CON NGƯỜI: Từ đâu tới, Sinh hoạt ra sao và Rồi sẽ đi về đâu.
Ghi
lại cuộc khảo cứu bằng thần nhãn.
Nhà
xuất bản Thông Thiên Học, Adyar, Madras 20, Ấn Độ
Ấn
bản lần thứ nhất 1913
In
lại năm 1923
-
1954
-
1960
-
1967
In
tại Ấn quán Vasanta,
Hội
Thông Thiên Học, Adyar, Madras 20
LỜI NÓI
ĐẦU
Người ta không còn
coi là hoàn toàn điên rồ đối với ý tưởng cho rằng có thể quan sát bằng thần
nhãn. Nói chung thì người ta vẫn không chấp nhận và quả thật không chấp nhận
tới một mức độ lớn lao nào đó. Tuy nhiên càng ngày càng có thiểu số đang
tăng trưởng dần gồm những người rất thông minh, tin rằng thần nhãn là chuyện
có thật và coi đó là một quyền năng hoàn toàn tự nhiên mà theo lộ trình tiến
hóa thì sẽ trở nên phổ biến khắp thế giới. Họ không coi đó là một năng khiếu
mầu nhiệm, cũng không phải là sự phát triển quá độ do có tính linh cao cấp,
thông minh xuất chúng hoặc tính tình thanh khiết; bất kỳ đặc tính nào nêu
trên hoặc mọi đặc tính ấy đều có thể biểu lộ nơi một người tuyệt nhiên không
có năng khiếu thần nhãn. Họ biết rằng đó là một quyền năng tiềm tàng nơi mọi
người và bất cứ ai có khả năng cũng như sẵn lòng trả giá thì đều có thể phát
triển được nó đi trước thời hạn đối với cơ tiến hóa nói chung.
Việc sử dụng thần
nhãn để khảo cứu về quá khứ chẳng có gì là mới lạ. Giáo lý Bí Truyền của
H.P.Blavatsky là một ví dụ điển hình của cách sử dụng ấy. Liệu tác phẩm được
tạo ra như thế có đáng tin cậy hay chăng, thì đây lại là một vấn đề dành cho
các thế hệ tương lai quyết định vì họ có được quyền năng hiện nay đang sử
dụng vì mục đích ấy. Chúng tôi biết rằng có một số lớn bạn đọc vốn là môn
sinh tin tưởng rằng quyền năng ấy là sự thật và lại biết chúng tôi vốn trung
thực, cho nên họ ắt thấy quyển sách này vừa thú vị lại vừa soi sáng. Quyển
sách này đã được viết ra dành cho họ. Cũng như số môn sinh càng ngày càng
gia tăng thì số bạn đọc ắt cũng gia tăng bấy nhiêu. Chúng tôi không thể hi
vọng nhiều hơn mức ấy. Mãi hằng thế kỷ sau này, khi người ta có thể viết ra
nhiều quyển sách hay hơn dựa vào những cuộc khảo cứu tương tự thì quyển sách
này ắt sẽ được coi là một tác phẩm tiên phong thú vị, xét vì nó đã được viết
ra vào thời kỳ ấy.
Hiển nhiên là ta
không thể trình bày những bằng chứng về tính chính xác tổng quát của nó, mặc
dù đôi khi người ta có thể thực hiện nhiều khám phá xác nhận một phát biểu
rải rác đâu đó. Ta không thể chứng minh cho công chúng sự thật về việc khảo
cứu bằng thần nhãn cũng giống như ta không thể chứng minh màu sắc cho kẻ mù
lòa. Chừng nào còn đọc quyển sách này, thì công chúng còn không hoàn toàn cả
tin vào nó; một số người có thể nghĩ rằng đó là một chuyện bịa đặt hay ho;
những người khác có thể coi là nó thật tẻ nhạt. Hầu hết ắt coi tác giả hoặc
là tự lừa bịp mình hoặc là đi lừa bịp người khác, tùy theo vị thẩm phán vốn
có hảo tâm hoặc ác tâm.
Chúng tôi xin nói
với các môn sinh: Các bạn hãy chấp nhận nó chừng nào nó giúp các bạn nghiên
cứu được và soi sáng cho những gì mà các bạn đã biết. Trong tương lai có thể
có sự mở rộng và sửa chữa vì chúng tôi chỉ trình bày một vài mảnh vụn của
một lịch sử bao la và nhiệm vụ này rất nặng nề.
Công trình khảo cứu
được thực hiện ở Adyar vào mùa hè năm 1910; trong bầu không khí nóng bức của
mùa hè, nhiều môn sinh đã vắng mặt và chúng tôi có thể nói là đã nhập thất
để không bị làm phiền, mỗi tuần hết năm buổi chiều tối; chúng tôi quan sát
và nói chính xác điều mà mình nhìn thấy, có hai hội viên là bà Van Hook và
Don Fabrigio Ruspoli đã tử tế chép lại mọi điều chúng tôi nói, đúng hệt từng
chữ một, hai bản biên chép này vẫn còn được lưu giữ.
Chúng được thêu dệt
thành câu chuyện hiện nay một phần được viết ra trong vòng mùa hè năm 1911,
khi chúng tôi dành vài tuần lễ cho mục đích ấy và tác phẩm được hoàn thành
vào tháng tư và tháng năm, năm 1912, cũng được dành thời gian cho nó trong
nhịp sống hối hả gấp rút. Cái loại công việc này không thể được hoàn thành
trong bối cảnh thường xuyên bị gây rối làm phiền và cách duy nhất để hoàn
tất nó là có lúc phải trốn đời, mà Ki tô hữu Công giáo La mã gọi là “đi vào
tĩnh tâm”.
Chúng tôi đã theo
phác họa Thông Thiên Học tổng quát về cơ tiến hóa, và điều này được trình
bày trong “phần sơ bộ” ở Chương I. Nó chi phối toàn thể và là kế hoạch nền
tảng của tác phẩm này. Suốt quyển sách ta coi như hiển nhiên có sự thật là
một Huyền giai đang dẫn dắt và đào luyện cơ tiến hóa, một số thành viên của
Huyền giai này tất nhiên có xuất hiện trong suốt câu chuyện. Để đưa bản thân
mình trở về những thời kỳ xa xưa nhất, chúng tôi để cho tâm thức của chính
mình hiện diện nơi đó và dễ dàng khởi sự từ đó hơn bất kỳ thứ nào nhưng vì
người ta không thể nhận ra được những thời kỳ nào khác. Có thể nói chúng đưa
chúng tôi tới mức đặt chân lên thời kỳ Dãy hành tinh thứ nhứt và thứ nhì.
Kể từ phần sau này của Dãy hành tinh thứ ba mãi cho tới về sau, chúng tôi
truy nguyên lịch sử của nhân loại bằng cách theo dõi một nhóm cá thể, trừ
phi nhóm này có bận rộn chuyện gì khác trong bất kỳ giai đoạn tiến hóa quan
trọng nào, chẳng hạn như lúc bắt đầu chi chủng thứ ba và thứ tư của Căn
chủng thứ Năm; khi xảy ra trường hợp ấy thì chúng tôi lờ đi và dõi theo dòng
tiến hóa chính yếu. Trong bản ghi chép này, chúng tôi không thể đưa ra nhiều
chi tiết tương đối về các nhân vật vì dòng lịch sử vốn tràn lan rộng lớn.
Tuy nhiên nhiều chi tiết trong cuộc đời đã được xuất bản trên
Tạp chí Nhà Thông Thiên Học dưới
tiêu đề tổng quát là “Hé lộ Bức màn Thời gian” – những sự hé lộ giúp ta có
thể thoáng thấy được quá khứ của nhiều cá thể. Chúng tôi hy vọng rằng một
ngày kia sẽ xuất bản được một quyển sách thuộc loại này tên là
Các tiền kiếp của Alcyone, nó có
đính kèm theo nhiều bảng phổ hệ đầy đủ cho thấy mỗi kiếp các nhân vật chính
đã được nhận diện ra cho đến nay quan hệ với nhau ra sao. Nếu có người thực
hiện thì công trình thuộc loại này có thể tha hồ tiến hành.
Vì ta không thể viết lịch sử mà ta không nêu tên và vì luân hồi là một sự
thật – do đó sự thật là cùng một cá thể lại tái xuất luôn qua các thời đại
nối tiếp nhau, cá thể ấy đóng nhiều vai trò với nhiều tên gọi khác nhau –
cho nên chúng tôi đã gọi tên nhiều cá thể để nhận diện được họ trong suốt
những vở tuồng mà họ có thủ vai diễn. Đối với chúng tôi thì Irving cũng là
Irving, cũng giống như Macbeth, Richard III, Shyhock, Charles I, Faust,
Romeo, Matthias; và trong bất kỳ câu chuyện nào về cuộc đời mình thì y vẫn
được gọi là diễn viên Irving, cho dù y đóng vai nào đi chăng nữa. Xuyên suốt
câu chuyện ấy y vẫn có được cá tính liên tục. Cũng giống như một
người trong câu chuyện dài mà một kiếp sống chỉ
coi như một ngày, người ấy đóng cả trăm vai mà suốt đời chỉ vẫn là chính
mình cho dù y là đàn ông hay đàn bà, nông dân, ông hoàng hay tu sĩ. Chúng
tôi vẫn dành cho y một tên gọi đặc biệt để cho người ta nhận ra y bên dưới
mọi chiêu bài mà y khoác lấy để thích hợp với vai diễn mà y đang đóng. Hầu
hết các tên gọi ấy mang tên các chòm sao hoặc ngôi sao. Chẳng hạng như chúng
tôi đặt tên cho Julius Caesar là Corona, đặt tên cho Plato là Pallas, đặt
tên cho Lão tử là Lyra; bằng cách này chúng tôi có thể thấy các đường lối
tiến hóa khác nhau ra sao, những kiếp trước nào đã tạo ra một Caesar hoặc
một Plato. Nó khiến cho câu chuyện mang tính nhân bản và dạy cho môn sinh sự
thật về luân hồi.
Tên gọi của những Đấng thường xuyên xuất hiện trong câu chuyện này thời đó
chỉ là những thiện nam tín nữ bình thường, nhưng hiện
nay là các vị Chơn sư; thì việc đặt tên ấy khiến cho các Đấng cao cả tỏ ra
có thực hơn đối với một số người, các Ngài đã leo lên tới nơi mà các Ngài
đang đứng trên nấc thang cuộc đời từ chỗ mà chúng ta hiện nay đang leo lên,
các Ngài cũng đã từng biết tới cuộc sống gia đạo bình thường, những niềm vui
và những nỗi buồn, những thành công và thất bại vốn là kinh nghiệm của loài
người. Các Ngài đâu phải là các vị thần linh đã toàn bích từ biết bao thời
đại vô tận, mà chỉ là những thiện nam tín nữ đã phát triển được Thượng Đế
trong nội tâm và đã đi theo một con đường gian nan vất vả để đạt tới trình
độ siêu phàm nhập thánh. Các Ngài là thành quả đầy hứa hẹn của điều mà chúng
ta sẽ thành tựu, là những đóa hoa huy hoàng trên cái cây mà chúng ta mới chỉ
là nụ hoa chớm nở.
Thế là chúng tôi đã hạ thủy con tàu xuống biển cả công luận đầy bão tố để
cho nó giáp mặt với định mệnh và tìm thấy số phận của mình.
ANNIE BESANT
C. W. LEADBEATER
MỘT SỐ NHÂN VẬT CHÍNH TRONG CÂU CHUYỆN
BỐN ĐẤNG KUMARA:
Bốn vị Hỏa đức Tinh quân hiện vẫn còn sống ở Shamballa.
MAHAGURU: Là
Đức Bồ Tát vào thời ấy, Ngài đã xuất hiện dưới dạng Vyasa, Thoth tức
(Hermes), Zarathushtra, Orpheus, cuối cùng là Phật Thích Ca và trở thành Đức
Thế Tôn.
SURYA
: Đức Di Lạc Bồ Tát hiện nay, Đại sư tối
cao của thế giới.
MANU
: Bàn Cổ, người Lãnh đạo một Giống dân
chính. Nếu có thêm tiếp đầu ngữ là Bàn Cổ Gốc hoặc Bàn Cổ Mầm Mống thì đó là
một chức sắc còn cao cả hơn nữa, chủ trì một chu kỳ tiến hóa lớn hơn tức một
Cuộc tuần hoàn hoặc một Dãy hành tinh. Trong sách Ấn Độ người ta dùng biệt
hiệu Vaivasvata để chỉ vị Bàn Cổ Gốc của Dãy hành tinh Trái đất cũng như Bàn
Cổ của Giống dân chính thứ Năm Aryan .
VIRAJ
: Đức Văn minh Đại đế, một chức sắc cao
cấp ngang hàng với
Đức Bàn Cổ hoặc Đức Bồ tát.
SATURN
: Hiện nay là một Chơn sư mà một số sách
Thông Thiên Học coi là Chơn sư xứ Venice.
JUPITER
: Hiện nay là một Chơn sư cư trú ở vùng
đồi Nilgiri.
MARS
: Hiện nay là Chơn sư M. trong tác phẩm
Thế giới Huyền bí.
MERCURY
: Hiện nay là Chơn sư K.H. trong tác phẩm
Thê giới Huyền bí.
NEPTUNE
: Hiện nay là Chơn sư Hilarion
-
OSIRIS
: Hiện nay là Chơn sư Serapis
-
BRIHASPATI
: Hiện nay là Chơn sư Jesus
-
VENUS
: Hiện nay là Chơn sư Ragozci, (Rakovzky)
Chơn sư Hung gia lợi, Bá tước Saint Germain vào thế kỷ 18.
URANUS
: Hiện nay là Chơn sư D.K.
VULCAN
: Hiện nay là một Chơn sư mà kiếp lâm phàm
mới đây nhất của Ngài được gọi là Ngài Thomas More.
ATHENA
: Hiện nay là một Chơn sư mà thế giới gọi
là Thomas Vaughan, ‘Eugenius Philalethes’.
ALBA ...
Ethel Whyte
ALBIREO ...
Maria-Luisa Kirby
ALCYONE ...
J. Krishnamurti
ALETHEIA ...
John van Manen
ALTAIR ...
Herbert Whyte
ARCOR ...
A. J. Wilson
AURORA ...
Count Bubna-Licics
CAPELLA ...
S. Maud Sharpe
CORONA ...
Julius Caesar
CRUX ...
The Hon. Otway Cuffe
DENEB ...
Lord Cochrane (Tenth Earl of Dundonald)
EUDOXIA ...
Louisa Shaw
FIDES ...
G. S. Arundale
GEMINI ...
E. Maud Green
HECTOR ...
W. H. Kirby
HELIOS ...
Marie Russak
HERAKLES ...
Annie Besant
LEO ...
Fabrizio Ruspoli
LOMIA ...
J. I. Wedgwood
LUTETIA ...
Charles Bradlaugh
LYRA ...
Lao-Tze
MIRA ...
Carl Holbrook
MIZAR ...
J. Nityananda
MONA ...
Piet Meuleman
NORMA ...
Margherita Ruspoli
OLYMPIA ...
Damodar K. Mavalankar
PALLAS ...
Plato
PHOCEA ...
W. Q. Judge
PHOENIX ...
T. Pascal
POLARIS...
B. P. Wadia
PROTEUS...
The Teshu Lama
SELENE...
C. Jinarajadasa
SIRIUS...
C. W. Leadbeater
SIWA...
T. Subba Rao
SPICA...
Francesca Arundale
TAURUS ...
Jerome Anderson
ULYSSES...
H. S. Olcott
VAJRA ...
H. P. Blavatsky
VESTA ...
Minnie C. Holbrook
MỤC LỤC
DẪN NHẬP:
CHƯƠNG
I
: Sơ bộ
II
: Các Dãy hành tinh thứ Nhất và thứ Nhì.
III
: Thời sơ khai trên Dãy Nguyệt tinh.
IV
: Cuộc tuần hoàn thứ Sáu trên Dãy Nguyệt tinh.
V
: Cuộc tuần hoàn thứ Bảy trên Dãy Nguyệt
tinh.
VI
: Thời kỳ sơ khai trên Dãy hành tinh Trái đất.
VII :
Những giai đoạn đầu của Cuộc tuần hoàn thứ Tư.
VIII : Căn
chủng thứ Tư.
IX
: Tà thuật ở Châu Atlantis.
X
:
Nền văn minh Atlantis.
XI
: Hai nền văn minh dân Atlante - ở Peru.
XII :
Hai nền văn minh dân Atlante - ở Peru.
XIII : Hai
nền văn minh dân Atlante – ở Chaldea.
XIV : Mở đầu
Căn chủng thứ Năm.
XV :
Xây dựng Thành thị Lớn.
XVI : Nền văn
minh sơ khởi của dân Aryan và đế quốc Aryan,
XVII : Phân chủng
thứ Nhì, người Ả Rập.
XVIII : Phân chủng thứ
Ba, người Ba Tư.
XIX : Phân
chủng thứ Tư, người Kelte.
XX :
Phân chủng thứ Năm, người Teuton
XXI : Dòng
dõi của Căn chủng và đám con cháu di cư vào Ấn Độ.
XXII : Linh ảnh của
vua A Dục.
XXIII : Khởi đầu Căn chủng thứ
Sáu.
XXIV : Tôn giáo và các Đền thờ.
XXV : Giáo dục và Gia
đình.
XXVI : Dinh thự và Phong tục
tập quán.
XXVII : Kết luận.
Lời kết.
Phụ lục.
DẪN NHẬP .
Vấn đề nguồn gốc của con người, sự tiến hóa và số phận của nó là một đề tài
hay ho vô tận. Y từ đâu mà ra, cái sinh linh Thông tuệ huy hoàng này ít ra
cũng xuất hiện trên trái đất để trở thành đỉnh cao của loài sinh vật hữu
hình? Y đã tiến hóa lên tới được địa vị ngày nay ra sao? Phải chăng y đã đột
nhiên từ trên giáng xuống, từ một thiên thần rực rỡ trở thành kẻ tạm thời
thuê mướn một căn nhà bằng đất sét; hay là y đã leo lên từ bên dưới trải qua
những thời đại dài dằng dặc mờ mịt truy nguyên nguồn gốc tổ tiên tầm thường
của mình từ loài đất bùn nguyên thủy, qua tới loài cá, loài bò sát, loài
động vật có vú lên mãi tới giới nhân loại? Và đâu là số phận tương lai của
y? Phải chăng y cứ tiếp tục tiến hóa lên mãi, càng ngày càng leo lên cao để
rồi lại đi xuống cái đường dốc dài dằng dặc suy thoái cho đến khi y rớt vào
cái vực thẳm sự chết, bỏ lại đằng sau một hành tinh băng giá, nấm mồ chôn
hằng hà sa số các nền văn minh, hay là sự leo lên hiện nay của y chẳng qua
chỉ là trường học dạy cho một Quyền năng tâm linh bất tử đến khi nó trưởng
thành sẽ có định mệnh chưởng quản cây quyền trượng của thế gian, của một
Thái dương hệ, một tập hợp Thái dương hệ, đó là một Đấng Thượng Đế chân
chính đang hình thành?
Người ta đã giải đáp nhiều cho những thắc mắc này, một phần hoặc trọn vẹn,
trong các Kinh điển của những tôn giáo thời xưa, dưới dạng những truyền
thuyết mơ hồ được truyền thừa bởi các cổ nhân uy dũng qua cuộc thám hiểm của
những nhà khảo cổ học hiện đại, qua công trình nghiên cứu của các nhà địa
chất học, vật lý học, sinh học, thiên văn học thời nay. Kiến thức hiện đại
nhất đã minh chứng cho những sử liệu xưa cũ nhất khi gán cho trái đất của ta
và cư dân trên đó một thời kỳ tồn tại lâu dài và phức tạp mầu nhiệm; người
ta đã sục sạo hằng trăm triệu năm mới rút ra được thời gian cho các quá
trình chậm chạp và cần mẫn của thiên nhiên; con người nguyên thủy có nguồn
gốc được đẩy lùi mãi cho tới tận khi châu Lemuria, nay là nơi mà Thái bình
dương đang gợn sóng; còn Úc châu mới được tái phát hiện gần đây được coi là
vùng đất xưa nhất; người ta định vị châu Atlantis là nơi mà hiện nay sóng
của Đại tây dương đang vỗ, còn châu Phi được nối liền với châu Mỹ qua một
cầu nối bằng đất liền sao cho vòng nguyệt quế của một nhà khám phá đã được
nhổ ra từ cọng lông mày của Columbus và người ta coi ông là nối tiếp những
thế hệ đã chết từ lâu rồi khi tìm được đường từ Âu châu đi tới lục địa mặt
trời lặn. Poseidonis không còn chỉ là chuyện hoang đường mà các lễ sư mê tín
dị đoan người Ai Cập kể lại cho một triết gia Hy Lạp; Minos ở đảo Crete được
khai quật từ ngôi mộ cổ xưa, là một con người lịch sử chứ không phải thần
thoại; Babylon đã từng một thời cổ sơ thì lại được chứng tỏ là kẻ thừa kế
hiện đại của một loạt những thành thị rất văn minh được chôn vùi trong hết
địa tầng nầy tới địa tầng khác, sáng lấp lánh qua đêm đen thời gian. Truyền
thông đang vẫy gọi kẻ thám hiểm hãy khai quật ở vùng Turkestan ở Trung Á và
đang thì thào về những di tích người khổng lồ một mắt chỉ chờ đợi nhát xẻng
khai quật của họ.
Giữa những sự xung đột ý kiến như thế, sự xung đột về lý thuyết, sự khẳng
định và bác bỏ những giả thuyết bao giờ cũng mới thì rất có thể người ta có
cơ may đọc tới phần ghi chép của hai người quan sát, hai kẻ thám hiểm bước
trên một con đường rất xưa cũ mà rất ít người thời nay bước trên đó khi đã
đến lúc ổn định. Khoa học ngày nay đang thám hiểm những phép lạ của cái gọi
là ‘trí nội giới’ và tìm thấy nó có những quyền năng kỳ diệu, những điều bất
ngờ kỳ lạ, những hồi ức kỳ lạ. Khi lành mạnh và thăng bằng chế ngự được bộ
óc thì nó tỏ ra là một thiên tài, khi mất thăng bằng với bộ óc lông bông và
hết biết đường mà tính thì nó tỏ ra là điên cuồng. Một ngày nào đó khoa học
ắt ngộ ra được rằng cái mà nó gọi là trí nội giới thì Tôn giáo gọi là Linh
hồn và sự hiển lộng quyền năng của nó còn tùy thuộc vào những công cụ vật lý
và siêu vật lý mà nó điều khiển được. Nếu những công cụ này đã được kiến tạo
tinh vi, lành mạnh và linh hoạt hoàn toàn bị nó kiểm soát thì các quyền năng
về thị giác, thính giác, ký ức trào dâng cuồn cuộn từ trí nội giới ắt trở
thành các quyền năng bình thường và khả dụng của Linh hồn, nếu Linh hồn phấn
đấu tiến về Tinh thần – Linh Ngã – bị che giấu trong vật chất của Thái dương
hệ thì Chơn ngã thay vì cứ bám lấy thể xác lúc bấy giờ sẽ gia tăng được
quyền năng và trí thức; sẽ ở trong tầm tay của nó mà không thể đạt được bằng
phương pháp khác.
Các nhà siêu hình học xưa và nay, tuyên bố rằng
Quá khứ, Hiện tại và Tương lai bao giờ cũng tồn tại cùng lúc nơi Tâm thức
thiêng liêng và chỉ mang tính lần lượt khi chúng bước vào biểu lộ, nghĩa là
chịu ảnh hưởng của Thời gian vốn quả thật là sự nối tiếp các trạng thái tâm
thức. Ý thức hữu hạn của ta vốn tồn tại nơi Thời gian cho nên tất yếu bị sự
lần lượt ấy chi phối; ta chỉ có thể lần lượt suy nghĩ. Nhưng do kinh nghiệm
trong các trạng thái giấc mơ, tất cả chúng ta đều biết rằng
những sự đo lường qua thời gian
biến thiên theo sự thay đổi tâm trạng, mặc dù vẫn còn sự liên tục; chúng ta
cũng biết rằng những sự đo lường theo thời gian thậm chí còn biến thiên
nhiều hơn nữa trong thế giới tư tưởng, và khi ta kiến tạo những hình tư
tưởng thì ta có thể trì hoãn, xúc tiến, lập lại tùy ý để cho các hình tư
tưởng nối tiếp nhau mặc dù chúng bao giờ cũng vẫn bị sự nối tiếp ấy chi
phối. Nếu theo đuổi đường lối tư duy ấy thì ta cũng chẳng khó khăn gì khi
quan niệm ra một tâm trí được nâng lên tới quyền năng siêu việt, tâm trí của
NGÔI LỜI – một Đấng như được miêu tả trong Phúc âm của Thánh John, i, 1 - 4
– bao hàm nơi bản thân mọi hình tư tưởng được thể hiện chẳng hạn như trong
một Thái dương hệ, những hình tư tưởng ấy được sắp xếp theo thứ tự biểu lộ
như được đề nghị, nhưng tất cả đều đã có sẵn ở đó, tất cả đều có thể được
duyệt lại cũng giống như chúng ta có thể duyệt lại các hình tư tưởng của
chính mình, mặc dù chúng ta chưa hề đạt tới mức quyền năng thiêng liêng; bậc
Đạo sư Muhammad đã nêu bật được điểm ấy như sau: “Ngài chỉ nói với nó: ‘Hãy
hiện tồn’ và thế là ‘nó hiện tồn’
[[1]].
Thế nhưng, cũng giống như đứa trẻ trong một ngày bao hàm nơi bản thân các
tiềm năng của tổ tiên, cũng vậy chúng ta là con cháu của Thượng Đế, bao hàm
nơi bản thân các tiềm năng của Đấng thiêng liêng. Vì thế cho nên khi chúng
ta dứt khoát xoay chuyển linh hồn xa rời dục lạc để tập trung chú tâm vào
Tinh thần – Tinh thần là thực chất mà Linh hồn chỉ là bóng dáng của nó nơi
thế giới vật chất – thì Linh hồn có thể đạt được “Ký ức của Thiên nhiên”,
vốn thể hiện các Tư tưởng của NGÔI LỜI trong thế giới vật chất, có thể nói
đó là những phản ánh của Tâm trí Ngài. “Ký ức Thiên nhiên” có quá khứ dưới
dạng những ký ảnh hằng sống, nó cũng có Tương lai mà Linh hồn mới phát triển
nửa chừng, khó lòng đạt được, vì Tương lai ấy chưa biểu lộ, chưa hiện thể,
mặc dù hoàn toàn “có thực”. Khi đọc những ký ảnh này, Linh hồn có thể truyền
chúng xuống cho thể xác, ghi khắc nó lên bộ óc để rồi ghi chép nó lại bằng
ngôn từ và văn tự. Khi Linh hồn hòa lẫn với Tinh thần – như trong trường hợp
“những con người đã được toàn bích”, những Đấng đã hoàn tất cơ tiến hóa nhân
loại, những Chơn linh đã được “giải thoát” hoặc “cứu độ”
[[2]]
thì sự tiếp xúc với Ký ức thiêng liêng ắt là ngay tức khắc, trực tiếp, bao
giờ cũng sẵn
có và không sai lầm. Trước khi đạt tới mức đó thì sự tiếp xúc ắt bất toàn,
phải qua trung gian, phải chịu sự sai lầm về quan sát và truyền dẫn.
Những người viết
ra quyển sách này đã được dạy phương pháp tiếp xúc ấy, nhưng vì gặp nhiều
khó khăn liên quan tới trình độ tiến hóa chưa hoàn chỉnh cho nên chỉ làm hết
sức mình để quan sát và truyền dẫn, mặc dù thừa biết rằng có nhiều khiếm
khuyết khiến cho công trình của mình bị hạn chế. Thỉnh thoảng các bậc Huynh
trưởng cũng giúp sức cho các tác giả đó đây dưới dạng những phác họa tổng
quát cũng như ngày tháng khi cần
thiết. Cũng giống
như trường hợp các tác phẩm hữu quan vốn có trước tác phẩm này trong phong
trào Thông Thiên Học, đây là “kho tàng cất giấu trong những nồi đất” và
trong khi thành thật biết ơn sự trợ giúp đã được ban cho đầy hảo ý, các tác
giả xin nhận trách nhiệm là mọi sai lầm là hoàn toàn thuộc về bản thân mình.
CHƯƠNG
I
SƠ BỘ
Con người từ đâu tới và y sẽ đi về đâu? Để trả lời một cách trọn vẹn nhất
thì chúng ta chỉ có thể nói rằng: Trên cương vị là một
Thực thể tâm linh, Con người từ Thượng Đế mà ra và sẽ trở về với Thượng Đế;
nhưng nguồn gốc và cứu cánh mà chúng ta đang bàn tới ở đây biểu thị một qui
mô khiêm tốn hơn nhiều. Đó chỉ là một trang trong câu chuyện đời được sao
chép lại ở đây nói về việc những Đứa con Nhân loại một số được sinh ra vào
vật chất thô trược; còn điều gì nằm
bên ngoài sự sinh ra ấy, Hỡi
Đêm đen còn chưa ai xuyên thấu được? – và theo dõi những
sự tăng trưởng của những đứa con nhân loại ấy từ thế giới này sang thế giới
kia tới một mức trong tương lai gần nhưng còn cách hiện nay tới vài thế kỷ -
còn điều gì nằm ngoài cái đám mây ló dạng trong buổi bình minh ấy; Hỡi
Ban ngày còn chưa lộ ra?
Thế nhưng tựa đề không hoàn toàn sai, vì kẻ từ
Thượng Đế mà ra và trở về với Thượng Đế không chính xác là ‘Con người’. Cái
Tia của Ánh rực rỡ thiêng liêng vốn xuất phát từ Đấng thiêng liêng vào lúc
bắt đầu một sự biểu lộ, cái “mảnh vụn Chơn ngã của chính ta, bị biến đổi nơi
thế giới sự sống thành ra một Tinh thần bất tử”
[[3]],
vốn hơn hẳn Con người. Con người chẳng qua chỉ là một giai đoạn phát triển
của nó; khoáng vật, thực vật, động vật, chẳng qua chỉ là những giai đoạn
sinh hoạt phôi thai của nó trong lòng Thiên nhiên trước khi nó được sinh ra
làm Người. Con người là giai đoạn trong đó Tinh thần và Vật chất phấn đấu để
thống trị và khi cuộc đấu tranh đã qua rồi thì Tinh thần đã trở thành Chúa
tể của Vật chất, làm Chủ được sự sống và sự chết; lúc bấy giờ Tinh thần bước
vào cơ tiến hóa Siêu nhân, không còn là Con người nữa, mà nói cho đúng hơn
là một bậc Siêu nhân.
Vậy thì ở đây ta chỉ bàn tới y trên cương vị là Con người; Con người trong
giai đoạn phôi thai nơi các giới khoáng vật, thực vật và động vật; Con người
khi phát triển trong giới nhân loại; Con người và các thế giới của mình, Chủ
thể tư duy và môi trường tiến hóa của y.
Để dễ theo dõi câu chuyện được tường trình trong
quyển sách này, bạn đọc cần dừng lại một vài phút để xem xét quan niệm tổng
quát về một Thái dương hệ mà kho tài liệu Thông Thiên Học đã phác họa
[[4]]
và dựa vào những nguyên lý tổng quát của cơ tiến hóa được triển khai trong
Thái dương hệ. Việc này cũng chẳng khó khăn gì hơn theo dõi kho thuật ngữ
chuyên môn của mọi ngành khoa học hoặc những điều miêu tả về vũ trụ, chẳng
hạn như trong khoa thiên văn học và người ta chỉ cần chú ý một chút thì cũng
có thể
dễ dàng quán triệt được nó. Trong mọi việc nghiên cứu có nội dung sâu sắc
thì bao giờ ta cũng quán triệt được những điều sơ bộ khô khan. Bạn đọc vô ý
vô tứ ắt thấy chúng tẻ nhạt bèn bỏ qua chúng, thế là trong suốt thời gian
đọc sau đó, y ít nhiều ở trong tâm trạng hoang mang bối rối; y đang xây dựng
căn nhà mà không có nền móng và phải liên tục chống đỡ nó. Bạn đọc kỹ lưỡng
giáp mặt với
những khó khăn này một cách dũng cảm quán triệt
nó một lần cho dứt khoát, thế là những kiến thức thu được giúp y dễ dàng
tiến bước và những chi tiết mà y gặp phải sau này sẽ dễ dàng được xếp vào
đúng chỗ. Những người nào thích cái kiểu vô ý vô tứ tốt hơn nên bỏ qua
Chương hiện nay và tiếp tục nhảy sang Chương II, còn những bạn đọc khôn
ngoan thì nên dành ra một tiếng đồng hồ để quán triệt những điều sau đây.
Nhà đại Hiền triết Plato, một trong những bậc thầy về trí tuệ trên thế giới
với những ý tưởng cao siêu chế
ngự được nền tư tưởng Âu Tây, có đưa ra phát biểu súc tích sau đây: “Thượng
Đế hình học hóa”. Chúng ta càng biết nhiều về Thiên nhiên thì càng ngộ ra
được sự thật này, Những chiếc lá càng được xếp đặt
theo thứ tự nhất định liên tiếp,1/2, 1/3, 1/5, 3/8, 5/13 v.v… Những rung
động tạo thành các nốt nhạc lần lượt của một âm giai có thể được phác họa
tương ứng theo một chuỗi đều đặn. Một số bệnh tuân theo một chu kỳ nhất định
về ngày tháng; năm thứ 7, thứ 14, thứ 21, đánh dấu những cuộc khủng hoảng có
kết quả là tiếp tục sống trên cõi trần hoặc là chết. Thật là hoài công mà
tiếp tục nhân lên những ví dụ như thế.
Vậy thì chẳng có điều gì đáng ngạc nhiên qua sự kiện mà ta tìm thấy trong
thứ tự thuộc Thái dương hệ của ta, con số Bảy được cứ lập đi lập lại mãi.
Chính vì vậy mà nó được coi là ‘con số linh thiêng’ và một hình dung từ hay
hơn đó là: một ‘con số có ý nghĩa’. Sinh hoạt của mặt trăng tự nhiên được
chia ra thành hai lần bảy ngày trưởng và một con số tương
tự ngày tiêu;
còn các tuần trăng cho ta các tuần lễ gồm bảy ngày. Và ta thấy số bảy này là
số gốc của Thái dương hệ, phân chia các bộ môn của nó ra thành bảy và những
bộ môn này lại chia ra thành bảy bộ môn phụ, các bộ môn phụ này lại chia
thành bảy bộ môn phụ khác v.v… Học viên tôn giáo ắt nghĩ tới bảy Đấng
Ameshaspentas của Bái Hỏa giáo, bảy Chơn linh trước ngay Thượng Đế của Kitô
giáo; các nhà Thông Thiên Học nghĩ tới NGÔI LỜI
tam phân tối cao của Thái dương hệ với các Thừa tác viên là các “Đấng Chưởng
quản bảy Dãy hành tinh” [[5]]
vây quanh Ngài, mỗi Đấng chủ trì một bộ môn riêng trong Thái dương hệ giống
như một vị Phó vương đối với Hoàng đế. Ở đây chúng ta chỉ quan tâm chi tiết
tới một bộ môn. Thái dương hệ bao gồm mười bộ môn, bởi vì trong khi có gốc
rễ là bảy, nó lại phát triển mười bộ môn; do đó các Thần bí gia gọi số bảy
là ‘con số toàn bích’. Ông A.P. Sinnett đã gọi tên những bộ môn này rất hay
là các Hệ thống Tiến hóa và nhân loại đang tiến hóa và sẽ tiến hóa bên trong
nội bộ mỗi Hệ thống này. Bây giờ chúng ta chỉ hạn chế vào Hệ thống của chúng
ta thôi, mặc dù ta không được quên rằng các Hệ thống khác vẫn đang tồn
tại và các Đấng Thông tuệ tiến hóa rất cao có thể chuyển từ Hệ thống này
sang Hệ thống khác. Thật vậy, các đấng thỉnh giảng ấy đã đến với trái đất
chúng ta vào một giai đoạn trong cơ tiến hóa của nó để dẫn dắt và trợ giúp
cho nhân loại mới sinh ra.
Một Hệ thống Tiến hóa phải trải qua bảy giai đoạn tiến hóa lớn; mỗi giai
đoạn gọi là một Dãy hành tinh. Tên gọi này bắt nguồn từ sự thật một Dãy hành
tinh bao gồm bảy Bầu hành tinh có tương quan lẫn nhau; đó là một dây xích
gồm bảy mắt xích, mỗi mắt xích là một bầu hành tinh. Trong Sơ đồ I có trình
bày bảy Hệ thống Tiến hóa xung quanh mặt trời trung ương; vào bất cứ thời kỳ
nào thì cũng chỉ có một vành thuộc mỗi Hệ thống là hoạt động; mỗi vành thuộc
mỗi một trong bảy Hệ thống Tiến hóa bao gồm bảy bầu hành tinh; ta không được
hình dung bảy bầu hành tinh này riêng rẽ mà ở đây ta vẽ nó thành ra một vành
giống như chiếc nhẫn để tiết kiệm chỗ. Còn các bầu hành tinh thuộc một vành
ấy được trình bày trong Sơ đồ II kế tiếp.
Trong Sơ đồ II ta chỉ có một Hệ thống Tiến hóa được hình dung thành bảy giai
đoạn tiến hóa nghĩa là bảy Dãy hành tinh liên tiếp, bây giờ ta trình bày nó
liên quan tới năm trong bảy cõi tức là các loại vật chất tồn tại trong Thái
dương hệ; vật chất thuộc mỗi loại bao gồm các nguyên tử thuộc một loại nhất
định; mọi chất rắn, chất lỏng, chất
hơi và chất dĩ thái của một loại hình vật chất đều là các khối tập hợp những
nguyên tử thuộc cùng một loại [[6]],
vật chất này được gọi tên theo tâm trạng tương ứng với nó: trên cõi trần,
xúc động, trí tuệ, trực giác, tinh thần [[7]].
Trong Dãy hành tinh thứ nhất, ta thấy có sắp xếp
bảy bầu thế giới A, B, C, D, E, F, G:
[[8]].
A và G là thế giới gốc rễ và thế giới mầm mống vốn ở trên cõi tinh thần, vì
tất cả đều giáng từ trên cao xuống thấp, từ cõi tinh vi tới cõi thô trược
rồi lại leo lên tới cõi cao hơn được phong phú thêm nhờ thành quả của cuộc
viễn du, những thành quả này được dùng làm mầm mống cho Dãy hành tinh kế
tiếp; B và F ở trên cõi trực giác, một bầu thu lượm còn bầu kia đồng hóa; C
và E ở trên cõi thượng trí với mối quan hệ tương tự; D là bước ngoặc; điểm
thăng bằng giữa vòng cung đi lên và vòng cung đi xuống, nó ở trên cõi hạ
trí.
Các cặp bầu hành tinh này trong mỗi Dãy hành tinh
có liên hệ mật thiết với nhau, nhưng một đằng là bức phác họa thô thiển, còn
một đằng là bức tranh hoàn chĩnh. Trong Dãy hành tinh thứ nhì, các bầu hành
tinh đều giáng thêm một bậc xuống thấp hơn tới vật chất và bầu D ở trên cõi
xúc động.Trong Dãy hành tinh thứ ba chúng lại giáng xuống thêm một giai đoạn
nữa và bầu D đạt tới cõi trần. Trong Dãy hành tinh thứ tư và chỉ trong Dãy
hành tinh thứ tư thôi tức Dãy ở ngay chính giữa bảy Dãy hành tinh, Dãy dính
mắc sâu nhất vào vật chất thô trược nhất, bước ngoặc của Dãy này là bầu hành
tinh D và ta có ba bầu hành tinh C, D và E ở trên cõi trần. Có thể nói là
trong cuộc du hành trở về thì việc thăng lên giống như việc giáng xuống: Dãy
hành tinh thứ năm cũng giống như Dãy hành tinh thứ ba, chỉ có một bầu hành
tinh trên cõi trần; Dãy hành tinh thứ sáu giống như Dãy hành tinh thứ nhì có
bầu hành tinh D trên cõi xúc động; Dãy hành tinh thứ bảy giống như Dãy hành
tinh thứ nhất có bầu hành tinh D trên cõi trí tuệ. Khi kết thúc Dãy hành
tinh thứ bảy thì Hệ thống tiến hóa đã được triển khai hết và gặt hái được
thành quả.
CÁC LÀN SÓNG SINH HOẠT LIÊN TIẾP
BẢY DÃY HÀNH TINH
CÁC GIỚI
-
ĐỘNG VẬT
-
THỰC VẬT
-
KHOÁNG VẬT
–
TINH HOA NGŨ HÀNH III
– TINH HOA NGŨ HÀNH II
– TINH HOA NGŨ HÀNH I
SƠ ĐỒ
IV
Để cho thuận tiện thì chúng ta có thể đặt
tên bảy Hệ thống Tiến hóa trong Thái dương hệ theo tên bầu hành tinh D của
mỗi hệ thống, đây là bầu hành tinh mà ta biết rõ hơn hết; đó là Hỏa vương
tinh, Kim tinh, Trái đất, Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên vương tinh, Hải vương
tinh (Xem Sơ đồ I). Trong Hệ thống Tiến hóa có bầu Trái đất của ta, Dãy hành
tinh có trước Dãy hành tinh địa cầu là Dãy hành tinh thứ ba trong một loạt
và bầu hành tinh trên cõi trần của nó tức bầu D, chính là cái hiện nay là
Mặt trăng của ta, vì Dãy hành tinh thứ ba được gọi là Dãy Nguyệt tinh, còn
Dãy hành tinh thứ nhì và thứ nhất chỉ được gọi bằng số; Dãy hành tinh Địa
cầu tức Dãy hành tinh Trái đất là Dãy thứ tư trong một loạt liên tiếp, do đó
ba trong số bảy bầu hành tinh của nó biểu lộ trên cõi trần, bầu hành tinh C
tức hành tinh thứ ba được gọi là Hỏa tinh, còn bầu hành tinh thứ năm tức bầu
E được gọi là Thủy tinh. Hệ thống Tiến hóa Hải vương tinh với Hải vương tinh
là bầu hành tinh D, cũng có ba bầu hành tinh thuộc Dãy hành tinh đang biểu
lộ trên cõi trần – C và E là hai hành tinh trên cõi trần liên quan tới nó,
trong kho tài liệu Thông Thiên Học đã có nhắc tới sự tồn tại của chúng trước
khi Khoa học nhận ra chúng – vì thế cho nên Hệ thống Tiến hóa Hải vương tinh
đã đạt tới Dãy hành tinh thứ tư trong một loạt Dãy hành tinh. Hệ thống Tiến
hóa Kim tinh đang đạt tới cuối Dãy hành tinh thứ năm và do đó Kim tinh đã
mất đi Vệ tinh của mình tức là bầu D của Dãy hành tinh trước nó
[[9]]
.
Có thể là Herschil đã
thấy Hỏa Vương tinh, nhưng nghe đâu hiện nay nó đã biến mất vì nó đang ở vào
Dãy hành tinh thứ sáu, nhưng về vấn đề này chúng tôi không có thông tin trực
tiếp hoặc gián tiếp. Mộc tinh chưa có người ở nhưng các vệ tinh của Mộc tinh
thì có, vì chúng là các thiên thể thô trược trên cõi trần.
Các Sơ đồ III và IV
biểu diễn mối quan hệ giữa bảy Dãy hành tinh trong nội bộ một Hệ thống Tiến
hóa, cho ta thấy diễn trình tiến hóa chuyển từ Dãy hành tinh này sang Dãy
hành tinh khác. Ta nên nghiên cứu Sơ đồ III trước, vì đó chỉ là phần đơn
giản hóa Sơ đồ IV, Sơ đồ IV là bản sao của một Sơ đồ do một Chơn sư vẽ ra;
mặc dù mới thoạt nhìn thì Sơ đồ này trông khá rối rắm, nhưng khi ta hiểu ra
được thì nó minh họa nhiều điều.
Sơ đồ
III xếp bảy Dãy hành tinh thuộc một Hệ thống Tiến hóa thành ra các cột ngay
sát cạnh nhau để cho Làn sóng Sinh hoạt của đấng thiêng liêng được biểu diễn
bằng những mũi tên có thể được vẽ ra đi từ giới này sang giới kia trong khi
tiến lên. Mỗi tiết diện trong một cột biểu diễn một
trong bảy giới của Thiên nhiên: ba giới tinh hoa ngũ hành, giới khoáng vật,
giới thực vật, giới động vật, giới nhân loại [[10]].
Tiếp theo sau Làn sóng Sinh hoạt bảy ta thấy đó là làn sóng duy nhất đi
xuyên suốt qua bảy giới trong nội bộ Hệ thống Tiến hóa; nó nhận vào Dãy hành
tinh thứ nhất nơi Giới Tinh hoa ngũ hành thứ nhất, rồi phát triển ở đó trong
suốt chu kỳ sinh hoat của Dãy hành tinh; nó chuyển sang Giới Tinh hoa ngũ
hành thứ nhì, nơi Dãy hành tinh thứ nhì và phát triển ở đó trong suốt chu kỳ
sinh hoạt ấy; nó xuất hiện nơi Giới Tinh hoa ngũ hành thứ ba trên Dãy hành
tinh thứ ba rồi nhập vào Giới
Khoáng vật trên Dãy hành tinh thứ tư; thế rồi nó lần lượt phát triển qua các
Giới Thực vật và Động vật trên các Dãy hành tinh thứ
năm và thứ sáu để rồi đạt tới Giới Nhân loại trên Dãy hành tinh thứ bảy. Như
vậy toàn thể Hệ thống Tiến hóa này cung cấp một môi trường tiến hóa cho một
Làn sóng Sinh hoạt thiêng liêng từ khi nó làm linh hoạt vật chất mãi cho tới
khi nó tiến lên tới mức thành người [[11]].
Các làn sóng sinh hoạt khác hoặc là bắt đầu trong một Hệ thống Tiến hóa khác
rồi nhập vào hệ thống tiến hóa này ở trình độ tiến hóa đủ đạt được ở hệ
thống trước kia hoặc là nhập vào hệ thống này quá trễ cho nên chưa đạt tới
giới nhân loại trong hệ thống này.
Ta phải bắt đầu nghiên cứu Sơ đồ IV bằng
cách ngộ được rằng các vòng tròn được tô màu không phải là bảy Dãy hành tinh
gồm các bầu hành tinh (theo như
ta mong đợi) mà là bảy Giới trong Thiên nhiên thuộc mỗi Dãy hành tinh liên
tiếp, do đó tương ứng với các tiết diện trong các cõi của Sơ đồ III. Ở đây
ta có trọn cả một Hệ thống Tiến hóa có biểu thị vị trí của mỗi Giới thiên
nhiên trong mỗi Dãy hành tinh. Học viên nên chọn ra một đường tiến hóa thuộc
bất kỳ màu sắc nào của vòng tròn thứ nhất rồi truy nguyên nó cẩn thận tiến
lên.
Ta hãy xét vòng tròn màu xanh lơ ở phía tột
đỉnh bên tay trái được vạch ra bằng một mũi tên, nó biểu diễn Giới Tinh hóa
ngũ hành thứ nhất trên Dãy hành tinh thứ nhất. Khi rời Dãy hành tinh thứ
nhất để chuyển sang Dãy hành tinh thứ nhì. – vành kế tiếp gồm các vòng tròn
có tô màu – dòng màu xanh lơ này chia chẻ ra khi đi tới đó; bộ phận chậm
tiến nhất của nó không sẵn lòng tiếp tục đi lên Giới Tinh hoa ngũ hành thứ
nhì, bèn bứt ra khỏi dòng tiến hóa chính, quay ngược trở lại nhập vào Giới
Tinh hoa ngũ hành thứ nhất thuộc Dãy hành tinh thứ nhì để gia nhập vào dòng
sinh hoạt mới (được tô màu vàng và đánh dấu bằng một mũi tên) nhập vào cơ
tiến hóa trên Dãy hành tinh ấy để rồi hòa lẫn luôn vào đó. Còn dòng tiến hóa
chính màu xanh lơ lại tiếp tục đi lên tới Giới Tinh hoa ngũ hành thứ nhì
thuộc Dãy hành tinh thứ nhì, tiếp nhận một số kẻ lạc hậu thuộc Giới Tinh hoa
ngũ hành thứ nhì của Dãy hành tinh thứ nhất, đồng hóa hết đám đó rồi mang
đám đó đi theo mình, ta ắt lưu ý rằng chỉ có một luồng màu xanh lơ rời khỏi
Giới này vì các phần tử ngoại lai đã bị đồng hóa hết. Luồng màu xanh lơ lại
chảy lên tới Dãy hành tinh thứ ba lại chia chẻ, bỏ đám lạc hậu rơi rớt lại
tiếp tục tiến hóa qua Giới Tinh hoa ngũ hành thứ nhì thuộc Dãy hành tinh thứ
ba, trong khi đại khối màu xanh lơ tiếp tục tạo thành Giới Tinh hoa ngũ hành
thứ ba của Dãy hành tinh thứ ba; nó lại tiếp nhận một số phần tử lạc hậu của
Giới Tinh hoa ngũ hành thứ ba, thuộc Dãy hành tinh thứ hai, đồng hóa hết
chúng, mang chúng theo thành ra một dòng màu xanh lơ không bị pha loãng nhập
vào Giới Khoáng vật thuộc Dãy hành tinh thứ tư; cũng giống như trước, nó bỏ
lại một số phần tử lạc hậu bị rơi rớt để tiến hóa trong Giới Tinh hoa ngũ
hành thứ ba thuộc Dãy hành tinh thứ tư và nó lại tiếp nhận một số phần tử
lạc hậu thuộc Giới Khoáng vật của Dãy hành tinh thứ ba, lại đồng hóa chúng
giống như trước. Giờ đây nó đã đạt tới mức tiến hóa thô trược nhất tức Giới
Khoáng vật. Khi rời bỏ mức này ta vẫn còn theo dõi đường tiến hóa màu xanh
lơ – nó leo lên Giới Thực vật của Dãy hành tinh thứ năm, bỏ lại một số phần
tử lạc hậu rơi rớt vào Giới Khoáng vật của Dãy hành tinh này và tiếp theo
một số phần tử lạc hậu thuộc Giới Thực vật của Dãy hành tinh thứ tư. Nó lại
tiếp tục leo lên, bây giờ lên tới Giới Động vật thuộc Dãy hành tinh thứ sáu,
bỏ lại một số phần tử thực vật chậm tiến rơi rớt lại nhằm hoàn tất trình độ
tiến hóa trong Giới Thực vật của Dãy hành tinh thứ sáu và tiếp thu một số
động vật chậm tiến của Dãy hành tinh thứ năm rơi rớt trở lại Giới Động vật
đang tiến lên. Cuối cùng nó hoàn tất cơ tiến hóa dài dằng dặc bằng cách nhập
vào Giới Nhân loại thuộc Dãy hành tinh thứ bảy bỏ lại những con động vật quá
chậm tiến rơi rớt trở lại Giới Động vật thuộc Dãy hành tinh thứ bảy và tiếp
thu một số nhân loại chậm tiến của Giới Nhân loại thuộc Dãy hành tinh thứ
sáu, mang chúng theo cho đến khi cuối cùng ca khúc khải hoàn khi cơ tiến hóa
nhân loại đã toàn bích để bắt đầu cơ tiến hóa siêu nhân đi theo một trong
bảy đường tiến hóa được biểu thị bằng chiếc lông vũ màu xanh lơ ở cuối cùng.
Trong Hệ thống Tiến hóa khác, những phần tử mà ta bỏ lại là những phần tử
chậm tiến thuộc Giới Động vật của Dãy hành tinh thứ bảy sẽ tái xuất hiện
trong Giới Nhân loại trong Dãy hành tinh thứ nhất của Hệ thống Tiến hóa mới
mẻ này để rồi sẽ đạt mức hoàn hảo thành người trong Hệ thống Tiến hóa ấy.
Chúng sẽ ở trong vòng tròn tương ứng với vòng tròn màu xám nâu, với chiếc
lông vũ thuộc về Dãy hành tinh thứ nhất của Sơ đồ này.
Bằng cách đó, ta có thể theo dõi mỗi đường
tiến hóa từ Giới này tiến lên Giới kia qua các Dãy hành tinh liên tiếp nhau.
Vì vậy sự sống trong vòng tròn thứ hai màu cam biểu diễn Giới Tinh hoa ngũ
hành thứ nhì, thuộc Dãy hành tinh thứ nhất – có một giai đoạn sinh hoạt
thuộc một Dãy hành tinh đến sau nó, nói cách khác, nó đã nhập vào dòng tiến
hóa dưới dạng Giới Tinh hoa ngũ hành thứ nhất thuộc Dãy hành tinh thứ bảy
của một Hệ thống Tiến hóa trước kia (xem vòng tròn tột đỉnh bên tay trái có
mũi tên thuộc Dãy hành tinh thứ bảy trong Sơ đồ của ta – nó đạt tới Giới
Nhân loại thuộc Dãy hành tinh thứ sáu, rồi sẽ tiếp tục tiến lên. Sự sống
trong vòng tròn thứ ba màu đỏ tía có hai Giới tiến hóa sau nó trong một Hệ
thống Tiến hóa trước kia, ắt đạt tới Giới Nhân loại thuộc Dãy hành tinh thứ
năm để rồi tiếp tục tiến lên. Cuộc sống trong Giới thứ tư tức Giới Khoáng
vật đạt tới Giới Nhân loại của Dãy hành tinh thứ tư để rồi tiếp tục tiến
lên. Sự sống trong Giới Thực vật đạt mức Giới Nhân loại thuộc Dãy hành tinh
thứ ba để rồi tiếp tục tiến lên; sự sống trong Giới Động vật đạt tới Giới
Nhân loại thuộc Dãy hành tinh thứ nhì, sự sống trong giới Nhân loại đạt mức
Giới Nhân loại trong Dãy hành tinh thứ nhất.
Học viên nào hoàn toàn quán triệt được sơ đồ
này ắt thấy mình làm chủ được một thiên cơ mà y có thể nhét bất kỳ chi tiết
nào vào trong những ô ấy mà không quên mất những nguyên tắc chung của cơ
tiến hóa a tăng kỳ kiếp với những sự phức tạp rối rắm.
Có hai vấn đề còn lại: giới tiến hóa đằng
sau giới tinh hoa ngũ hành và giới tiến hóa siêu nhân loại. Làn sóng Tiến
hóa xuất phát từ THƯỢNG ĐẾ
làm linh hoạt vật chất trước nhất nơi Giới Tinh hoa ngũ hành thấp nhất tức
giới thứ nhất; vì thế cho nên khi cũng luồng ấy từ Dãy hành tinh nhập vào
Giới Tinh hoa ngũ hành thứ nhì thuộc Dãy hành tinh thứ nhì thì vật chất vốn
thuộc về Giới Tinh hoa ngũ hành thứ nhất thuộc Dãy hành tinh thứ nhì phải
được làm linh hoạt bằng một Làn sóng Sinh hoạt mới xuất phát từ THƯỢNG ĐẾ và
tiếp tục như thế đối với mỗi giới thuộc các Dãy hành tinh khác.
[[12]]
Khi người ta đã vượt qua Giới Nhân loại và
con người đứng nơi ngưỡng cửa cuộc sống siêu nhân loại để trở thành một Tinh
thần đã được giải thoát thì bảy con đường mở ra trước mắt Ngài cho Ngài
chọn: Ngài có thể nhập vào Niết Bàn với sự toàn tri và toàn năng cực lạc,
với những hoạt động vượt xa mức hiểu biết của chúng ta để rồi biết đâu trong
một thế giới tương lai nào đó Ngài trở thành một Đấng Hóa thân thiêng liêng;
điểu này đôi khi được gọi là ‘nhập Pháp thân’ (Dharmakaya). Ngài có thể nhập
vào ‘Chu kỳ Tâm linh’, cụm từ này bao hàm nhiều ý nghĩa ta chưa biết được
trong số đó có lẽ là ‘Báo thân’ (Sambhogakaya). Ngài cũng có thể trở thành
một bộ phận của kho chứa thần lực tâm linh mà các Tác nhân của THƯỢNG ĐẾ
rút ra trong khi làm việc nghĩa là nhập ‘Ứng thân’ (Nirmanakaya). Ngài có
thể vẫn còn là một thành viên của Huyền giai cai quản và giám sát thế giới
mà Ngài đã đạt được mức toàn bích trong đó. Ngài có thể chuyển sang Dãy hành
tinh kế tiếp, giúp vào việc kiến tạo các hình tướng của nó. Ngài có thể nhập
vào đường tiến hóa rực rỡ của các Thiên thần; Ngài có thể hiến mình để trực
tiếp phụng sự đấng THƯỢNG ĐẾ,
được Thượng Đế sử dụng làm Thừa tác viên và Thiên sứ của mình trong bất kỳ
bộ phận nào của Thái dương hệ, Ngài chỉ sống để thi hành ý chí của Thượng Đế
và thực thi công trình của Thượng Đế trên khắp Thái dương hệ mà Thượng Đế
cai trị. Cũng giống như một vị
Tướng có Ban Tham mưu mà nhân viên tham mưu mang các thông điệp của vị tướng
đi tới bất cứ nơi nào trên chiến trường, cũng vậy những nhân viên Tham mưu
này của đấng chỉ huy tất cả, “những Thừa tác viên làm đẹp lòng Ngài”
[[13]],
điều này dường như được coi là một Con đường rất khó đi, có lẽ đó là sự hi
sinh lớn nhất dành cho vị Cao đồ và vì vậy nó được coi là bao hàm sự phân
biệt lớn lao. Một thành viên của Ban Tổng Tham mưu không có thể xác mà tự
tạo ra thể xác bằng Kriyashakti tức là ‘quyền năng tạo tác’, sử dụng vật
chất của bầu hành tinh mà mình được biệt phái tới. Ban Tham mưu bao gồm các
Đấng ở nhiều mức khác hẳn nhau, từ quả vị La hán trở lên
[[14]].
Có một số đấng đã hiến mình cho công tác này khi đạt quả vị La hán trên Dãy
Nguyệt tinh; một số đấng khác là Chơn sư
[[15]];
còn một số đấng khác đã vượt qua trình độ này trong cơ tiến hóa nhân
loại.
Ngoài
nhiều lý do khác mà chúng ta không biết được, nhu cầu cung ứng một Ban Tham
mưu thì có lẽ bắt nguồn từ sự thật là trong những giai đoạn sơ khởi trong cơ
tiến hóa một Dãy hành tinh – nhất là trên vòng cung đi xuống – hoặc ngay cả
của một bầu hành tinh thì người ta cần nhiều sự trợ giúp từ bên ngoài hơn là
giai đoạn sau này. Chẳng hạn như trên Dãy hành tinh thứ nhất thuộc Hệ thống
Tiến hóa địa cầu, mức thành tựu được qui định là đạt được cuộc Điểm đạo Lớn
thứ nhất và những ai trong nhân loại dạo đó đạt tới quả vị Chơn sư, thế mà
quả vị này cũng chưa gần tới quả vị Phật, vì vậy cần phải cung ứng các chức
sắc cao cấp từ bên ngoài. Lại nữa, các Dãy hành tính sau này cũng được trợ
giúp, và Trái đất cũng phải cung cấp các Chức sắc cao cấp cho các Dãy hành
tinh thời sơ khai của các Hệ thống Tiến hóa khác, cũng như cung cấp bình
thường các chức sắc cho những bầu hành tinh và Cuộc tuần hoàn sau này trong
Dãy hành tinh của chúng ta. Theo chỗ chúng tôi biết thì chính trong Huyền
giai của chúng ta cũng có hai thành viên rời khỏi Trái đất, hoặc là gia nhập
Bộ Tổng tham mưu, hoặc là được đấng Chưởng quản Huyền giai chúng ta cho vị
Chưởng quản Huyền giai của một bầu hành tinh nào khác bên ngoài Hệ thống
Tiến hóa của ta mượn đỡ.
Trong bất kỳ Dãy hành tinh nào mà những
người không đạt vào một thời kỳ nào đó mức qui định dành cho Nhân loại thuộc
Dãy hành tinh ấy thì đều bị ‘thất bại’; thất bại có thể là do còn trẻ tuổi
nên thiếu thời gian hoặc thiếu nỗ lực đúng mức v.v…, nhưng cho dù bất cứ lý
do nào thì những người thất bại cũng không thể đạt được mức mà họ tiến bộ đủ
trong chu kỳ sinh hoạt còn lại của một Dãy hành tinh để đạt tới mức cần
thiết khi nó kết liễu; họ đã bị rơi rớt khỏi cơ tiến hóa của nó trước khi cơ
tiến hóa ấy đã hoàn tất và họ bắt buộc phải nhập vào Dãy hành tinh kế tiếp ở
một mức được xác định bởi trình độ mà họ đã đạt được sao cho họ có thể hoàn
tất được khóa học làm người của mình. Có những người khác thành công khi
trải qua mức quyết định này tức là “Ngày phán xét” dành cho một Dãy hành
tinh, nhưng họ chưa tiến bộ đủ nhanh để đạt tới mức trước mắt họ mở ra bảy
Con đường. Những người này mặc dù không ‘thất bại’ nhưng cũng chưa hoàn toàn
thành công, do đó họ chuyển sang Dãy hành tinh kế tiếp và dẫn đầu loài người
ở trên đó khi nhân loại ấy đã đạt được trình độ mà các cơ thể ấy đã đủ tiến
hóa để dùng làm hiện thể cho họ tiến bộ thêm nữa. Trong khi nghiên cứu chúng
ta sẽ thấy đủ thứ lớp người này và đây chỉ là một tổng quan về lớp người ấy,
chi tiết sẽ được trình bày rõ ràng hơn. Chúng ta lưu ý thấy rằng chỉ trong
Dãy hành tinh thứ nhất thì mới không có đám người thất bại bị rơi rớt ra
khỏi cơ tiến hóa. Cũng có một số người không thành công, nhưng nếu Dãy hành
tinh ấy mà có Ngày Phán xét thì chúng tôi đã không quan sát được.
Trong chỉ một Dãy hành tinh, làn sóng tiến
hóa quét từ bầu A sang bầu G, lần lượt sử dụng mỗi bầu hành tinh làm môi
trường tăng trưởng; sự xoay vòng xung quanh Dãy hành tinh này được gọi rất
đúng là một Cuộc tuần hoàn và làn sóng tiến hóa quét qua bảy Cuộc tuần hoàn
trước khi chấm dứt chu kỳ sinh hoạt của Dãy hành tinh và công trình của nó
đã hoàn tất. Thế rồi người ta thu thập các kết quả và tất cả tạo thành mầm
mống cho Dãy hành tinh kế tiếp, ngoại trừ những Dãy đã hoàn tất khóa học làm
người, trở thành các bậc Siêu nhân, tự nguyện phụng sự theo những cách khác
hơn việc hướng dẫn Dãy hành tinh sắp tới đi theo dường lối của nó và các
Ngài đã nhập vào một trong bảy Con đường khác.
Để kết thúc những điều sơ bộ này chúng tôi
xin nói trên Cõi Chơn thần tức là cõi siêu tinh thần có tồn tại các Phân
thân của Đấng thiêng liêng; các Con của Thượng Đế vốn phải nhập thế và trở
thành Con của Nhân loại trong thế giới sắp tới. Họ bao giờ cũng diện kiến
Dung nhan của Cha và là các Đối thể Thiên thần của con người. Ở trên thế
giới của riêng mình, Con của Đấng thiêng liêng này được gọi bằng thuật ngữ
chuyên môn là ‘Chơn thần’, Nhất nguyên. Ngài là đấng mà ở trang 3 có nói là
Ngài được “biến hóa thành ra Chơn thần bất tử trong thế giới sự sống”. Tinh
thần này là Chơn thần khoác lấy vật chất do đó có ba ngôi là Ý chí, Minh
triết và Hoạt động; tinh thần ấy ắt chính là Chơn thần sau khi đã chiếm hữu
các nguyên tử vật chất của các cõi tinh thần, trực giác và trí tuệ, và các
cơ thể tương lai của Ngài xây dựng xung quanh các nguyên tử ấy. Nơi Chơn
thần có trào dâng một suối nguồn sự sống không thể cạn kiệt; Tinh thần tức
Chơn thần khoác lấy vật chất chính là biểu lộ của Ngài trong một thế giới.
Khi Ngài làm chủ được vật chất nơi cõi thấp thì Ngài càng ngày càng kiểm
soát được công trình tiến hóa, và mọi sự chọn lựa lớn lao vốn quyết định số
phận của con người đều được Ngài thực hiện bằng Ý chí, đều được Minh triết
của Ngài dẫn dắt và thành tựu qua Hoạt động của Ngài.
[[1]]
Kinh
Al Quran, xi. 17.
[[2]]
Các thuật ngữ này được người Ấn giáo và
Ki Tô giáo lần lượt dùng để biểu thị việc chấm dứt cơ tiến hóa thuần
túy nhân loại.
[[4]]
Môn
sinh có thể tìm thấy điều này trong tác phẩm
Giáo Lý Bí
Truyền
của
H.P. Blavatsky; Phật giáo Bí
truyền của A.P. Sinnett và
Sự tăng trưởng của Linh hồn
cũng của tác giả Sinnett,
Minh Triết Cổ truyền của Annie Besant v.v. . . Có những điều
khác nhau thứ yếu – chẳng hạn như việc H.P. Blavatsky và A.P.
Sinnett gọi tên các bầu hành tinh thuộc dãy hành tinh trái đất khác
nhau - nhưng các sự
kiện chính yếu đều giống nhau.
[[5]]
Các
Đấng này được gọi là Hành tinh Thượng Đế, nhưng danh xưng này thường
gây lẫn lộn cho nên ở đây ta bỏ không dùng nó.
[[6]]
Xem
Hóa học Huyền bí của
Annie Besant và C.W. Leadbeater.
[[7]]
Vật chất trên cõi trần là vật chất mà ta hằng ngày đụng chạm tới
trong sinh hoạt lúc tỉnh thức. Vật chất xúc động là loại vật chất
rung động theo các ham muốn và xúc động của ta; trong những quyển
sách cũ hơn ta gọi nó là chất trung giới, một tên gọi vẫn còn được
giữ lại trong một chừng mực nào đó. Cũng như vật chất trí tuệ đáp
với các tư tưởng, vật chất trực giác (tiếng Bắc phạn là buddhi) được
dùng làm môi trường để truyền dẫn trực giác cao siêu và tình thương
bao trùm vạn vật. Vật chất tinh thần (atma) là loại vật chất tác
động của ý chí sáng tạo.
[[8]]
Bầu hành tinh ở tột đỉnh phía bên tay
trái là bầu A, bầu kế tiếp thấp hơn là bầu B, cứ tiếp tục như vậy
cho tới bầu G là bầu hành tinh tột cùng phía bên tay phải.
[[9]]
Ta có thể nhớ rằng
Herschil đã nhìn thấy Vệ tinh của Kim tinh.
[[10]]
Giới ‘tinh hoa ngũ
hành’ là ba giai đoạn sinh hoạt khi giáng xuống thâm nhập vào vật
chất – giáng hạ tiến hóa -
và ta có thể hình dung bảy giới thiên nhiên tiến vòng cung đi
xuống và vòng cung đi lên cũng giống như các Dãy hành tinh và bầu
hành tinh:
Tinh hoa ngũ hành 1
Nhân loại.
Tinh hoa ngũ hành 2
Động v ật
Tinh hoa ngũ hành thứ 3
Thực vật
Khoáng
vật
[[11]]
Bảy Làn sóng Sinh hoạt này cùng với sáu
sự lưu nhập bổ sung dành cho Giới Tinh hoa ngũ hành thấp nhất nơi
sáu Dãy hành tinh khác, vị chi là 13 Làn sóng Sinh hoạt, chính là
những xung lực liên tiếp; mà đối với Hệ thống Tiến hóa này các nhà
Thông Thiên Học cho rằng chúng tập hợp thành Làn sóng Sinh hoạt của
Ngôi Hai, nghĩa là dòng Sự Sống làm cho hình tướng tiến hóa xuất
phát từ Thượng Đế Ngôi Hai tức là Ngôi Vishnu của Ấn Độ và Ngôi Con
trong Tam vị nhất thể
của Ki Tô giáo.
[[12]]
“Cha
ta đã làm cho đến nay và Ta tiếp tục làm”, trích từ Phúc âm theo
Thánh John 17. Xem chương
v miêu tả vấn đề này diễn ra trên Trái đất khi Chơn linh của Mặt
trăng nhập thế trên đó.
[[13]]
Thánh Vịnh,
ciii, 21.
[[14]]
La hán là những đấng đã trải qua cuộc
Điểm đạo Lớn thứ tư.
[[15]]
Các đấng đã trải qua cuộc Điểm đạo Lớn
thứ năm.
|