
người trị nước c̣n người kia giáo hóa quốc gia. Và một cặp những Đấng đại
hùng như thế đều xuất hiện trong mọi thời đại đối với mỗi Giống dân. Mỗi
Giống dân đều có bậc Đạo sư của riêng ḿnh là người Bà la môn lư tưởng mà
ngôn từ Phật giáo gọi là Bồ Tát, Ngài bác học, có nhiều minh triết và sự
thật. Mỗi Giống dân cũng có người cai trị của riêng ḿnh là Đức Bàn Cổ. Ta
có thể truy nguyên hai Đấng này trong quá khứ qua những kiếp nhập thể thực
hữu để thấy các Ngài trong các Giống dân thứ ba, thứ tư và thứ năm. Trong
mỗi Giống dân th́ Đức Bàn Cổ là vị Vua lư tưởng c̣n người Bà la môn là Đạo
sư lư tưởng, và ta học biết rằng khi Hóa thân Kalki quang lâm th́ Ngài sẽ
hiệu triệu từ ngôi làng lư tưởng Shamballa - làng này chỉ có huyền bí gia
mới biết chứ những kẻ phàm phu không biết - có hai vị Vua vẫn sống c̣n trải
qua thời đại để giúp cho thế giới tiến hóa. Trong kinh Puranas có nói tên
của Đức Bàn Cổ của Giống dân sắp tới đó là Moru, c̣n tên của người Bà la môn
lư tưởng là Đạo sư của Giống dân sắp tới đó là Devapi; và hai đấng Quân
vương và Đạo sư này dành cho Giống dân thứ 6 sẽ sinh ra đời.
77. Những người trong các bạn đă đọc biết một điều ǵ đó trong câu chuyện kỳ
diệu của quá khứ đều biết rằng việc tuyển lựa Giống dân mới, triển khai nó
để h́nh thành một Căn chủng mới là một chuyện phải mất nhiều thế kỷ, nhiều
thiên niên kỷ, có khi mất cả trăm ngàn năm. Hai đấng là Quân vương và Tu sĩ,
Đức Bàn Cổ và người Bà la môn đều làm việc xuyên suốt nhiều thế kỷ để tuyển
lựa những người có thể là hạt giống của Giống dân mới. Người ta đă chọn lựa
trong ḷng Giống dân thứ tư để h́nh thành Giống dân thứ năm, bị biệt lập ở
sa mạc Gobi trong nhiều thời gian dài dằng dặc; cái gia đ́nh được tuyển lựa
ấy được rèn luyện, giáo dục, bồi dưỡng cho đến khi Đức Bàn Cổ nhập thể trong
đó cùng với bậc Đạo sư cũng nhập thể trong đó, th́ gia đ́nh Aryan đầu tiên
mới được dẫn dắt để đi định cư ở xứ Ấn Độ Aryavarta. Giờ đây trong ḷng
Giống dân thứ năm th́ Giống dân thứ sáu đang được tuyển lựa, vị Quân vương
và Đạo sư của Giống dân thứ sáu đă tiến hành công tŕnh đầy phúc lợi và hùng
vĩ của ḿnh. Các Ngài đang tuyển lựa từng người một, thử thách và trắc
nghiệm những người sẽ tạo thành hạt nhân của Giống dân thứ sáu. Các Ngài xét
từng linh hồn một, để cho mỗi linh hồn phải trải qua nhiều trắc nghiệm,
nhiều thử thách để xem liệu từ đó có sinh ra sức mạnh của một Giống dân mới
hay chăng; và đến khi công việc của các Ngài đă hoàn thành th́ Hóa thân của
Kalki sẽ quang lâm để xua tan bóng tối; biến Chu kỳ Mạt pháp thành quá khứ,
tuyên cáo sự ra đời của Chu kỳ Chánh pháp mới, với một Giống dân mới mẻ có
nhiều tính linh hơn, phải sinh hoạt trong Chu kỳ Chánh pháp ấy. Thế rồi Ngài
sẽ hiệu triệu những Đấng đă được tuyển chọn là Vua và người Bà la môn rồi
trao vào tay các Đấng này Giống dân giờ đây các bạn phải xây dựng, Giống dân
đó ở trong một thế giới tốt đẹp hơn để xúc tiến cơ tiến hóa của nhân loại.
BÀI THUYẾT TR̀NH THỨ TƯ
ĐẤNG SHRI KRISHNA
80. Thưa các huynh đệ, có những đề tài cao siêu đến nỗi ngôn từ của Chư
thiên không đủ để ca ngợi và bao quát những chủ đề ấy, và khi chúng ta nghĩ
tới âm nhạc trong cây sáo thần của Shri Krishna th́ mọi âm nhạc của thế giới
loài người dường như là không hài ḥa so với giọng điệu của sáo thần. Tuy
nhiên v́ pháp môn bhakti cũng tăng trưởng theo tư tưởng và ngôn từ, cho nên
cũng chẳng có ǵ sai trái khi ta đề cập tới một đề tài linh thiêng như thế;
chỉ có điều là khi bàn tới đề tài này ta cần phải cảm nhận được sự bất lực
của ḿnh; cần phải tiếc nuối những hạn chế của ḿnh và cần phải mong ước có
nhiều quyền năng diễn tả hơn so với mức mà ta có được ở dưới đây. Ấy là v́
có lẽ trong số mọi biểu lộ thiêng liêng mà thế giới đă vinh danh th́ không
có điều ǵ gợi nên một xúc cảm thân thương bàng bạc hơn Hóa thân mà ta sắp
nghiên cứu sáng nay.
81. Những vinh quang nghiêm khắc hơn của đấng Mahadeva, là Chúa Tể của vùng
đất thanh luyện ắt thu hút ḷng người nhiều hơn đối với những kẻ nào đă chán
đời và thấy những hấp dẫn trần tục là tầm phào; Ngài có sức hấp dẫn trong
mọi giai đoạn mà Ngài tự khai thị; Ngài tận nhân t́nh tới đến cốt lơi, Ngài
có dạy rằng v́ sinh ra trong ḷng nhân loại cho nên Ngài hành xử như một con
người, với tư cách là trẻ con Ngài thực sự là trẻ con, thích chơi đùa, vui
vẻ, dễ thương đắc nhân tâm. Khi lớn lên thành thiếu niên rồi trưởng thành
th́ Ngài cũng vận dụng chính sức thu hút hấp dẫn đó đối với tâm hồn nam phụ
lăo ấu, Ngài là đấng Thần linh mà ở đâu có mặt Ngài là ở đó có sự vui vẻ; ở
đâu có mặt Ngài là triền miên có tiếng cười đùa và âm nhạc. Khi nghĩ tới
đấng Shri Krishna, ta dường như nghe thấy tiếng sóng gợn của ḍng sông,
tiếng lá ŕ rào trong rừng thẳm, tiếng ḅ rống trong đồng cỏ, tiếng cười của
lũ trẻ vui đùa quanh quẩn bên cha mẹ. Ngài căn bản là đấng Thần linh cận
nhân t́nh trong mọi chuyện, cúi xuống đồng cảm trước cái nôi của em bé sơ
sinh, đồng cảm với sự vui chơi của tuổi thanh xuân, Ngài là bạn của kẻ đang
yêu, Ngài ban phước cho cô dâu chú rể, Ngài mỉm cười với bà mẹ trẻ khi ẳm
bồng đứa con đầu ḷng của ḿnh - đâu đâu Ngài cũng là vị Thần linh của t́nh
thương và hạnh phúc của con người, chẳng lấy ǵ làm lạ khi sự dễ thương đắc
nhân tâm của Ngài lại làm say mê tâm hồn con người.
82. Thế th́ ta sẽ nghiên cứu Ngài sáng nay. Bây giờ tôi xin nói đấng Hóa
thân có hai khía cạnh đối với thế gian mà tôi cần nói ra để giải tỏa một số
khó khăn sơ bộ. Trước hết Ngài là một sự kiện lịch sử. Đừng quên điều đó.
Khi bạn đang đọc câu chuyện của các Đấng Cao Cả th́ các bạn đang đọc lịch sử
chứ không phải chuyện ngụ ngôn. Nhưng đó c̣n hơn là lịch sử nữa, các Hóa
thân diễn trên sân khấu cuộc đời một vở tuồng hoành tráng, có thể nói Ngài
đang đóng vai tṛ trong thế giới của Shri Krishna, và cái phạm vi rộng lớn
do Ngài bao quát, xét về biểu lộ của Ngài đối với sinh hoạt phức tạp của
loài người th́ để cho đề tài rộng lớn này dễ xử lư hơn một chút, tôi xin
chia, có thể nói, vở tuồng này ra thành những hồi riêng biệt. Nhất thời tôi
đang dùng ngôn ngữ của sân khấu bởi v́ tôi thiết tưởng ngôn ngữ này minh
giải ngụ ư của tôi rơ hơn. Khi bàn tới cuộc đời Ngài, tôi đă vạch rơ những
giai đoạn của nó và trong mỗi giai đoạn ấy có một loại h́nh lớn giáo huấn
ngụ ư dành cho thế giới học tập từ việc đóng tuồng trước mắt bàng dân thiên
hạ. Trong một chừng mực nào đó, những giai đoạn này tương ứng với những thời
kỳ rơ nét trong cuộc đời và trong một chừng mực nào đấy chúng chồng chất lên
nhau; nhưng tôi thiết tưởng khi hiểu rơ được chúng th́ chúng ta có thể lĩnh
hội tốt hơn toàn thể mục tiêu của Hóa thân và có thể nói rằng trong tâm trí
ta có những ngăn kín dành cho những loại h́nh giáo huấn khác nhau.
83. Thế th́ trước hết Ngài đến để bộc lộ cho thế gian Mục tiêu lớn của
bhakti tức là t́nh thương của Thượng Đế dành cho tín đồ. Đó là Mục đích của
hồi một trong vở tuồng lớn - nổi bật lên là Mục tiêu của ḷng sùng tín và
hiển lộ t́nh thương mà Thượng Đế dành cho tín đồ. Lúc bấy giờ ta có một giai
đoạn rơ nét trong cuộc đời đấng Shri Krishna.
84. Thế rồi hồi hai của vở tuồng, có thể nói là Ngài đóng vai nhân vật chính
là hủy diệt những lực lượng đối lập làm chậm trễ cơ tiến hóa, nó xuyên suốt
trọn cả cuộc đời Ngài.
85. Hồi ba là Ngài đóng vai nhà lănh đạo quốc gia và diễn viên khôn ngoan,
hợp chính trị, trí thức, trên sân khấu lịch sử thế giới, là lực lượng dẫn
dắt quốc gia qua chính sách kỳ diệu, thông minh, nổi bật lên không phải là
vị vua mà đúng hơn là bậc lănh đạo quốc gia.
86. Thế rồi ta thấy Ngài là người bạn, người bạn mang h́nh tướng người, nhất
là đối với ḍng họ Pandava và Arjuna.
87. Hồi kế tiếp. Đấng Shri Krishna đóng vai bậc Đạo sư, đạo sư của thế giới
chứ không phải đạo sư của một giống dân duy nhất.
88. Thế rồi ta thấy Ngài có một khía cạnh kỳ lạ, kỳ diệu là đấng Sục Sạo
trong tâm hồn con người, thử thách và trải nghiệm bản chất con người.
89. Cuối cùng ta có thể coi Ngài là biểu lộ thành Đấng Tối Cao, sự sống thấm
nhuần vạn vật trong vũ trụ, Ngài không coi có thứ ǵ ở bên ngoài chính ḿnh,
Ngài ôm trọn trong ṿng tay ḿnh cả điều ác lẫn điều thiện, cả bóng tối lẫn
ánh sáng, không có ǵ xa lạ với Ngài.
90. Có thể nói ta chia lịch sử cuộc đời ra thành bảy hồi và mỗi hồi có thể
được nghiên cứu trong thời gian một kiếp sống thay v́ ta dồn nén chúng lại
thành một bài thuyết tŕnh trong buổi sáng. Tuy nhiên tôi xin lần lượt xét
tới chúng cho dù không thỏa đáng; ấy là v́ những điều tôi nói bóng gió có
thể được bạn triển khai thành chi tiết tùy theo cấu tạo trong tâm trí của
chính ḿnh. Có một khía cạnh thu hút con người c̣n khía cạnh khác lại thu
hút người khác, mọi khía cạnh đều đáng nghiên cứu, mọi khía cạnh đều gợi ra
ḷng sùng tín. Nhưng nhiều hơn hết đối với ḷng sùng tín là giai đoạn sơ
khởi trong cuộc đời Ngài gây cảm hứng và tràn đầy sự ban phước, giai đoạn
đầu tiên khi Ngài là đứa trẻ con, lớn hơn khi đang ở Vraja trong khu rừng ở
Brindaban, khi Ngài sinh hoạt với đám người chăn ḅ cùng với vợ con họ, đó
là một đứa trẻ kỳ diệu làm mê mẩn ḷng người. Ta nên chú ư - và nếu ta nhớ
kỹ th́ ắt đă không thốt ra nhiều lời phạm thượng - rằng đấng Shri Krishna tự
nguyện hiển lộ ra thành đối tượng của ḷng sùng tín, là người yêu thương tín
đồ dưới dạng một đứa trẻ chứ không phải người lớn.
91.
Thế rồi ta sẽ tới thời kỳ Ngài giáng sinh, nên nhớ rằng trước khi Ngài giáng
sinh trên trần thế th́ các thần linh ngự ở trên những cơi cao cùng với đấng
Vishnu và thỉnh nguyện đấng Vishnu can thiệp để làm nhẹ bớt gánh nặng của
trần thế, để có thể chận đứng sự áp bức của các Daitya đang nhập thể; thế
rồi đấng Vishnu phán với Chư thần linh rằng, Các ngươi hăy ra đi nhập thể
nơi những bộ phận nhân loại và giáng sinh giữa nhân quần. Các đấng Rishis vĩ
đại cũng quang lâm ở nơi mà chính đấng Vishnu sẽ ra đời sao cho trước khi
Ngài quang lâm th́ có thể nói môi trường xung quanh của vở tuồng đă được dọn
dẹp sẵn và ta gọi họ là người chăn ḅ như Vraja, Nanda và những người thân
cận với Ngài; các đấng Gopis và mọi cư dân của vùng thánh địa ấy được biết
đều là ‘người giống như thần linh’, không đâu, c̣n hơn nữa, họ là ‘Người bảo
vệ thế giới’ sinh ra làm người v́ sự tiến bộ của thế gian. Những điều này
ngụ ư là chính Chư thần linh đă quang lâm và sinh ra làm người và khi bạn
nghĩ rằng mọi điều xảy ra suốt cả thời kỳ trẻ con kỳ diệu trong Vở tuồng
Lila của đấng Krishna th́ nên nhớ rằng những người đóng trong các hồi của vở
tuồng ấy đều không phải là người đàn ông đàn bà b́nh thường mà là những vị
Hộ pháp nhập thể đóng vai người chăn ḅ xung quanh Ngài. C̣n các Gopis là
những bà vợ dễ thương của đám người chăn ḅ và chăn cừu đều là các Rishis
thời xưa do ḷng sùng tín đối với đấng Vishnu đă được phép nhập thể làm
Gopis để cho họ có thể sinh hoạt xung quanh Ngài trong thời thơ ấu và dâng
trọn t́nh thương dưới gót chân lẫm chẫm biết đi của đứa trẻ con và cũng là
của đấng Thần linh mà họ tôn sùng là Đấng Tối Cao.
92. Khi người ta đă sửa soạn xong cho sự chào đời của đứa bé th́ nó sinh ra.
Tôi không nói dông dài về mọi diễn biến nổi tiếng xung quanh sự ra đời của
nó: lời tiên tri là đấng hủy diệt Kansa sẽ ra đời, việc vô vọng nhốt sản phụ
vào hầm tối, xiềng xích bằng dây xích sắt cùng với mọi điều điên rồ khác mà
tên bạo chúa trần tục ra sức vô hiệu hóa sự thành tựu sắc lệnh của Đấng Tối
Cao. Tất cả các bạn đều biết những kế hoạch đó chẳng đi tới đâu giống như dă
tràng xe cát, những đụn cát do bàn tay lũ trẻ vun xới lại bị quét đi bằng
phẳng khi một đợt sóng biển lướt qua sân chơi của một đứa trẻ. Nó sinh ra
đời dưới dạng bốn chân, sáng rực nhất thời trong ngục tối, trước khi nó chào
đời th́ nó đă tỏa sáng qua cơ thể của bà mẹ nghe đâu bà giống như cái b́nh
thạch cao (bà hết sức tinh khiết) chứa một ngọn lửa ở bên trong. Ấy là v́ ở
bên trong tử cung của bà, bản thân bà, cái b́nh bằng thạch cao giống như một
ngọn đèn chứa đựng Ngài vốn là ánh sáng của thế giới sao cho sự vinh diệu
soi sáng bóng tối trong ngục giam nhốt bà. Khi chào đời Ngài quang lâm là
đấng Vishnu, nhất thời biểu lộ với mọi dấu hiệu của đấng Thiêng liêng với
cái đĩa, với vỏ ốc xà cừ, với dấu hiệu shrivatsa trên ngực, với mọi biểu
hiệu mà người ta thừa nhận về Đấng Chúa Tể. Nhưng h́nh tướng ấy nhanh chóng
biến mất, chỉ c̣n lại đứa trẻ thơ nằm sờ sờ trước mặt cha mẹ. Và bạn nên nhớ
rằng người cha ẳm nó lên, chuyển nó và mọi thứ c̣n lại qua cánh cửa lớn bị
khóa chặt, rồi đưa nó tới nơi an toàn ở nhà em ḿnh, nơi đây Ngài đă ở một
chỗ được chuẩn bị sẵn cho sự quang lâm của Ngài.
93. Khi c̣n là đứa trẻ sơ sinh, Ngài hiển lộ quyền năng ở nơi ḿnh mà ta ắt
thấy khi xét tới giai đoạn thứ nh́ là người tiêu diệt tà lực. Nhưng nhất
thời ta chỉ quan sát Ngài chơi trong nhà mẹ nuôi khi Ngài đùa giỡn với những
đứa trẻ cùng trang lứa. Khi Ngài lớn lên thành trẻ trai có thể đi đây đi đó
một ḿnh, th́ Ngài bắt đầu đi lang thang qua những cánh đồng và những khu
rừng; những nốt nhạc từ cây sáo thần của Ngài vang vọng trong mọi khu rừng
nhỏ trên khắp cánh đồng. Đứa trẻ chỉ mới lên năm khi Ngài đi lang thang tay
cầm cây sáo thần, cuốn hút tâm hồn của mọi người nghe thấy tiếng sáo sao cho
lũ trẻ con ngừng chăn ḅ để đi theo điệu nhạc của cái sáo; đám phụ nữ ngừng
làm việc nhà để đi theo đến nơi thổi sáo; cánh đàn ông ngừng lao động để cho
họ được nghe thỏa thích âm nhạc của tiếng sáo. Không đâu, chẳng những nam
phụ lăo ấu mà nghe nói cả những con ḅ cũng ngừng gặm cỏ để lắng nghe những
nốt nhạc lọt vào tai ḿnh, c̣n những con bê ngừng bú vú mẹ khi tiếng gió đưa
âm nhạc tới tai chúng, ḍng sông nổi sóng để có thể nghe được tiếng nhạc tốt
hơn, cây cối nghiêng ḿnh cho cành cây rũ xuống để không bị mất một nốt nhạc
nào, chim chóc không hót nữa kẻo tiếng hót của chúng sẽ làm cho bản nhạc du
dương không c̣n hài ḥa nữa, khi đứa trẻ kỳ diệu đi lang thang qua khắp xứ
và nhạc trời tuôn ra từ cây sáo thần của Ngài.
94. Thế là Ngài sinh hoạt, chơi đùa, giải trí, và tâm hồn của mỗi người chăn
ḅ cùng với vợ con đều theo đến với đứa trẻ thần kỳ. Và Ngài chơi với họ,
yêu thương họ, họ nhấc bổng Ngài lên, đặt bàn chân sơ sinh của Ngài vào ḷng
ḿnh rồi hát với Ngài, coi đó là Chúa Tể của tất cả, là Đấng Tối Cao, là
Đấng Đại Hùng. Họ công nhận đấng Thiêng Liêng qua đứa trẻ chơi quanh nhà
ḿnh và đứa trẻ ấy đă dạy cho họ nhiều bài học qua những tṛ chơi đùa và
chơi khăm - những bài học vẫn c̣n dạy cho thế gian và những người biết nhiều
nhất cũng hiểu rơ nhất.
95. Tôi xin lấy một ví dụ mà những kẻ dốt nát thường sử dụng nhiều nhất để
lăng mạ, ra sức làm mất uy tín, sự oai vệ mà họ không hiểu nổi. Tôi xin nói
như sau: Tôi tin rằng trong hầu hết trường hợp mà những lời lăng mạ cay đắng
này được thốt ra, th́ chúng được thốt ra bởi những người chưa bao giờ thật
sự đọc hết câu chuyện, mà chỉ nghe được một vài mẩu chuyện, rồi cung cấp
phần c̣n lại bằng trí óc tưởng tượng của ḿnh. V́ thế cho nên tôi xin xét
một diễn biến đặc thù mà tôi nghe nói hầu hết mọi người dùng lời cay đắng
cho đó là bằng chứng của sự vô luân dễ sợ của đấng Shri Krishna.
96.
Trong khi đứa trẻ lên sá u tuổi, một
ngày kia đi lang thang như thường lệ th́ có một số vợ người chăn chiên trần
truồng tắm dưới sông v́ đă trút bỏ hết xiêm y - lẽ ra họ không nên làm như
vậy, v́ điều này không đúng với luật lệ và cho thấy họ vô ư vô tứ không giữ
vẻ đoan trang của phụ nữ. Bỏ lại xiêm y trên bờ, họ đắm ḿnh dưới ḍng sông.
Đứa trẻ lên sáu nh́n thấy điều này bằng đôi mắt trí tuệ và Ngài thu thập hết
xiêm y của họ rồi leo lên một cái cây gần đó, mang theo xiêm y quấn quanh
vai ḿnh rồi chờ xem điều ǵ sẽ xảy ra. Nước lạnh căm căm và đám vợ người
chăn chiên run cằm cặp, nhưng họ không dám ra khỏi ḍng nước trước đôi mắt
soi mói của đứa trẻ. Ngài kêu gọi họ đến với ḿnh để lấy xiêm y mà họ đă vứt
bỏ; và khi họ ngần ngại th́ miệng đứa trẻ sơ sinh thốt lên lời nói cho rằng
họ đă phạm tội chống lại Thượng Đế v́ không đoan trang vứt bỏ xiêm y lẽ ra
ḿnh phải mặc; v́ vậy họ phải chuộc tội bằng cách đến đây lấy lại những thứ
mà ḿnh vứt bỏ từ trên tay Ngài. Họ đến và tôn thờ rồi Ngài trao lại xiêm y
cho họ. Một câu chuyện vô luân với nhân vật trung tâm là đứa trẻ lên sáu.
Người ta kể chuyện dường như thể Ngài là một người trưởng thành xâm hại tiết
hạnh của phụ nữ. Vợ người chăn chiên là Rishi c̣n Đấng Chúa Tể Tối Cao là
đứa trẻ sơ sinh đang dạy cho họ một bài học. Nhưng c̣n hơn thế nữa, đằng sau
câu chuyện có một bài học huyền bí sâu sắc - câu chuyện này được lập lại
dưới nhiều dạng khác nhau - và ư nghĩa nó như sau: khi linh hồn tới gần Đấng
Chúa Tể Tối Cao ở giai đoạn vĩ đại là Điểm đạo th́ nó phải trải qua một cuộc
thử thách lớn: bị lột bỏ hết mọi thứ mà nó đă dựa dẫm vào từ trước đến nay,
bị lột bỏ hết mọi thứ không phải là Tự ngă nội tâm của ḿnh, bị tước bỏ hết
mọi ngoại viện, mọi sự che chở bên ngoài, mọi sự bao bọc bên ngoài, cho nên
chính linh hồn với sự sống cố hữu của chính ḿnh phải trần truồng và trơ
trụi, không dựa dẫm vào điều ǵ ngoại trừ sự sống của Tự ngă bên trong ḿnh.
Nếu linh hồn nao núng trước thử thách, nếu nó bám khư khư lấy bất cứ thứ ǵ
mà cho đến nay nó đă trông chờ nhờ giúp đỡ ḿnh, nếu trong giờ phút ngàn cân
treo sợi tóc ấy nó kêu lên để được bạn đến giúp đỡ; không đâu, ngay cả chính
Sư phụ đến cứu giúp th́ linh hồn đă thất bại trong cuộc thử thách ấy. Trần
truồng và cô đơn, nó phải ra đi mà hoàn toàn không có sự giúp đỡ nào ngoại
trừ thiên tính bên trong ḿnh. Chính sự trần truồng của linh hồn khi nó đến
gần mục tiêu tối cao đă được kể lại qua câu chuyện là đấng Shri Krishna, đứa
trẻ cùng với đám vợ người chăn chiên, sự trần truồng của sự sống trước Đấng
duy nhất ban phát nó th́ ta mới thấy được cũng nhiều ẩn dụ khác tương tự như
vậy. Khi Đấng Chúa Tể quang lâm là Hóa thân thứ mười Kalki, th́ Ngài chiến
đấu trên chiến trường và bị đánh bại. Ngài sử dụng mọi vũ khí và tất cả đều
làm cho Ngài thất bại, đến khi Ngài vứt hết mọi vũ khí và chiến đấu bằng bàn
tay trần trụi th́ Ngài mới chiến thắng. Cũng cùng ư tưởng như thế, trong mọi
thứ, trí năng đều làm cho linh hồn trần truồng thất bại trước mặt Thượng Đế.
[Cũng vậy trong quyển Noi gương đấng Kitô - đây là tác phẩm của một
huyền bí gia - người ta có viết rằng ta phải ‘trần truồng đi theo Chúa Giêsu
trần truồng’].
97. Nếu tôi đặc biệt xét tới câu chuyện này trong số hàng trăm các chuyện để
nói dông dài về nó, th́ ấy chỉ v́ đó là một trong những điều bị đả kích và
các bạn là người Ấn giáo bản địa nên biết đầy đủ về những sự thật nội giới
trong tôn giáo của chính ḿnh chứ đừng lặng thinh xấu hổ khi người ta đả
kích, mà phải lên tiếng bằng sự hiểu biết để ngăn ngừa những lời báng bổ như
thế.
98. Thế rồi ta học biết nhiều chi tiết hơn nữa về việc Ngài chơi với đám vợ
người chăn chiên khi Ngài là đứa trẻ lên bảy: Ngài đi lang thang vào rừng
rồi mất tích và tất cả túa ra đi kiếm Ngài, họ cố gắng bắt chước tṛ chơi
của Ngài để lấp đầy khoảng trống rơi rớt lại khi Ngài vắng mặt. Khi là đứa
trẻ lên bảy, Ngài đă bị mất tích trong một lúc rồi trở lại với những người
yêu thương Ngài giống như Thượng Đế đă trở lại với tín đồ của ḿnh. Thế rồi
xảy ra vũ điệu kỳ diệu Rasa của đấng Shri Krishna, vốn là một phần tṛ chơi
Lila của Ngài khi Ngài phân thân ra cho mọi cặp vợ người chăn chiên đều thấy
Ngài ở giữa ḿnh, ở giữa ṿng vây những người phụ nữ, đứa trẻ lại xuất hiện
ngay giữa mỗi cặp phụ nữ ch́a tay cho mỗi người, thế là vũ điệu thần bí bắt
đầu. Đây là một điều đả kích khác nữa do tâm trí vô minh đưa ra. Chỉ có một
đầu óc không trong sách mới có thể thấy điều ǵ không trong sạch qua vũ điệu
của đứa trẻ với tư cách là người t́nh với bạn t́nh của ḿnh? Dường như thế
Ngài đă nh́n xuyên suốt qua mọi thời đại và thấy rằng sau này người ta ắt
nói ǵ; dường như thể trong tṛ chơi Lila ấy Ngài đă giữ h́nh tướng trẻ con
để có thể làm thâm nhập một cách vô hại vào tâm hồn mù quáng không trong
sạch của con người cái bài học mà Ngài vui ḷng ban ra. Bài học ấy là ǵ? Có
một dịp khác tôi xin nhắc các bạn trước khi tôi rút ra bài học từ toàn bộ
giai đoạn cuộc đời của Ngài. Ngài đi xin ăn. Ngài vốn là đấng Cấp dưỡng cho
thế giới. Thế mà một số người Bà la môn lại từ chối không bố thí rồi xua
đuổi những đứa trẻ đến xin ăn cho Ngài. Khi những người đàn ông từ chối th́
Ngài lại đi xin ăn người phụ nữ để xem đám phụ nữ liệu có cũng từ chối cấp
dưỡng lương thực mà chồng ḿnh không chịu bố thí. Và đám phụ nữ luôn luôn
yêu thương Đấng Chúa Tể, vét hết mọi lương thực trong nhà rồi đi ra tụ tập
mang thức ăn tới cho Ngài, và bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ chồng, bỏ con, bỏ mọi bổn
phận trong gia đạo. Và mọi người đều ra sức ngăn họ lại, nhưng họ không chịu
dừng bước; anh em, vợ chồng, bạn bè, đều ra sức giữ họ lại; nhưng không đâu,
họ phải đi t́m Ngài, đến với đấng Thân thương là Shri Krishna; Ngài không
được đói v́ đó là đứa trẻ mà họ yêu thương. Thế là họ cứ đi mang lương thực
tới cho Ngài và Ngài ăn ngon lành. Nhưng họ lại bảo rằng: ‘Họ đă bỏ chồng,
đă bỏ nhà! Bỏ chồng, bỏ nhà để đi theo đấng Shri Krishna th́ sai trái biết
là chừng nào! Luôn luôn trong đó có hàm ư là t́nh yêu của họ hoàn toàn là
t́nh yêu thể chất có thể được như một đứa trẻ lên bảy. Tôi biết người ta
thường dùng những lời lẽ của t́nh yêu thể chất và tôi biết trong một bản
dịch kỳ lạ người ta viết rằng ‘Họ bị bùa yêu’. Lời lẽ không có ǵ quan
trọng, ta hăy xem xét những sự kiện. Không có tôn giáo nào trên thế giới mà
không dạy rằng khi Đấng Tối Cao hiệu triệu th́ phải vứt bỏ hết mọi thứ. Tôi
đă thấy đấng Shri Krishna được đối chiếu với Chúa Giêsu ở Nazareth để gây
thiệt hại cho cho đấng Shri Krishna; và ta cũng đối chiếu giữa sự trong sạch
của đấng này với sự không trong sạch của đấng kia; người ta đưa ra bằng
chứng rằng người ta bỏ chồng bởi v́ những bà vợ đi chơi đùa với và ngóng chờ
Đấng Chúa Tể. Nhưng tôi cũng được đọc những lời lẽ do Chúa Giêsu ở Nazareth
thốt ra. ‘Kẻ nào yêu thương cha mẹ nhiều hơn thầy th́ kẻ đó không xứng đáng
với thầy, kẻ nào yêu thương con trai, con gái nhiều hơn thầy th́ không xứng
đáng với thầy’. ‘Và mọi đấng đă bỏ nhà, bỏ anh chị em, bỏ cha mẹ, bỏ vợ con,
bỏ ruộng đất v́ danh của thầy, th́ những người đó sẽ nhận được nhiều hơn gấp
trăm lần và đáng được hưởng sự sống đời đời’. (Matt x.37 và xix.29). Lại nữa
c̣n có câu mạnh mẽ hơn: ‘Nếu bất cứ ai đến với thầy mà không dứt bỏ cha mẹ,
vợ con, anh chị em và cả sự sống của chính ḿnh nữa, th́ người ấy không thể
là môn đồ của thầy’ (Luke xiv. 26). Đó cũng là chính ư tưởng nêu trên. Khi
Chúa Giêsu hiệu triệu th́ phải bỏ hết vợ chồng, cha mẹ, th́ mới có phần
thưởng là sự sống đời đời. Tại sao đối với Chúa Giêsu th́ đúng mà đối với
đấng Shri Krishna lại sai?
99. Chẳng những ta thấy trong cả hai tôn giáo đều có cùng một giáo huấn, mà
trong mỗi tôn giáo khác trên thế giới, người ta đều dùng những thuật ngữ
t́nh yêu thể chất để miêu tả mối quan hệ giữa linh hồn và Thượng Đế. Ta hăy
xét ‘Bài ca Solomon’. Nếu ta lấy quyển kinh thánh của Kitô giáo rồi đọc phần
bên lề th́ ta đọc được câu ‘T́nh yêu của đấng Kitô đối với Hội thánh’, và
nếu từ phần bên lề, ta nh́n xuống cột 9 trong trang th́ ta ắt thấy những bài
thánh ca đam mê nhất, miêu tả h́nh dáng phụ nữ tuyệt vời với mọi chi tiết về
vẻ đẹp hấp dẫn của ḿnh, lời kêu gọi của người t́nh mời gọi bạn t́nh đến với
ḿnh để cho t́nh yêu của họ được trọn vẹn. Người ta giả định ‘Đấng Kitô và
Hội thánh’ của ngài khiến cho mọi chuyện đều đúng đắn và tôi bằng ḷng khi
thấy rằng điều này nên như thế. Tôi không có lời nào để nói chống lại ‘Bài
ca Solomon’, cũng không phàn nàn về ảnh tượng rực rỡ, tráng lệ, xa hoa của
nó, nhưng tôi không chịu coi đó là trong sạch đối với người Hebrew, điều mà
tôi từ chối là không trong sạch đối với người Ấn giáo. Tôi yêu cầu tất cả
phải được phán đoán theo cùng một tiêu chuẩn và nếu người ta phải lên án thứ
này th́ cũng phải lên án thứ kia để cho công bằng. Đối với những bài ca của
phái Sufis - thần bí gia của tín ngưỡng Hồi giáo th́ cũng như vậy, người ta
bao giờ cũng dùng t́nh yêu của phụ nữ là biểu tượng tốt nhất của t́nh yêu
giữa linh hồn và Thượng Đế. Trong mọi thời đại th́ t́nh yêu giữa vợ và chồng
đều là biểu tượng của sự hợp nhất giữa Đấng Tối Cao và tín đồ; đó là mối
liên kết trần tục mật thiết nhất, sự hợp nhất trần tục thân thiết nhất, sự
ḥa lẫn của tâm hồn và thể xác của cặp bài trùng trở thành một - liệu ta có
thể t́m được ở đâu một h́nh ảnh hay ho hơn về sự ḥa lẫn của linh hồn đối
với Thượng Đế của ḿnh? Bao giờ đối tượng của ḷng sùng tín cũng được tŕnh
bày tượng trưng là người t́nh hay người chồng, c̣n tín đồ được tượng trưng
là người vợ hay bồ bịch. Phép tŕnh bày biểu tượng này phổ quát khắp thế
giới bởi v́ căn bản là nó đúng. Sự phó thác hoàn toàn của người vợ đối với
người chồng cũng là loại h́nh trên trần thế tiêu biểu cho sự phó thác hoàn
toàn của linh hồn đối với Thượng Đế. Điều này biện minh cho vũ điệu Rasa của
đấng Shri Krishna, đó là lời giải thích về chuyện đời Ngài ở Vraja.
100. Thưa các huynh đệ, tôi đă đặc biệt nói dông dài về điều này và tất cả
các bạn đều biết tại sao. Ta hăy bỏ qua nó và nên nhớ rằng măi cho tới thế
kỷ XIX th́ câu chuyện này chỉ gợi lên ḷng sùng tín chứ không phải sự dâm ô,
và chỉ khi có loại h́nh tư tưởng Âu Mỹ thô tục hơn th́ ta mới thấy những ư
tưởng này được tŕnh bày thành kinh Bhagavad Purana. Tôi xin nói đối với
Thượng Đế th́ trong kinh Shrimad Bhagavata, các đấng Rishis không c̣n là một
giống dân không xứng đáng nữa, các Ngài đă được rút ra khỏi phần lớn kinh
Phệ đà, phần lớn những cổ thư và người ta cũng đă rút các Ngài ra khỏi câu
chuyện về t́nh yêu của đấng Shri Krishna cho đến khi người ta đă đủ trong
sạch để đọc nó mà không báng bổ và đủ trong sáng để đọc nó mà không nghĩ tới
t́nh dục.
101. Bây giờ ta hăy bỏ qua giai đoạn này để xét tới giai đoạn kế tiếp, đó là
giai đoạn đấng Tiêu diệt điều ác chẳng bao lâu nữa thôi. Từ khi c̣n là trẻ
sơ sinh chỉ mới vài tuần tuổi, Ngài đă mút chết loài La sát, tên là Putana;
từ khi Ngài đi vào hang động lớn do loài quỷ tạo ra rồi hiện h́nh lớn hơn để
quét sạch tiêu diệt toàn thể thành những mảnh vụn; từ khi Ngài dẫm lên đầu
con rắn Kaliya để cho nó không làm ngộ độc nước cần cho thiên hạ uống; cho
tới khi Ngài rời bỏ Vraja để tới gặp Kansa th́ ta thấy Ngài luôn luôn xua
đuổi mọi h́nh thức gian tà xuất hiện trong phạm vi chỗ ở của Ngài. Ta được
biết rằng khi Ngài rời bỏ Vraja và đứng ở đấu trường Kansa với anh em của
ḿnh th́ anh em và chính Ngài đều c̣n là những đứa trẻ trai ở trong thân xác
thiếu niên mảnh mai. Sau khi toàn bộ tṛ chơi Lila đă qua rồi th́ họ vẫn c̣n
là thiếu niên khi họ đi chiến đấu. Từ lúc đó trở đi Ngài gặp hết thứ này tới
thứ khác, đều là hiện thân của điều ác rồi đè bẹp chúng bằng sức mạnh vô
địch của ḿnh. Chúng ta không cần nói dông dài về những câu chuyện này v́
cuộc đời Ngài đầy dẫy những chuyện ấy.
102. Chúng ta tới giai đoạn thứ ba là nhà Lănh đạo quốc gia, một đặc điểm vô
cùng thú vị trong cuộc đời Ngài, sự khéo xử, tế nhị, nh́n xa trông rộng, tài
khéo luôn luôn vạch trần sự sai trái của kẻ chống đối Ngài, thế là chiến
thắng trên đường đi và mang theo những người khác. Các bạn biết rằng phần
này trong cuộc đời Ngài được đặc biệt phô diễn liên quan tới đám anh em nhà
Pandavas. Ngài là người trong mọi khó khăn đều tiến lên với vai tṛ đặc sứ;
chính Ngài đi cùng với Arjuna và Bhima để giết vị vua khổng lồ Jarasandha,
ông này say sưa hiến tế con người cho đấng Mahadeva, đây là sự hiến tế bị
chặn đứng lại v́ phạm thượng; chính Ngài đi cùng với họ để cho cuộc xung đột
có thể xảy ra mà không vi phạm những quy tắc nghiêm ngặt nhất trong đạo đức
của giai cấp Sát đế lị. Ta hăy cùng theo Ngài với Arjuna và anh em Arjuna đi
vào đô thị của vị vua. Họ không đến mà không được trang sức và thách đố tại
sao họ lại mang hoa và đàn hương th́ xin đáp họ đến để cử hành lễ chiến
thắng, để chu toàn một lời khấn nguyện. Khi được dâng lên thực phẩm th́ vị
đặc sứ tài hoa trả lời rằng, lúc bấy giờ họ không nhận thực phẩm rồi sau này
sẽ gặp đức vua để giải thích chủ đích của ḿnh. Khi đă đến lúc th́ Ngài nói
với đức vua bằng một giọng điệu rơ ràng nhưng nhă nhặn nhất, theo đó mọi
hành vi này đă được thực hiện để cho người ta biết họ đến không phải với tư
cách bạn bè mà với tư cách kẻ thù để thách đấu vị vua. Thế rồi lại có thắc
mắc sau 13 năm lưu đày th́ làm sao mà thu hồi lại đất đai không cần chiến
đấu, ta thấy Ngài xuất hiện trong gia tộc Pandava cùng với bạn bè với lời
khuyên khôn ngoan nhất biết đâu có thể tránh được chiến tranh; ta thấy Ngài
tự nguyện làm đặc sứ để dùng miệng lưỡi đầy pháp thuật hoàng kim của ḿnh
giữ ǵn ḥa b́nh; ta thấy Ngài làm đặc sứ và tránh mọi lều quán được dựng
lên theo lệnh của Duryodhana, Ngài không thể nhận thực phẩm từ người là kẻ
thù, một phép xă giao có thể ràng buộc Ngài làm bạn bè. Thế là khi Ngài đáp
lời của Duryodhana theo yêu cầu của phép xă giao th́ chẳng bao giờ Ngài vi
phạm bổn phận hoàn hảo của vị đặc sứ, trong khi vẫn chu toàn mọi yêu cầu nhă
nhặn th́ Ngài không chạm tới thực phẩm ắt tạo thành một mối liên kết giữa
chính Ngài với kẻ mà Ngài đến đây để chiến đấu chống lại. Ta thấy thực phẩm
duy nhất mà Ngài nhận là thực phẩm của em người vua, chỉ có thế thôi. Ngài
bảo rằng ‘nó trong sạch và đáng cho ta ăn’. Ta thấy trong hội đồng của vị
vua thù địch, Ngài ra sức trấn an và lấy ḷng. Ta thấy Ngài xin lỗi bằng sự
khiêm tốn nhu ḥa nhất, đối với vị đại vương là ông vua mù th́ Ngài ngỏ lời
nhân danh anh em Pandava bằng lời lẽ thỉnh nguyện chứ không phải là kẻ thù
ghét bỏ và phẫn nộ. Ta thấy bằng lời lẽ ôn ḥa Ngài ra sức xua tan những lời
nóng giận và dùng mọi phương tiện hùng biện để chinh phục ḷng người và
thuyết phục sự phán đoán của họ. Măi về sau này khi trận chiến Kurukshetra
đă qua rồi, khi mọi đứa con của ông vua mù bị giết chết th́ ta thấy một lần
nữa Ngài lại đóng vai đặc sứ để gặp người cha đă mất hết con, và cay đắng
hơn nữa là người mẹ mất hết con, khi cơn giận đầu tiên trút xuống Ngài th́
lời lẽ của Ngài làm cho sự giận giữ ấy tiêu tan hết, và xoa dịu nỗi buồn khổ
của kẻ bị bỏ lại đằng sau. Ta thấy măi về sau này Ngài vẫn c̣n dẫn dắt và cố
vấn cho đến khi mọi việc hoàn tất, nhiệm vụ của Ngài hoàn thành và Ngài đă
tới gần cứu cánh, đó là nhà lănh đạo quốc gia có năng lực phi thường, một
chính trị gia với sự sáng suốt và sự khéo xử sắc sảo nhất, dường như để nói
với người ta trên thế giới là khi họ đóng vai tṛ người trần tục th́ họ nên
cẩn thận để được công chính, mà c̣n phải cẩn thận để được kín tiếng và khéo
xử, đối với sự thật của tôn giáo th́ không có ǵ xa lạ qua lời lẽ khôn khéo
và việc sử dụng trí tuệ sắc sảo của bộ óc.
103. Thế rồi Ngài lại chuyển từ tư cách nhà Lănh đạo Quốc gia sang tư cách
Người bạn. Ước ǵ tôi có thời giờ nói dông dài về nó và phác họa cho bạn một
số những h́nh ảnh đẹp tuyệt vời về mối quan hệ của Ngài với gia đ́nh mà Ngài
rất yêu mến từ cái ngày mà khi đứng giữa sự chọn lựa của chính đấng Krishna,
người vợ đẹp tương lai của anh em nhà Pandava th́ lần đầu tiên Ngài nh́n
thấy trong hiện thân con người Arjuna là kẻ thân thương ngày xưa của Ngài.
Ta hăy thử nghĩ xem điều ǵ ắt phải xảy ra khi đôi mắt của hai thanh niên
gặp nhau với kư ức về một cặp bạn bè thân thiết thời xa xưa, và rút ra từ
bên kia điều mà ḿnh không biết qua mối ràng buộc của nhiều kiếp sống với
người bạn cũ. Từ ngày đó trở đi khi họ lần đầu tiên gặp nhau trong cuộc đời
này th́ t́nh bạn của Ngài đă chung thủy biết bao, sự che chở của Ngài đă
không ngừng xiết bao, Ngài cẩn thận xiết bao khi nghĩ tới việc bảo vệ danh
dự và sinh mệnh của họ một cách khôn ngoan xiết bao; khi nào sự có mặt của
Ngài làm hỏng mục tiêu mà Ngài tới th́ Ngài lại ra đi. Ngài không có mặt
trong tṛ chơi lớn gieo xúc xắc v́ nó cần thiết cho việc thể hiện thiên ư;
Ngài đă ra đi v́ nếu Ngài có mặt ở đó th́ Ngài cần phải can thiệp; nếu Ngài
có mặt ở đó th́ Ngài không thể bỏ mặc bạn bè không giúp đỡ. Ngài vẫn ra đi
cho đến khi Draupadi trong cơn đau đớn quằn quại đă kêu gọi giúp đỡ khi tiết
hạnh bị đe dọa, lúc bấy giờ Ngài mang Chánh pháp tới và khoác xiêm y lên cô
v́ người ta đă lột bỏ hết; nhưng lúc bấy giờ th́ tṛ chơi đă qua rồi, con
xúc xắc đă được gieo và số phận đă tiếp diễn trên con đường quy định.
104. Quan sát việc vận hành này th́ kỳ lạ xiết bao! Người ta theo đuổi một
mục tiêu mà không thay đổi, không ngần ngại, nhưng mọi phương tiện được sử
dụng đều có thể mang lại cho người ta một cơ hội trốn thoát miễn là họ muốn.
Ngài đến để mang lại điều đó là cuộc chiến đấu ở Kurukshetra. Lát nữa ta sẽ
thấy Ngài đến để thi hành một mục tiêu duy nhất được chuẩn bị cho hàng thế
kỷ trải dài ra trước mắt; nhưng khi thi hành mục tiêu đó Ngài ắt mang lại
mọi cơ may cho những người nào bị vướng mắc vào điều ác bởi quá khứ của
chính ḿnh sao cho nếu một trong những người ấy hưởng ứng lời biện hộ của
Ngài th́ Ngài có thể đến với phe ánh sáng chống lại lực lượng đen tối. Ngài
không bao giờ dao động về mục tiêu của ḿnh; thế nhưng Ngài cũng chẳng bao
giờ bỏ qua không sử dụng bất cứ phương tiện nào mà người ta có thể dùng để
ngăn ngừa mục tiêu ấy xảy ra. Đây là một bài học có rất nhiều ư nghĩa! Ư chí
của Đấng Tối Cao phải được thi hành, nhưng việc thực hành ư chí ấy không
phải là cái cớ để cho bất cứ cá nhân nào không thi hành thiên luật biết sức
ḿnh. Mặc dù ư chí phải được thi hành th́ mọi thứ ắt được thực hiện trong
mức độ cho phép của sự chính trực và ḷng từ bi gợi ư sao cho người ta có
thể chọn ánh sáng hơn là bóng tối, và chỉ có kẻ nào cương quyết bướng bỉnh
th́ cuối cùng mới bị ch́m ngập trong cơn hoạn nạn giáng xuống xứ sở đó.
105.
Với vai tṛ là Đạo sư, liệu tôi có cần phải nói Ngài là bậc đạo sư ban ra
Chí Tôn Ca giữa đám quân đang giao tranh ở Kurukshetra hay chăng? Ngài
đâu phải chỉ là đạo sư của Arjuna, chỉ là đạo sư của Ấn Độ mà c̣n là đạo sư
đối với tâm hồn mọi người nào biết lắng nghe lời giáo huấn tinh thần và hiểu
được một chút sự minh triết sâu sắc được tŕnh bày qua đó bằng lời lẽ của
con người. Ta hăy nhớ một câu nói sau này: ‘Hỡi Arjuna, ta là Đạo sư c̣n cái
trí là học tṛ của ta’; cái trí của mọi người nào sẵn ḷng được dạy dỗ, cái
trí của mọi người sẵn sàng được giáo huấn. Bậc Đạo sư tinh thần không bao
giờ giữ lại tri thức chỉ v́ Ngài miễn cưỡng ban ra nó. Việc ban ra của Ngài
chỉ bị cản trở bởi sự thiếu tiếp thu nơi những người mà thông điệp của Ngài
hướng tới. Nếu người ta phán đoán tồi tệ về tấm ḷng thiêng liêng của các
đại Đạo sư hoặc sự phản ánh yếu ớt của t́nh thương ấy qua miệng lưỡi của các
vị Thiên sứ th́ chỉ v́ họ nghĩ rằng tri thức bị giữ lại, do đó là một đặc
hữu quư báu được miễn cưỡng đề cập tới và phải được ban ra với một phần chia
càng nhỏ càng tốt. Đó không phải là việc đạo sư giữ lại mà là việc tâm hồn
người nghe đă khép kín; không phải việc đạo sư ngần ngại mà là việc người
nghe không muốn nghe; không phải là sự bần tiện của đạo sư mà là sự thiếu
thốn của học tṛ không sẵn ḷng và sẵn sàng được dạy dỗ. Tôi nghe thiên hạ
bảo rằng: ‘Tại sao bây giờ không có một Hóa thân hoặc nếu không phải Hóa
thân th́ tại sao không có những vị Rishis vĩ đại quang lâm để nói vào tai
thiên hạ lời minh triết vàng son? Tại sao các Ngài lại bỏ rơi chúng ta? Tại
sao các Ngài lại bỏ mặc chúng ta? Tại sao thế giới trong thời đại này lại
không có được minh triết mà các Ngài đă ban ra thời xưa?’. Xin trả lời rằng
các Ngài đang chờ đợi, chờ đợi măi với ḷng kiên nhẫn không mệt mỏi để t́m
ra được một số người nào đó sẵn ḷng được dạy dỗ và khi tâm hồn một người mở
ra bảo rằng: ‘Hỡi đấng Chúa Tể, hăy dạy dỗ con’ th́ giáo huấn ắt giáng xuống
thành một nguồn năng lượng thiêng liêng và tràn ngập tâm hồn người ấy. Nếu
bạn không có được giáo huấn th́ chỉ v́ tâm hồn bạn đang bị khép kín bằng
ch́a khóa vàng bạc, danh vọng, quyền lực và ḷng ham muốn hưởng thụ thế
gian. Trong khi những ổ khóa này khóa kín tâm hồn bạn, th́ các bậc đạo sư
minh triết không thể vào được; nhưng hăy mở khóa tâm hồn và vứt bỏ ổ khóa đi
th́ bạn ắt thấy một minh triết tràn ngập nơi chính bạn, nó vẫn đang chờ đợi
để được đi vào.
106.
Với vai tṛ là đấng T́m kiếm tâm hồn - A! ở đây một lần nữa Ngài lại rất khó
hiểu v́ là đấng Chúa Tể của Maya, sư tổ của hăo huyền. Ngài trách nhiệm tâm
hồn của người thân thương chứ không trong phạm vi rộng lớn là cả thế gian.
Đối với những người này th́ giáo huấn sẽ dẫn dắt họ đi đúng đường. Đối với
Arjuna, đối với Bhima, đối với Yudhishthira th́ sự tiếp xúc càng sắc sảo
hơn, sự thử thách càng sâu sắc hơn, liệu để xem trong tâm hồn người ta có
c̣n một hạt gian tà nào chăng, v́ hạt ấy ngăn cản họ không hiệp nhất được
với chính Ngài. Ấy là v́ y t́m kiếm cái ǵ? Đó là họ ắt bảo rằng t́m kiếm
bản thể của chính ḿnh để nhập vào bản thể của chính ḿnh. Nhưng khi tâm hồn
của họ c̣n một hạt giống gian tà th́ họ không thể nhập vào Ngài. Khi trong
bản chất họ c̣n một tội lỗi th́ họ không thể nhập vào Ngài. Thế là một cách
âu yếm chứ không giận dữ, bằng t́nh thương minh triết nhất chứ không phải do
ham muốn dắt đi lạc đường, đấng Chúa Tể T́nh thương thử thách tâm hồn kẻ
thân thương của ḿnh sao cho bất kỳ điều gian tà nào nơi họ cũng bị cái nắm
chặt của Ngài giựt ra mất. Tôi nhớ rằng có hai ba dịp như vậy. Có lẽ tôi đề
cập tới hai dịp để chỉ cho các bạn thấy phương pháp thử thách này. Trận
chiến Kurukshetra đă hoành hành trong nhiều ngày; hàng ngàn hàng vạn người
đă chết nằm rải rác trên chiến trường khủng khiếp và mỗi ngày khi mặt trời
mọc th́ Bhisma lại xuất hiện, là thống lĩnh quân đội Kurus tiến hành mọi thứ
trừ khi nào có Arjuna cản đường ḿnh; nhưng Arjuna không thể có mặt ở khắp
nơi; chàng bị lôi kéo đi với những con ngựa do Người đánh xe Shri Krishna
dẫn dắt lướt qua chiến trường giống như cơn gió lốc mang theo chiến thắng
trên đường đi; và ở đâu có Người đánh xe và Arjuna th́ ở đó Bhima lại nhường
bước. Tâm hồn của anh em nhà Pandava nặng trĩu và cuối cùng trong một đêm ở
lều trại, nghỉ ngơi trước cuộc chiến đấu ngày hôm sau th́ sự thất vọng cay
đắng của vua Yudhishthira đă bùng nổ qua những lời lẽ mà Ngài tuyên bố rằng
chừng nào Bhisma chưa bị giết chết th́ không thể làm ǵ được. Thế rồi có sự
trắc nghiệm từ miệng lưỡi của người ḍ t́m tâm hồn. ‘Xem này, ngày mai tôi
sẽ đi giết y’. Liệu Yudhishthira có bằng ḷng không? Một lời hứa đă cản
đường Ngài. Các bạn có thể nhớ lại rằng khi Duryodhana và Arjuna đi gặp Shri
Krishna đang nằm ngủ th́ vấn đề đặt ra là mỗi người sẽ làm ǵ. V́ chỉ có một
ḿnh và không có trang bị vũ khí, Shri Krishna sẽ chỉ đi với một người mà
không chiến đấu, c̣n Ngài dành cho người kia một đại đội quân số hùng hậu.
Arjuna đă chọn Krishna không có vũ trang, c̣n Duryodhana có một đạo quân
hùng hậu sẵn sàng chiến đấu; thế là đấng Hóa thân đă thệ nguyện rằng ḿnh
không chiến đấu. Ngài đi vào chiến trường mà không được vũ trang, chỉ khoác
lấy bộ áo dài bằng lụa màu vàng và cầm cái roi của người đánh xe, đă hai lần
để kích thích Arjuna chiến đấu, Ngài đă nhảy xuống khỏi chiếc xe và tay cầm
chiếc roi dường như thể sẽ tấn công Bhisma và giết chết y nơi mà Ngài t́m
thấy y. Mỗi lần xảy ra th́ Arjuna cản Ngài lại và nhắc nhở Ngài về lời thề
của Ngài. Rồi tới sự thử thách cho vị Vua không chê trách vào đâu được (ông
được gọi như vậy), liệu Shri Krishna có nuốt lời để mang lại chiến thắng cho
Vua không? Vua vẫn kiên cường trả lời “Người đă hứa rồi th́ lời hứa ấy không
thể bị nuốt lời’. Ngài đă vượt qua sự thử thách và sự trắc nghiệm. Nhưng
trong tâm hồn cao thượng ấy vẫn c̣n một nhược điểm, một nhược điểm căn bản
đe dọa sẽ khiến cho vua rời xa Đấng Chúa Tể. Đó là việc thiếu quyền năng để
hoàn toàn cô đơn trong lúc thử thách, luôn luôn bám lấy một người nào đó
mạnh hơn chính ḿnh để cho quyết định của chính ḿnh được nâng đỡ. Nhược
điểm cuối cùng ấy phải bị đốt tan bằng lửa. Trong lúc nguy nan của chiến
trường th́ có tin là chiến thắng của Drona đă đưa mọi thứ tiến lên; Drona là
vô địch và cách duy nhất để giết chết y là cho loan truyền tin đồn rằng con
trai y đă chết để cho y không c̣n chiến đấu nữa. Bhima giết chết một con voi
có tên giống như tên con trai Drona và y nói mà Drona nghe được:
‘Ashvatthama đă chết rồi’. Nhưng Drona không tin nếu Vua Yudhishthira không
nói như vậy. Thế là cuộc trắc nghiệm xảy ra. Liệu vua có nói một lời nói dối
thực dụng nhưng là sự thật trên danh nghĩa để thắng trận hay chăng? Vua từ
chối, bất chấp lời biện hộ của các anh em muốn Ngài làm như vậy. Liệu vua có
đứng vững, kiên tŕ với sự thật, hoàn toàn đơn độc khi mọi thứ mà vua tôn
kính dường như ở phía bên kia? Đấng Cao Cả bảo rằng: ‘Hăy nói Ashvatthama đă
bị giết chết’. Liệu vua có nói như vậy, v́ chính Ngài Shri Krishna đă bảo
vua như vậy chăng? Liệu vua có nói dối bởi v́ đấng mà Ngài tôn kính đă
khuyên như vậy chăng? Không đâu, không một giọng nói nào của Thượng Đế cũng
như con người có thể làm cho linh hồn con người thực hiện một điều mà y biết
rằng chống lại Thượng Đế và thiên luật; và chỉ có một ḿnh y đứng lên hiên
ngang trong vũ trụ c̣n hơn là phạm tội chống lại điều công chính. Khi người
ta bảo vua nói dối và bao che bằng cái cớ như vậy th́ vua Yudhishthira thực
hiện điều mà Ngài mơ ước trong ḷng với sự bao che là mệnh lệnh của đấng mà
ḿnh tôn kính; thế rồi Ngài ngă xuống, chiến xa của Ngài sụp xuống đất, đau
khổ và khốn khổ từ ngày đó đeo bám theo Ngài cho đến khi Ngài tận số, cho
tới khi Ngài một ḿnh đứng trước mặt vua của cơi trời v́ duy tŕ bổn phận
che chở ngay cả một con chó, coi đó cao hơn mệnh lệnh của Thượng Đế và niềm
vui của cơi trời. Và thế rồi Ngài chứng tỏ rằng bài học đă được thể hiện qua
sự thanh luyện của Ngài, tâm hồn đă được trong sáng thoát khỏi mọi t́ vết
nhỏ nhất của sự yếu đuối. Nhưng thiên hạ lại bảo rằng đấng Shri Krishna
khuyên người ta nói dối! Thưa các bạn, chẳng lẽ các huynh đệ không nh́n
xuyên suốt qua được sự hăo huyền hay sao? Trên thế giới này có chuyện ǵ mà
Đấng Tối Cao không làm được. Không có sự sống nào chẳng phải của Ngài, không
có Tự ngă nào chẳng phải của Ngài, không có ǵ ngoại trừ sự sống của Ngài
xuyên suốt toàn thể vũ trụ của Ngài và mọi hành vi đều là hành vi của Ngài,
khi Ngài trở về với những điều tối hậu. Ngài đă cảnh báo người ta về sự thật
đó khi bảo rằng ‘Ta là kẻ đánh bạc bịp’ theo như những câu ca trong kinh Phệ
đà. Đây là một bài học kỳ lạ mà ta thật khó học, thế nhưng nó vẫn đúng. Bởi
v́ ở mỗi tŕnh độ tiến hóa đều có một bài học mà ta cần phải học được và
Ngài dạy hết mọi bài học; ở mỗi tŕnh độ tăng trưởng th́ cần phải bước lên
mức kế tiếp và rất thường khi th́ bước ấy trải nghiệm điều ác để cho sự đau
khổ có thể đốt cháy ḷng ham muốn điều ác ngay trong chính tâm hồn. Và cũng
giống như con dao của nhà phẫu thuật khác với con dao của kẻ giết người, mặc
dù cả hai con dao đều có thể đâm xuyên qua thịt của con người. Một con dao
cắt để cứu chữa c̣n con dao kia cắt qua để giết chết. Cũng giống như vậy khi
trải nghiệm điều ác rồi sau đó đau khổ th́ con dao sắc sảo của Đấng Tối Cao
đă thanh luyện con người nó khác với con dao kia, bởi v́ động cơ thúc đẩy
khác hơn việc làm điều ác để thỏa măn đam mê, dẹp bỏ điều công chính để thỏa
măn bản chất thấp hèn.
107. Cuối cùng th́ Ngài hiển lộ là Đấng Tối Cao dưới dạng Vaishnava là h́nh
tướng vũ trụ, h́nh tướng bao hàm vũ trụ. Nhưng ta c̣n thấy Đấng Tối Cao qua
minh triết thâm thúy của giáo huấn, qua sự kiên định của Ngài khi đi qua
cuộc sống. Liệu nghe nói có kỳ lạ chăng khi bảo rằng ta thấy Thượng Đế nhiều
hơn qua minh triết hơn là qua h́nh tướng, h́nh tướng bên ngoài bao hàm vũ
trụ ít thiêng liêng hơn bản chất kiên cường hoàn hảo không lệch sang bên
phải hay bên trái? Bạn hăy linh động đọc đi đọc lại điều này qua tư tưởng
trong tâm trí ḿnh là có một nguyện lực đi tới cùng bất chấp lực lượng chống
đối ở phía bên kia th́ sự vĩ đại của nó mới có thể xuất hiện được.
108. Ngài xuống đây để làm ǵ? Ngài quang lâm để dạy bài học cuối cùng cho
giai cấp Sát đế lị Ấn Độ và để cho Ấn Độ mở cửa với thế giới. Giai cấp lớn
lao ấy được dạy cho nhiều bài học. Chúng ta biết rằng họ đă bị tiêu diệt 21
lần, thế nhưng lại được tái lập. Ta biết rằng Shri Rama đă cho thấy sinh
hoạt hoàn hảo của người Sát đế lị là một gương mẫu mà người ta có thể noi
theo. Người ta không học được bài học hoặc là bằng sự tiêu diệt hoặc là bằng
t́nh thương. Người ta không theo gương hoặc là do sợ hăi hoặc là do ngưỡng
mộ. Thế rồi đă tới giờ thiên định với hồi chuông báo tử của giai cấp Sát đế
lị. Ngài quang lâm để quét sạch giai cấp ấy, chỉ để lại di tích rải rác trên
khắp đất Ấn Độ. Đó là thanh gươm của Ấn Độ, bức tường sắt bao ṿng quanh nó.
Ngài quang lâm để phá tan bức tường ấy ra thành mảnh vụn và bẻ găy thanh
kiếm để cho nó không thể chém giết trở lại nữa. Nó đă được sử dụng để đàn áp
thay v́ để che chở. Nó đă được sử dụng v́ sự tàn bạo thay v́ sự công bằng.
V́ vậy Ngài đă bẻ găy nó như Ngài đă từng ban nó ra cho đến khi người ta học
được qua đau khổ cái điều mà họ không học được qua giáo huấn. Và trên chiến
trường Kuru, giai cấp Sát đế lị đă chiến đấu trận chiến cuối cùng, toàn thể
đạo quân hùng hậu chẳng c̣n lại bao nhiêu người ngoại trừ một dúm khi cuộc
chiến đă qua đi. Sau chiến trường Kurukshetra giai cấp chẳng bao giờ hồi
phục lại được nữa. Nó đă không hoàn toàn biến mất. Ở vài vùng hẻo lánh người
ta c̣n t́m thấy những gia đ́nh thuộc giai cấp này; nhưng nếu ta biết khá rơ
th́ một giai cấp ở hầu hết mọi nơi thuộc Ấn Độ hiện đại khó ḷng mà c̣n t́m
ra được - tại sao điều này lại được thực hiện v́ lời khuyên răn lớn lao cho
phúc lợi của thế giới? Chẳng những nó dạy một bài học đời đời cho mọi vị vua
và nhà cai trị theo đó, nếu họ không cai trị đúng đắn th́ họ sẽ chẳng cai
trị ǵ hết mà nó c̣n mở cửa cho Ấn Độ đối với thế giới.
109. Tôi nói như vậy nghe có kỳ lạ hay chăng khi bảo rằng mở cửa cho Ấn Độ
bị xâm lược? Đấng yêu thương Ấn Độ lại để cho nó mở cửa bị chinh phục hay
sao? Ngài đă thánh hóa nó, đă làm cho b́nh nguyên và rừng rậm của nó mà bước
chân Ngài đi qua trở nên thánh thiện và giọng nói của Ngài đă vang vọng qua
đất đai của nó? Đúng vậy, v́ Ngài phán đoán không giống như con người và
thấy tuốt hết từ đầu chí cuối. Ấn Độ xưa kia cô lập với tất cả thế giới được
giữ sao cho nó có kho tàng tri thức tinh thần tuôn đổ vào đó biến nó thành
một vật chứa đựng, nhưng khi bạn đă chứa đầy cái b́nh chứa th́ đừng có cất
cái b́nh lên cao trên bệ và bỏ mặc cho người ta khao khát cái chất lỏng mà
nó chứa đựng bên trong. Đấng Đại Hùng rót đầy b́nh chứa Ấn độ bằng nước tri
thức tinh thần và rốt cuộc đă đến lúc mà nước ấy phải được tuôn ra để giải
khát cho thế giới chứ không nên giữ lại để giải khát cho một quốc gia thôi,
để cho chỉ một dân tộc sử dụng thôi. V́ thế cho nên Đấng yêu thương loài
người đă quang lâm để có thể tuôn đổ ra nước hằng sống; Ngài phá vỡ bức
tường để cho ngoại bang có thể bước qua biên giới Ấn Độ. Người Hi Lạp tràn
vào, người Hồi Giáo tràn vào, hết cuộc xâm lược này tới cuộc xâm lăng khác,
cho tới khi kẻ chinh phục bấy giờ cai trị Ấn Độ là kẻ mới nhất. Chẳng lẽ bạn
chỉ thấy trong đó sự thoái hóa, khốn khổ và Ấn Độ đang bị đọa đày. Ồ không
đâu, thưa các huynh đệ! Điều dường như là đọa đày nhất thời là để cho thế
giới được chữa trị và ban phước cho thế giới; Ấn Độ có thể bị đau khổ nhất
thời để có thể cứu chuộc được thế giới.
110. Tôi không nói về việc chính trị mà nói theo quan điểm của một học viên
tinh thần đang cố gắng t́m hiểu xem sự tiến hóa của giống dân này tiếp diễn
ra sao. Dân tộc chinh phục Ấn Độ lần cuối cùng bây giờ đang cai trị nó là
dân tộc có ngôn ngữ phổ biến nhất thế giới và rất có thể trở thành ngôn ngữ
của thế giới. Nó không chỉ thuộc về cái đảo nhỏ nước Anh mà c̣n thuộc về lục
địa lớn Châu Mỹ và lục địa lớn Châu Úc. Nó đă lan truyền từ xứ này sang xứ
khác cho tới khi chỉ một ngôn ngữ duy nhất là được thông hiểu rộng răi nhất
trong số mọi dân tộc trên thế giới. Những quốc gia khác đang bắt đầu học
ngôn ngữ này v́ kinh doanh thương mại và ngay cả ngoại giao, đều đang bắt
đầu được tiến hành bằng tiếng Anh. Thế th́ có ǵ đáng ngạc nhiên đâu khi
Đấng Tối Cao gửi tới Ấn Độ cái quốc gia mà ngôn ngữ đang trở thành ngôn ngữ
thế giới và để cho nó cởi mở là một bộ phận của cái đế quốc toàn cầu này sao
cho kinh điển của nó được dịch ra ngôn ngữ nói rộng răi nhất. Điều này có
thể giúp cho toàn thể gia đ́nh nhân loại làm trong sạch và tinh thần hóa tâm
hồn mọi đứa con của Ngài.
111. Trong việc Ngài quang lâm có mục tiêu sâu sắc nhất là chuẩn bị tinh
thần hóa thế giới. Một quốc gia không thôi có tính linh cũng chẳng vào đâu,
một xứ sở không thôi có minh triết cũng không đủ. Một đất nước - cho dù hùng
mạnh và được yêu thương đến đâu đi nữa - và chẳng lẽ tôi không yêu thương Ấn
Độ như một số người trong các bạn yêu thương nó sao, cũng không đủ để có
được kho vàng sự thật tinh thần, mà phần c̣n lại của thế giới lại túng bấn
đi ăn xin một đồng tiền vàng. Không đâu, c̣n tốt hơn nữa trong nhất thời khi
nó ch́m xuống trên cán cân quyền lực các quốc gia để cho nó không thể tự làm
cho chính ḿnh cái điều mà những tác nhân của Thượng Đế đă làm nhằm dẫn dắt
sự tiến hóa của thế giới. Như vậy điều nh́n bên ngoài coi là sự chinh phục
và đô hộ th́ dưới cặp mắt tinh thần được coi là việc mở ra đền thờ tinh thần
sao cho mọi quốc gia có thể bước vào học hỏi.
112. Chỉ có điều là điều này khiến cho các bạn phải có một bổn phận, một
trách nhiệm. Tôi đă nghe nói quá nhiều, tôi đă nói lên quá thường xuyên về
việc các bạn là hậu duệ của các đấng Rishis và ḍng máu của các đấng Rishis
đang chảy trong huyết quản của các bạn. Thật vậy, nhưng không đủ đâu. Nếu
các bạn muốn trở lại cái mà đấng Shri Krishna ngụ ư cho các bạn trong lời
khuyên đời đời của Ngài, đó là giai cấp Bà la môn của cái quốc gia là bậc
đạo sư về sự thật thiêng liêng, là cửa miệng của Chư thần linh nói vào tai
loài người, th́ quốc gia Ấn Độ phải tự làm trong sạch ḿnh, quốc gia Ấn Độ
phải tự làm tinh thần hóa ḿnh. Chẳng lẽ kinh điển của các bạn, tinh thần
hóa toàn thể thế giới mà chính các bạn lại vẫn c̣n không có tính linh hay
sao? Chẳng lẽ minh triết của các đấng Rishis ban ra cho ngoại bang ở khắp
nơi trên thế giới để cho họ học hỏi được lợi ích c̣n chính các bạn lại là
đích tử đích tôn của các đấng Rishis lại không biết tới kho tài liệu của
chính ḿnh và thậm chí c̣n quư trọng nó kém hơn cả mức ḿnh biết hay sao? Đó
chính là bài học lớn mà tôi xin sẵn ḷng kết thúc bài thuyết tŕnh ở đây. Nó
thật đến nỗi để có được các bậc đạo sư Minh Triết thiêng liêng mà xứ sở này
có được quyền thừa kế th́ các đấng Rishis vĩ đại phải gửi đến đây một số con
cái của ḿnh đi ra nước ngoài rồi trở về dạy dỗ tôn giáo của chính bạn cho
nhân dân các bạn hay sao? Chẳng lẽ sự ô nhục này không chấm dứt được sao?
Chẳng lẽ không có ai trong số các bạn lại sống cuộc đời sinh hoạt tinh thần
xưa cũ, đi theo và yêu thương Đấng Thế Tôn hay sao? Nếu không phải như vậy
chẳng những ở đây và ở kia mà cuối cùng là trọn cả quốc gia đă chứng tỏ
quyền năng của đấng Shri Krishna qua cuộc đời Ngài hiện thân giữa các bạn,
Ngài chẳng phải thực sự vĩ đại hơn bất kỳ Hóa thân đặc biệt nào sao? Mong
sao chúng ta không chỉ hi vọng và cầu nguyện rằng Hóa thân của Ngài sẽ là
cái quốc gia, là hiện thân của tri thức của Ngài, t́nh thương của Ngài, T́nh
Huynh Đệ Đại Đồng của Ngài dành cho mọi người bước trên mặt đất của trái
đất? Đả đảo những bức tường chia rẽ, sự coi thường khinh bỉ và thù ghét chia
rẽ người Ấn Độ với người Ấn Độ và Ấn Độ với phần c̣n lại của thế giới. Cầu
mong sao từ lúc này trở đi tiêu ngữ của ta sẽ là tiêu ngữ của Shri Krishna
khi Ngài gặp gỡ con người trên bất cứ nẻo đường nào, th́ ta cũng bước bên
cạnh người khác cũng trên bất cứ con đường nào đó bởi v́ mọi con đường đều
là của Ngài. Không có con đường nào mà Ngài không bước trên đó và nếu ta
theo bước đấng Thân thương dẫn đường cho ta th́ ta phải bước đi như chính
Ngài bước đi vậy.
VẠN VẬT THÁI B̀NH
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS