| 
			 | 
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
| 
			 | 
			
			CHƯƠNG 
			XVI 
			
			Đế quốc Aryen và nền văn 
			minh của nó thời ban sơ 
			Trích CON NGƯỜI từ đâu tới, Sinh hoạt ra 
			sao và Rồi sẽ đi về đâu 
			Tác giả Annie Besant và C. L. Leadbeater | 
			 | 
			
			CHƯƠNG 
			XVI
			
			Đế quốc Aryen 
			và nền văn minh của nó thời ban sơ
Các con của 
			Đức Bàn Cổ chưa bao giờ là một dân tộc nguyên sơ v́ họ đă bắt đầu 
			nhiều trăm ngàn năm văn minh măi từ thời Châu Atlantis và hàng ngàn 
			năm duới sự lănh đạo của Đức Bàn Cổ ở Ả Rập và Bắc Á. Dân chúng đều 
			biết đọc và biết viết kể cả những người mà ta gọi là giai cấp hạ lưu 
			nhất v́ mọi công việc đều được coi là vinh quang do làm cho Đức Bàn 
			Cổ, coi đó là công việc của Ngài bất kể là việc ǵ đi chăng nữa. 
			Chúng tôi nhận thấy một người đang quét đường phố; khi một tu sĩ rất 
			có tư cách; quần áo sặc sỡ hiển nhiên giữ chức vụ cao đi tới th́ tu 
			sĩ này ngơ lời với phu quét đường cũng lễ độ như với người anh em, 
			một người ngang hàng, một trong các anh em của đại gia đ́nh các đứa 
			con của Đức Bàn Cổ. T́nh cảm mà người ta trau dồi là t́nh huynh đệ 
			của một giống dân căn bản là b́nh đẳng tuyệt vời – giống như đôi khi 
			ta thấy trong các hội viên Tam điểm – và lịch sự đối với nhau; đồng 
			thời người ta vẫn công nhận hoàn toàn công nhận công trạng cá nhân, 
			ngưỡng mộ những người cao cả, rất biết ơn họ giúp đỡ ḿnh và hoàn 
			toàn không hề tự vỗ ngực xưng tên. Có một t́nh cảm tử tế chỉ nh́n 
			thấy khía cạnh tốt đẹp nhất của mọi người, coi như đương nhiên là 
			người khác có hăo ư cho nên tránh được việc căi cọ. Nền văn minh 
			Aryen này khác hẳn nền văn minh Atlantis xa hoa hơn và cầu kỳ hơn 
			vào lúc ấy khi mỗi người chỉ mưu t́m sự thoải mái của riêng ḿnh và 
			chỉ biết tới bản thân ḿnh, khi người ta nghi kỵ lẫn nhau và chẳng 
			ai tin ai. Trong nền văn minh Aryen, thiên hạ tin cậy lẫn nhau – 
			quân tử nhất ngôn, nếu nuốt lời th́ không phải là người Aryen.
			 Có 
			một điều kỳ diệu khác là trong số dân cư th́ ai cũng biết người 
			khác. Giống như hiện nay ở một làng nhỏ cũng vậy, nơi một thị trấn 
			lớn th́ trong nhiều thế kỷ mọi người đều dường như biết nhau hết chỉ 
			biết ít hoặc biết nhiều. Khi dân số tăng lên th́ điều này trở nên 
			không thể được nữa, cho nên bổn phận của các viên chức là phải biết 
			hết dân t́nh trong địa hạt của ḿnh, việc quen biết nhiều người là 
			một trong những tiêu chuẩn để chọn vào chức vụ này.
Tuy nhiên 
			t́nh huynh đệ ấy là t́nh huynh đệ của một Giống dân, nó không mở 
			rộng vượt ra ngoài phạm vi chính dân Aryen, chẳng hạn như mở rộng 
			tới dân Turania. Dân Turania thuộc ḍng dơi khác, có nền văn hóa 
			khác; họ rất lưu manh và quỉ quyệt không đáng tin cậy. Đối với dân 
			Turania th́ dân Aryen tỏ ra rất dè dặt khinh khỉnh; họ không thù 
			địch với người ngoại bang, cũng không khinh thường người ngoại bang; 
			nhưng họ đối xử rất dè dặt với người ngoại bang chứ không được như 
			trong gia đ́nh. Người ngoại quốc không được phép xâm nhập vào phần 
			bên trong của nhà họ, chỉ được ở sân ngoài. Có những nhà và sân vườn 
			đặc biệt dành riêng cho người ngoại quốc cư trú, tuy nhiên cũng chỉ 
			ít thôi; đôi khi cũng có các đoàn thương gia ghé thăm cùng với sứ 
			thần của những quốc gia khác, họ được tiếp đăi lịch sự và hiếu khách 
			nhưng luôn luôn khinh khỉnh và dè dặt biểu thị một hàng rào không 
			thể vượt qua được.
Sau này khi 
			có dịp cai trị các nước ngoại bang th́ đôi lúc họ cũng tỏ ra khắc 
			nghiệt: Chúng tôi quan sát thấy một viên Thống đốc đối xử với người 
			Turania; y không độc ác và cũng chẳng đàn áp nhưng nghiêm khắc và 
			khá hà khắc. Thái độ nghiêm khắc này dường như đặc trưng cho cách 
			cai trị người nước ngoài của họ và nó tương thích với t́nh cảm huynh 
			đệ nồng thắm nhất đối với dân tộc của chính ḿnh.
Ở đây cũng 
			như ở mọi chỗ khác, một t́nh huynh đệ trên cơi vật lư dường như đ̣i 
			hỏi phải có một nền tảng chung nào đó về giáo dục và văn hóa, về đạo 
			đức và danh dự: một người Aryen là một người quân tử, chỉ nội sự 
			kiện này cũng hàm ư có một bộ luật danh dự và phong tục mà y không 
			thể coi thường. Như hiện nay chúng ta nói y là một người quí phái 
			nên phải sống tuân theo một tiêu chuẩn nào đó về nghĩa vụ xă hội. Y 
			có thể làm bất cứ công việc ǵ, y có thể vươn lên bất cứ tŕnh độ 
			học thức nào, nhưng có một mức tối thiểu nào đó về hạnh kiểm và tư 
			cách mà y không được quyền xuống thấp hơn. Chính v́ thế mới có t́nh 
			cảm dè dặt đối với tất că những kẻ nào ở ngoài phạm vi luân lư ấy, 
			v́ người ta đâu có biết những người kia có tư cách và phong tục ra 
			sao; có đạo đức và phẩm hạnh thế nào. Con cái của Đức Bàn Cổ là một 
			quốc gia của những nhà quí phái theo đúng nghĩa của từ này, tự hào 
			về ḍng dơi cao quí của ḿnh và hoàn toàn công nhận những yêu cầu 
			cao siêu của nó. Đôi với họ th́
			hành xử quân tử là chuyện 
			đầu môi chót lưởi.
			 Nền 
			văn minh này rất hạnh phúc và vui vẻ, có âm nhạc, khiêu vũ rất vui 
			tươi và tôn giáo của họ đă sinh ra điều ấy v́ nó chủ yếu là tôn giáo 
			ngợi ca và tạ ơn: Dân chúng thường xuyên hát thánh ca tán tụng và 
			công nhận các Thiên thần ẩn đằng sau mọi lực thiên nhiên. Cứ mỗi 
			buổi sáng là lại vui vẻ hát bài thánh ca về các Cô gái B́nh minh và 
			Chân linh Mặt trời là đối tượng chính được thờ phụng. Bốn đấng 
			Kumaras được coi là Thần linh và hiển nhiên những người nào sống rất 
			gần Thiên nhiên đến mức trở nên nhạy cảm và có được sự thông linh 
			đều cảm nhận được bản lai diện mục của các ngài: Đằng sau ngai của 
			đấng Thủ lĩnh, các Kumaras trong Sảnh đường lớn ở Đền thờ trung tâm 
			có một Mặt trời hoàng kim khổng lồ, một h́nh bán cầu nhô ra từ bức 
			vách và vào ngày đại lễ th́ nó chói ḷa ánh sáng. Kim tinh cũng được 
			tôn thờ, có lẽ do truyền thuyết các đấng Hỏa đức Tinh quân đă từ Kim 
			tinh giáng lâm xuống. Người ta 
			
			cũng thờ Bầu trời và có khi cũng thờ cả 
			Nguyên tử nữa, coi đó là nguồn gốc của vạn vật, là biểu lộ của Đấng 
			thiêng liêng nhỏ lại.
			
			Ta có thể dùng một nghi lễ hằng năm để làm ví dụ cho một trong các 
			đại lễ tôn giáo.
			
			Ngay từ sáng sớm thiên hạ - nam phụ lăo ấu – đă nườm nượp đi diễn 
			hành dọc theo những đường phố lớn hội tụ lại thành h́nh trăng lưỡi 
			liềm lớn đối diện Cây cầu hùng dũng. Vải lụa sặc sỡ phấp phới trên 
			cửa sổ và trên cột cờ. Đường phố rải rác những đóa hoa, những ḷ 
			than hồng lớn tỏa ra những đám mây khói nhang; thiên hạ diện quần áo 
			lụa đủ màu, đeo nặng trĩu đồ nữ trang và đồ trang trí lộng lẫy bằng 
			san hô, mang theo những  
			tràng hoa và ṿng hoa màu sắc đẹp như cảnh thần tiên đi diễu hành 
			với những cái chập chơa, cồng chiêng và tù và làm bằng sừng.
			
			Họ băng ngang qua cây Cầu một cách trật tự nối bước nhau, nhưng khi 
			họ đặt chân lên Cầu th́ mọi âm thanh đều ngừng bặt; trong cảnh im 
			lặng ấy họ tiến lên giữa những Đền thờ uy nghi đi tới Điện thờ trung 
			tâm rồi từ đó tiến vào chính Sảnh đường. Cái ngai lớn được đẽo gọt 
			từ tảng đá sống động, được cẩn vàng và đầy ngọc quí được đặt trên 
			một cái bệ vững như bàn thạch, trên đó có những biểu tượng lớn được 
			đúc bằng vàng và rải rác phía trước nó có một bàn thờ mà hiện nay 
			chất cao ṿi vọi loại gỗ trầm hương. Mặt trời hoàng kim khổng lồ 
			chiếu sáng lờ mờ bên trên đó, c̣n Kim tinh lơ lửng trên không phía 
			trên mái ṿm.
			
			Khi Sảnh đường đă đặc nghẹt hết mức, ngoại trừ một khoảng trống ở 
			phía trước và hai bên hông ngai lớn th́ có một nhóm oai vệ từ phía 
			sau đi vào lấp đầy khoảng trống, mọi người đều cúi đầu kính chào các 
			ngài. Ba Đức Bàn Cổ đứng nơi đó khoác lấy bộ đạo phục cùng với Đức 
			Mahaguru là Bồ tát vào thời ấy tức Đức Vyasa đứng bên cạnh Bàn Cổ 
			Vaivasvata. Và lại có Surya kế cận đằng sau Huynh trưởng hùng dũng 
			là bậc tiền bối của ḿnh, đứng gần ngài nhất là ba Đấng Kumaras; có 
			lẽ đám đông không thấy được các ngài nhưng chắc chắn là họ lờ mờ cảm 
			thấy lơ lửng trên không theo dạng h́nh bán nguyệt lớn cũng có các 
			Thiên thần màu đỏ thắm sặc sỡ và màu bạc đang chăm chú làm thị giả. 
			Thế rồi một sự im lặng hoàn toàn phủ xuống đám đông, những người tụ 
			tập ấy dường như thể thiên hạ đều nín thở; dịu dàng, du dương và 
			thoang thoảng dường như phá vỡ bầu không khi im lặng ấy là một chuỗi 
			nhạc tuyệt diệu ngân lên đệm cho một bài hát mà các Đấng Cao cả và 
			Thánh thiện nhất đứng quanh ngai đă ngâm lên để cầu khấn Đấng chúa 
			tể trị v́ xin hăy giáng lâm. Những tiếng ca trân trọng câm lặng ấy 
			vừa mới dứt lời th́ đă vang lên một nốt nhạc duy nhất trong trẻo như 
			bạc dường như thể để đáp lời; Mặt trời hoàng kim lớn lóe sáng lên 
			rực rỡ chói mắt và bên dưới nó ngay phía trên ngai có Ngôi sao huy 
			hoàng lóe lên, các tia sáng của nó bắn ra như tia chớp phia trên đầu 
			đám đông đang ngóng đợi; và Ngài đây rồi, đấng Chúa tể tối cao của 
			Quần tiên hội, ngài ngự trên ngai chói lọi hơn cả Mặt trời và Tinh 
			tú, chúng quả thật dường như sáng chói được là do Ngài; thế là tất 
			cả phủ phục xuống úp sát mặt che đôi mắt đi để khỏi thấy sự rực rỡ 
			chói ḷa của Bản lai Diện mục của Ngài.
			
			Rồi th́ một cách dịu dàng, Ngài làm cho 
			sự vinh quang ấy dịu bớt đi để cho mọi người có thể ngước nh́n lên 
			trông thấy Ngài là Đức Sanat Kumara, đấng Trinh nguyên Vĩnh cữu.
			[[1]].
			
			Với mọi vẻ đẹp của đấng Thanh xuân bất biến, thế nhưng, Ngài lại là 
			đấng Vô lượng thọ. Đám đông đang kính ngưỡng thở dài với vẻ kính sợ 
			và trầm trồ, rồi th́ một nụ cười tươi tắn làm cho Khuôn mặt của Ngài 
			vô cùng đẹp đẽ, thế nhưng lại mang tính xuất thần nhiều hơn, đáp lại 
			ánh mắt đăm đăm kính ngưỡng đơn giản của t́nh thương và tục thờ 
			cúng.
			
			Thế rồi Ngài vươn tay ra hướng về phía 
			bàn thờ trước mặt ḿnh khiến cho lửa bốc cháy trên đó, và ngọn lửa 
			bốc lên cao vút trên không trung. Rồi th́ Ngài đi mất – cái ngai 
			trống rỗng, Ngôi sao biến mất, Mặt trời hoàng kim vẫn sáng nhưng mờ 
			đi và chỉ có Lửa mà Ngài ban cấp là vẫn cháy sáng không thay đổi 
			trên Bàn thờ. Từ Bàn thờ này một mảnh gỗ cháy đỏ được ban cho các tu 
			sĩ để dùng cho các bàn thờ ở những Đền thờ khác nhau và mỗi vị gia 
			trưởng đều hiện diện ở đó [[2]]; 
			y nhận được nó trong một b́nh chứa có một cái nắp đậy bên trên, 
			trong đó lửa sôi động vẫn c̣n không thể bị tắt đi được cho đến lúc 
			nó được mang về bàn thờ ở nhà.
			
			Các đám rước được định h́nh trở lại và rời bỏ Thánh điện trong im 
			lặng, lại băng ngang qua Chiếc cầu và nhờ đó đến được Thành thị. Thế 
			rồi bùng nổ ra một bài hát vui tươi, thiên hạ nắm tay nhau bước đi 
			trao đổi những lời chúc tụng, tán dương, những người lớn tuổi ban 
			phước cho người trẻ tuổi, thế là tất cả đều rất vui vẻ. Lửa linh 
			thiêng được đặt trên bàn thờ trong gia đ́nh để thắp sáng ngọn lửa 
			được giữ cho sống động măi suốt năm và những nhăn hiệu được thắp 
			sáng nơi đó được mang tới nhà của những người không hiện diện cho 
			đến khi lễ hội trở lại vào một năm khác, khi đă đi hết lộ tŕnh th́ 
			lửa ấy không cần phải thánh hóa cho bàn thờ trong gia đ́nh. Sau đó 
			th́ âm nhạc trổi lên, lễ hội, vũ hội cho đến khi Thành thị hạnh phúc 
			ch́m vào giấc ngủ.
			
			Đó là Lễ hội lửa thiêng được cử hành vào mỗi Ngày giữa mùa hạ ở Kiều 
			thành. 
			
			Một số người toàn tâm toàn ư hầu như chuyên nghiên cứu và đạt được 
			sự thông thạo về khoa học huyền bí để có thể chuyên tâm vào một vài 
			ngành phục vụ cho công chúng. Họ trở nên có thần nhăn và kiểm soát 
			được đủ thứ lực trong thiên nhiên, học cách tạo ra các h́nh tư tưởng 
			và tùy ư rời bỏ được thể xác của ḿnh. V́ c̣n nhớ những kết quả đáng 
			buồn khi ở Châu Atlantis, thần thông không di kèm với ḷng vị tha và 
			đạo đức, các huấn sư dạy những môn này chọn học tṛ rất cẩn thận và 
			một trong những vị phụ tá cho Đức Bàn Cổ có vai tṛ Tổng thanh tra 
			giám thị các lớp học ấy. Một số học viên khi đă thông thạo th́ có 
			bổn phận đặc biệt đối với Nhà nước là duy tŕ sự liên lạc của các bộ 
			phận khác nhau trong Đế quốc; không có báo chí nhưng họ điều khiển 
			cái có thể gọi là một bộ thông tin. Theo thông lệ th́ không xuất bản 
			tin tức, nhưng bất cứ ai muốn t́m hiểu thông tin về bất cứ ai khác ở 
			bất cứ nơi đâu trong Đế quốc th́ đều có thể đi tới văn pḥng trung 
			ương này để thu lượm được thông tin. Vậy là có những ủy viên dành 
			cho nhiều xứ khác nhau, mỗi ủy viên cung cấp thông tin về xứ sở mà 
			ḿnh phụ trách, thông tin có được bằng những phương tiện huyền bí. 
			Những cuộc đột kích đối với những kẻ vi phạm ḥa b́nh hoặc gây chiến 
			đều được theo dơi và thông tin được cung cấp cho chúng giống như 
			thời nay người ta dùng vô tuyến điện hoặc là điện báo.
			
			Có một dịp, khi Corona đang cai trị một xứ ở phương xa mà Đức Bàn Cổ 
			không thể gây ấn tượng cho y với những mệnh lệnh của ḿnh; thế là 
			Ngài ra lệnh cho một trong những học viên lăo luyện hăy rời bỏ thể 
			xác, xuất vía đi tới Corona, rồi hiện h́nh ra lúc tới nơi; nhờ 
			phương tiện này mà thông điệp được chuyển giao cho Corona khi ư thức 
			của y đang tỉnh táo. Bằng cách này th́ Đức Bàn Cổ vẫn c̣n là nhà Cai 
			trị thật sự, bất kể Đế quốc trải rộng đến đâu đi chăng nữa.
			
			Việc viết lách được thực hiện bằng nhiều chất khác nhau. Chúng tôi 
			quan sát thấy một người viết bằng một dụng cụ sắc nhọn trên bề mặt 
			trông giống như sáp trong một cái hộp 
			thuôn thuôn dường như thể y đang khắc trên đó; thế rồi y lại 
			dùng một cây bút rỗng lướt trên đó, từ bút tuôn ra một chất lỏng có 
			màng khô cứng lại khiến cho chữ viết được gắn chặt vào lớp sáp. Đôi 
			khi người ta phát minh ra phương pháp của riêng ḿnh.
			
			Máy móc chưa đạt đến mức giống như thời Châu Atlantis; nó đơn giản 
			hơn và có nhiều công việc phải làm thủ công. Đức Bàn Cổ hẳn nhiên 
			không muốn dân chúng của ḿnh bắt chước theo t́nh cảnh cực kỳ xa hoa 
			ở Châu Atlantis.
			
			Từ một vương quốc nhỏ bắt đầu vào năm 
			60.000 trước Công nguyên, nó dần dần tăng trưởng thành một vương 
			quốc đông đảo dân cư, bao xung quanh biển Gobi và đạt được chủ quyền 
			ở nhiều mức độ khác nhau đối với nhiều lân quốc, bao gồm cả người 
			Turania vốn đă tàn sát cha ông của ḿnh một cách tàn nhẫn xiết bao. 
			Đây là ḍng dơi gốc của mọi quốc gia Aryen và từ năm 40.000 trước 
			Công nguyên trở đi th́ những đợt di dân lớn của nó tạo thành các 
			phân chủng Aryen. Nó vẫn c̣n ở nơi chôn nhau cắt rốn của ḿnh cho 
			đến khi nó đă biệt phái được bốn đoàn di dân về hướng Tây và cũng 
			biệt phái được nhiều nhóm khổng lồ những người di dân chinh phục Ấn 
			Độ, họ chiếm được đất đai và sở hữu đất đai; những di dân cuối cùng 
			chỉ rời bỏ nhà và gia nhập với các bậc tiền trạm ở Ấn độ chẳng bao 
			lâu trước khi đảo Poseidonis 
			
			bị ch́m vào năm 9.564 trước Công nguyên
			[[3]]; 
			thật ra họ được biệt phái đi để tránh được thảm họa ghê gớm này.
			
			Từ năm 60.000 trước Công nguyên cho tới 40.000 trước Công nguyên th́ 
			ḍng dơi tổ tiên tăng trưởng và phồn thịnh tột độ, đạt tới đỉnh cao 
			của sự vinh quang đầu tiên vào năm 45.000 trước Công nguyên. Nó 
			chinh phục được Trung quốc và Nhật bản, lúc bấy giờ chủ yếu dân 
			chúng là người Mông cổ, (phân chủng thứ 7 của giống dân Atlantis), 
			rồi đi lên phương Bắc và sang phương Đông măi cho tới khi bị khí 
			lạnh chận đứng lại, nó cũng thêm vào qua việc sáp nhập đảo Đài loan 
			và Xiêm la vào Đế quốc, những nơi này dân cư là người Turania và 
			người Tlavatli tức là các phân chủng thứ tư và thứ nh́ của giống dân 
			Atlante. Thế rồi người Aryen lại chiếm Sumatra, Java và các đảo lân 
			cận làm thuộc địa (các đảo này hồi đó không nát bét như hiện nay) 
			hầu như ở bất cứ nơi đâu họ cũng được dân chúng ở các vùng này hoan 
			nghênh, dân chúng coi những người lạ mặt đẹp đẽ này là Thần linh và 
			có khuynh hướng sùng bái họ hơn là chiến đấu chống lại họ. Một di 
			tích thú vị của một trong những vụ định cư vẫn c̣n lại ở vùng 
			
			Cilebes chính là 
			một bộ lạc trên đồi núi tên là
			Toala. Đảo 
			này ở phía Đông Borneo đă ở dưới quyền điều khiển của họ và trải dài 
			tới tận địa điểm hiện nay là bán đảo Mă lai vượt qua đảo Philippine, 
			quần đảo Lin-Kiu, quần đảo phía Đông và Papua, những ḥn đảo trên 
			đường đi tới Úc châu và cả Úc châu nữa, Úc châu lúc đó vẫn c̣n đông 
			dân Lemuria là Căn chủng thứ ba .
			
			Vào khoảng năm 50.000 trước Công nguyên, chúng tôi thấy Corona cai 
			trị trên một vương quốc lớn ở những biển có rải rác các đảo này, ông 
			đă được sinh ra ở vùng ấy và tự ḿnh lập nên một vương quốc, công 
			nhận Đức Bàn Cổ là Đấng Chỉ huy và tuân theo mọi mệnh lệnh mà ḿnh 
			tiếp nhận được từ nơi Ngài. Trên khắp Đế quốc khổng lồ này bao gồm 
			nhiều vương quốc, Đức Bàn Cổ là Lănh tụ Tối cao. Cho dù Ngài có nhập 
			thể hay chăng, th́ các vị Thánh vương vẫn chỉ huy nhân danh Ngài và 
			thỉnh thoảng Ngài ra lệnh để thi hành công việc.
			
			Vào năm 40.000 trước Công nguyên th́ Đế quốc có dấu hiệu suy vong, 
			các ḥn đảo và các tỉnh ngoại biên đều khẳng định quyền đối lập man 
			di mọi rợ của ḿnh. Đức Bàn Cổ thỉnh thoảng mới nhập thể c̣n thường 
			thường điều khiển mọi chuyện từ các cơi cao. Tuy nhiên Vương quốc 
			trung ương vẫn có nền văn minh rực rỡ, tự măn và lặng thinh trong 
			ṿng 25.000 năm nữa, trong khi các hoạt động chủ yếu vẫn tiếp diễn 
			theo đường lối đi dă ngoại thêm nữa để xây dựng các phân chủng và mở 
			rộng chúng ra mọi hướng. 
			
					
					
					
					[[1]] 
					Danh xưng này được dịch từ tiếng Bắc phạn có nghĩa là đấng 
					Trinh nguyên Vĩnh cữu, từ ngữ đấng Trinh nguyên là giống đực
					
					
					
					[[2]] 
					Măi sau này khi dân số ở thành thị đă tăng trưởng lên nhiều 
					th́ các viên chức mới tiếp nhận phân bổ nó cho những căn nhà 
					ở các địa hạt quản trị của ḿnh.
					
					
					
					[[3]] 
					Ḍng dơi gốc này thường được gọi là phân chủng thứ nhất 
					trong kho tài liệu Thông Thiên Học; nhưng ta không nên quên 
					rằng đây là Căn chủng nguyên thủy từ đó phát sinh ra mọi 
					nhánh tức phân chủng. 
					Đợt di dân thứ nhất được gọi là
					phân chủng thứ nh́
					v.v… Những người di cư tới Ấn độ đều xuất phát từ ḍng 
					dơi Á châu và chính là phân chủng thứ nhất.
			
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS