Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS

CHƯƠNG  XVIII

Phân chủng thứ 3, giống người Ba tư 

Trích CON NGƯỜI từ đâu tới, Sinh hoạt ra sao và Rồi sẽ đi về đâu

       Tác giả Annie Besant và C. W. Leadbeater


 

Chúng ta lại trở về Kiều thành, nó vẫn c̣n vĩ đại mặc dù không c̣n rực rỡ nữa v́ chúng ta đă đến năm 30.000 trước Công nguyên. Một thời khoảng 10.000 năm đă trôi qua sau khi phân chủng thứ nh́ được biệt phái đi và trước khi đức Bàn Cổ biệt phái phân chủng thứ ba. Cũng giống như những người khác, những người phục vụ công tác này đă được chuẩn bị kỷ lưỡng trải qua nhiều thế kỷ; Đức Bàn Cổ đă giữ riêng chúng ở một trong các vùng thung lũng núi non và phát triển chúng cho đến khi chúng tỏ ra là một loại h́nh hoàn toàn riêng biệt. Trong khi Ngài khởi đầu cách ly ở châu Atlantis, Ngài đă bao gồm một tổ lẻ nhỏ những người ưu tú nhất thuộc phân chủng thứ sáu của dân Atlant và giờ đây Ngài sử dụng những gia đ́nh đă bảo tồn được những ḍng máu Akkad nhất để biệt phái họ nhập thể với nhóm người tiên phong của Ngài. Một hoặc hai người ấy được biệt phái đi xa ra ngoài hơn nữa để mang về một chút ḍng máu Akkad từ quê hương ở những xứ sở c̣n ở phía Tây nhiều hơn nữa. Thế là chúng tôi quan sát thấy Herakles, một thanh niên khỏe mạnh đẹp trai từ sinh quán là Mesopotamia theo một đoàn lữ hành đi tới Kiều thành, y có đầu dài thuộc ḍng máu Akkad thuần túy. Y gia nhập đoàn lữ hành chỉ v́ óc ham mê phiêu lưu muốn cho lúc cao hứng thời thanh xuân được tham quan thế giới và chắc chắn chẳng hề biết rằng ḿnh đă được biệt phái tới Mesopotamia, sinh ra ở đó để rồi được rút về Trung Á gặp lại những người bạn cũ trong công tŕnh tiên phong mà ḿnh đă quen thuộc. Y bị quyến rủ vô cùng trước vẻ đẹp và sự lộng lăy của nền văn minh cổ truyền có trật tự mà y vừa mới gia nhập để rồi nhanh chóng định cư vào đó qua việc phải ḷng Orion, là con gái của Sirius. 

Vụ việc này làm phật ư Sirius và vợ ông là Mizar v́ Sirius là con trai thứ của Bàn Cổ Vaivasvata và Mercury; y không tán thành việc để cho một thanh niên Akkad gia nhập vào phạm vi gia đ́nh ḿnh. Nhưng chỉ cần cha y nói bóng gió th́ y cũng đủ vâng lời thế mà y bao giờ cũng nhanh nhẩu tuân lệnh người có thẩm quyền c̣n Đức Bàn Cổ vừa là Cha vừa là Vua của y. Để tuân theo luật lệ mà chính Đức Bàn Cổ đă ban hành th́ Herakles phải được nhận làm con nuôi trong một gia đ́nh Aryen, do đó y được nhận làm con nuôi của Orisis, là anh cả của Sirius.

Đức Bàn Cổ già lắm rồi, và người ta không muốn cho Sirius kế nghiệp Ngài cho nên Sirius phải cuốn gói rời khỏi thung lũng đi tới nơi được dùng để xây dựng phân chủng thứ ba cùng với gia đ́nh ḿnh kể cả con rễ là Herakles và các cháu [[1]].

Ở đó có Pallas – tức là Plato trong lịch sử sau này – làm tu sĩ và Helios là nữ tu sĩ, một nhân vật cao lớn chỉ huy với những bộ tịch đường hoàng.

Khi tăng trưởng lên th́ dân chúng ở thung lũng này thiên về chăn nuôi hơn là canh tác, họ nuôi những đàn cừu, trâu ḅ lớn và một số ngựa. 

Đức Bàn Cổ nhân dịp này đă thay đổi rất nhiều dáng vẻ của ḿnh, đến với phân chủng này trong thế hệ thứ năm, Ngài để cho dân chúng sinh sôi nảy nở trong chừng 2.000 năm cho đến khi sẵn có một đạo quân gồm 30.000 chiến sĩ thích hợp để trải qua cuộc trường chinh đầy gian khó. Bấy giờ Ngài mới khiến cho Mars, Corona, Theodoros, Vulcan và Vajra nhập thể làm các thị vệ thích hợp cho đoàn quân của Ngài c̣n bản thân Ngài th́ lănh đạo. Lần này không phải là sự di dân b́nh thường, đó chỉ là một đạo quân trường chinh. Đàn bà, con nít bị bỏ lại nơi thung lũng, ở đó vợ của Mars là Neptune và vợ của Corona là Osirio vốn là những bà chủ uy dũng và cao thượng chưởng quản việc điều khiển mọi công chuyện và cai trị cộng đồng này rất hữu hiệu [[2]].

Một đội vệ binh uy dũng gồm những người trai trẻ độc thân đóng vai tham mưu cho các thủ lĩnh sẵn sàng mang theo những thông điệp đi theo bất cứ phương hướng nào, họ rất tự hào và vui tính, hăm hở với ư tưởng ḿnh đang xuất chinh để thật sự chiến đấu v́ chính nghĩa dưới quyền Đức Bàn Cổ.

Nhưng đó không phải là cuộc diễn hành trong ngày lễ v́ đường đi phải băng qua một xứ sở địa h́nh hiểm hóc, một số phải đi qua phần dưới chân rặng Thiên Sơn, nơi nó lượn ṿng quanh quận Kashgar cao tới 9.000 bộ Anh; một phần con đường mà họ đi theo là lộ tŕnh của một con sông băng ngang qua cái suối nước và thung lũng. Đức Bàn Cổ phái đại quân gồm tới 20.000 chiến sĩ tinh nhuệ xâm nhập vào Kashgar, đánh bại dễ dàng đám người du mục dám tấn công Ngài khi Ngài băng ngang qua sa mạc. Những bộ tộc này ḥ reo xung quanh vùng ngoại biên của đạo quân và có nhiều cuộc đụng độ nhưng không có trận chiến lớn nào đáng kể. Vũ khí được sử dụng là giáo mác dài ngắn, gươm bén, nỏ và cung. Kỵ binh dùng giáo mác và gươm quàng sau lưng những tấm khiên tṛn, bộ binh cầm thương và có những đội lính bắn cung, lính bắn nỏ, bộ binh đi ở trung quân, c̣n lính bắn cung và lính bắn nỏ đi ngoài ŕa.

Đôi khi, lúc họ đến gần một làng mạc th́ dân làng vốn sợ, và ghét đám bộ tộc sơn cước hiếu chiến cho nên hoan nghênh họ, mang đến cho họ trâu ḅ và đủ thứ thực phẩm. Vốn xưa nay bị quấy nhiễu do bố ráp, thường bị tấn công, cướp bóc và tàn sát cho nên dân chúng vùng đồng bằng có khuynh hướng hoan nghênh cường quốc nào khôi phục lại được trật tự và duy tŕ được trật tự ấy.

Xứ Ba tư đă bị tràn ngập trong ṿng hai năm mà chẳng gặp khó khăn ǵ, rồi đến xứ Mesopotamia được chinh phục. Đức Bàn Cổ lập nên những đồn binh cách quăng thường xuyên và phân chia xứ sở này cho các thủ lĩnh của ḿnh. Ngày xây dựng các chiến lũy, trước hết bằng đất rồi sau đó bằng đá cho đến khi một mạng lưới trải dài qua xứ Ba Tư để ngăn ngừa những trận bố ráp của dân miền sơn cước. Người ta không thể toan tính chinh phục những bộ tộc hiếu chiến nhưng chúng hầu như cũng co cụm lại bên trong thành lũy của ḿnh và không c̣n tha hồ được phép cướp bóc những người dân hiền ḥa vùng đồng bằng.

Đội cận vệ quân giờ đây là những chiến sĩ lăo thành tinh nhuệ đi theo Thủ lĩnh khắp mọi nơi để chinh phục đất đai xuống măi tới vùng sa mạc phía nam và lên măi tới vùng núi non Kurd phía bắc. Trong một vài năm th́ cũng có những trận chiến lẻ tẻ và măi cho tới khi xứ sở hoàn toàn thanh b́nh và an cư lạc nghiệp th́ Đức Bàn Cổ mới triệu tập đoàn lữ hành lớn lao gồm vợ con chiến sĩ đă bị bỏ lại ở thung lũng dành cho phân chủng thứ ba.

Khi đoàn lữ hành tới th́ thiên hạ rất vui mừng và lên kế hoạch kết hôn. Herakles và Alcyone cùng phải ḷng một cô gái trẻ là Fides, một cô gái đẹp có mũi cao; cô thích Alcyone hơn, thế là Herakles thất t́nh bèn quyết định tự tử v́ cuộc đời chẳng c̣n đáng sống nữa; tuy nhiên cha của Herakles là Mars đến với y, bảo y đừng có điên khùng như thế và biệt phái y đi viễn chinh tấn công một thủ lĩnh nổi loạn là Trapezium; trong t́nh huống ấy Herakles hoàn hồn đánh bại được địch thủ, trở về hoàn toàn tự tin cưới Psyche là cháu của Mars, mà Mars đă nhận làm con nuôi sau khi cha cô bị tử trận.

Trong 50 năm tiếp theo, Đức Bàn Cổ trực tiếp cai trị Đế quốc mới, nhiều lần đến thăm nó và bổ nhiệm các thành viên trong gia đ́nh ḿnh cai quản nó; nhưng ngay trước khi Ngài qua đời th́ Ngài nhường ngôi ở Trung Á cho cháu là Mars, bổ nhiệm em kế của Mars là Corona làm vua của xứ Ba Tư độc lập, c̣n Theodoros là Thống đốc Mesgrotomia dưới quyền Corona. Từ đó trở đi phân chủng thứ ba gia tăng sức mạnh nhanh chóng. Trong ṿng một vài thế kỷ, nó thống lĩnh toàn thể vùng Tây Á, từ Địa trung hải tới Pamirs và từ vịnh Ba Tư tới biển Aral. Đế quốc này c̣n trường tồn qua vài sự biến đổi cho tói khoảng năm 2.200 trước Công nguyên.

Trong thời kỳ kéo dài 28.000 năm này, có một biến cố nổi bật lên với tầm quan trọng tối cao; đó là sự Giáng lâm của Đức Mahaguru trên cương vị là đệ nhất Zarathustra, giáo chủ Bái Hỏa giáo vào năm 29.700 trước Công nguyên.

Xứ sở này đang quốc thái dân an dưới quyền trị v́ của vị vua nối ngôi Corona, trong số đó Mars vị thủ lĩnh đương thời (dĩ nhiên ở trong một thể xác mới) là vị vua thứ 10. Thời kỳ thiết quân luật đă qua rồi, mặc dù những cuộc bố ráp khi có khi không nhắc cư dân nhớ tới đám lân bang hiếu động ở phía bên kia của vành đai thành lũy, giờ đây đă được củng cố vững chắc. Về cơ bản th́ xứ này vẫn là nước nông nghiệp mặc dù người ta có chăn nuôi một số lớn gia súc và gia cầm, chính đàn súc vật này đặc biệt cám dỗ đám cư dân vùng sơn cước.  

Con thứ nh́ của Mars là Mercury và xác của y được chọn cho bậc Đạo sư tối cao sử dụng làm hiện thể, Surya là Tu sĩ trưởng, Đạo trưởng thời ấy, đứng đầu Quốc giáo vốn là sự pha trộn tục thờ cúng Thiên nhiên và thờ cúng Tinh tú, Surya có quyền lực bao la chủ yếu v́ giữ chức ấy nhưng cũng một phần v́ thuộc ḍng máu hoàng gia. Sự kiện Mercury được chọn để nhường xác cho Đức Mahaguru sử dụng đă được loan báo cho vua cha cũng như bậc Đạo trưởng, cho nên từ khi c̣n tấm bé hoàng tử đă được huấn luyện cẩn thận, nhắm vào số phận vinh quang ấy; Surya đảm nhiệm việc giáo dục và vua cha công tác theo đủ mọi cách trong phạm vi quyền lực của ḿnh. 

Đă đến lúc mà đức Mahaguru phải xuất hiện lần đầu tiên trước công chúng; Ngài từ Shamballa giáng lâm trong một thể tinh vi rồi mượn xác của Mercury, thế là một đám rước lớn khởi hành từ cung điện vua cha đi tới Đền thờ chính của thành thị. Bên phải đám rước là khuôn mặt uy nghi của Đức vua bên trên có che cái lọng vàng, cái lọng có cẩn ngọc quí của vị Đạo trưởng sáng lấp lánh bên phía trái, c̣n ở giữa người ta thấy có cáng một chiếc ghế dựa bằng vàng trên đó khuôn mặt nổi tiếng con thứ nh́ của Đức vua ngồi chểm chệ uy nghi. Nhưng điều ǵ khiến người ta x́ xào kinh ngạc trầm trồ khi người đi ngang qua ? Phải chăng đó quả thật là Hoàng tử mà thiên hạ đă biết từ thời tấm bé? Tại sao người lại được cáng lên cao ngay giữa đám rước trong khi Đức vua và vị Đạo trưởng lại bị lẽo đẽo khiêm tốn đi bên cạnh Ngài? Đâu là nhân vật mới mẻ uy nghi với sự đường bệ chưa ai biết tới với ánh mắt nh́n đăm đăm thấu suốt nhưng vẫn dịu dàng quét ngang qua đám đông? Như vậy vốn không nh́n vào quần chúng mà cũng chẳng tự giới thiệu, Hoàng tử đă vượt trội hơn tất cả.

Đám rước cứ tiếp tục lũ lượt kéo vào sân rộng mênh mông của Đền thờ ken đặc người mặc những bộ y phục sặc sỡ trong ngày đại lễ, khi mỗi người mặc chiếc áo khoác có màu hành tinh hộ mệnh của ḿnh; ngay bên dưới dọc theo các nấc thang dẫn lên bệ đài ở phía trước cánh cửa lớn của Đền thờ có những tu sĩ xếp hàng mặc bộ đạo phục trắng tinh với những áo khoác bằng lụa đủ màu sắc cầu ṿng; người ta dựng nên một bàn thờ ở giữa nơi tŕnh diễn với một giàn hỏa làm bằng gỗ có nhựa thơm nhang trầm nhưng không có khói bốc lên v́ thiên hạ sửng sốt thấy rằng giàn hỏa không được châm lửa.

Đám rước đi lên tới tận bậc thềm rồi dừng lại ở đó ngoại trừ ba nhân vật chính leo lên cái bậc thang, Đức vua và vị Đạo trưởng đứng ở bên phải và bên trái bàn thờ, c̣n Hoàng tử vốn là Mahaguru đứng ở giữa đàng sau bàn thờ.

Thế rồi Đạo trưởng Surya ngơ lời với những tu sĩ và nhân dân, cho biết rằng Đấng đứng đàng sau bàn thờ không c̣n là vị Hoàng tử mà họ đă biết tới nữa, mà là Sứ giả của Đấng Tối cao bắt nguồn từ các Đấng Con của Lửa ngụ ở vùng viễn đông nơi mà tổ tiên của họ xuất phát từ đó. Đấng Tối cao ngơ lời với các con ḿnh để cho mọi người phải kính trọng và vâng lời; vị Đạo trưởng bảo họ phải lắng nghe trong khi vị Sứ giả vĩ đại lên tiếng nhân danh Đấng Tối cao. Trên cương vị là người lănh đạo tôn giáo tín ngưỡng, vị Đạo trưởng khiêm tốn hoan nghênh bậc thiên sứ.

 Thế rồi đám đông chăm chú lắng nghe tiếng trong như bạc của Đức Mahaguru trổi lên và chẳng ai mà không nghe thấy Ngài dường như thể Ngài chỉ ngỏ lời với mỗi một ḿnh thôi. Ngài bảo họ rằng Ngài từ các Đấng con của Lửa, các Hỏa đức Tinh quân giáng lâm xuống đây, các Hỏa đức Tinh quân vốn ngự nơi Thánh đô ở Bạch đảo xa tít tận Shamballa. Ngài mang tới cho họ một điều khải huyền của các Đấng Hỏa đức Tinh quân, một biểu tượng khiến cho họ nhớ măi các Hỏa đức Tinh quân. Ngài bảo họ Lửa vốn là nguyên tố thanh khiết nhất, tẩy trược được vạn vật và từ nay trở đi nó ắt là biểu tượng của Đấng Linh thánh nhất đối với họ. Lửa hiện thân nơi Mặt trời trên bầu trời và bốc cháy trong tâm hồn con người mặc dù chỉ ẩn tàng thôi. Đó là nhiệt, ánh sáng, đó là sức khỏe và sức mạnh, vạn vật đều sống động và vận động nơi nó và nhờ vào nó. Ngài bảo họ ư nghĩa thâm sâu của nó và họ ắt thấy được sự hiện diện ẩn tàng của Lửa nơi vạn vật.

Thế rồi Ngài giơ tay phải lên, và xem màu trên đó chiếu sáng một Thần tượng dường như thể tia chớp bị cầm giữ lại song vẫn tỏa ra những tia lửa lập ḷe ở mọi hướng, rồi Ngài chỉa Thần trượng vào phía Đông của bầu trời hô lớn lên một số từ ngữ bằng một thứ tiếng mà chẳng ai biết, thế là bầu trời trở thành một vệt lửa, Lửa rớt xuống cháy rực trên bàn thờ, một ngôi sao chói ḷa trên đầu Ngài và dường như tỏa tia sáng làm Ngài ch́m ngập trong đó. Và mọi tu sĩ cũng như nhân dân đều úp mặt qú sụp xuống, Surya và nhà Vua phủ phục tôn vinh Ngài ở ngay dưới chân Ngài, khói nhang bốc lên thành từng đám mây nơi bàn thờ che khuất ba người trong một vài lúc.

Thế rồi khi vươn tay lên ban phước, Đức Mahaguru bước từ trên bục xuống cùng với nhà Vua và vị Đạo trưởng theo đám rước trở về cung điện nơi khởi hành. Dân chúng vui mừng hân hoan v́ các các vị Thần linh của tổ tiên c̣n nhớ tới ḿnh và đă gửi tới cho ḿnh Linh từ Thái b́nh. Họ mang về nhà những đóa hoa từ trên trời rớt xuống như mưa khi Lửa giáng xuống giữ kỹ chúng trên bàn thờ để làm di sản quí báu cho con cháu.

Đức Mahaguru c̣n ở lại một thời gian đáng kể trong thành thị, ngày ngày đi tới Đền thờ để giáo huấn cho các giáo sĩ, Ngài dạy họ Lửa và Nước là những thứ tẩy trược tất cả những thứ khác, chúng chẳng bao giờ bị ô nhiễm và ngay cả nước cũng bị Lửa tẩy trược; mọi Lửa đều là lửa Mặt trời và ngự nơi vạn vật rồi được phóng thích thành ra lửa để sử dụng; vạn vật đều bắt nguồn từ Lửa và nước, v́ lửa và nước là hai Chơn linh, Lửa là sự sống c̣n nước là h́nh tướng [[3]].

Đức Mahaguru tụ tập xung quanh Ngài một đoàn thể các Chơn sư hoàn toàn khả kính và những người khác kém tiến hóa hơn. Ngài để cho những vị này thi hành giáo huấn của ḿnh khi Ngài đă ra đi.

Ngài ra đi cũng mang đầy kịch tính giống như Ngài lần đầu tiên thuyết pháp.

Dân chúng tề tựu nghe Ngài thuyết pháp giống như những dịp thỉnh thoảng mà Ngài thực hiện chứ họ đâu có biết đây là lần cuối cùng. Cũng như trước, Ngài đứng trên bục giảng lớn nhưng không có bàn thờ. Ngài thuyết pháp khiến họ minh tâm khắc cốt bổn phận mở mang trí thức và thực hành t́nh thương, bảo họ phải nghe lời và tuân theo Surya được Ngài truyền thừa là bậc Đạo sư. Thế rồi Ngài bảo họ Ngài sẽ ra đi, ban phước cho họ, giơ tay chỉ lên bầu trời phương đông rồi hô lớn, từ trên bầu trời sà xuống một đám mây lửa cuồn cuộn quấn xung quanh Ngài nơi chỗ Ngài đứng, thế rồi trong khi vẫn cuồn cuộn nó vọt lên bốc về phương Đông, thế là Ngài đă ra đi.

Bấy giờ dân chúng mới úp mặt xuống hô vang lên rằng Ngài là Thần linh, họ cực kỳ phấn khởi khi thấy Ngài đă sống trà trộn với ḿnh; c̣n Vua cha rất buồn rầu thương khóc sự ra đi của Ngài trong nhiều ngày. Mercury vốn ở trong thể tinh vi bao giờ cũng cận kề với Ngài, phụng sự Ngài, theo Ngài trở về với các Đấng Thiêng liêng để an dưỡng trong một thời gian.

Sau khi Ngài ra đi th́ tục thờ cúng Tinh tú không biến mất ngay tức khắc v́ dân chúng coi giáo huấn của Ngài là sự cải cách chứ không phải thay thế, cho nên vẫn c̣n thờ cúng Mặt trăng, Kim tinh, các cḥm sao và các hành tinh, nhưng Lửa được coi là linh thiêng, là h́nh ảnh, biểu hiệu và bản thể của Mặt trời, thế là tôn giáo mới đă bao hàm tôn giáo cũ hơn là thay thế cho nó. Dần dần th́ Tín ngưỡng về Lửa càng ngày càng mạnh lên; tục thờ cúng Tinh tú từ Ba Tư triệt thoái về Mesopotamia nơi nó vẫn c̣n là tín ngưỡng thống trị, dưới một dạng rất khoa học. Chiêm tinh học ở đó đạt tới đỉnh cao và là một khoa học hướng dẫn các sự việc của con người, cả công vụ lẫn tư vụ. Các tu sĩ có nhiều kiến thức huyền bí, minh triết của các Pháp sư nổi tiếng khắp Đông phương. Ở Ba Tư, Bái Hỏa giáo chiến thắng và sau này các vị Đạo sư tiến hành công tŕnh của Zarathurtra vĩ đại, xây dựng tín ngưỡng của Zoroaster, cùng với kho kinh điển của nó c̣n trường tồn măi tới tận ngày nay.

Phân chủng thứ ba có chừng một triệu linh hồn khi họ định cư ở Ba Tư và vùng Lưỡng hà (Mesopotamia) th́ họ nhanh chóng sinh sôi nảy nở do hoàn cảnh thuận lợi của quê hương mới và cũng sáp nhập được vào quốc gia ḿnh đám dân cư lẻ tẻ đă có sẵn ở xứ sở này khi họ nhập cư.

Vào khoảng năm 28.000 của Đế quốc Ba Tư th́ tự nhiên có nhiều xáo động thăng trầm; trong hầu hết thời gian này Ba Tư và xứ Lưỡng hà có những nhà cai trị khác nhau, đôi khi nhà cai trị này, đôi khi nhà cai trị kia là Thủ lĩnh tối cao trên danh nghĩa; có khi cả hai xứ lại được phân chia thành những Nhà nước nhỏ hơn do một loại phong kiến trung thành tương đối với vị Vua ở trung ương. Xuyên suốt lịch sử của họ thường xuyên có những khó khăn, một mặt với đám người du mục Mông Cổ và một mặt với đám người sơn cước ở Kurdistan và Hindu Kush. Đôi khi người Ba Tư bị các bộ tộc này đẩy lùi trong một thời gian, đôi khi họ mở rộng biên cương văn minh tiến xa hơn đẩy lùi đám người dă man. Có một thời kỳ họ cai trị gần hết vùng Tiểu Á và khiến cho nhiều xứ ven bờ biển Địa trung hải cũng được tạm cư, có khi họ chiếm cứ cả dân Cyprus vùng Rhoale và Crete, nhưng nói chung th́ ở vùng này trên thế giới quyền lực của dân Atlant quá mạnh cho nên họ tránh xung đột với nó. Ở biên giới phía tây của vương quốc Ba Tư, các liên bang người Scyth và Hittite hùng mạnh tranh chấp quyền cai trị vào nhiều thời điểm trong lịch sử; ít ra đă có một lần họ chinh phục được xứ Syria nhưng dường như thấy việc chiếm đóng xứ này là vô ích cho nên chẳng bao lâu sau lại từ bỏ; có hai lần họ bất ḥa với xứ Ai Cập mà họ cũng ảnh hưởng chẳng được bao nhiêu. Trong hầu hết thời kỳ dài đăng đẳng này, họ duy tŕ được một mức độ văn minh cao cấp và nhiều di tích của thuật kiến trúc hùng mạnh của họ c̣n nằm chôn vùi bên dưới băi cát sa mạc. Nhiều triều đại khác nhau đă quật khởi, nhiều ngôn ngữ khác nhau đă thịnh hành trong suốt lịch sử thăng trầm của họ. Họ tránh gây chiến với Ấn Độ v́ ngăn cách với xứ này qua vùng lănh thổ hoang vu là một loại vùng đất không có người ở; xứ Á Rập cũng chẳng quấy nhiễu họ bao nhiêu v́ cũng lại có một vành đai hữu dụng sa mạc chen vào giữa. Họ là những nhà kinh doanh, thương mại và sản xuất chế biến tài khéo, họ định cư nhiều hơn hẳn so với phân chủng thứ nh́ và có những ư tưởng tôn giáo xác minh nhiều hơn. Mẫu người ưu tú nhất của dân Bái Hỏa giáo thời nay cho ta có một ư niệm công tâm về dáng vẻ của họ. Cư dân hiện nay ở Ba Tư vẫn c̣n mang nhiều ḍng máu ấy, mặc dù phần lớn đă pha trộn với ḍng máu của người Ả Rập đi chinh phục. Người Kurd, Afganitan  và Baluchis cũng chủ yếu là ḍng dơi của họ, mặc dù đă pha trộn với nhiều dân tộc khác.

 



[[1]] Xem phụ lục số 8 trong đó có danh sách đầy đủ.

[[2]]  Xem phụ lục 9.

[[3]] Có lẽ do đó sau này mới có giáo huấn về Ormuzd và Ahriman. Có những đoạn kinh cho thấy rằng song trùng thể của Ormuzd thoạt tiên không phải là quyền lực ác mà đúng hơn là vật chất, c̣n Ormuzd là tinh thần.


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS