Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

Trích CON NGƯỜI từ đâu tới, Sinh hoạt ra sao

 và Rồi sẽ đi về đâu

      Tác giả Annie Besant và C. W.Leadbeater

 Bản dịch: www.thongthienhoc.com

CHƯƠNG  XXIII

BẮT ĐẦU CĂN CHỦNG THỨ SÁU


CHƯƠNG  XXIII

BẮT ĐẦU CĂN CHỦNG THỨ SÁU

 

Chúng tôi phát hiện thấy rằng việc hành đạo ở Đền thờ lộng lẫy này không tiêu biểu cho điều sẽ là sự thờ cúng thông thường trên thế giới vào lúc ấy, song chúng chỉ diễn ra trong một cộng đồng người nào đó, sống tách biệt với phần c̣n lại của thế giới, nhưng chỉ cần nghiên cứu thêm chút nữa cũng cho chúng tôi thấy rằng đây chính là cái cộng đồng mà việc thành lập nó là nền tảng của linh ảnh từ lâu rồi đă được cho Vua A Dục thấy cộng đồng này thực ra do Đức Bàn Cổ của Căn chủng thứ 6 tách ra; nhưng thay v́ tiến hành điều đó ở nơi vùng hoang mạc xa xăm mà những người c̣n lại trên thế giới không thể xâm nhập vào được – giống như Đức Bàn Cổ của Căn chủng thứ 5 đă làm – th́ Đức Bàn Cổ bây giờ lại gieo trồng nó ngay giữa một xứ sở đông đúc dân cư và chỉ bảo toàn khỏi bị trộn lẫn với những giống dân trước kia bằng một biên giới đạo đức thôi. Cũng giống như vật liệu của Căn chủng thứ năm phải được rút ra từ phân chủng thứ năm  của ḍng dơi Atlante; cũng vậy vật liệu tạo nên cơ thể của Căn chủng thứ 6 phải được tuyển lựa từ phân chủng thứ 6  của giống dân Aryan hiện nay. V́ vậy hoàn toàn tự nhiên là cộng đồng này nên được xác lập (ta ắt phát hiện được điều đó) nơi đại lục Bắc Mỹ, ở đó người ta đă tiến những bước đầu tiên hướng về việc phát triển phân chủng thứ 6. Cũng dĩ nhiên là bộ phận của đại lục ấy được chọn lựa sao cho phong cảnh và khí hậu gần gũi nhất với lư tưởng về Thiên đường; điều này có nghĩa đó là vùng Hạ California. Người ta thấy rằng ngày tháng của những diễn biến được phác họa trong linh ảnh của Vua A Dục – việc thực sự lập nên cộng đồng ấy – hầu như chính xác là 700 năm kể từ thời điểm hiện nay; thế nhưng những bức tranh mà vị Thiên thần cho tôi thấy (cùng với những bức tranh khác được tiết lộ qua việc khảo cứu bắt nguồn từ đó) thuộc về thời kỳ khoảng 150 năm sau đúng khi cộng đồng ấy đă được xác lập hoàn toàn và đă đầy đủ sự tự tin tồn tại . 

THÀNH LẬP CỘNG ĐỒNG.

Kế hoạch là như sau. Bắt đầu từ Hội Thông Thiên Học như ta có hiện nay và như nó tồn tại trong những thế kỷ vị lai, Đức Bàn Cổ và vị Thượng tế của Giống dân sắp tới – Mars và  Mercury trong câu chuyện của ta – tuyển lựa những người hoàn toàn tha thiết tận tụy phụng sự cac ngài, tạo cho họ cơ hội trở thành những kẻ phụ tá các ngài trong công tŕnh vĩ đại ấy. Ta không thể chối bỏ rằng công tŕnh này hết sức gian nan và những kẻ nào có đặc quyền tham gia vào đó cần phải hy sinh hết mức.

Trước khi khiến cho bộ phận này trong Thái dương hệ bước vào tồn tại, Thái dương Thượng đế đă có trong tâm trí kế hoạch tỉ mỉ mà ngài dự tính thực hiện mỗi Giống dân trong mỗi Cuộc tuần hoàn sẽ đạt tới mức nào và nó khác với những Giống dân trước kia ở đặc điểm chi tiết nào. Ngay cả hiện nay th́ toàn thể h́nh tư tưởng dũng mănh ấy của Ngài vẫn tồn tại trên cơi Trí tuệ. Trong đó, khi một Đức Bàn cổ được bổ nhiệm để đảm đương một Căn chủng, việc đầu tiên ngài cần làm là thể hiện được h́nh tư tưởng ấy xuống tận một cơi nào đó mà ngài có thể dễ dàng tham khảo như có sẵn trong tầm tay. Thế rồi ngài có nhiệm vụ lựa ra từ thế giới đang hiện hữu những người nào gần giống nhất với loại h́nh ấy, tách họ ra khỏi đám người c̣n lại, và dần dần phát triển đến mức tối đa những phẩm tính của họ sao cho nó đặc biệt đặc trưng cho Giống dân mới.

Khi ngài đă tiến hành qui tŕnh ấy được đến mức tối đa với vật liệu có sẵn trong tầm tay, ngài mới đích thân nhập thể trong đám người đă tách riêng ra ấy. Bởi v́ từ lâu rồi ngài đă hết sạch mọi nghiệp quả cản đường cho nên ngài hoàn toàn tự do uốn nắn mọi hiện thể của ḿnh (thể nguyên nhân, thể hạ trí và thể vía) chính xác mô phỏng theo bản sao mà Thượng đế đă đặt ra cho ngài. Chắc chắn ngài có thể ảnh hưởng lớn lao tới thể xác của ḿnh mặc dù về việc ấy xét cho cùng ngài vẫn phải chịu ơn của những người phụ mẫu vẫn c̣n thuộc về Căn chủng thứ 5 cho dầu bản thân họ đă được chuyên biệt hóa đến mức khá nhiều.

Chỉ những thể xác nào là ḍng dơi trực hệ của ngài th́ mới cấu thành Căn chủng mới; và bởi v́ đến lượt ngài hiển nhiên cũng phải kết hôn với người thuộc Căn chủng cũ thứ 5, cho nên rơ ràng là loại h́nh ắt không tuyệt đối thuần chủng. Đó là v́ thế hệ thứ nhất các con của ngài cũng phải kết hôn với những thành viên của Giống dân cũ mặc dù chỉ trong giới hạn của nhóm đă được cách ly; nhưng sau thế hệ đó trở đi th́ không c̣n trộn lẫn thêm nữa ḍng máu cũ vào, việc kết hôn ngoại tộc đối với gia đ́nh vừa được thành lập bị nghiêm cấm. Về sau này chính Đức Bàn Cổ lại tái nhập thể, có lẽ là cháu nội của chính ḿnh, thế rồi lại tẩy trược cho Giống dân thêm nữa và cứ thế măi. Ngài sẽ chẳng bao giờ nới lỏng nỗ lực uốn nắn mọi biến thể (giờ đây bao gồm cả thể xác nữa) để cho càng ngày càng giống với mô h́nh mà Thượng đế đă ban cho ngài. 

TỤ TẬP CÁC THÀNH VIÊN 

Để cho công tác uốn nắn đặc biệt này có thể được tiến hành nhanh chóng và hoàn chỉnh tối đa, rơ ràng là mọi chơn ngă nhập thể trong các hiện thể mới này, chính họ phải hiểu rơ cần làm điều ǵ và phải hoàn toàn tận tụy với công việc ấy. V́ mục đích này Đức Bàn Cổ tụ tập xung quanh ḿnh một số lớn các đệ tử và người giúp việc, bố trí họ vào những thể xác mà chính ngài cung cấp, dàn xếp sao cho họ hoàn toàn tận tụy với nhiệm vụ ấy, tiếp nhận một cơ thể mới ngay khi thấy ḿnh cần bỏ cơ thể cũ. V́ vậy như chúng tôi đă nói, công tŕnh cực kỳ gian nan có liên quan tới những người giúp việc cho ngài; họ phải sinh ra trở đi trở lại mà không được nghỉ ngơi theo thông lệ trên các cơi khác; hơn nữa mỗi một trong chuỗi kiếp sống liên tục trên cơi trần này ắt phải hoàn toàn vị tha – hoàn toàn hiến dâng cho lợi ích của Giống dân mới, tuyệt nhiên không đếm xỉa ǵ tới bản ngă hoặc quyền lợi cá nhân. Thật vậy người nào đảm đương nhiệm vụ này không phải sống cho riêng ḿnh mà là sống cho Giống dân và điều này diễn ra từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.

Đây không phải là việc nhẹ nhàng để ta đảm đương, nhưng mặt khác tính ra th́ cũng phải bảo rằng những người nào đảm đương nhiệm vụ ấy tất nhiên sẽ tiến bộ nhanh bất thường; chẳng những họ có vinh dự đi đầu trong cơ tiến hóa của loài người mà c̣n có đặc quyền vô giá trải qua nhiều kiếp làm việc trực tiếp dưới sự chỉ đạo bằng xương bằng thịt của các Chơn sư mà ḿnh hết sức yêu mến. Những kẻ đă được ân sủng như thế nhằm nếm trải một mùi vị ngọt ngào qua sự hiện diện của các Chơn sư ắt thừa biết rằng khi có mặt các ngài th́ không một công tŕnh vất vả nào có vẻ là nặng nhọc, không một trở ngại nào có vẻ là không thể vượt qua được. Nói cho đúng hơn th́ mọi khó khăn đều tan biến và chúng ta ngoảnh nh́n lại ngẫn ngơ trước những vấp ngă ngày hôm qua và cảm thấy không thể hiểu nổi tại sao ḿnh có thể ngă ḷng hoặc thất vọng như thế được. Xúc cảm này giống hệt như điều mà bậc Thánh Tông đồ đă diễn tả tuyệt vời xiết bao khi ông thốt lên: “Tôi có thể làm mọi chuyện nhờ vào đấng Ki Tô đă thêm sức cho tôi”. 

GIA NHẬP VÀO THÁNH ĐỊA. 

Khi đă gần tới lúc mà ngài xét đoán là thích hợp nhất để thực sự thành lập Giống dân th́ ngài sẽ chăm lo sao cho mọi đệ tử được tuyển lựa đều giáng sinh vào phân chủng thứ 6. Khi tất cả đă trưởng thành th́ ngài (hoặc tập thể các đệ tử) sẽ mua một thửa đất lớn, ở một địa điểm thích hợp và tất cả đều du hành tới đó để bắt đầu cuộc sống mới dưới dạng một cộng đồng. Chính cảnh tượng sở hữu thửa đất này đă được hiến cho vua A Dục chiêm ngưỡng và địa điểm đặc biệt mà ta thấy hai Chơn sư hội ngộ với nhau là nơi ở gần biên giới của vùng thánh địa. Thế rồi các ngài dắt đoàn người theo ḿnh đi tới địa điểm trung tâm vốn đă được chọn làm đô thị chính của (chốn) cộng đồng; ở đó các ngài đă có những ṭa nhà được chuẩn bị trước. Đó là v́ rất lâu trước lúc ấy, Đức Bàn Cổ và những người giúp việc thân cận đă giám sát việc xây dựng một nhóm dinh thự nguy nga để chuẩn bị cho cơ hội này – một đền thờ lớn ở trung tâm tức nhà thờ chính, những ṭa nhà rộng lớn được bố trí là thư viện, viện bảo tàng và pḥng họp; xung quanh đó có lẽ có vào khoảng 400 nhà ở, mỗi nhà được xây ở giữa lô đất của ḿnh. Mặc dù khác nhau rất nhiều về phong cách và chi tiết nhưng, các ṭa nhà này đều được xây dựng theo một bảng thiết kế chung nào đó mà sau này ta sẽ mô tả.

Mọi công việc này đều được thực hiện bởi những công nhân b́nh thường làm việc dưới quyền một nhà thầu – đây là một đoàn thể nhiều người có những người ở xa mới tới, họ được trả công rất hậu để bảo đảm họ sẽ làm việc hết sức ḿnh. Công việc ở chỗ kiều ngụ này đ̣i hỏi rất nhiều máy móc phức tạp cho nên buổi ban đầu cần dùng tới những người thuê ở ngoài để vận hành máy móc và huấn luyện cho kiều dân biết dùng máy móc; nhưng chỉ vài năm sau th́ đám kiều dân đă học được cách chế tạo và sửa chữa mọi thứ cần thiết cho phúc lợi của ḿnh, thế là họ không cần ngoại viện nữa. Chỉ nội trong đời thứ nhất th́ đám kiều dân đă trở nên tự cấp, tự túc, và sau đó th́ không cần du nhập lao động từ bên ngoài. Để xác lập nơi kiều ngụ ấy và đưa nó đi vào hoạt động b́nh thường th́ phải tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng một khi nó đă được xác lập th́ nó hoàn toàn tự cấp tự túc và độc lập với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên cộng đồng này không hoàn toàn mất hết sự giao tiếp với phần c̣n lại của thế giới v́ nó luôn luôn chăm chú làm quen với mọi phát hiện và phát minh mới cũng như với bất kỳ cải tiến nào của máy móc.

CÁC CON CỦA ĐỨC BÀN CỔ

Tuy nhiên những cuộc khảo cứu chính yếu do chúng tôi thực hiện có liên quan tới một thời kỳ khoảng chừng 150 năm sau thời điểm nêu trên khi cộng đồng đă gia tăng nhanh chóng lớn đến mức con số vào khoảng 150 ngàn người, tất cả đều là ḍng dơi trực hệ của Đức Bàn Cổ ngoại trừ một số ít người được nhận vào từ thế giới bên ngoài theo những điều kiện mà bây giờ ta sẽ mô tả. Thoạt tiên chúng tôi thấy dường như không thể nào trong ṿng thời gian ấy mà con cháu của chỉ mỗi một người mà gia tăng đến số lượng lớn như thế. Nhưng chỉ cần khảo sát sơ lược qua các thời kỳ trung gian cũng cho thấy rằng mọi điều này đều xảy ra hoàn toàn tự nhiên. Khi Đức Bàn Cổ thấy đă đến lúc thích hợp để kết hôn th́ một vài đệ tử mà ngài tuyển lựa sẵn sàng tự nguyện bỏ xác cũ ngay khi ngài có thể cung cấp cho họ xác mới. Tổng cộng ngài có 12 đứa con; điều đáng chú ư là ngài sắp xếp sao cho mỗi đứa đều sinh ra theo một ảnh hưởng đặc biệt mà các chiêm tinh gia gọi là sinh ra dưới mỗi cung hoàng đạo. Sớm muộn ǵ th́ mọi đứa trẻ ấy trưởng thành rồi lại kết hôn với những đứa trẻ khác đă được tuyển lựa trong nhóm thành viên của cộng đồng.

Người ta đă cẩn thận cung ứng môi trường xung quanh hoàn toàn lành mạnh và thích hợp để không có trẻ con chết yểu và theo thông lệ th́ ta có cái gọi là các đại nạn gia đ́nh. Vào thời kỳ 50 năm sau khi thành lập cộng đồng th́ đă có 104 đứa cháu của Đức Bàn Cổ đang sinh hoạt. Đến 80 năm sau khi bắt đầu th́ số chắc lớn đến nổi ta chẳng dễ ǵ đếm được; nhưng cứ lấy ngẫu nhiên 10 đứa cháu ra trong đám 104 đứa cháu th́ ta thấy vào lúc ấy 10 đứa cháu này sinh ra tới 95 đứa chắc; điều này khiến ta ước tính được th́ chắc có khoản một ngàn, không kể 12 đứa con nguyên thủy và 104 đứa cháu; tiếp tục tiến thêm 1 / 4 thế kỷ nữa nghĩa là 105 năm sau lúc bắt đầu thành lập cộng đồng, th́ chúng tôi thấy tổng cộng có tới cả chục ngàn thuộc ḍng dơi trực hệ; vậy th́ rơ ràng là trong ṿng 45 năm kế tiếp, chẳng có chút khó khăn nào cũng đạt tới con số đủ 100 ngàn người. 

CAI TRỊ. 

Bây giờ ta cần mô tả việc cai trị và t́nh h́nh chung trong cộng đồng để xem phương pháp giáo dục và thờ cúng của nó cũng như mối quan hệ của nó với thế giới bên ngoài ra sao. Quan hệ với thế giới bên ngoài có vẻ hoàn toàn thân hữu; cộng đồng đóng một loại thuế danh nghĩa về đất đai của ḿnh cho chính quyền của xứ sở có dân kiều ngụ; đổi lại nó được bỏ mặc hầu như hoàn toàn không ai đụng tới v́ nó làm đường riêng và không cần bất cứ dịch vụ nào của chính quyền ở bên ngoài

Dân sống bên ngoài có vẻ kính nễ nó; người ta coi thành viên của cộng đồng là những người rất tốt và tha thiết mặc dù không bắt buộc phải sống khổ hạnh theo một kiểu nào đó. Thỉnh thoảng có khách từ bên ngoài đến viếng thăm theo từng đoàn giống như du khách vào thế kỷ thứ 20 đến thưởng ngoạn Đền thờ và những ṭa nhà khác. Tuyệt nhiên chẳng ai cản trở họ mặc dù cũng chẳng ai khuyến khích họ. Khách đến viếng thăm dường như thường b́nh luận như sau: “Hay đấy, tất cả thật đẹp và thú vị, thế nhưng tôi chẳng thích sống như họ” .

V́ các thành viên trong cộng đồng đă được cách ly khỏi thế giới bên ngoài trong một thế kỷ rưỡi rồi cho nên những mối liên hệ gia đ́nh xưa cũ đă ch́m vào quên lăng của quá khứ. Trong một vài trường hợp th́ người ta vẫn c̣n nhớ được những mối quan hệ ấy và đôi khi vẫn viếng thăm nhau qua lại. Tuyệt nhiên không có sự hạn chế nào về vấn đề này; một thành viên của đám kiều dân có thể đi thăm một người bạn sống bên ngoài hoặc có thể mời một người bạn thoải mái tới sống chung với ḿnh. Điều lệ duy nhất liên quan tới những vấn đề này là nghiêm cấm kết hôn giữa những người sống trong cộng đồng và những người ngoài cộng đồng. Ngay cả những chuyến viếng thăm như vừa mô tả cũng không thường xuyên bởi v́ toàn thể tư tưởng của cộng đồng đă hoàn toàn thống nhất đến nỗi những người từ thế giới bên ngoài tới thăm có lẽ thấy sinh hoạt hằng ngày trong cộng đồng chẳng có ǵ thú vị đối với ḿnh.

TINH THẦN CỦA GIỐNG DÂN MỚI.

Đó là v́ một sự kiện nổi bật lớn lao duy nhất đối với cộng đồng này chính là tinh thần thấm nhuần nó. Mọi thành viên của cộng đồng đều biết rằng v́ một mục đích xác định mà ḿnh không bao giờ được quên đi một lúc nào. Mọi người đều thệ nguyện phục vụ cho Đức Bàn Cổ để xúc tiến cơ tiến hóa của Giống dân mới. Mọi thứ đó dứt khoát có nghĩa là cần phải làm việc ǵ, mọi người đều tin tưởng tối đa vào sự minh triết của Đức Bàn Cổ và chẳng bao giờ dám mơ tới việc tranh căi về bất cứ điều lệ nào mà ngài đưa ra. Chúng ta phải nhớ rằng những người này được lựa ra từ một nhóm ưu tuyển. Trong những thế kỷ trung gian, nhiều ngàn người đă bị Thông Thiên Học hấp dẫn và trong số những người ấy chỉ những người nào tha thiết nhất và hoàn toàn thấm nhuần những ư tưởng Thông Thiên Học th́ mới được tuyển chọn. Hầu hết mới gần đây đă trải qua một số kiếp tiến nhanh, nhớ được phần lớn quá khứ của ḿnh và trong mọi kiếp lâm phàm này họ đều biết rằng sống trong Giống dân mới ắt là phải hoàn toàn sống xả thân v́ ích lợi của Giống dân ấy. Do đó họ đă được rèn luyện để dẹp qua một bên mọi ham muốn cá nhân bởi v́ có một công luận vô cùng mạnh mẽ trong đám kiều dân ủng hộ tính vị tha sao cho bất cứ điều ǵ thậm chí chỉ giống như sự biểu lộ nhỏ nhoi nhất của phàm ngă đều bị coi là đáng xấu hổ và ô nhục.

Họ đă được minh tâm khắc cốt qua việc tuyển lựa ấy, cho đó là một cơ hội vinh hạnh, chứng tỏ rằng ḿnh không xứng đáng với cơ hội ấy – v́ thế phải rời bỏ cộng đồng để bước ra thế giới bên ngoài - ắt là một vết nhơ không thể xóa bỏ được đối với danh dự của họ. Vả lại Đức Bàn Cổ thường khen ngợi những người tiến bộ vốn có thể đề ra bất cứ ư kiến mới mẻ và hữu ích nào để trợ giúp cho sự phát triển của cộng đồng, chứ ngài không khen ngợi kẻ nào chỉ bo bo làm việc ǵ có chút ít màu sắc cá thể. Trong đám họ v́ có cái sức mạnh lớn lao của công luận này cho nên hầu như không cần phải có luật lệ theo ư nghĩa thông thường của từ ngữ ấy. Ta có thể ví von rất hay ho toàn thể cộng đồng này giống như đoàn quân đi ra chiến trường, nếu có bất cứ sự khác nhau riêng tư nào giữa các chiến sĩ cá biệt th́ tạm thời mọi thứ ấy đều bị đắm ch́m mất đi trong cái tư tưởng duy nhất là hoàn toàn hợp tác v́ mục đích đánh bại kẻ thù. Nếu có bất cứ loại khác biệt ư kiến nào xuất hiện giữa hai thành viên trong cộng đồng th́ nó ngay tức khắc được đệ tŕnh lên cho Đức Bàn Cổ hoặc là cho thành viên gần gũi nhất trong Hội đồng của ngài, và chẳng ai nghĩ tới việc tranh cải việc quyết định được đưa ra.

ĐỨC BÀN CỔ VÀ HỘI ĐỒNG CỦA NGÀI.

V́ vậy ta ắt thấy là trong cộng đồng này hầu như cũng chẳng có chính quyền theo ư nghĩa thông thường. Sự cai trị của Đức Bàn Cổ chẳng ai tranh chấp và ngài qui tụ xung quanh ḿnh một Hội đồng vào khoảng một tá những đệ tử cao cấp nhất của ḿnh, một số đă là các Cao đồ đạt quả vị Chơn sư; các ngài cũng là Thủ lĩnh của những bộ môn quản trị sự việc và thường xuyên thực hiện những cuộc thí nghiệm mới ngỏ hầu gia tăng phúc lợi và sự hữu hiệu của Giống dân. Mọi thành viên của Hội đồng này đều đă phát triển đến mức hoạt động tự do trên mọi cơi thấp, ít ra cũng lên tới mức thể nguyên nhân; do đó ta có thể nghĩ rằng các Ngài hầu như thường xuyên hội họp – thường xuyên tham khảo ư kiến với nhau ngay cả trong từng hành vi quản trị.

Không hề có ṭa án hoặc lực lượng cảnh sát theo như thường lệ v́ những thứ đấy không cần thiết; tự nhiên là không có tội ác và hoặc bạo động trong đoàn người hoàn toàn tận tụy với một mục tiêu duy nhất. Rơ ràng là nếu ta quan niệm rằng có bất kỳ thành viên nào trong cộng đồng mà vi phạm cái tinh thần ấy th́ h́nh phạt duy nhất giáng xuống y chỉ có thể là trục xuất ra khỏi cộng đồng; nhưng v́ làm như thế là chấm hết mọi hi vọng của y, những hoài băo ấp ủ qua nhiều kiếp sống đă hoàn toàn sụp đổ cho nên người ta giả sử rằng chẳng ai mà lại dại dột rước lấy nguy cơ ấy.

Khi xét tới tâm tính nói chung của dân cộng đồng th́ ta phải nhớ rằng hầu như ai cũng đạt được một mức độ nhận thức thông linh nào đó và trong trường hợp nhiều người th́ mức độ ấy đă phát triển rất cao. Điều này khiến cho ai ai cũng có thể tự ḿnh thấy được một điều ǵ đó về sự vận hành của các thần lực mà ḿnh đang vận dụng. Sự tiến bộ vô cùng to lớn của Đức Bàn Cổ, vị Thượng tế và Hội đồng hiển nhiên là một sự kiện dứt khoát không thể chối căi được đến nỗi mà mọi người đều thấy rơ những lư do thuyết phục nhất để ḿnh chấp nhận quyết định của các ngài. Trong sinh hoạt b́nh thường trên cơi trần, ngay cả khi người ta đă hoàn toàn tin tưởng vào minh triết và thiện chí của một nhà lănh đạo th́ vẫn c̣n có sự hoài nghi là nhà lănh đạo này có thể không biết rơ về một vài điều, v́ thế quyết định của vị lănh đạo đâu phải lúc nào cũng hoàn toàn công b́nh tuyệt đối. Tuy nhiên, ở đây không thể có một chút bóng dáng nào của sự nghi ngờ ấy bởi v́ theo kinh nghiệm hằng ngày người ta hoàn toàn biết rơ là Đức Bàn Cổ hầu như biết hết mọi chuyện trong phạm vi cộng đồng và v́ thế không có bất cứ t́nh huống nào có thể lọt khỏi tầm quan sát của ngài. Cho dầu phán quyết của ngài về bất cứ t́nh huống nào có thể khác với điều mà người ta mong đợi th́ thần dân của ngài vẫn hoàn toàn hiểu rơ rằng đâu phải v́ ngài không biết hết mọi t́nh huống ảnh hưởng tới chuyện đó, mà nói cho đúng hơn là bởi v́ ngài đă cân nhắc tới những t́nh huống mà chính thần dân của ngài không biết. 

Thế là ta thấy ở cộng đồng không hề tồn tại hai loại người luôn luôn phá rối trong sinh hoạt đời thường: Những người cố t́nh phạm pháp với mục đích (kiếm lợi) một điều ǵ đó cho bản thân và những người khác gây rối bởi v́ họ tưởng rằng ḿnh bị oan ức hoặc hiểu lầm. Loại thứ nhất không thể tồn tại ở đây bởi v́ chỉ những kẻ nào đă dẹp bản ngă sang một bên và hoàn toàn tận hiến cho ích lợi cộng đồng th́ mới được nhận vào cộng đồng; loại thứ hai cũng không thể tồn tại ở đây bởi v́ mọi người trong cộng đồng đều thấy rơ rằng không thể có sự hiểu lầm hoặc bất công. Trong t́nh huống ấy những vấn đề thông thường của chính quyền đâm ra dễ dàng như trở bàn tay.

 

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS