| 
			 | 
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
| 
			 | 
			
			CÔNG VIỆC THỰC  
			
			CỦA HỘI THÔNG THIÊN HỌC 
			
			Tác giả N. SRI RAM 
			 Bản dịch: www.thongthienhoc.com | 
			 | 
	
	CÔNG VIỆC CHÂN THỰC CỦA HỘI THÔNG THIÊN HỌC
	
	Tác giả N. SRI RAM
	Có lẽ đề tài hữu 
	ích nhất để ta bàn luận ở một Đại hội như thế này ắt là công việc chân thực 
	của Hội Thông Thiên Học, nhất là liên quan tới thời hiện đại. Hội không được 
	thành lập dưới dạng một phong trào dạy cho thiên hạ phải tốt theo ư nghĩa 
	truyền thống – nghĩa là đừng trộm cắp, sát sinh, lừa gạt hoặc tiến hành 
	những hành vi rơ ràng là tai hại mà tiếc thay thời nay rất thịnh hành. Hội 
	cũng không được dự định trở thành một trường phái huyền bí học. Một bức thư 
	của một trong các Chơn sư đă nêu rơ điều này. Ngài dạy:
	“Chẳng thà Hội Thông Thiên Học chết 
	đi theo hai vị Sáng lập bất hạnh, c̣n hơn là chúng ta cho phép nó trở thành 
	một điều ǵ đấy chẳng khá hơn một viện hàn lâm pháp thuật hoặc một sảnh điện 
	huyền bí học.” Đây là những lời lẽ nổi bật và có tiếng vang. Hội cũng 
	không dự định chỉ để thỏa măn cho những óc ṭ ṃ trí thức hoặc cung ứng một 
	diễn đàn cho ta giải trí khi ta cảm thấy nhàm chán với việc thảo luận về đủ 
	thứ đề tài trí thức. Hội được thành 
	lập với mục tiêu cao cả là xúc tiến sự phục hưng tinh thần con người. 
	Như thế th́ ta phải t́m hiểu xem sự phục hưng này có nghĩa là ǵ và làm sao 
	để cho nó xảy ra được.
	Mục tiêu thứ Nhất 
	của Hội là t́nh huynh đệ đại đồng trong khắp nhân loại, điều này được giới 
	thiệu chỉ vài năm sau khi Hội đă thành h́nh và được Chơn sư nhấn mạnh là một 
	nền tảng cần thiết để xúc tiến mục tiêu cao cả của nó, nghĩa là biến đổi 
	triệt để nhân loại cả về toàn bộ bản chất lẫn phương cách ứng xử trong tương 
	lai. Nếu ta nhớ kỹ điều này th́ bất cứ lúc nào ta cũng có thể t́m ra đâu là 
	đường lối hoạt động đáng theo đuổi nhất. Có những hội viên bảo rằng: 
	
“Chúng ta đă có ba Mục đích của Hội rồi, chẳng lẽ 
	không đủ hay sao? Chúng vốn bao quát cho nên chúng ắt phải đủ rồi”.
	
	Thế nhưng theo lời 
	họ được tŕnh bày một cách co dăn xiết bao th́ phạm vi đó ắt bao trùm hầu 
	như mọi công việc tốt đẹp cho dù nó mang tính cách nhân đạo, trí thức hoặc 
	có bản chất khảo cứu về thông linh. Cũng có nhiều đoàn thể khác đă dấn thân 
	theo những đường lối này. Chẳng lẽ ta chỉ sao chép lại công việc của họ theo 
	đường lối trí thức, triết lư, phân tâm học v.v. . . hay sao? Hay c̣n có một 
	điều ǵ khác nữa hiệu triệu được chúng ta? T́nh huynh đệ đại đồng là một ư 
	tưởng giờ đây đă được chấp nhận rộng răi; cho dẫu người ta chấp nhận nó trên 
	đầu môi chót lưỡi chứ không thực hành. Nhưng thế th́ có những người phê phán 
	chúng ta lại bảo rằng – và lời tố cáo của họ có một giá trị nào đấy – chính 
	chúng ta chỉ khiến cho t́nh huynh đệ đại đồng này là một khẩu hiệu mà sớm 
	muộn ǵ cũng được thực hiện. Khi ta bảo rằng “sớm muộn ǵ” th́ có nghĩa là 
	có  một thời gian vô hạn và mọi 
	ư thức khẩn cấp đều biến mất. Chúng ta có thể đến với nó từ từ theo ư ḿnh 
	mà không phải chịu bất cứ sự bất tiện nào.
	Nếu ta xét tới Mục 
	tiêu thứ Hai của Hội Thông Thiên Học – nghĩa là nghiên cứu, đối chiếu tôn 
	giáo, khoa học, triết học – th́ ta ắt thấy rằng cũng có nhiều đoàn thể học 
	thuật đă dấn thân làm đúng cái việc ấy. Họ so sánh đối chiếu Ấn giáo với 
	Phật giáo, Ki tô giáo với Bái hỏa giáo v.v. . . Họ có mục tiêu là vạch ra 
	những điều giống nhau và những điều khác nhau giữa các hệ thống tư tưởng 
	khác nhau này. Họ cũng khiến cho các ư tưởng của khoa học có tương quan với 
	các ư tưởng của triết học (cả triết thời xưa lẫn triết thời nay) coi đó là 
	một sự thao dượt thuần túy trí thức. Có nhiều hội lại dấn thân vào việc khảo 
	cứu thông linh dưới dạng này hay dạng khác. Nhưng liệu mọi điều ấy đưa ta 
	tới đâu? Đời ta vẫn tiếp tục giống hệt như trước với những phiền năo, những 
	nan đề rỗng tuếch và phù phiếm.
	Đâu là điều đặc 
	biệt mà chúng ta phải tiếp cận ở mức độ căng thẳng này trong việc phát triển 
	những sự vụ nhân loại? Đây là một thắc mắc không phải chỉ có tôi hoặc người 
	khác phải giải đáp, mà là mỗi hội viên của Hội phải tự đặt ra cho chính ḿnh 
	sao cho y có thể đạt tới mức hiểu được chính ḿnh, hiểu được sự bành trướng 
	đó khi y tiến bước. Chỉ việc chấp nhận một phát biểu của người khác – cho 
	dẫu nó nghe ra tài khéo hoặc do một người nói năng lưu loát hay người đó có 
	một địa vị nào đấy - ắt chẳng giúp ǵ cho sự tiến bộ đó.
	
	TỪ NGỮ 
	THÔNG THIÊN HỌC 
	
	Người ta càng xem 
	xét kỹ lưỡng vấn đề này th́ người ta càng chắc chắn ngộ ra được chính cái từ 
	ngữ Thông Thiên Học vốn được bao 
	hàm trong danh tính của Hội, ắt biểu thị cho ta đặc tính của công việc mà ta 
	nên dấn thân vào đấy. Thật đầy ư 
	nghĩa thay khi từ ngữ Thông Thiên Học này được bỏ mặc hoàn toàn không có 
	định nghĩa. Thế nhưng theo nghĩa đen th́ Thông Thiên Học có thể là một 
	ngôi sao lấp lánh trên đường chân trời mà công việc của ta có thể được định 
	hướng tới đó, những rung động từ ngôi sao có thể xuyên thấu tâm hồn ta và 
	được truyền đạt qua cuộc đời ta bằng những lời lẽ và hành động.
	Dịch theo nghĩa 
	đen th́ Thông Thiên Học là Minh triết Thiêng liêng. Nhưng thiêng liêng là 
	thế nào chứ? Ta không thể nói lên điều này cho dù ta có trong trí một ư 
	tưởng có thể biểu diễn được thiêng liêng nghĩa là ǵ. Điều ta tưởng rằng đó 
	là thiêng liêng th́ rất có thể chỉ là một sự phóng chiếu từ một bối cảnh 
	trước đó. Nó có thể không phải là thiêng liêng. Trong hầu hết mọi trường hợp 
	th́ đó là một h́nh ảnh được phóng chiếu ra từ một bối cảnh gồm những phản 
	ứng rất hạn hẹp và có điều kiện. Ta có thể hỏi bất cứ ai thuộc bất cứ trường 
	phái hoặc giáo phái nào th́ y ắt nói cho ta biết rằng theo những ư tưởng 
	trong trường phái của y ư nghĩa thiêng liêng là ǵ. Nhưng đó chỉ là khái 
	niệm hoặc niềm tin của y; nhưng không có một giá trị đặc thù nào gắn liền 
	với nó.
	Thế rồi lại có 
	việc minh triết nghĩa là ǵ, điều này lẽ cố nhiên ắt ở trong tầm hiểu biết 
	của ta nhiều hơn? Ta phải vỡ lẽ ra rằng minh triết không phải là kiến thức, 
	cho dù những vấn đề nó bao hàm có khó hiểu đến đâu đi chăng nữa. Chẳng điều 
	ǵ khó hiểu hơn các hạt sơ cấp mà khoa học hiện nay đang nói tới và trong 
	ṿng một ít năm vừa qua đă xuất hiện hằng hà sa số gây cho ta rối trí. Người 
	ta có thể có nhiều kiến thức về các hạt sơ cấp hoặc bất cứ điều ǵ khác nữa 
	vốn nằm ngoài tầm hiểu biết của kẻ phàm phu. Ta có thể có kiến thức rất tỉ 
	mỉ về các dăy hành tinh, các cuộc tuần hoàn và các bầu hành tinh vốn cấu 
	thành chu kỳ của làn sóng sinh hoạt nhân loại hoặc dưới nhân loại, nhưng mọi 
	kiến thức ấy không nhất thiết khiến cho người ta minh triết. 
	
	MINH 
	TRIẾT SINH RA TỪ TRÊN TRỜI
	
	Một người có thể 
	cực kỳ bác học, hoàn toàn chắc chắn về một số điều, thế nhưng không thể ḥa 
	thuận với gia đ́nh ḿnh. Liệu ta có thể gọi một người như vậy là minh triết 
	hay ta có thể nói là y thiếu minh triết chăng? Chắc chắn việc biết theo kiểu 
	b́nh thường không khiến cho người ta trở nên một người minh triết. Ta có thể 
	tinh thông về khoa học hay thần học, nhưng điều đó không giúp ta suy tư đúng 
	đắn về những vấn đề liên quan tới cuộc đời của chính ta hay mối quan hệ của 
	ta với những người khác. Chỉ cần ta có chút ít minh triết chân chính th́ ta 
	ắt biết rằng minh triết có mùi vị khác với việc biết những sự kiện mà ta 
	dùng để tạo ra những h́nh ảnh mang tính khái niệm. H́nh ảnh về các sự vật 
	giống như những h́nh vẽ trên bức tường tâm thức của ta. Chúng chỉ tồn tại ở 
	đó cho ta nh́n ngắm, nhưng cái người ở giữa những h́nh ảnh ấy cũng đang thực 
	hiện cùng một chuyển động. Chắc chắn đó không phải là minh triết.
	Minh triết thuộc 
	về linh hồn và nó có một phẩm chất khác, một hương vị khác, đó là một điều 
	ǵ đấy nằm ngoài thế giới này. Nó sinh ra từ trên trời. Nói như vậy nghe ra 
	khá thi vị, nhưng tôi cảm nhận rằng chúng đúng theo nghĩa đen. Đối với những 
	vấn đề mà ta có thể gọi là thuộc tinh thần th́ điều ǵ nghe ra thi vị th́ 
	cũng có thể là đúng thật.  Đó có 
	thể là thi ca về sự thật, chứ không chỉ là hoang tưởng. Toàn bộ sự trắc 
	nghiệm của minh triết cốt ở nơi liệu ta có đang hành động theo đủ thứ hoang 
	tưởng, tưởng tượng và sự hăo huyền mà ta có thể đang trân trọng. Nếu ta hành 
	động phù hợp với những sự kiện có thật, cho dù ở mức thể chất hay mức thông 
	linh, hoặc bất cứ tŕnh độ nào cao hơn hoặc thâm thúy hơn, th́ ta đang hành 
	động theo minh triết. Nhưng nếu ta đang theo đuổi một bóng ma trơi, một bóng 
	ma, một ánh sáng hăo huyền, những điều hoang tưởng vốn xuất hiện trong không 
	khí giống như biết bao nhiêu khói để rồi cuối cùng tản mác đi và biến mất, 
	th́ chắc chắn là ta không minh triết. Việc người ta hành động, suy nghĩ và 
	cảm nhận như thế nào thật sự giải đáp được thắc mắc liệu y có minh triết hay 
	không minh triết. 
	Ta không nên hiểu 
	hành động chỉ nhắc tới những hành vi lộ liễu, những giao tiếp với người 
	khác, điều mà ta thực hiện nơi ngoại giới trông rơ mồn một. “Hành động” ở 
	đây là một thuật ngữ bao quát thêm nhiều. Có đủ thứ hành động đang diễn ra 
	trong cơ thể con người: tác động hóa học, tác động điện học và v.v. . . Ta 
	chẳng có ư thức ǵ về điều ấy. Lại c̣n có tác động của tư tưởng, của xúc 
	động và xúc cảm nữa. Ở mọi mức tồn tại của con người đều có hành động, hành 
	động của tổng thể con người, bao hàm mọi mức độ. Sinh hoạt có nghĩa là hành 
	động.
	
	BÁNH 
	HẰNG SỐNG 
	
	Khi ta bảo rằng 
	“sự thật về các sự vật” th́ chẳng lẽ các nhà khoa học lại không dấn thân vào 
	việc phát hiện ra sự thật hay sao? Các nhà khoa học có thể phóng hỏa tiễn 
	lên mặt trăng, nhưng khoa học không thành công trong việc lấp đầy tâm hồn 
	con người  bằng cái điều mà nó 
	đang cần vào đúng lúc mà nó cảm thấy đang cô đơn, đau đớn và đau khổ. Chắc 
	chắn khoa học đang dấn thân mưu t́m sự thật, nhưng đó là sự thật mang tính 
	h́nh thức, nghĩa là chỉ dính dáng tới dáng vẻ bên ngoài của các sự vật. Mọi 
	điều mà khoa học có thể phát hiện được bằng những phương pháp mà nó đang 
	theo đuổi chỉ là kiến thức về lớp vỏ bên ngoài của Thiên nhiên chứ không 
	phải là cốt lơi ở bên trong. Nó cung cấp cho ta lớp vỏ trấu thành phần cấu 
	tạo và tính chất của vỏ trấu, chứ không cung cấp cho ta bánh hằng sống. Sự 
	thật về việc có một điều ǵ đó được nhận diện là sự sống th́ nó ắt phải có 
	một bản chất khiến ta phải đào sâu hơn nữa nếu ta muốn hiểu được nó. 
	Nó có thể là đa 
	diện; có thể bao hàm một chiều sâu thăm thẳm và đằng sau dáng vẻ bên ngoài 
	có thể có những phần mở rộng. Bên trong h́nh tướng có sự sống và ở đâu có sự 
	sống th́ ở đó có tâm thức theo một cách thức nào đấy. Tâm thức là một đề tài 
	rộng lớn, mở ra những đường lối bao hàm đủ thứ phương thức tác động, đủ thứ 
	phẩm tính mà nó phô bày và những sự phức tạp mà nó bộc lộ trong t́nh huống 
	không hiểu biết được. Từ ngữ tâm thức
	cũng giống như từ ngữ sự sống 
	biểu thị một điều ǵ đấy có chiều sâu phi thường. Ta chỉ biết được bản chất 
	của chúng dựa vào những điều hời hợt trên bề mặt. V́ vậy ta đâu có biết 
	nhiều về chúng. Tôi cảm nhận rằng công việc của Hội Thông Thiên Học trước 
	hết phải cốt ở chỗ hiểu được bản chất của sự sống như nó tồn tại nơi bản 
	thân ta, tồn tại nơi những người khác, nơi loài cây cỏ, nơi thú vật, ở bất 
	cứ nơi đâu cũng có cái Sự Sống nhất như mà các bậc đại Đạo sư đều nói tới; 
	và ta phải hiểu cho được bản chất tâm thức vốn ḥa lẫn vào sự sống và quả 
	thật là một khía cạnh của sự sống.
	Có đủ thứ khía 
	cạnh mà ta phải thăm ḍ nhưng chính ta phải đảm nhiệm cái việc thăm ḍ này, 
	bởi v́ đó là việc thăm ḍ bản thể nội tâm của ta, mà ta không thể phát hiện 
	ra được qua lời lẽ của những người khác. Nói chuyện hoặc giao tiếp với nhau 
	cũng có được vị trí nào đó, nhưng để thật sự thăm ḍ th́ người ta phải ở vào 
	t́nh huống hoàn toàn chú ư, một trạng thái tĩnh lặng, nếu không phải là tịch 
	lặng. Biển tâm thức của ta phải vẫn c̣n yên tĩnh và tịch tịnh. Chỉ lúc bấy 
	giờ th́ ta mới có thể lặn sâu vào những độ sâu của nó.
	
	TOÀN 
	THỂ SỰ THẬT.
	
	Thông Thiên Học là 
	một minh triết vốn dựa trên sự thật, nhưng sự thật này lại đa diện – nó có 
	nhiều lớp, lớp này bên trong lớp kia. Người ta có thể gọi nó là “toàn thể sự 
	thật đối với con người, sự sống và vũ trụ”. Nếu các hành động, xúc cảm và tư 
	tưởng đáp ứng của ta đều hài ḥa với bản chất của toàn thể này th́ đúng là 
	minh triết. Người ta có thể bảo rằng đây là một trật tự rất lớn hoặc cao xa. 
	Làm sao ta đến với sự minh triết như vậy được? Ta không thể sốt ruột về điều 
	này. Thật vậy, khi ta sốt ruột th́ có lẽ bởi v́ có một sự thôi thúc muốn 
	khuếch đại chính ḿnh, sự thôi thúc này xuất phát từ một tiến tŕnh khiến 
	cho không thể có minh triết. Cần phải có nhiều công tŕnh gian nan mới thực 
	chứng được khả năng này. Ta không thích như vậy v́ ta muốn đạt tới mục đích 
	ngay tức khắc. Nếu có ai đó có thể ban cho ta một câu thần chú siêu việt 
	hoặc một điều ǵ đó thuộc loại ấy – nó vốn giống như một viên thuốc tác dụng 
	nhanh chóng – th́ đó chính là điều mà ta muốn và ắt có vô số người chạy theo 
	một viên thuốc như vậy.
	Ta phải vỡ lẽ ra 
	được điều ǵ cần thiết để hiểu được toàn thể sự thật. Mục tiêu thứ Nh́ của 
	Hội Thông Thiên Học có nhắc tới tôn giáo, khoa học và triết học. Cũng giống 
	như từ ngữ Thông Thiên Học bị bỏ 
	mặc không định nghĩa, sao cho mỗi cá nhân có thể phát hiện được ư nghĩa của 
	nó dành cho chính ḿnh; cũng như vậy ba từ ngữ
	tôn giáo, khoa học và 
	triết học đều thế cả. Những phẩm tính thuộc về các địa hạt riêng của 
	chúng đều cốt yếu cho việc phát hiện sự thật. Người ta phải có tâm trí mang 
	tính khoa học (nói như vậy tôi không ngụ ư là y biết nhiều về khoa học). 
	Người ta có thể suy nghĩ hết sức hợp khoa học – nghĩa là hợp lư luận, chính 
	xác, không sai lạc – mà vẫn không biết ǵ nhiều về khoa học. Điều chúng tôi 
	gọi là khoa học th́ có nhiều thông tin về đủ thứ sự việc, và khi ta đă thu 
	lượm được thông tin ấy th́ ta cứ tưởng rằng ḿnh có kiến thức khoa học, 
	nhưng đó chỉ là một bộ sưu tập có thể nói là được nhồi nhét vào đầu óc.
	Điều cần thiết 
	chính là một tâm trí khảo sát về mọi vấn đề với một óc thực tiễn – ta dùng 
	từ này không phải theo bất kỳ ư nghĩa chuyên môn nào mà nhằm nói tới cái óc 
	khách quan khi chạm trán với những sự kiện để thấy được thực tướng của những 
	sự vật. Phẩm tính cốt lơi của óc khoa học là đều đều chạm trán với những sự 
	kiện mà không xoay nó theo những chiều hướng khác sao cho sự kiện phản chiếu 
	vào tâm trí đúng thực chất của nó. Cái phẩm chất hợp khoa học này mới sinh 
	ra mọi phẩm chất khác. Hiện nay ta đạt được việc định nghĩa hết sức chính 
	xác để thấu hiểu; ta thấy được tŕnh tự của các sự kiện và trật tự bao gồm 
	những sự kiện này. Mọi hoạt động như thế của óc khoa học vốn bắt nguồn từ 
	việc thấy sự kiện đúng như sự kiện đó; hoặc dùng lời lẽ của Đức Phật: “Thấy 
	thật là thật và giả là giả” (Chánh kiến).
	
	MỘT 
	CÁI GƯƠNG NHẴN BÓNG.
	
	Khi ta nói “chạm 
	trán với các sự kiện” th́ điều này không có nghĩa là giáp mặt với sự kiện 
	chỉ ở mức vật lư thôi, mà c̣n bao gồm những sự kiện tâm lư – những điều diễn 
	ra trong tâm trí của chính ta, những phản ứng và xúc cảm nội tâm, những động 
	cơ thúc đẩy thôi thúc ta đi theo một vài lộ tŕnh nào đấy, khiến cho ta nói 
	một vài lời nào đấy, làm một vài chuyện nào đấy. Ngay cả khoa học gia vĩ đại 
	nhất cũng không nhất thiết có óc khách quan và hợp khoa học về những vấn đề 
	khác hơn khoa học. Việc chạm trán với các sự kiện ngụ ư nhiều hơn hẳn; đó là 
	gh́m ḿnh lại, tự chủ, khiến cho ḿnh chịu kỷ luật về sự thật, tiếp nhận sự 
	thật vào chính ḿnh mà không đi chệch hướng. Vậy là từ ngữ khách quan có ngụ 
	ư là một t́nh huống tiếp thu ở một mức độ rất sâu. Người ta phải khách quan 
	đối với toàn thể Thiên nhiên. Như vậy, ta có thể đạt tới một t́nh huống nội 
	tâm hiểu biết thuần túy, không trộn lẫn với bất kỳ khái niệm nào, trong đó 
	mọi điều ở bên ngoài chính ḿnh được phản chiếu đúng bản chất của nó nơi 
	chính ḿnh, nơi cái t́nh huống nội tâm ấy. Toàn thể bản chất của ta có thể 
	trở thành một tấm gương nhẵn bóng về sự thật. Nếu điều tôi đang nói là chính 
	xác chứ không phải là một sự hoang tưởng thi vị th́ đó là một sự thật phi 
	thường mà ta phải thực chứng. Liệu ta có thể đạt tới một t́nh huống khi bản 
	chất bên trong của ta, bản thể nội tại của ta trở nên thanh khiết, nhẵn 
	bóng, bằng phẳng, sáng loáng, được định h́nh (bạn có thể gọi như vậy), được 
	thấm nhuần năng lượng đến mức nó trở thành một tấm phim rất nhạy cảm, phản 
	chiếu được sự thật của mọi vật ở bất cứ mức nào? Tôi tin là có thể đạt được 
	t́nh huống ấy. Dù không tự cho là ḿnh đă đạt được tới mức đó, người ta có 
	thể hiểu được cái khả năng thay đổi như vậy nơi bản thân ḿnh.
	Khi ta tiến vào 
	địa hạt tôn giáo, ta dường như bỏ lại đằng sau cái lănh vực chắc chắn và 
	khách quan, và bước vào một vùng đất mà mọi người được tự do suy nghĩ bất cứ 
	điều ǵ cho dù hoang tưởng đến đâu đi chăng nữa và tin vào bất cứ điều ǵ 
	ḿnh thích – hầu như là một địa hạt tranh tối tranh sáng. Như vậy có phải là 
	tôn giáo chăng? Tôi thiết tưởng muốn có giá trị th́ tôn giáo phải là một 
	khía cạnh sự thật; nhưng vậy th́ ta phải hiểu được bản chất của khía cạnh 
	ấy. Người ta thường nghĩ tôn giáo là trung thành với một tập hợp các tín 
	ngưỡng và phép thực hành, đ̣i hỏi các cá nhân phải trung thành với một vài 
	thẩm quyền, bộ luật ứng xử và những điều trừng phạt cùng với giới luật yêu 
	cầu các tín đồ phải tuân theo. Nhưng chừng nào mà tôn giáo c̣n thuộc cái 
	loại ấy th́ tôn giáo này ắt phải xung đột với tôn giáo kia.
	Thế nhưng trong 
	nhân loại vẫn có một bản chất ẩn bên dưới cái hoạt động hời hợt của tâm trí 
	và đủ thứ ư tưởng mà nó bịa ra. Người thật sự mang tính tôn giáo – y có thể 
	thuộc về bất cứ tôn giáo nào hoặc thậm chí không thuộc tôn giáo nào hết – 
	hành động theo cái bản chất căn cơ ấy. Làm sao ta mô tả hoặc định nghĩa được 
	điều này? Thật khó định nghĩa điều ǵ một cách chính xác. Ta có thể dùng một 
	vài từ và gọi đó là một định nghĩa, nhưng đó có thể không phải là một định 
	nghĩa chân thực. Bản chất căn cơ này giống nhau nơi mọi chúng sinh v́ đó là 
	một nền tảng đồng chất, không bị vỡ nát, đó là chính thực chất của tâm thức 
	cho dù khi xét trên bề mặt th́ bản chất ấy có thể đa dạng đến đâu đi chăng 
	nữa. Khi không bị vụn nát th́ nó có cái dạng hành động đặc trưng riêng của 
	ḿnh.
	
	SỰ ĐÁP 
	ỨNG TOÀN THỂ.
	
	Đâu là điều đặc 
	trưng nhất của mọi tôn giáo? Nếu bỏ qua những sự khác nhau hời hợt th́ ta 
	thấy có một điều đặc trưng duy nhất – cái tinh thần hoặc thái độ tôn giáo ấy 
	hiểu hiện thành ra một dạng hoàn toàn hiến dâng. Đó là một tinh thần hoàn 
	toàn hiến dâng không dè dặt cho dù đối với một lư tưởng, đối với Sự Thật 
	hoặc đối với bất cứ thứ ǵ khác nữa vốn thu hút nó. Có một sự hưởng ứng hoàn 
	toàn từ bản thể ta đối với một h́nh ảnh đẹp đẽ nào đó đang tràn đầy tâm hồn 
	ta. Chính cái sự hoàn toàn hiến dâng này với tinh thần xả kỷ hoặc quên ḿnh 
	mới đặc trưng cho con người có óc tôn giáo sâu sắc. Khi một cá nhân quả thật 
	có óc tôn giáo và hiến dâng theo kiểu tự do thoải mái th́ y không chia bản 
	chất của ḿnh ra thành hai phần, rồi bảo rằng: “Phần này là của tôi, c̣n 
	phần kia tôi sẽ chia xẻ với người khác”. Trong bản thể hoặc tâm thức của y 
	không có sự chia chẻ như vậy. Đây là bản chất của mọi ḷng sùng tín tôn 
	giáo: toàn thể bản chất của người ta đều hưởng ứng và vươn lên tới tận cái 
	lư tưởng, cái mục tiêu, cái nguyên lư hoặc h́nh ảnh đẹp đẽ ấy. Trong sự thu 
	hút như vậy ta mới có việc hoàn toàn vô ngă.
	Ta có thể bảo 
	rằng: Nếu đây là ḷng sùng tín tôn giáo th́ tại sao ta không t́m thấy hiện 
	tượng giống như vậy chỉ trong t́nh yêu của con người? Khi người này yêu 
	người kia th́ t́nh yêu ấy rất thường khi mang tính chiếm hữu bên trong đó có 
	nhiều bản ngă của ḿnh. Thường có nhiều sự dè dặt. T́nh yêu của con người 
	thường dựa trên một loại hợp đồng – nó t́m cách có được
	có đi có lại – hoặc có một sự mặc 
	cả ngấm ngầm bất thành văn. Nhưng nếu t́nh yêu mà không có mọi thứ như vậy 
	th́ liệu nó có thật sự đạt tới mức hoàn toàn hiến dâng, tuyệt nhiên không 
	mong điều ǵ đáp lại, ngay cả vui sướng nữa? Dĩ nhiên là có chứ. Và nếu 
	trong tâm hồn có t́nh yêu như thế th́ người ta quả thực có óc tôn giáo. 
	Người ấy có thể không rao giảng tôn giáo nào, chẳng có đức tin nào, chẳng có 
	tên gọi nào dành cho bất cứ Đấng thiêng liêng nào, thế nhưng nếu có sự hiến 
	dâng th́ có hành động và đó chắc chắn là tôn giáo.
	Ta có thể nói rằng 
	tôn giáo cốt ở việc hành động với toàn bộ bản thể con người, với bản chất 
	tỏa ra một ánh sáng nào đấy, trong đó ta nhận thức được đâu là vẻ đẹp của 
	đối tượng của t́nh yêu hay đối tượng của ḷng sùng tín. Cái ánh sáng này mới 
	làm nổi bật lên vẻ đẹp ngấm ngầm ẩn tàng trong bản thể nội tâm của người 
	khác cho dù đó có thể là ǵ đi chăng nữa. Nếu có một t́nh yêu như thế th́ đó 
	là hành động của cái bản chất căn cơ của con người, vốn không bị vỡ vụn, nó 
	chẳng những là một tấm gương phản chiếu sự thật (những ví dụ này chỉ mang 
	tính riêng phần cho nên ta đừng bám cứng vào đó) mà c̣n có thể khiến cho một 
	vài dạng hành động xảy ra được từ bên trong. Hành động này làm cho con người 
	tràn ngập nỗi niềm hạnh phúc, ngây ngất xuất thần mà trong những t́nh huống 
	khác đều không có được. Nếu không hiến ḿnh như vậy, th́ người ta không thể 
	trải nghiệm được cái niềm vui thần thánh ấy, cái sự ngát hương thơm bộc lộ 
	từ bên trong không giống bất cứ hương thơm nào trên trần thế.
	
	ĐIỀU 
	KHÔNG CHIỀU ĐO.
	
	Thế rồi c̣n có 
	triết học nữa. Triết học thật ra là một hệ thống tư tưởng dựa trên những sự 
	kiện đúng thực, những sự kiện của Thiên nhiên vật lư cũng như những sự kiện 
	thuộc về bản chất thông linh của con người. Những sự kiện mà ta nhận thức 
	đều được xếp thứ tự theo một cách nào đấy, ta dựng nên một cấu trúc tư tưởng 
	nào đấy, vốn hài ḥa với những sự kiện này, giải thích được những sự kiện đó 
	và tiết lộ mối quan hệ giữa các sự kiện. Hoạt động diễn ra trong cái mà ta 
	gọi là triết học cũng giống như kiến tạo một công tŕnh kiến trúc cao cả. 
	Kiến trúc ấy phải đứng vững trên cái nền đất là sự thật hoặc các sự kiện, 
	phải thích hợp với nền đất và hài ḥa với nền đất.
	Điều mà ta gọi là 
	sự thật đều có những khía cạnh khác nhau. Đó là sự thật mở rộng ra từ cái 
	trung tâm vốn ở bên trong bản thể sâu kín nhất của ta đi ra tới tận ngoại 
	biên, tức là những giới hạn bên ngoài của thế giới mà ta đang sống trong đó 
	hoặc có lẽ cả vũ trụ nữa. V́ nó bao trùm một phạm vi phi thường như vậy cho 
	nên ắt có những mặt cắt khác nhau, những khía cạnh khác nhau của chân lư. 
	Thông Thiên Học theo như chúng ta biết ngụ ư là hiểu được trong đó có một 
	mức độ hài ḥa giữa những khía cạnh khác nhau này. Làm sao mà ta biết được 
	cái mức độ bành trướng phi thường của chân lư ấy, nó vốn vô hạn, có biết bao 
	nhiêu khía cạnh trong đó, một số thật tinh vi sâu sắc vượt ngoài tầm hiểu 
	biết của ta? Liệu có thể nào biết được sự thật này chăng, nó dường như hoàn 
	toàn vượt ngoài tầm của ta theo mọi hướng? Tôi thiết tưởng chỉ có một cách 
	duy nhất để đến với sự thật, và nghịch lư thay, con đường ấy lại đi đến 
	chính trung tâm bản thể của ta, một điểm mà từ đó ta khống chế được mọi 
	đường chân trời ở mọi mức độ. Cái trung tâm bản thể ấy vốn không có chiều đo 
	cũng giống như một điểm h́nh học. Vậy th́ ta không t́m cách bành trướng bản 
	thân để bao trùm được nhiều sự vật mà có thể nói là rút gọn ḿnh lại để trở 
	thành chủ thể tri thức thuần túy ở chính cái điểm đó. Ta có thể chia toàn 
	thể vũ trụ ra thành hai phần: khía cạnh mà ta cần biết và khía cạnh vốn là 
	chủ thể tri thức. Chủ thể tri thức là trung tâm điểm; c̣n điều cần được biết 
	là sự mở rộng ra mọi phía, là bảng biến thiên các sự kiện.
	Vốn có cái năng 
	lực phi thường tri thức thuần túy ấy – bạn có thể gọi nó là
	Buddhi – vốn là trí huệ chân thực 
	để phân biệt với chỉ có trí năng thôi. Ta có thể biết hoặc ít ra là có thể 
	bắt đầu biết sự thật, không chỉ nh́n thấy các sự vật theo dáng vẻ bên ngoài 
	mà biết được các sự vật đúng như bên trong của chúng. Điều này đ̣i hỏi bản 
	thân ta phải thay đổi. Ta có thể đạt tới cái t́nh huống trong đó ta không 
	mưu cầu điều ǵ, không cố gắng chinh phục thế giới, từ bỏ mọi toan tính 
	khuếch đại bản ngă. Khi ta ở bất cứ nơi đâu miễn là ở đúng cái t́nh huống 
	tiếp nhận khiêm tốn ấy th́ sự thật từ mọi phía sẽ tuôn đổ và tâm hồn ta.
	Đôi khi ta nói
	Buddhi là trực giác. Đó là một từ 
	tiếng Bắc phạn, nhưng ta không biết rơ nó có nghĩa là ǵ. Ta dùng biết bao 
	nhiêu thuật ngữ Ātmā, Buddhi, 
	Paramātma, Parabrahman v.v. . . - ở Ấn Độ người ta thường như vậy, nhưng 
	bất chấp mọi từ ngữ nở rộ như hoa ấy, người ta vẫn chẳng hiểu được bao 
	nhiêu; y chỉ chơi chữ chẳng khác nào người ta dùng những cái phỉnh trên một 
	bàn đánh bạc. Trước hết, ta phải biết cái tác động diễn ra bên trong bản thể 
	con người, biết được cái phẩm tính mà nó có; nhiên hậu ta mới gọi nó bằng 
	bất cứ danh xưng nào mà ta thích. Danh xưng chẳng quan trọng mấy. Cũng giống 
	như vậy, ta phải biết Minh triết Thiêng liêng là ǵ rồi sau đó liệu ta gọi 
	nó là Thông Thiên Học hay Brahma 
	Vidya hoặc bất cứ danh xưng nào khác th́ điều đó cũng không quan trọng. 
	Điều quan trọng là ta phải biết 
	nó.
	Thỉnh thoảng người 
	ta lại bảo rằng chúng ta đang ở vào thời kỳ chuyển tiếp và ta phải di chuyển 
	từ Kama-Manas (cái trí chịu ảnh 
	hưởng của ham muốn) lên tới 
	Buddhi-Manas (cái trí thật sự giác ngộ); chỉ cái trí giác ngộ ấy mới 
	nhận thức được thôi (và chính sự nhận thức này mới quan trọng hơn tư tưởng). 
	Trước hết ta phải nhận thức hoặc là ở mức độ vật lư hay là ở bất cứ mức độ 
	nội giới nào. Nhiên hậu ta mới xây dựng trên đó một hệ thống tư tưởng. Sự 
	thay đổi phải diễn ra ở chỗ cái trí năng – vốn chỉ đùa nghịch với mọi ư 
	tưởng – phải bị biến đổi, trở nên giác ngộ, thấm nhuần một phẩm tính thuần 
	khiết nào đấy sao cho nó trở thành một công cụ của Chủ thể Tri thức thuần 
	túy, chứ không chỉ là cái trí năng thô thiển vốn chỉ vạch ra đủ thứ tŕnh tự 
	của các sự kiện. Đó phải là một trí năng biết được phẩm chất của một sự vật 
	chứ không chỉ xử trí những số lượng và những con số bằng cách so sánh. Đôi 
	khi người ta thường trích dẫn một trong những bức thư của các Chơn sư: “Cái 
	làn sóng dẫn đầu của tri thức tiến lên phải được khống chế và dẫn dắt để trở 
	thành tính linh”. Làm sao ta dẫn dắt được một trí năng vốn đầy giáo điều, 
	dửng dưng với những vấn đề đạo đức, không thể thẩm định được về thẩm mỹ, một 
	cái trí năng lạnh lùng và cứng ngắc làm sao biến được thành tính linh? Trước 
	hết nó phải bị tan chảy ra, biến hóa đi rồi được định h́nh thành một công cụ 
	mềm dẻo và bén nhạy vốn có thể thăm ḍ được sự thật ẩn giấu bên trong các sự 
	vật. Lúc bấy giờ nó mới trở thành một sự mở rộng của Tinh thần, mới thuộc về 
	cái bản chất của con người vốn cốt lơi là một bản chất yêu thương, cởi mở, 
	nhạy cảm, không chấp ngă và không chiếm hữu. Cái trí tuệ có bản chất như vậy 
	mới sáng suốt và xuyên thấu. Vả lại, khi bản chất này mà biểu lộ ra rồi th́ 
	sự sống khoác lấy một khía cạnh đẹp phi thường. Mọi sự căi vă, hờn giận và 
	hiềm khích đều chấm dứt. Lúc bấy giờ mỗi người mới tay bắt mặt mừng mọi 
	người khác, v́ cùng là người chia xẻ sự thật. Chỉ bằng cách này thôi th́ mới 
	có một kỷ nguyên mới và một thế giới mới. 
	
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS