| 
			 | 
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
| 
			 | 
			
			CHƯƠNG 
			HAI MƯƠI 
			BA 
			
			 
			
			CHUẨN BỊ CHO YOGA
 
			 | 
			 | 
			
			
			CHUẨN BỊ CHO YOGA
Cuộc bàn luận về bản chât của
			Samādhi (Đại Định) và 
			những diễn tiến trí tuệ tế nhị của nó có thể cho cảm tưởng rằng kỹ 
			thuật Yoga không thích hợp cho con người b́nh thường ở ngoài xă hội, 
			và nhiều lắm là y sẽ chỉ nghiên cứu phần lư thuyết của đề tài, và 
			phải tŕ hoăn công việc thực hành vào một kiếp trong tương lai khi 
			mà các điều kiện thuận tiện hơn, và các khả năng trí tuệ và tâm linh 
			của y được phát triển đầy đủ hơn. Mặc dầu tự nhiên, những cảm tưởng 
			này đặt nền tảng trên một quan niệm sai lầm. Những vị đă sáng lập 
			Triết Lư Yoga và đặt ra kỹ thuật tinh vi của nó, không phải chẳng 
			biết rơ những điểm yếu của bản chất con người với những hạn chế và 
			ảo ảnh trong đó một người b́nh thường đang sống. Các Ngài không thể 
			tŕnh bày sự cần thiết cấp bách của con người phải tự giải thoát 
			khỏi những giới hạn này, và kế đó đặt trước mắt y một phương pháp 
			thực hiện mục tiêu này mà nó có vẻ vượt qua khả năng của y. Các Ngài 
			biết những khó khăn liên quan đến, mà các Ngài cũng biết những khó 
			khăn phải chiến thắng theo quá tŕnh rèn luyện lần, thật khoa học và 
			phù hợp với những định luật cai quản sự trưởng thành và tiến hóa của 
			nhân loại. Dù cho khi phải thực hiện bất cứ mục tiêu trần tục có giá 
			trị nào đi nữa, con người đều phải tiến hành một cách có hệ thống và 
			được chuẩn bị cho một cố gắng dài hạn và tích cực. Nếu y muốn trở 
			thành một nhà toán học tài giỏi, y phải bắt đầu với bốn phép toán số 
			học và lần hồi tiến thêm, từ giai đoạn này đến giai đoạn khác, cho 
			đến khi nắm lấy khoa học ấy trọn vẹn trong tay. Y không khởi sự bằng 
			cách ghi tên theo học những lớp dạy môn toán học vi phân và tích 
			phân ở một đại học. Y được chuẩn bị cho một quá tŕnh dài hạn, và 
			cũng biết rằng kết quả sau cùng được đảm bảo, nếu y không nửa đường 
			bỏ dở cuộc cố gắng. Nhưng, khi bàn đến vấn đề thực hiện mục tiêu cao 
			cả nhứt của cố gắng con người là cái cùng tột của sự tiến hóa nhân 
			loại, th́ người ta quên rằng những điều này được đặt trên nền tảng 
			của sự hiểu biết và kinh nghiệm thông thường ngoài đời. Họ bắt đầu 
			thắc mắc về điểm khó khăn thực hiện
			Samādhi (Đại Định), và tự 
			hỏi bao giờ họ sẽ có thể tiến đến những trạng thái cao siêu nhứt của 
			tâm thức, do các phương tiện 
			Samādhi mang lại. Họ tưởng tượng rằng ḿnh chỉ làm công việc 
			khởi đầu, và liền đó bao nhiêu kết quả quư báu của đời sống Yoga sẽ 
			đến ngay với họ, hay là trong một thời gian không lâu lắm. V́ thế 
			mà, hoặc là họ không bao giờ bắt đầu, hay là có bắt đầu đi nữa, liền 
			đó họ cảm thấy ḿnh vỡ mộng và bỏ cuộc thật sớm, nghĩ rằng có lẽ 
			không có ǵ đáng t́m trong môn Khoa Học Yoga đă được quảng cáo ầm ĩ, 
			hay là họ không có khả năng dấn thân vào một công việc quá khó khăn 
			như thế. V́ vậy mà chúng ta tiếp tục tŕ hoăn sự cố gắng này để thấy 
			ḿnh vẫn nằm ỳ một chỗ trên thang tiến hóa, từ kiếp này sang kiếp 
			khác; chúng ta không áp dụng một thái độ thông minh thông thường đối 
			với vấn đề này, giống như chúng ta đă làm ở trường hợp những vấn đề 
			tương tợ liên quan đến những cuộc tranh đua thế sự của chúng ta.
Khoa học Yoga có thể được tinh thông như tất 
			cả khoa học nào khác, nhờ một quá tŕnh rèn luyện chia thành nhiều 
			đợt. Chúng ta khởi sự với những điều đơn giản mà bất cứ ai ai đều 
			cũng có thể làm và tiến hành từ bước một, từ vấn đề đơn giản đến 
			phức tạp hơn, từ những thực hành dễ dàng đến những cái khó khăn hơn. 
			Do bởi những tiềm năng khác nhau, ẩn tàng trong nhiều cá nhân khác 
			nhau, sự tiến bộ của chúng ta được tính không phải theo số năm tháng 
			của công việc, mà bằng những sự lớn mạnh của các khả năng và những 
			thay đổi trong tâm trí cùng thái độ của chính ḿnh. Chúng ta hăy bắt 
			đầu với vài thực hành và kỷ luật sơ cơ, chuẩn bị người chí nguyện 
			cho những thực hành cao cấp hơn của môn Yoga bực trên.
Tóm lại, câu Sūtra sau đây trong Chương II 
			cho chúng ta thấy một ư niệm tổng quát về công việc thực hành sơ 
			khởi, hay rèn luyện chuẩn bị, mà mỗi người chí nguyện đều có thể bắt 
			đầu tức khắc và mang lại một nền tảng vững chắc cho một đời sống 
			Yoga một cách có hệ thống và cương quyết.
			
			 “Sự 
			khổ hạnh, sự t́m hiểu bản ngă và xả thân v́ Ishvara hoặc Thượng Đế, 
			hợp thành    môn Yoga dự bị” 
			II.1 
Người sinh viên sẽ thấy rằng ba loại hoạt 
			động khác nhau qui định trong câu Sūtra dùng để phát triển ba khía 
			cạnh chánh yếu của bản chất con người : Ư chí, Trí thức và T́nh 
			thương. Như đă được bàn qua trong một Chương trước, sự hiểu biết trí 
			thức đặt nền tảng cho nếp sống Yoga, bằng cách chuẩn bị một bối cảnh 
			lư thuyết đầy đủ. Sự phát triển của t́nh thương hay ḷng sùng tín, 
			sự biến đổi và thanh lọc nếp sống kèm theo đó sẽ mang lại minh triết 
			cho sự hiểu biết. Và rồi đó, do sự áp dụng ư chí tâm linh vào công 
			việc kiểm soát và kềm chế những biến đổi của cái trí, nhà Yogi từ 
			giai đoạn minh triết bước sang giai đoạn Thực Hiện Chân Ngă, toàn bộ 
			sự huấn luyện và kỷ luật bản thân chấm dứt trong việc Thực Hiện Chân 
			Ngă và Giải Thoát. Ư nghĩa của ba yếu tố của công việc kỷ luật bản 
			thân sơ đẳng này được giải bày cặn kẽ trong phần b́nh luận, và chúng 
			ta không cần đi vào chi tiết nơi đây. Tuy nhiên, có vài điểm chính 
			yếu tổng quát có thể đáng cho người chí nguyện lưu ư.
Điểm đầu tiên ghi nhớ là trọn cả ba loại 
			hoạt động này tạo thành một khởi điểm thật sự của nếp sống người 
			Yogi, và nó tùy thuộc nơi chính người chí nguyện dùng cách nào để 
			chuyển nhanh từ giai đoạn chuẩn bị bước sang giai đoạn cao cấp của 
			công cuộc tiến triển. Nếu y bắt tay vào các vấn đề liên hệ với ba 
			loại hoạt động đó một cách mănh liệt và hăng hái, chỉ trong một 
			khoản thời gian ngắn, y có thể tự chủ được bản ngă thấp kém của ḿnh 
			và sự tập trung vào mục đích khiến y sẽ xứng đáng bắt tay vào những 
			thực hành ở cấp cao của Yoga.
			Tapas, Svādhyāya và Isvarapranidhara 
			sẽ là những thực hành đầy bí ẩn, nhưng thật ra không có ǵ là bí ẩn 
			cả.
			Svādhyāya 
			là sự t́m hiểu mănh liệt các vấn đề thâm sâu về đời sống, giúp chúng 
			ta có được một bối cảnh lư thuyết tương xứng và một ư niệm đúng đắn 
			tổng quát về tất cả vấn đề liên quan đến việc thực hành Yoga và 
			những phương pháp được sử dụng giải quyết các vấn đề ấy. Nhưng sự 
			t́m hiểu này phải được chính chúng ta làm lấy thế nào để chúng ta có 
			thể lần hồi phát triển khả năng t́m ra tất cả sự hiểu biết từ bên 
			trong nội tâm ḿnh, và trở nên không tùy thuộc vào những trợ giúp từ 
			bên ngoài, liên quan đến vấn đề đó. Nó cũng phải ở vào một mức độ 
			thâm sâu và không phải chỉ là công việc thu thập lại kiến thức lượm 
			lặt từ các sách vở. 
Mục tiêu chánh của
			Svādhyāya là tháo mở 
			những cánh cửa của sự hiểu biết thực sự bên trong nội tâm chúng ta, 
			và có được khả năng sử dụng sự hiểu biết đó khi nào cần thiết. Chúng 
			ta vẫn thường lệ quên rằng, thật sự, tất cả hiểu biết đều nằm bên 
			trong chúng ta, trong Cái Trí Đại Đồng, và ít ra có thể sử dụng phần 
			nào sự hiểu biết đó bằng cách khai mở một vận hà giữa hạ trí và 
			Thượng Trí. Tôi không nói đến những hiểu biết về Thực Tại thu đạt 
			nhờ những tiến tŕnh cao cấp của
			Samādhi (Đại Định). Tôi 
			chỉ đề cập đến sự hiểu biết trí tuệ thông thường, hiện diện trong 
			Chơn nhơn, hay Chân Ngă, đang hoạt động xuyên qua Thể Thượng Trí và 
			nó có thể được sử dụng, nếu hạ trí được thanh lọc và ḥa họp với 
			Chân Ngă. Sự hiểu biết này cao cả hơn nhiều, so sánh với sự hiểu 
			biết vay mượn thông thường thu đạt từ các sách vở, sự quan sát v.v.… 
			bởi v́ nó từ một nguồn gốc cao cả mà đến và không có những sai lầm, 
			nghi ngờ và xuyên tạc thông thường, là đặc trưng của sự hiểu biết 
			gián tiếp do cái trí cụ thể (hạ trí) mang lại từ những nguồn bên 
			ngoài. Bởi thế, tất cả những kế hoạch, phương pháp và thực hành, như 
			là sự suy nghĩ, thiền định, 
			Japa (chú nguyện) v.v … có hiệu quả khai mở con đường vận hà 
			giữa hạ trí và Thượng Trí đều do nơi
			Svādhyāya mà ra, và người 
			hành giả sơ cơ phải sử dụng chúng càng lúc càng nhiều hơn nữa, khi 
			mà sự thích thú và khả năng của y tăng trưởng.
Thông thường,
			Tapas được dịch là khổ 
			hạnh, nhưng dịch như thế đem lại một cảm tưởng sai lầm về bản chất 
			thật sự và chánh yếu của nét đặc trưng này của Yoga chuẩn bị. Từ
			Tapas do chữ Phạn “Tap” 
			mà ra, có nghĩa “làm nóng lên đến một nhiệt độ cao”. Nếu vàng ṛng 
			được nấu lên một nhiệt độ cao, lần hồi các bợn nhơ của nó được thiêu 
			hủy và biến mất, chỉ c̣n lại toàn chất vàng ṛng thanh khiết. Đó là 
			ư nghĩa chánh yếu phía sau từ 
			Tapas và một cách rộng răi nó ám chỉ đặt bản chất thấp kém của 
			chúng ta vào một kỷ luật với mục đích thanh lọc nó, loại bỏ tất cả 
			bợn nhơ của tánh yếu đuối, thấp hèn, để cho thân và trí có thể trở 
			nên thanh trong và phục tùng ư chí của chúng ta, và có khả năng được 
			sử dụng như những dụng cụ hữu hiệu của Chân Ngă. Như thế
			Tapas là sự biến chuyển 
			bản chất thấp kém trở nên thanh cao, nhờ tiến tŕnh kỷ luật bản 
			thân. Những khổ hạnh đủ loại có thể được áp dụng và phải được dùng, 
			nếu tuyệt đối cần thiết, nhưng đó không phải là phần chánh yếu của 
			tiến tŕnh. Sự thanh lọc và kiểm soát có thể được thực hành bằng 
			những phương pháp thông minh và hữu hiệu, hơn là tuân theo những lời 
			thệ nguyện cứng ngắc và giam hảm thân thể trong những t́nh trạng 
			thiếu tiện nghi và khổ cực không cần thiết. Mỗi người chí nguyện 
			phải sử dụng những phương pháp riêng tư của ḿnh một cách thông 
			minh.
			Ishvara-pranidhāna 
			thường được dịch là sự hiến ḿnh cho Thượng Đế, thật sự đó là một 
			khía cạnh của ḷng sùng tín, một phương pháp hữu hiệu để phát triển 
			ḷng  sùng tín. Trong 
			một chương khác, chúng ta có nghiên cứu qua vấn đề phát triển ḷng 
			sùng tín, hay t́nh thương của Thượng Đế, và có được chẳng những một 
			vài ư kiến về mục đích của Con đường T́nh Thương và bản chất của 
			ḷng sùng tín, mà c̣n thêm những phương pháp được sử dụng để phát 
			triển khía cạnh này của bản chất ḿnh. Tất cả hiểu biết này chỉ cần 
			được đem ra sử dụng một cách nghiêm chỉnh và bền bỉ để mang lại kết 
			quả. Những điều đó đ̣i hỏi sự thực hành, ḷng chân thành và một ư 
			chí bất khuất để thành công, bởi v́ ḷng sùng tín không xuất hiện 
			nơi ta một cách dễ dàng. Chúng ta được trắc nghiệm và thử thách đến 
			tột độ, và điều này có thể mang lại cho chúng ta sự ngă ḷng nhiều 
			lần. Nhưng, khi rốt ráo nó xuất hiện, th́ nó biến đổi nếp sống chúng 
			ta, làm chúng ta tràn ngập niềm vui và hừng chí đến độ chúng ta cảm 
			nghĩ rằng tất cả mọi hy sinh, mọi cố gắng và đau khổ mà ḿnh đă cưu 
			mang, là không nghĩa lư ǵ so sánh với hạnh phúc đă thu nhận và ân 
			sủng của Thượng Đế đă ban cho chúng ta.
Cho nên, bạn sẽ thấy rằng câu Sūtra này, với 
			năm từ thôi, mà có một tầm mức thật rộng lớn, và mang lại một phương 
			pháp rất toàn diện chuẩn bị chúng ta cho những giai đoạn cao hơn của 
			đời sống Yoga. Trên thực tế, nó bao hàm mỗi khía cạnh của bản chất 
			tâm linh chúng ta và nếu các phương pháp được gợi nhắc đến trong kỷ 
			luật bộ ba của nó được tuân theo một cách chân thành, thận trọng và 
			hứng khởi, chẳng những nó làm biến đổi bản chất thấp kém của các thể 
			chúng ta thành một dụng cụ hữu hiệu để Chân Ngă sử dụng mà lại c̣n 
			mở ra nhiều viễn cảnh mới mẻ của sự thành tựu và tiết lộ nhiều khả 
			năng và tiềm lực ẩn tàng không ai nghi ngờ có ở bên trong chúng ta.
Nếu chúng ta bắt đầu thực hành tất cả những 
			điều này mà chúng ta đă học hỏi, đời sống tức khắc sẽ được biến 
			chuyển đối với ḿnh và chừng đó, chúng ta sẽ chấm dứt tự hỏi ḿnh có 
			thể thực hiện Samādhi 
			(Đại Định) hay không, ḿnh có thể phát triển t́nh thương đến mức độ 
			có khả năng thực hành một phần nào sự ḥa hợp với Đối Tượng của ḷng 
			sùng tín của ḿnh hay không.
Lấy lại thí dụ người sinh viên có quyết tâm 
			trở thành một nhà toán học giỏi, ấy bởi v́ y bắt đầu làm những bài 
			toán cộng về số học thông thường, mà y trở nên thích thú về môn 
			toán, và ngừng thắc mắc về môn toán vi phân và tích phân mà y sẽ học 
			sau này, khi đúng lúc. Mặc dầu y vẫn giữ mục tiêu tối thượng trong 
			tâm trí trọn thời gian, nhưng y không phí thời giờ và năng lực tưởng 
			nghĩ đến những điều hiện nay không liên hệ đến y. Y đang dấn thân 
			vào một công việc quá ư thu hút và thích thú, bấy nhiêu đó đầy đủ 
			cho y ở buổi hiện tại.
Chính cái công việc sáng tạo bất cứ loại nào 
			mang lại niềm vui cho đời sống th́ sự biến đổi bản chất chúng ta 
			bằng những phương pháp của chuẩn bị Yoga, là một công việc sáng tạo 
			thuộc loại cao nhứt, thực tế hơn và phấn khởi hơn là vẽ một bức 
			tranh hay nắn một bức tượng. Các nghệ sĩ này đang thực hiện những 
			vật chết. Con người dang thực hiện chính h́nh ảnh Chân Ngă của y 
			phơi bày từ bên trong bản chất thấp kém của ḿnh, là làm việc với 
			một sinh vật thật sự. Như thế, một vấn đề của đời sống được giải 
			quyết, Một bức tranh sống động của bản chất ḿnh trong tương lai 
			đang được vẽ. Một bức tượng mới, biểu hiện sự toàn thiện mai hậu của 
			chúng ta đang được chạm trỗ, từ trong một khối cẩm thạch thô kệch 
			của bản chất thấp kém của chúng ta. Chính là tánh cách sáng tạo 
			thiêng liêng này của công việc đă biến đổi đời sống chúng ta thành 
			một bài hát, mặc kệ cho các khó khăn và phiền muộn xuyên qua đó 
			chúng ta đang trải qua, ở ngoại vi của tâm thức ḿnh trong đời sống 
			bên ngoài. Điều đó giống như tiến tŕnh sống động của một nụ hoa cố 
			gắng khai nở thành một bông hoa, với tất cả niềm vui sướng tự nhiên, 
			luôn luôn hiện hữu trong tất cả tiến tŕnh khai mở của tạo hóa. 
			Chúng ta đang cố gắng mang tương lai đến cho hiện tại. Chúng ta đang 
			biến thành những ǵ chúng ta đang là. Chúng ta không biết bức tượng 
			sẽ giống như cái ǵ; nhưng Ngài – Chân Ngă - ở trong nội tâm chúng 
			ta, Ngài biết, và chúng ta cảm thấy được bàn tay d́u dắt của Ngài 
			như khi chúng ta cầm lấy trong tay cái đục và bắt đầu tạo dáng cho 
			khối cẩm thạch bản chất thô sơ của chúng ta. Những ai là nghệ sĩ đều 
			biết qua niềm vui thích của việc vẽ một bức tranh, hay sáng tác một 
			bài thơ. Họ có khả năng đánh giá nỗi vui sướng khi làm lộ ra một 
			h́nh ảnh thiêng liêng đang tiềm tàng bên trong nội tâm chúng ta. 
			Nhưng một bức tranh là một vật chết, một bức tượng là một vật chết, 
			c̣n cái vật sống động này đang lần hồi xuất hiện từ bên trong là một 
			sinh vật thiêng liêng, có những tiềm năng bất tận, nó sẽ mỗi lúc 
			càng trở nên một phương tiện cho t́nh thương, sự hiểu biết và quyền 
			lực thiêng liêng. H́nh ảnh đầy đủ, trọn vẹn, có thể c̣n thuộc về 
			tương lai, không ai thấy và không ai biết được, nhưng chính công 
			việc sáng tạo này liên quan đến công việc thực hiện đó, đă mang lại 
			niềm vui thích và phấn khởi cho việc chuẩn bị Yoga.
			 Trong 
			công việc này, tuổi tác không quan trọng, hoàn cảnh không thành vấn 
			đề, cho đến cái chết cũng không sao cả. Công việc có thể tiếp tục 
			đều đặn, dù sau cái chết, nếu chúng ta được đạt đúng phương hướng, 
			bởi v́ đối tượng hay cứu cánh nằm bên trong chúng ta và nó sẽ luôn 
			luôn ở nơi đó với chúng ta, bất cứ nơi nào chúng ta sống. Bởi v́ tất 
			cả những vật bên ngoài này thuộc về giới hiện tượng, và hiện nay 
			chúng ta đă móc toa xe chúng ta vào V́ Tinh Tú trường cửu của Linh 
			Hồn chúng ta, ẩn núp bên trong chúng ta và d́u dắt chúng ta hướng 
			đến Ngài. Đó là tất cả những ǵ sự chuẩn bị cho Yoga có thể muốn 
			nói, và thật sự muốn nói với bất cứ ai nghiêm chỉnh bắt tay vào 
			việc. 
Chương hai của quyển
			Yoga Sūtras chẳng những 
			cho một ư niệm về bản chất của sự chuẩn bị là cần thiết cho sự thực 
			hành cao của Yoga, mà cũng để phác thảo một cách thật hệ thống và 
			hữu lư cái triết lư trên đó kỹ thuật của nó đặt nền tảng. Triết lư 
			này của Yoga được cho là do triết phái
			Sāmkhya mà ra, một trong 
			sáu hệ thống triết lư chủ yếu của Ấn Độ. Chắc chắn nó giống với hệ 
			thống triết lư Sāmkhya 
			một phần lớn, mặc dầu có một ít khác biệt căn bản không thể bỏ qua 
			và dễ khiến cho nhiều nhà học giả ngờ vực, không biết thật sự nó có 
			sự liên kết giữa cả hai hay không? Khi mà hai hệ thống triết lư được 
			truyền lại đến chúng ta từ xa xưa và đă hiện hữu bên cạnh nhau từ 
			nhiều ngàn năm qua, và không có bằng chứng nào rơ rệt về nguồn cội 
			của chúng, nên thật khó mà quyết định trong các vấn đề đó – nhưng 
			vấn đề chỉ quan trọng với những triết gia hoàn toàn lư thuyết mà 
			thôi. Đối với người chí nguyện, các vấn đề như thế không quan trọng 
			nhiều. Điều làm y chú ư là kỹ thuật thực hành đă đứng vững vàng 
			trước trắc nghiệm của thời gian và thực nghiệm trong nhiều năm qua 
			và có thể được sử dụng với trọn niềm tin để thu đạt mục tiêu. Triết 
			lư Yoga cung cấp một nền tảng đầy đủ cho kỹ thuật này và chính đó là 
			điều quan trọng.
Lư thuyết nền tảng của một khoa học thực 
			nghiệm tỏ ra cần thiết và quan trọng để t́m mối liên quan và thống 
			nhất của các kỹ thuật khác nhau, gom tụ chúng lại thành một toàn thể 
			nhất quán, nhưng sự thật hay giá trị của lư thuyết, không thể nào 
			gây thiệt hại cho sự hữu hiệu của các kỹ thuật được dùng trong những 
			mục tiêu thực hành. Từ lâu rồi, những định luật về điện khí và các 
			hiện tượng của điện khí đă được sử dụng trong mọi mục tiêu một cách 
			hữu hiệu, mặc dầu lư thuyết đang thịnh hành để giải nghĩa những hiện 
			tượng đó rất là khiếm khuyết và không làm vừa ḷng. Nếu trọn phần lư 
			thuyết điện khí hiện nay được cho là không đứng vững, đối với những 
			khám phá có thể t́m ra trong tương lai, th́ trọn môn khoa học đặt 
			nền tảng trên sự áp dụng của những định luật về điện khí và những 
			hiện tượng trong sự phát triển khoa học kỹ nghệ vẫn không hề hấn ǵ, 
			như là một kết quả của sự khám phá này, bởi v́ những định luật và 
			hiện tượng được đặt trên những sự kiện thực nghiệm chứ không chút 
			nào trên những suy đoán hay lư thuyết suông. Điều ấy cũng như đối 
			với triết lư của Yoga. Mặc dầu nó rất nguy nga và là một triết lư 
			rất hợp lư, sự hiệu nghiệm của nó hay về mặt khác, không làm tổn 
			thương cái kỹ thuật hay sự hữu dụng của Yoga như là một khoa học để 
			giải đáp những bí mật thâm sâu của Sự Sống, và t́m ra Thực Tại bên 
			trong chúng ta. 
Bây giờ chúng ta hăy cố gắng đạt được một ư 
			nghĩ tổng quát và rơ ràng về triết lư nền tảng của kỹ thuật Yoga của 
			Patanjali. Triết lư này được phác thảo ở Chương II, từ bước một, 
			trong 26 Sūtras, từ câu thứ 3 đến câu 28. Nơi đây, không thể bàn tỉ 
			mỉ về các Sūtras này, và chỉ là một cái nh́n rộng răi của những ư 
			niệm tiềm ẩn trong các Sūtras và những dây liên kết trong cách lập 
			luận của triết lư được tŕnh bày.
Triết lư ấy khởi sự với vấn đề những khổ đau 
			của nhân loại, các giới hạn và ảo ảnh của con người, mà thật ít 
			người tránh khỏi được. Câu Sūtra II.15 tóm tắt sự việc ấy và thoát 
			dịch nó như sau: “Đối với những ai đă phát triển tánh phân biện th́ 
			tất cả đều là khổ đau, bởi v́ khổ đau do sự thay đổi, lo âu và những 
			khuynh hướng, cũng như do sự xung đột giữa các khuynh hướng tự nhiên 
			nằm trong bản chất con người, các tư tưởng và dục vọng chiếm ưu thế 
			ở một giai đoạn đặc biệt của thời gian”. Một số người cho rằng câu 
			Sūtra này có vẻ bao quát và quá bi quan, nhưng chúng ta đă xem qua 
			vấn đề này thật kỹ lưỡng trong một Chương trước và không cần trở lại 
			làm ǵ. Tất cả các Đấng Giáo Chủ cao cả của thế gian đă bắt đầu với 
			sự việc căn bản này trong đời sống con người, và v́ thế chúng ta có 
			thể chấp nhận lời tuyên bố trong câu Sūtra này là đúng đắn.
Câu hỏi kế được nêu ra là: Giả sử có thật sự 
			khổ đau ngấm ngầm trong đời sống nhân loại, hỏi vậy có tránh nó hay 
			vứt  – cái khổ đau này 
			đi không? Lời đáp cho câu hỏi này thật quá rơ ràng và dứt khoát, 
			không thể hiểu lầm. Nó nằm trong câu II.16 “Nỗi khổ đau chưa đến, nó 
			có thể và phải được tránh đi”. Chính đó là một loại giải đáp mà 
			triết lư thật sự về đời sống phải cung hiến. Hỏi vậy một triết lư 
			hữu ích chỗ nào, nếu nó chỉ ra những khổ đau và hạn chế của đời này, 
			nhưng không đưa ra cho bạn một giải pháp nào thật sự để cứu chữa, 
			hoặc không đưa ra hy vọng nào để thoát khỏi các khổ đau đó? Tuy 
			nhiên, phần lớn các hệ thống triết lư hiện đại của chúng ta lại hành 
			động như thế. Chúng nêu nhiều câu hỏi và bỏ không trả lời, hoặc cung 
			hiến những biện pháp sửa chữa, nhưng không sửa chữa chút nào, hoặc 
			chỉ là những cách để giảm bớt khó khăn thôi. Nhưng, chúng ta hăy 
			tiếp tục t́m hiểu thêm.
Sau khi tuyên bố các khổ đau của đời sống có 
			thể được tránh đi hay vượt qua, triết lư ấy tiếp tục phân tách 
			nguyên nhân của khổ đau. Đây là bằng chứng khác của sự triệt để và 
			hữu hiệu của nó. Nếu bạn đang nghe khó chịu về một trạng thái khó ở 
			hay bệnh tật, bạn có thể đương đầu bằng hai lối. Hoặc giả bạn chọn 
			những phương pháp làm mất đi những triệu chứng không thoải mái, một 
			cách tạm thời hay một phần nào đó; hoặc giả bạn có thể áp dụng một 
			đường lối hiệu nghiệm hơn, là đi thẳng vào nguyên nhân chứng bịnh và 
			chữa trị ngay tại đó. Chỉ bằng phương pháp này mới có thể bứng tận 
			gốc chứng bịnh một cách trọn vẹn và măi măi. Triết lư của Yoga áp 
			dụng phương pháp sau cùng. Nó đi ngay vào nguồn gốc các khổ đau và 
			hạn chế của nhân loại, và đề nghị một biện pháp chữa trị, để làm 
			tiêu tan nguyên nhân của chứng bịnh, và như thế làm tiêu mất chứng 
			bịnh một cách hoàn toàn và măi măi. Sự phân tách nguyên nhân các khổ 
			đau của nhân loại được nêu ra trong lư thuyết
			Kleshas (Khổ Đế) dưới 
			h́nh thức một dây xích những nhân và quả, có năm mắt xích. Đó là
			Avidyā, hay là vô minh 
			nguyên thủy; Asmitā, hay 
			sự đồng hóa của tâm thức thuần khiết mà bản tánh nó là tự do – Tự 
			Đầy đủ và Tự Hiện hữu – với những điều linh tinh, mà chính nó gây ra 
			khi biểu hiện. Mắt xích thứ 3 và 4 là
			Rāga và
			Dvesa, có nghĩa là sự thu 
			hút và xua đẩy đủ loại nổi lên, như là kết quả của sự đồng hóa này 
			của tâm thức với các thể của nó và với môi trường xung quanh. Mắt 
			xích chót là hậu quả của sợi dây xích nhân và quả này, được gọi là
			Abhinivesa, có nghĩa là 
			bản năng tự nhiên bám vào đời sống thế gian và thú vui vật chất, và 
			sợ hăi rằng v́ cái chết mà ḿnh có thể mất đi tất cả những cái đó. 
			Như thế, bạn thấy rằng nguyên nhân đầu là vô minh hay ngu dốt, và 
			hậu quả chót là nếp sống nhân loại g̣ bó trong các hạn chế và ảo ảnh 
			đủ loại. Chúng ta sẽ không đi sâu vào trong chi tiết, nhưng có một 
			điểm cần được làm sáng tỏ trước khi đi xa hơn nữa. Vô minh không 
			phải là loại ngu dốt thông thường, hay là thứ dốt nát theo ư nghĩa 
			tổng quát về triết lư. Đó là một từ kỹ thuật mà ư nghĩa đúng là sự 
			thiếu nhận thức về bản chất thật sự của chúng ta. Ấy v́ chúng ta đă 
			mất đi sự nhận thức đúng đắn về bản chất thật sự vô cùng thiêng 
			liêng của chúng ta do sự dấn thân vào trong sự biểu hiện. Như thế,
			Avidyā (vô minh) là 
			nguyên nhân dùng làm phương tiện cho việc giam ḿnh của Chân Thần 
			vào công cuộc biểu hiện. Lư do tại sao nó dấn thân vào và nó dấn 
			thân như thế nào trong cuộc biểu hiện, thật ra đó là những câu hỏi 
			nằm ngoài tầm tay của lănh vực trí thức và có lẽ, chúng ta sẽ được 
			một giải đáp cho những câu hỏi này chỉ khi ḿnh thu hồi được sự nhận 
			thức về Thực Tại khi Giải Thoát. Hiện nay, chúng ta hăy nhận nó như 
			một sự kiện rằng chúng ta bị dấn thân vào đó, và điều cần thiết và 
			dễ chịu cho chúng ta là hăy nên thoát thân ra khỏi những t́nh trạng 
			khó chịu và những hạn chế mà chúng ta đang bị bao vây.
Dĩ nhiên, do sự thiếu nhận thức về bản chất 
			thật của ḿnh – hay Thực Tại - 
			khiến cho ḿnh bị trói buộc; hay do sự trầm ḿnh trong biểu 
			hiện mà ra; vậy biện pháp lâu dài và hợp lư sẽ là t́m lại sự nhận 
			thức đúng đắn về Thực Tại, hay là một sự hiểu biết về bản chất thật 
			sự của ḿnh. Đó là mắt xích trong chuỗi dài lập luận của nền tảng 
			Triết Lư Yoga. Nó cho thấy rằng hậu quả rốt ráo dưới h́nh thức các 
			khổ đau của sự sống nhân loại được vạch ngược lại, từ nguyên nhân 
			nguyên thủy của nó, dưới h́nh thức sự thiếu nhận thức về Thực Tại, 
			và như thế, phương tiện duy nhứt để vượt qua các khổ đau của đời 
			sống là thu hồi lại một cách trọn vẹn và thường trực sự nhận thức về 
			Thực Tại. Điều này được nói trong câu Sūtra II.26 như sau: “Thực 
			hành không ngừng sự nhận thức về cái Chân, là phương tiện để diệt 
			trừ Avidyā (Vô Minh)”. Ở 
			đây, triết lư Yoga không sử dụng các phương tiện hay biện pháp làm 
			thuyên giảm, hay giải pháp lưng chừng tạm bợ, như thường được thấy ở 
			phần lớn các triết lư hiện đại.
			 Câu 
			hỏi kế tự nhiên là về các thực hiện sự Nhận Thức Thực Tại này. Lời 
			đáp nằm trong câu Sūtra 28 như sau: “Do thực hành những bài tập hợp 
			thành môn Yoga, khi các bợn nhơ bị tiêu trừ, sự soi sáng tâm linh 
			bừng tỏ, đem lại sự nhận thức về Thực Tại”. Và tiếp theo là câu 
			Sūtra 29, tŕnh bày tám luyện tập hợp thành mà ai cũng đều biết hay 
			là những thực hành của kỹ thuật Yoga.
Đây là tóm tắt triết lư của Yoga. Nó chỉ cho 
			ta thấy, thật sự cách Chơn Thần bị vướng mắc trong công cuộc biểu 
			hiện, xuyên qua sự mất nhận thức về bản chất thật sự của nó, khiến 
			nó tự đồng hóa ḿnh với các thể của nó và tất cả những ǵ thuộc về 
			các thể ấy. Sự đồng hóa này dẫn đến mối luyến ái cá nhân, những trói 
			buộc thu hút hay chống dối với người và vật ở trần gian. Chính những 
			điều này đă sản sinh ra mọi loại kinh nghiệm khác nhau, và là nguồn 
			gốc của các khổ đau hiện tại hay tiềm tàng. Triết Lư Yoga bèn chỉ 
			cho chúng ta phương tiện, dĩ nhiên là đi ngược lại với tất cả tiến 
			tŕnh của sự nhập thế của Chơn Thần, và chấm dứt bằng sự Chơn Thần 
			t́m lại sự nhận thức về bản chất thật sự của nó. Khoa học Yoga không 
			ǵ khác hơn là kỹ thuật do đó điều này có thể thực hiện một cách có 
			hệ thống và khoa học.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS