|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
CON
NGƯỜI LÚC C̉N SỐNG VÀ SAU KHI CHẾT
Trích NHỮNG NGUYÊN LƯ CƠ BẢN CỦA THÔNG THIÊN HỌC
(FIRST
PRINCIPLES OF THEOSOPHY)
(L’ÉVOLUTION
OCCULTE DE L’HUMANITÉ)
Tác giả C. JINARĀJADĀSA
Bản dịch www.thongthienhoc.com |
|
CON
NGƯỜI LÚC C̉N SỐNG VÀ SAU KHI CHẾT
Trong quan niệm hiện nay của ta về tiến hóa có một chân lư hiển
nhiên cho rằng một cơ thể có các chức năng càng đa tạp th́ cấu trúc
của nó càng phức tạp. V́ vậy trong thứ tự của vạn vật, con người nên
có một cấu trúc phức tạp mà cơ thể kém tiến hóa hơn ắt không có.
Nhưng tính phức tạp của cơ thể con người mà khoa giải phẫu cơ thể và
sinh lư học đă khai thị cho ta chỉ là một phần nhỏ trong tính phức
tạp của toàn bộ con người; ngay cả điều mà ta học biết được trong
khoa tâm lư học hiện đại cũng chỉ bộc lộ chút ít tính phức tạp mà
Thông Thiên Học đă khai thị.
Trong H́nh 52, ta tổng kết sự kiện chính yếu về con người theo quan
niệm Thông Thiên Học. Khi một cá thể mới sinh ra, ta có nhiều yếu tố
gộp lại để dựng nên đơn vị của nhân loại mà ta gọi là “con người”.
Các yếu tố này như sau:
1. Chơn
ngă, Linh hồn chân chính của con người, trong bất cứ trường hợp nào
nó cũng chỉ biểu lộ một phần của ḿnh qua một thể xác. Chơn ngă này
là Cá tính.
2. Một
bộ phận của Chơn ngă được biểu lộ qua một kiếp nhập thể vào một lúc
đă định, trong một giống dân đặc thù dưới dạng hoặc là đàn ông hoặc
là đàn bà. Đây là Phàm ngă.
Mối quan hệ giữa Chơn ngă và Phàm ngă đă được biểu diễn qua nhiều
biểu tượng, có một biểu tượng đă được sử dụng trong các bí pháp thời
xưa đó là một chuỗi ngọc trai, trong đó chuỗi ngọc biểu diễn Chơn
ngă, c̣n các ngọc trai biểu diễn các Phàm ngă riêng biệt qua các
kiếp nhập thể liên tiếp. Trong H́nh 52 ta có xét tới một biểu tượng
khác. Nếu ta xét một h́nh khối kỷ hà ba chiều đo, 20 mặt bằng nhau
được gọi là h́nh nhị thập diện, coi nó là biểu diễn Chơn ngă th́
Phàm ngă tương đương với một trong 20 h́nh tam giác hai chiều đo vốn
cấu thành bề mặt của h́nh này.
H́nh 52
Tất cả 20 h́nh tam giác trên bề mặt cho dẫu có được xếp liền kề nhau
cũng chẳng bao giờ biểu diễn được một đặc trưng của h́nh này, đó là
chiều đo thứ ba của nó; và ngược lại, v́ một tam giác chỉ có hai
chiều đo c̣n h́nh khối có ba chiều đo cho nên ta có thể tách rời vô
số h́nh tam giác ra khỏi mỗi mặt của h́nh nhị thập diện. Tương tự
như vậy, mỗi Phàm ngă – cũng vậy, mọi Phàm ngă hợp lại với nhau được
một Chơn ngă làm cho linh hoạt qua các kiếp tái sinh liên tiếp –
không thể bộc lộ một vài thuộc tính của Chơn ngă; cũng thế, một Chơn
ngă có thể làm linh hoạt nhiều Phàm ngă tùy sức ḿnh mà vẫn không hề
cạn kiệt chân tướng của ḿnh là Chơn ngă.
Song le, Chơn ngă chỉ làm linh hoạt một Phàm ngă duy nhất với mục
đích thực hiện công tŕnh trong bất cứ kiếp nhập thể nào.
3. Phàm
ngă (Xem H́nh 52, cột 3) khi tái sinh có một cái Trí tức Thể Trí,
một Thể Vía và một Thể Xác.
4. Mỗi
một trong ba thể này có một sự sống và tâm thức của riêng ḿnh hoàn
toàn khác với sự sống và tâm thức của Phàm ngă sử dụng chúng. “Tâm
thức cơ thể” của mỗi hiện thể được lần lượt gọi là “tinh linh ngũ
hành trí tuệ” đối với thể trí, “tinh linh ngũ hành dục vọng” đối với
thể vía và “tinh linh ngũ hành cơi trần” đối với thể xác (cột 2).
Cái “tâm thức cơ thể” này chính là sự sống của các Tinh hoa Ngũ hành
thuộc vật chất trí tuệ và vật chất trung giới cùng với sự sống của
các làn sóng sinh hoạt khoáng vật, thực vật và động vật vốn cấu
thành thể xác (cột 4).
5. Thể
xác vốn do cha mẹ cung cấp là kho chứa những “yếu tố” di truyền tức
gen của Mendel thuộc ḍng dơi tổ tiên cha mẹ, từ những gen di truyền
tổ tông này khi được tuyển lựa ra để kiến tạo nên phôi thai lúc thụ
thai sao cho ăn khớp với nghiệp quả của Chơn ngă và hữu dụng cho
công tŕnh của Phàm ngă.
6. Các
thể vía và thể trí cũng có những yếu tố di truyền thuộc một loại nào
đấy, nhưng các yếu tố này không do cha mẹ cung cấp mà do chính Chơn
ngă. Thể vía và thể trí được cung cấp cho một đứa trẻ sơ sinh là bản
sao của thể vía và thể trí vào lúc kiếp nhập thể trước chấm dứt, khi
Phàm ngă kiếp trước vứt bỏ thể vía để tiến nhập cơi trời, rồi sau
này vứt bỏ thể trí vào lúc kết thúc thời kỳ sinh hoạt trên cơi trời.
Vậy th́ khi khảo sát theo sự minh giải của Thông Thiên Học, con
người là một thực thể rất phức tạp, là hợp lực của các đường chéo
trong nhiều h́nh b́nh hành thuộc ba cơi. Để cho có thể nghiên cứu
mạch lạc, ta sắp xếp những lực này ra thành ba nhóm sau đây:
a/ Chơn ngă sống trong Thể Nguyên nhân trường tồn từ kiếp này sang
kiếp khác, vẫn giữ được trí nhớ về các trải nghiệm của mọi Phàm ngă.
b/ Phàm ngă ít nhiều là đại diện phần nào của Chơn ngă.
c/ “Tâm thức cơ thể” của mỗi một trong ba hiện thể tức là tinh linh
ngũ hành thể trí, tinh linh ngũ hành thể vía và tinh linh ngũ hành
thể xác.
Trước hết ta hăy xét tới các loại tâm thức cơ thể. Thể xác có một
tâm thức cho dù hạn hẹp đến đâu vẫn đủ cho mục đích sinh hoạt và vận
hành của nó. Tâm thức này biết cách thu hút sự chú ư của chủ nhân
ông lúc cần tới; khi cơ thể mỏi mệt th́ nó hối thúc cá thể nghỉ
ngơi; khi nó cần ăn uống th́ nó gây cho y ham muốn ăn uống. Khi các
chức năng ấy của thể xác đang vận hành th́ không phải Chơn ngă muốn
ăn uống mà chỉ là tinh linh ngũ hành của thể xác muốn vậy. Trải qua
những tập quán di truyền lâu đời của tổ tiên, nó cũng đủ khéo léo để
biết tự vệ; khi bị mầm bệnh tấn công, nó huy động đội quân thực bào
để tiêu diệt mầm bệnh; khi bị thương nó biết tổ chức các tế bào để
chữa trị; khi cơ thể đang yên ngủ (nghĩa là khi chủ nhân ông rời bỏ
thể xác hoạt động trong thể vía, khiến cho thể xác vắng mặt chủ) th́
nó biết cuốn cái khăn trải giường để che ḿnh chống lại khí lạnh
hoặc trở ḿnh để ngủ ở tư thế khác. Trong bất kỳ diễn biến nào mà nó
nghĩ rằng đe dọa đến sinh mạng của ḿnh nó ắt tức khắc làm điều ǵ
có thể được (cho dẫu hạn hẹp đến đâu đi nữa) để tự vệ; nếu có tiếng
súng nổ hoặc cánh cửa bị đóng sầm th́ nó ắt nhảy ngược lại; nó không
đủ tŕnh độ ư thức để phân biệt mối nguy hiểm biểu hiện qua tiếng
súng nổ và sự không nguy hiểm do việc tiếng cánh cửa đóng sầm lại.
Có nhiều biểu lộ của tinh linh ngũ hành thể xác khá tự nhiên mà
không cần ư thức của chủ nhân ông can thiệp; nhưng đôi khi cần tới
sự can thiệp đó lúc phải thực thi một bổn phận mà cơ thể đang mệt
mỏi và vùng vằng chống đối, thế nhưng bị cưỡng chế làm việc, hoặc
khi có việc nguy hiểm cần phải làm mà tinh linh ngũ hành e sợ cho
sinh mạng của ḿnh muốn bỏ chạy, thế nhưng bị ư chí của chủ nhân ông
khống chế bắt làm nhiệm vụ. Nơi trẻ con th́ tinh linh ngũ hành thể
xác bộc lộ rơ rệt nhất; khi một đứa trẻ sơ sinh gào khóc lên th́ đó
là tinh linh ngũ hành biểu lộ sự chống đối của nó (đối với nó th́
hợp lư mặc dù đối với chúng ta th́ thường không hợp lư), nhưng Linh
hồn của trẻ sơ sinh không hề gào khóc.
Sự sống và tâm thức của tinh linh ngũ hành thể xác là kho chứa mọi
trải nghiệm vui sướng và đau khổ theo đường lối di truyền thể xác
lâu dài qua gia phả. Sự sống của nó đă từng là sự sống của tinh linh
ngũ hành dục vọng thuộc những người dă man đă từ lâu lắm rồi. Nó có
đủ loại trí nhớ và khuynh hướng tổ tông mà nó thường thoái hóa trở
lại bất cứ khi nào tâm thức của Chơn ngă nới lỏng quyền kiểm soát
nó. Chính cái tâm thức cơ thể này đă được phát hiện trong công tŕnh
khảo cứu của các nhà phân tâm học hiện đại thuộc trường phái Freud,
Jung và Adler, tính khí thất thường của nó biểu lộ qua những giấc mơ
tiền hậu bất nhất và thường là vô nghĩa của ta.
Các tinh linh ngũ hành thể vía và thể trí bao gồm sự sống của Tinh
hoa Ngũ hành. Tinh hoa Ngũ hành này là một giai đoạn sinh hoạt của
THƯỢNG ĐẾ trong thời kỳ biểu lộ trước cả khi có sự sống của
giới khoáng vật; nó thuộc “ṿng cung đi xuống” của sự sống, nó
“giáng nhập vào vật chất” để sau này trở thành sự sống khoáng vật và
măi về sau là sự sống thực vật và sự sống động vật. Nhu cầu chính
yếu của nó là cảm thấy ḿnh linh hoạt càng nhiều cách mới mẻ càng
tốt; nó muốn đủ thứ rung động và các rung động càng thô th́ nó càng
khoái chí, nghĩa là càng có khuynh hướng tiến gần xuống vật chất
hơn. Đây chính là cái “qui luật trong tứ chi của tôi chiến đấu chống
lại qui luật trong tâm trí của tôi” mà Thánh Paul gọi là “tội lỗi
nằm vùng nơi chính tôi”.
Tinh linh ngũ hành dục vọng muốn kích động thể vía thật sự có một
“giai đoạn nổi sóng”, trên ṿng cung sinh hoạt đi xuống nó muốn có
sự đa dạng, đổi mới, kích thích. Tinh linh ngũ hành thể trí không
muốn cái trí bị cột vào một tư tưởng duy nhất; nó bao giờ cũng náo
động và thèm muốn càng nhiều rung động tư tưởng đa tạp càng tốt khi
dẫn dụ chủ nhân ông theo nó; v́ thế cho nên ta rất khó định trí bởi
cái “tính chập chờn này của tâm trí”.
Nhưng chủ nhân ông của thể vía và thể trí tức Chơn ngă đang ở trên ṿng
cung sinh hoạt đi lên; cách đây nhiều tỉ năm nó đă sinh
hoạt dưới dạng khoáng vật, thực vật và động vật; những trải nghiệm
mà tinh linh ngũ hành thể trí và tinh linh ngũ hành dục vọng hiện
nay đang thích thú v́ ở trên ṿng cung đi xuống, th́ không nhất
thiết là hữu dụng cho công tŕnh sinh hoạt của Chơn ngă vốn ở trên
ṿng cung đi lên. V́ thế cho nên mới có cuộc chiến tranh triền miên
để xem giữa Chơn ngă và các hiện thể ai thắng ai. Thánh Paul đă mô
tả rất thi vị điều này như sau:
“Điều thiện mà tôi muốn th́ tôi chẳng làm; c̣n điều ác mà tôi chẳng
muốn th́ tôi lại cứ làm”.
Công việc của con người lúc c̣n sống cũng như khi chết và ngay cả
bên kia cửa tử là phải kiểm soát được các hạ thể, sử dụng năng lượng
của chúng để hoàn thành công tŕnh mà các Nghiệp quả Tinh quân đă
vạch ra cho ḿnh với sự mặc nhận của Chơn ngă. Y có thể thành công
hay thất bại tùy theo số lượng quyền năng Ư chí của Chơn ngă và tùy
theo việc y biết cách vận dụng quyền năng ư chí ấy. Băi chiến trường
này của cuộc đời, cái ḷ luyện kinh nghiệm này được phác họa trong
H́nh 53.
Chơn ngă là “Bản ngă cao siêu”, Thần minh của Plato, nó có ba thuộc
tính căn bản được mô tả là Ātmā tức Tinh thần, Buddhi tức Trực giác
và Thượng Trí (Manas) tức cái Trí Trừu tượng. Ư chí, Minh triết,
Hoạt động cũng miêu tả bộ ba căn bản này của Chơn ngă. Phàm ngă là
“Bản ngă thấp hèn” và bao gồm Hạ Trí tức cái Trí Cụ thể, bản chất
dục vọng tức thể vía, các chức năng của thể xác và ba hiện thể mà
những hoạt động này biểu lộ trong đó. Chơn ngă “đầu tư” một phần bản
thân để nhập thể nhằm thực hiện việc chuyển hóa kinh nghiệm thành ra
năng lực.
Mọi chuyện giờ đây tùy thuộc vào Chơn ngă có được bao nhiêu quyền
năng ư chí và nó biểu lộ quyền năng này đến đâu để kiểm soát các
hiện thể. Khi ư chí của Chơn ngă chiếm ưu thế hơn các bản năng của
các tinh linh ngũ hành thể trí, thể vía và thể xác th́ lúc đó kiếp
nhập thể thành công; mặt khác, khi ba tinh linh ngũ hành chiếm ưu
thế th́ kiếp nhập thể này là một nỗ lực đă hoài công rất nhiều.
Trong trường hợp hầu hết mọi người không có việc hoàn toàn chiếm ưu
thế cũng như hoàn toàn bị nô lệ; ta thành công chiếm ưu thế trong
một số việc và thất bại trong một số việc khác. Điều xảy ra trong
mỗi trường hợp này th́ ta có thể thấy qua sơ đồ.
H́nh 53
Các chức năng của thể xác chẳng tốt cũng chẳng xấu; bổn phận của thể
xác là phải ăn để sống, uống để giải khát. Điều xấu bắt đầu khi một
chức năng tự nhiên được tăng cường do bản chất dục vọng của con
người đồng nhất hóa với chức năng ấy. Khi thể vía thích thú với
những cảm giác thuần túy mang thú tính do ăn và uống th́ thể xác bắt
đầu tham ăn và thèm khát những thứ kích thích; thoạt tiên th́ thể
vía ấn định khi nào được buông thả theo những thèm khát ấy, nhưng
chỉ được một thời gian là tinh linh ngũ hành thể xác bèn khống chế
được thể vía. Người dă man thời xưa cũng là tự nhiên khi ăn uống
nhồm nhoàm và tham ăn tục uống; nhưng khi một người văn minh để cho
một chức năng thuần túy của thể xác thôi miên được bản chất ham muốn
của ḿnh th́ nhất thời y đang thoái hóa t́nh trạng dă man. Quá tŕnh
thoái hóa này được minh họa tuyệt vời trong câu ngạn ngữ của người
Nhật về chuyện say rượu.
Trước hết người ta uống rượu;
Kế đến rượu tự uống lấy ḿnh;
Cuối cùng th́ rượu đă khống chế được người ấy.
Nhưng khi ư chí chiếm ưu thế th́ xuất phát từ các chức năng của thể
xác, Chơn ngă phát triển được những phẩm tính trường tồn là sự tự
chủ và thanh khiết. Chơn ngă có ích lợi xiết bao khi kiểm soát được
hoàn toàn thể xác sao cho kỹ năng của thể xác có thể nhanh chóng và
trọn vẹn được Chơn ngă làm chủ trong công việc sinh hoạt thường
nhật. Việc ăn uống hợp lư và thanh khiết, sức khỏe hoàn hảo, kiểm
soát được cơ bắp và tứ chi do tập thể dục và thể thao thật là vô
giá, nhằm biến đổi những chức năng của thể xác thành ra tính tự chủ
và thanh khiết.
Cũng giống hệt như vậy, thể vía tự nhiên là ham muốn; thật là tự
nhiên khi thể vía phản đối lại những mùi khó ngửi hoặc những âm
thanh không hài ḥa, cũng như nó thích thú với môi trường xung quanh
hài ḥa và những cung bậc dễ chịu. Bản chất ham muốn của thể vía
cung ứng cho ta một công cụ nhận biết tinh vi. Điều xấu bắt đầu khi
tinh linh ngũ hành dục vọng chiếm ưu thế và nhất thời truất phế Chơn
ngă. Lúc bấy giờ một sự ham muốn tự nhiên biến thành một sự thèm
khát và thể vía lộng hành. Khi một người mất b́nh tĩnh khiến cho
nhất thời y không bộc lộ ra một thuộc tính của linh hồn mà chỉ phô
bày thuộc tính của con thú hoang, th́ nhất thời y đă thoái hóa về
một tŕnh độ tiến hóa trước kia do bị thể vía níu kéo mà không kiểm
soát được.
Ta nên hiểu rằng, ta không phải là những thói quen của tinh
linh dục vọng của thể vía mà phải t́m ra cho linh hồn của ḿnh những
năng khiếu trong thể vía vốn hữu dụng cho ta. Đôi khi do đau khổ ta
tự phát hiện ra được cái tính hai mặt này nơi bản thân; một cô gái
người Mỹ, 13 tuổi, mà tôi có quen biết đă phát hiện ra được điều ấy.
Có một ngày cô từ trường về, khóc nức nở v́ bị bạn trong lớp trêu
ghẹo; khi mẹ hỏi thế bạn trong lớp đă làm tổn thương ǵ tới cô th́
cô đáp: “Tụi nó chẳng làm ǵ con, ngoại trừ việc khiến cho xúc cảm
của con bị tổn thương”. Khi chúng ta nhận thức được rằng ḿnh không
phải là những xúc cảm của thể vía, mà phải làm chủ được chúng cũng
giống như ta làm chủ được một cái vợt đánh tenis hoặc một chiếc xe
hơi, th́ lúc bấy giờ ta mới biết chính xác được cần phải dành cho
những xúc cảm ấy mức độ tự do ra sao.
Ở mặt kia của đồng tiền th́ khi kiểm soát được những xúc cảm của thể
vía ta có thể khiến cho chúng trở nên nhạy bén nhất và thanh bai
nhất, biến chúng thành những điều kỳ diệu, bộc lộ t́nh luyến ái và
đồng cảm của linh hồn; lúc bấy giờ thể vía trở thành một nhạc cụ
tinh vi mà ta có thể sử dụng để phóng vào thế giới vô h́nh xung
quanh ta những làn sóng xúc động gợi linh hứng và tẩy trược.
Điều ta đă nói trên kia về tinh linh ngũ hành dục vọng thuộc thể
vía, thậm chí c̣n được áp dụng mạnh mẽ hơn đối với tinh linh ngũ
hành trí tuệ thuộc thể trí. Thể trí có chức năng tự nhiên là đáp ứng
với tư tưởng; và khi tư tưởng được Chơn ngă vận dụng th́ đó là
phương tiện giúp ta khám phá ra thế giới mà ḿnh sinh hoạt trong đó.
Tư tưởng cụ thể cân đong đo đếm vũ trụ; tư tưởng trừu tượng có chức
năng chuyển hóa mọi kinh nghiệm của thể trí nói riêng và các hạ thể
nói chung thành ra những khái niệm vĩnh hằng vốn có thể được hội
nhập vào bản chất của linh hồn.
Nhưng có rất ít tư tưởng của ta mang bản chất này v́ hai lư do: một là
tinh linh ngũ hành thể trí thường bám lấy những tư tưởng quá khứ của
ta, khăng khăng nghĩ về chúng bất chấp mọi toan tính của ta nhằm
kiểm soát nó; hai là điều mà ta suy nghĩ chẳng hề do chính ta
sáng tạo ra mà chủ yếu là do người khác cung cấp cho ta. Trong số
loại h́nh thứ nhất có những thành kiến thực ra là những tư tưởng đă
từng có lúc hữu dụng cho ta trong công việc sinh hoạt thường
nhật mặc dù không nhất thiết đúng với sự thật; về sau này th́
chúng không c̣n hữu dụng nữa và tốt hơn ta không nên có những thành
kiến ấy; nhưng tinh linh ngũ hành thể trí vẫn c̣n duy tŕ cái sức
mạnh mà ta đă cung ứng cho chúng; cho nên muốn đạt cứu cánh của
ḿnh, nó thôi miên ta để tin rằng những tư tưởng ấy vẫn c̣n là đúng
sự thật. Cái thành kiến mà người ta thường có như tự tôn về chủng
tộc, tín ngưỡng, giới tính, giai cấp, tầng lớp hoặc sắc da đều phần
lớn có bản chất thuộc loại này.
Thuộc loại h́nh thứ hai là tư tưởng của những người khác thường
xuyên được tuôn đổ vào bầu hào quang thể trí của thế giới rồi tác
động vào thể trí của ta, tự động thu hút từ nơi ta sự đáp ứng khi có
những tư tưởng tương cận. Khi những tư tưởng như thế mưu t́m sự công
nhận th́ ta cần cẩn thận chỉ hoan nghênh những tư tưởng nào hữu ích
cho công tŕnh của linh hồn ta và phải nghiêm khắc loại bỏ những tư
tưởng khác.
Có một số tư tưởng thuộc cả hai loại nêu trên đôi khi ứng xử như
những “khối u ác tính” xuất hiện trong cơ thể con người dưới dạng
bướu ung thư. Một số tư tưởng tạo thành những trung tâm xác định
trong thể trí, thu hút những tư tưởng tương tự lại với ḿnh rồi hấp
thu sinh lực của chúng; thế là chúng rơ rệt trở thành những khối u
ác tính trong thể trí con người. Cũng giống như một khối u trong bộ
óc, thoạt đầu chỉ gây ra hơi đau đớn một chút, nhưng về sau khi nó
tăng trưởng lớn hơn th́ nó sẽ làm xáo trộn những chức năng của thể
xác; cũng vậy, những khối u ác tính này thoạt đầu hầu như không hiển
nhiên ngoại trừ việc có lẽ giống như những mối lo âu và hoang tưởng
theo kiểu quá đáng; măi về sau chúng mới tăng trưởng tạo ra những
bệnh tâm thần xác định như đủ thứ bệnh sợ hăi và điên cuồng.
Việc chuyển hóa kinh nghiệm thành ra những khái niệm vĩnh hằng vốn
được thực hiện do suy nghĩ, cảm xúc và hành động đúng đắn, chỉ được
thực hiện phần nào trong buổi sinh thời cũng như trên cơi trung giới
sau khi chết; nhiệm vụ này được tiếp tục khi cá nhân bắt đầu sinh
hoạt trên cơi trời. Ở đó, trong môi trường xung quanh lư tưởng
nhất và thuận lợi nhất với khả năng sáng tạo ra mọi hạnh phúc mà
ḿnh mơ ước, nhất là nhờ sự trợ giúp mầu nhiệm của Trí tuệ THƯỢNG ĐẾ
tác động lên thể trí khiến cho nó tăng trưởng, con người sinh hoạt
trong một chu kỳ trên cơi trời. Y phát triển ư chí để chuyển hóa mọi
kinh nghiệm thành khái niệm vĩnh hằng và thành một năng lực vốn càng
ngày càng phản ánh Bản chất Thiêng liêng ẩn tàng của ḿnh.
Công tŕnh mà con người đeo đuổi trong khi sinh hoạt trên “cơi Trời”
dĩ nhiên tùy thuộc vào sức mạnh của những hoài băo và số lượng năng
lực mà y đặt mục tiêu thành tựu qua công tŕnh chuyển hóa. Những yếu
tố này xác định y sẽ “nhập Devachan” trong bao lâu để tăng trưởng ở
nơi đó một cách hạnh phúc. Trong H́nh 54 ta có một bảng tŕnh bày
nói chung cho đủ loại Chơn ngă.
H́nh 54
Khi thể xác bị chết đi th́ c̣n người sinh hoạt trên cơi trung giới
trong một thời gian; sau đó y chuyển sang cơi hạ thiên để sinh hoạt
nơi “cơi Devachan”. Vào cuối sinh hoạt Devachan
th́ thể trí – là di tích cuối cùng của Phàm ngă bị vứt bỏ và
Chơn ngă một lần nữa lại trọn vẹn là chính ḿnh với mọi năng lượng
trên cơi thượng thiên. Sau một thời kỳ dài hoặc ngắn có ư thức mơ hồ
hoặc có ư thức trọn vẹn về tiến tŕnh tái sinh, Chơn ngă một lần nữa
lại đầu tư một bộ phận của ḿnh nhập thể để trở thành Phàm ngă mới.
Theo sơ đồ ta thấy kẻ thoái hóa, tức loại h́nh người thấp kém sinh
hoạt chừng 5 năm trên cơi trung giới và v́ không có những đức tính
tâm linh cần môi trường Devachan để tăng trưởng cho nên y tức khắc
tái sinh nhập thể. Những thuật ngữ thợ thủ công, nông dân và thương
gia để mô tả những loại h́nh tổng quát; c̣n bác sĩ để
biểu diễn những người chuyên nghiệp nói chung. Nhưng nông dân hoặc
thương gia có thể là người có tŕnh độ văn hóa cao và thật sự thuộc
về một loại h́nh Chơn ngă cao hơn mức nghề nghiệp của y biểu diễn.
Người có văn hóa dứt khoát là có lư tưởng và sẵn sàng hi sinh v́ lư
tưởng ấy, ắt có một sinh hoạt chủ động đầy ư thức trên cương vị Chơn
ngă nơi cơi thượng thiên. Người hiến ḿnh phụng sự theo sự chỉ đạo
của Chơn sư Minh triết nếu chọn việc “nhập Devachan” ắt đă tẩy trược
thể vía trước khi chết đến mức tuyệt nhiên không c̣n sinh hoạt trên
cơi trung giới mà ngay tức khắc tiến nhập Devachan.
Theo sơ đồ th́ ta thấy thời kỳ giữa hai kiếp nhập thể có thể biến
thiên từ 5 năm cho tới 23 thế kỷ. Khi một đứa trẻ từ trần nó cũng có
một sinh hoạt ngắn ngủi trên cơi Devachan trước khi tái sinh. Thời
kỳ giữa lúc nó chết và tái sinh có thể biến thiên từ vài tháng tới
nhiều năm tùy theo tuổi tác, bản chất trí tuệ và bản chất xúc động
của đứa trẻ. Trong sơ đồ kế tiếp, H́nh 55, ta nêu rơ trở lại nhiều
sự kiện đă được đề cập rồi về bản chất ẩn tàng của con người và các
thể tinh vi
H́nh 55
Ở cột thứ nhất, ta có bảy cơi của Thái dương hệ; ở cột thứ nh́ ta có
bốn thể mà con người đang sử dụng hiện nay. Xét theo cột thứ ba và
thứ tư th́ ta thấy con người tồn tại dưới dạng cao siêu nhất là
“Chơn thần” ở trên bốn cơi cao hơn cơi trí tuệ, nhưng cho đến nay y
chưa có một hiện thể hoặc công cụ nhận biết và hành động thuộc cơi
ấy.
Xét theo mọi mục đích nghiên cứu tổng quát th́ linh hồn của con
người là Chơn ngă ngự trong thể nguyên nhân. Chơn ngă tạo ra một
Phàm ngă để được nhập thể và Phàm ngă có ba hiện thể là thể trí, thể
vía và thể xác. Mỗi một trong ba hạ thể này biểu diễn một khía cạnh
của Chơn ngă và v́ Chơn ngă trong thể nguyên nhân bộc lộ cung bậc
căn bản tức tính khí cốt lơi cho kiếp nhập thể nên ta có thể coi như
Chơn ngă cùng với ba hạ thể hợp thành một hợp âm bao gồm các cung
bậc tính khí, đó là Hợp âm Con người. Nhưng Chơn ngă trong thể
nguyên nhân chỉ là một biểu diễn riêng phần của mọi đức tính; ẩn sau
Thượng trí tức cái Trí Trừu tượng c̣n có Bồ đề tức Trực giác Thiêng
liêng, và ẩn sau đó lại có Ātmā tức Tinh thần bất khuất của Thượng
Đế nơi con người. Nhưng bản thân Ātmā, Buddhi và Manas lại phản
chiếu các thuộc tính c̣n cao hơn nữa của Chơn thần tức là “Con trong
ḷng Cha”. Nốt nhạc căn bản về Sự Sống của Thượng Đế cung cấp cho
ta cung bậc chủ yếu của Chơn thần cùng với ba thuộc tính của Chơn
thần trên cơi Ādi (Tối Đại Niết bàn), Anupādaka (Đại Niết bàn) và
thượng Niết bàn (higher Nirvānic) tạo thành “Hợp âm Chơn thần”. Sau
đó Chơn thần tạo ra Chơn nhơn; lúc bấy giờ cung bậc của Chơn thần là
cung bậc chủ yếu, cùng với những cung bậc do Ātmā, Buddhi và Manas
biểu diễn, nó tạo thành “Hợp âm thể Hào quang” (Chord of the
Augoeides). Khi đến lượt Chơn nhơn tạo ra Phàm nhơn tức cái “mặt nạ”
th́ ta có “Hợp âm Con người”.
* * *
Công tŕnh của con người lúc c̣n sống và khi chết là phải t́m cho ra
ḿnh là ai, thế giới này là cái ǵ và đâu là Thượng Đế mà ta “đang
sống, vận động và tồn tại trong ngài”. Y cần phải trải qua biết bao
nhiêu thời kỳ trải nghiệm và hành động trước khi bắt đầu lĩnh hội
được cái “Minh triết của Thượng Đế bí nhiệm” ấy và hiểu được “Thiên
cơ vốn là Cơ tiến hóa”. Thế mà đây chính là công tŕnh đời đời của y
biết được cục đất, con thú và Thượng Đế nơi bản thân ḿnh cũng như
nơi người khác. Toàn thể cuộc đời là một công xưởng, nơi y được dạy
cho làm việc và có nhiều huấn sư đến trợ giúp y. Đó là các tôn giáo,
triết lư, khoa học và nghệ thuật đương đại. C̣n có những huấn sư
khác mà hầu hết mọi người không hoan nghênh đó là những đau khổ, vốn
là số phận người ta phải cam chịu. Nhưng huấn sư được hoan nghênh
nhất có thể là Minh triết Ẩn tàng dưới dạng Thông Thiên Học, vốn
khai thị Thiên cơ hấp dẫn cái trí đến nỗi nó chưa hề t́m thấy trong
bất kỳ sự khai thị nào khác gây được linh hứng cho tâm hồn.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS