Không Tôn Giáo Nào Cao Hơn Chân Lư

 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS


CHƠN SƯ VÀ ĐỆ TỬ

Trích SINH HOẠT NỘI  GIỚI I

Tác giả C. W. Leadbeater

Bản dịch: www.thongthienhoc.com

CHƠN SƯ VÀ ĐỆ TỬ 

Ta đă nói rằng trong một số ít tương đối các Thánh sư vẫn c̣n giữ thể xác và chu toàn nhiệm vụ liên quan tới việc quản trị thế giới dưới quyền Quần Tiên Hội, c̣n một số nhỏ hơn nữa thu nhận đệ tử và v́ vậy ta gọi các ngài lại Chơn sư. Thế th́ ta hăy thử xem ngụ ư của việc là đệ tử Chơn sư kẻ có hoài băo đạt địa vị đó được trông mong phải làm việc ǵ.

 Trước hết ta hăy minh định trong tâm trí rằng các Chơn sư hoàn toàn tận tụy hiến ḿnh để phụng sự nhân loại và các ngài hoàn toàn đắm ch́m trong công việc ấy đến mức hoàn toàn loại trừ những cân nhắc khác. Trước kia khi nói với quư vị về đề tài này tôi có phát biểu rằng một Chơn sư chỉ có một lượng nhất định thần lực nào đó để tiêu tốn và mặc dù đối với ta lượng thần lực hầu như không tính toán được, song le ngài cực kỳ cẩn thận sử dụng từng chút thần lực để đạt được lợi ích tối ưu. Rơ rệt là việc thu nhận và giáo huấn một đệ tử ắt khiến cho ngài phải mất một số thời gian và sử dụng tới kho năng lượng ấy; và v́ ngài xem xét mọi việc theo quan điểm sử dụng nó để đẩy nhanh cơ tiến hóa cho nên ngài ắt không tiêu tốn thời giờ và năng lượng này cho bất cứ người nào trừ phi ngài có thể biết rằng đó là việc đầu tư hữu hiệu.

 Ngài ắt nhận một người làm đệ tử hoặc có lẽ nói cho đúng hơn là làm người học việc khi ngài thấy rằng số lượng thời gian và sức mạnh để tiêu tốn và rèn luyện y rốt cuộc tạo ra nhiều thành quả hơn bất kỳ phương thức nào khác nhằm tiêu tốn cũng số lượng ấy; bằng không th́ ngài ắt không nhận. Chẳng hạn như một người có thể có nhiều tố chất khiến cho y có thể được dùng làm người phụ tá, nhưng đồng thời một khuyết điểm lớn nào đó thường xuyên gây chướng ngại cho y tiến lên, nó ắt vô hiệu hóa nhiều điều tốt đẹp mà lẽ ra y có thể làm được. Không Chơn sư nào chấp nhận người ấy làm đệ tử nhưng ngài có thể bảo y: “Hăy đi làm việc và chế ngự các lỗi đặc biệt ấy của con và khi con đă thành công th́ ta ắt dùng con làm người phụ tá và sẽ rèn luyện con thêm nữa”.

Có bao nhiêu học viên đầy tâm huyết với xúc cảm vị tha và lương hảo nhất; họ tự biết ḿnh về phương diện này khác hẳn đa số nhân loại, cho nên đôi khi họ tự nhủ: “Tôi cảm thấy nôn nóng sâu sắc để làm việc v́ nhân loại, tại sao Chơn sư không chấp nhận tôi và rèn luyện tôi”.

Ta hăy giáp mặt với những sự kiện này một cách can đảm. Chơn sư ắt không rèn luyện bạn v́ bạn vẫn c̣n đầy dẫy đủ thứ khuyết điểm nho nhỏ. Hoàn toàn đúng, (bạn chắc chắn cảm thấy trong bản thân ḿnh) ḷng tốt, ḷng tử tế, tâm huyết muốn trợ giúp của ḿnh là một điều ǵ lớn lao bên tài khoản có so với mọi lỗi nho nhỏ bên tài khoản nợ. Nhưng hăy cố gắng vỡ lẽ ra rằng trên thế giới có hàng ngàn người có ḷng tốt và đầy hảo ư, bạn khác họ chỉ ở nơi sự kiện bạn ngẫu nhiên có thêm một chút kiến thức, do đó bạn có thể điều khiển ḷng tốt của ḿnh vào những kênh dẫn hữu dụng dứt khoát hơn nhiều so với những kênh dẫn khác. Nếu đây là mọi tố chất cần thiết cho việc làm đệ tử th́ mỗi Chơn sư có lẽ đă có hàng ngàn môn đồ và trọn cả thời gian của ngài ắt được dùng để cố gắng định h́nh hàng vài ngàn người này cùng với mọi lỗi lầm nho nhỏ trên cơi trung giới và cơi vật lư; trong khi đó công tŕnh huy hoàng của Chơn sư với các Chơn ngă trên các cơi cao ắt bị hoàn toàn bỏ lơ.

 Thế th́ làm đệ tử Chơn sư trước hết có nghĩa là người ta phải có nhân sinh quan giống như nhân sinh quan của Chơn sư, chỉ giữ quan điểm điều ǵ là tối ưu cho sự tiến bộ của thế giới. Đệ tử phải tuyệt đối sẵn ḷng quên ḿnh, hoàn toàn vô ngă và y ắt phải hiểu rằng đây không chỉ là một phép tu từ thi vị hoặc một kiểu nói thời thượng mà câu ấy ngụ ư rất chính xác như được phát biểu - đó là y phải tuyệt nhiên không có ham muốn cá nhân và y phải sẵn ḷng xếp đặt toàn bộ cuộc đời ḿnh phù hợp với công tác mà ḿnh phải thực hiện. Liệu có bao nhiêu người toàn tâm toàn ư sẵn ḷng thực hiện ngay cả bước đầu tiên ấy hướng về việc làm đệ tử thực thụ?

Hăy nghĩ xem làm đệ tử có ngụ ư là ǵ. Khi bất cứ người nào tự hiến ḿnh cho một địa vị như thế th́ Chơn sư ắt ngay tức khắc bảo rằng liệu ngài có xét y là thích hợp hay không thích hợp để bước vào giai đoạn làm đệ tử dự bị. Nếu ứng viên có vẻ gần đáng kể đến mức có được những tố chất cần thiết th́ có thể Chơn sư cho y làm đệ tử dự bị, điều này có nghĩa là trong thời gian một vài năm y ắt vẫn c̣n phải được quan sát rất cẩn thận. Bảy năm là thời gian trung b́nh của việc dự bị này, nhưng nó có thể vô cùng dài hơn nếu ứng viên tỏ ra không thỏa đáng hoặc mặt khác nó có thể rút ngắn hơn nhiều nếu người ta thấy rằng Chơn sư đă thật sự chấp nhận y. Tôi biết có trường hợp kéo dài tới 30 năm, tôi biết có trường hợp được rút gọn xuống 5 năm, và thậm chí 3 năm, và trong một trường hợp hoàn toàn ngoại lệ th́ nó chỉ kéo dài 5 tháng. Trong thời kỳ đệ tử dự bị này học viên tuyệt nhiên không có bất kỳ loại giao tiếp trực tiếp nào với Chơn sư, y rất ít có khả năng nghe thấy hoặc nh́n thấy bất cứ điều ǵ về ngài. Theo thông lệ y không gặp bất kỳ thử thách hoặc khó khăn đặc biệt nào chặn đường y; người ta chỉ cẩn thận quan sát thái độ của y đối với mọi rắc rối nho nhỏ thường ngày trong cuộc sống. Để tiện việc quan sát Chơn sư tạo ra cái gọi là một ‘h́nh ảnh sống động’ của mỗi đệ tử dự bị như thế - điều này có nghĩa là một bản sao chính xác thể vía và thể trí của con người ấy. Ngài giữ h́nh ảnh này ở nơi mà ngài có thể dễ dàng đạt tới và ngài khiến cho nó có quan hệ từ điển với chính con người sao cho mọi biến thái của tư tưởng và xúc cảm nơi các hiện thể của con người được mô phỏng trung thực trong h́nh ảnh của y. Hằng ngày Chơn sư khảo sát những h́nh ảnh ấy, bằng cách này ngài chẳng mất công bao nhiêu vẫn có được một bản ghi chép hoàn toàn chính xác những tư tưởng và xúc cảm của đệ tử dự bị và từ đó ngài có thể quyết định xem chừng nào ngài có thể tiếp nhận y vào tŕnh độ thứ nh́ với mối quan hệ mật thiết hơn nhiều, đó là đệ tử thực thụ.

 Nên nhớ rằng Chơn sư là một kênh dẫn để phân bố thần lực của THƯỢNG ĐẾ NGÔI LỜI, chẳng những ngài là một kênh dẫn vô thức mà c̣n là một cộng tác viên thông tuệ sâu sắc; sở dĩ như vậy v́ ngài là một bộ phận có ư thức của THƯỢNG ĐẾ NGÔI LỜI. Cũng giống như vậy, ở một mức thấp hơn, đệ tử thực thụ là kênh dẫn thần lực cho các Chơn sư. Nhưng y cũng không chỉ là một kênh dẫn vô thức mà là một cộng tác viên thông hiểu và để được như vậy y cũng phải trở thành hầu như là một phần tâm thức của Chơn sư.

Một đệ tử thực thụ được tiếp nhận vào tâm thức của Chơn sư ở quy mô lớn lao đến nỗi bất cứ điều ǵ mà y nh́n thấy hoặc nghe thấy cũng ở trong tầm hiểu biết của Chơn sư - không nhất thiết là nh́n thấy hoặc nghe thấy nó cùng một lúc (mặc dù điều đó thường xảy ra) nhưng nó nằm trọn vẹn trong trí nhớ của Chơn sư cũng y hệt như trong trí nhớ của đệ tử. Bất cứ điều ǵ đệ tử cảm nhận hoặc suy nghĩ đều ở bên trong nội bộ thể vía và thể trí của Chơn sư. Khi ta ngộ ra được toàn bộ ngụ ư của điều này th́ ta ắt thấy rơ là tại sao Chơn sư hoàn toàn không thể chấp nhận bất kỳ đệ tử nào chừng nào tư tưởng và xúc cảm của đệ tử chưa giống như mức Chơn sư muốn ấp ủ bên trong bản thân ḿnh.

Tiếc thay thỉnh thoảng vẫn xảy ra việc lọt vào trong tâm trí đệ tử một số tư tưởng không thích hợp để cho Chơn sư ấp ủ và ngay khi Chơn sư cảm nhận được điều đó th́ ngài tức khắc dựng lên một hàng rào cách ly bản thân ḿnh với rung động ấy, nhưng làm như thế cũng khiến cho nhất thời sự chú ư của ngài bị xao lăng đối với công việc khác và cũng phải mất một số năng lượng nào đấy. Một lần nữa ta ắt thấy rơ rằng Chơn sư không thể tiếp nhận một mối quan hệ với chính ngài khi người ta thường sa đà vào những tư tưởng không thích hợp với tâm trí của Chơn sư, việc thường xuyên liên tục bị xao lăng khỏi công việc để cách ly những tư tưởng hoặc xúc cảm không đáng mong muốn ắt rơ rệt là một gánh nặng hoàn toàn không thể chịu đựng nổi đối với thời giờ và sức mạnh của Chơn sư, chẳng phải v́ Chơn sư thiếu ḷng từ bi hoặc kiên nhẫn cho nên không chấp nhận người ấy, đó chỉ v́ là việc này không sử dụng hữu hiệu thời giờ hoặc năng lượng của ngài và bổn phận đơn giản của ngài là phải sử dụng tối ưu cả hai thứ đó. Nếu một người tự xét ḿnh xứng đáng trở thành đệ tử thực thụ và thắc mắc tại sao đặc quyền này chưa được mở rộng cho ḿnh th́ y hăy quan sát ḿnh một cách cẩn thận một ngày thôi và tự hỏi liệu trong ṿng một ngày ấy y đă có bất kỳ tư tưởng hoặc xúc cảm nào đơn giản là không xứng đáng với Chơn sư. Nên nhớ rằng chẳng những các tư tưởng dứt khoát là gian tà hoặc không tử tế, không xứng đáng với ngài mà c̣n là những tư tưởng tầm phào, tư tưởng chỉ trích, tư tưởng bực bội, nhất là tư tưởng về bản ngă. Ai trong chúng ta đủ điều kiện để đạt được những điều này?

Tác dụng mà Chơn sư t́m cách tạo ra qua mối liên kết mật thiết kỳ diệu này chính là làm hài ḥa và chỉnh hợp các hiện thể của đệ tử - cùng một kết quả mà một bậc đạo sư Ấn Độ ra sức đạt được bằng cách giữ cho các đệ tử luôn luôn ở gần ḿnh về mặt thể chất cho dù các loại thao tác đặc biệt này mang tính bài tập của một khóa học đặc biệt theo qui định có ra sao đi chăng nữa, th́ trong mọi trường hợp tác dụng chính lên đệ tử là ở chỗ không phải do làm bài tập hoặc học hỏi có được mà do thường xuyên có sự hiện diện của đạo sư. Đủ thứ hiện thể của đệ tử đang rung động với nhịp độ quen thuộc - có lẽ mỗi đệ tử ở nhiều nhịp độ khác nhau, mỗi hiện thể cũng vậy, do thường xuyên có những xúc động thoáng qua và đủ thứ tư tưởng lông bông. Nhiệm vụ đầu tiên và khó khăn nhất của đệ tử là phải rút gọn mọi sự hỗn loạn này trở về trật tự, loại trừ hầu hết những điều thú vị nho nhỏ, kiểm soát tư tưởng lông bông và người ta ắt phải đạt được điều này bằng việc đều đều gây áp lực của ư chí lên mọi hiện thể qua một thời kỳ dài nhiều năm.

Trong khi y c̣n sống trên thế gian th́ khó khăn của công tŕnh này bị tăng lên gấp bội, cả trăm lần, do có áp lực không ngừng của những làn sóng tư tưởng và xúc động quấy rối, nó không để cho y một phút nào được yên nghỉ, không có cơ hội để thu hết sức b́nh sinh thực hiện và một sự tin tấn đúng thực. Chính v́ thế mà ở Ấn Độ, người nào muốn sống cuộc đời cao siêu đều rút lui vào rừng rậm - tại sao ở mọi xứ và mọi thời đại đều có những con người sẵn ḷng chọn theo sinh hoạt chiêm nghiệm của người tu ẩn. Người ẩn sĩ ít ra cũng có khoảng không gian để thở, được an dưỡng đối với sự xung đột không ngừng, do đó y có thể thấy có thời giờ để suy nghĩ mạch lạc. Ít có điều ǵ cản trở y trong cuộc đấu tranh này và ảnh hưởng b́nh thản của thiên nhiên thậm chí c̣n hữu ích trong một chừng mực nào đấy.

Nhưng người nào triền miên sống với sự hiện diện của bậc đă bước trên Thánh đạo c̣n được lợi ích lớn hơn. Theo giả thuyết, một bậc đạo sư như thế đă làm tịch lặng các hiện thể của ḿnh và làm cho chúng quen rung động ở một vài nhịp độ đă được chọn lọc cẩn thận thay v́ ở cả trăm nhịp độ điên cuồng tạp loạn. Một ít nhịp độ rung động này rất mạnh và kiên định cả ngày lẫn đêm cho dù y đang thức hay đang ngủ th́ chúng cũng không ngừng tác động lên hiện thể của học tṛ và dần dần nâng học tṛ lên tới mức của thầy. Nếu không có thời gian tiếp xúc mật thiết th́ không có điều ǵ ắt tạo tác dụng ấy và ngay cả lúc bấy giờ nó không tác dụng lên mọi người mà chỉ tác dụng lên những ai có thể được chỉnh hợp. Nhiều bậc thầy yêu cầu phải có một tỷ lệ nhất định thành quả này trước khi truyền thụ những phương pháp đặc biệt để phát triển về huyền bí học; nói cách khác, trước khi dạy cho đệ tử một điều ǵ đó có thể dễ dàng gây hại cho y rất nhiều nếu sử dụng sai trái; các bậc thầy muốn chứng minh mắt thấy tai nghe chắc chắn rằng học tṛ là một người thuộc cái loại thích hợp với việc giáo huấn này và đủ linh hoạt để duy tŕ ảnh hưởng ấy theo đúng cách khi có hoàn cảnh căng thẳng xảy ra. Lợi ích mà những người được Chơn sư tuyển lựa c̣n lớn lao hơn hàng ngàn lần, nhờ vậy họ có cơ hội được tiếp xúc mật thiết với Chơn sư.

 Thế th́ đây cũng là ngụ ư của việc làm đệ tử thực thụ của Chơn sư - người ta trở thành một loại tiền đồn tâm thức của Chơn sư sao cho sức mạnh của các Đấng Cao Cả có thể tuôn ra thông qua y và nhờ sự hiện diện của y nơi thế gian mà thế gian có thể dứt khoát tốt hơn. Đệ tử tiếp xúc mật thiết với tư tưởng của Chơn sư đến nỗi vào bất cứ lúc nào y cũng thấy được tư tưởng về bất kỳ đề tài cho sẵn nào và bằng cách đó y thường thoát khỏi việc sai lầm. Bất cứ lúc nào Chơn sư cũng có thể gửi một tư tưởng thông qua đệ tử ấy hoặc là dưới dạng một sự gợi ư hoặc là một thông điệp chẳng hạn như nếu đệ tử đang viết một bức thư hoặc thuyết tŕnh th́ tiềm thức Chơn sư biết được sự kiện đó và bất cứ lúc nào cũng có thể đưa vào trong tâm trí đệ tử bao hàm trong bức thư ấy hoặc một sự minh họa hữu ích cho bài thuyết tŕnh. Trong những giai đoạn đầu đệ tử thường không có ư thức về điều đó và giả định những ư tưởng này tự phát xuất hiện trong tâm trí ḿnh nhưng chẳng bao lâu sau y học cách nhận ra được tư tưởng của Chơn sư. Thật vậy, y rất cần học cách nhận diện ra nó bởi v́ có nhiều thực thể khác trên cơi trung giới và cơi trí tuệ rất sẵn sàng đưa ra những gợi ư tương tự một cách thân thiện nhất với hảo ư nhiều nhất và chắc chắn là đệ tử nên học cách phân biệt những ư tưởng ấy từ đâu ra.

 Tuy nhiên ta không được lẫn lộn việc Chơn sư mượn xác của đệ tử với thuật đồng cốt mà chúng tôi rất thường đặc trưng nó là nên phản đối. Chẳng hạn như có một số việc mà một trong các Chơn sư đă nói thông qua bà Hội trưởng và người ta có nêu rơ ràng vào những dịp ấy đôi khi chính giọng nói và phong thái của bà, thậm chí những đặc điểm của bà đều bị thay đổi. Nhưng ta phải nhớ rằng trong mọi trường hợp như thế th́ bà vẫn giữ được ư thức đầy đủ nhất và biết chính xác ai đang nói và tại sao lại như vậy. Đây là một t́nh huống khác hẳn điều mà ta thường gọi là thuật đồng cốt khiến cho hoàn toàn không công bằng khi coi đó là cá mè một lứa. Không thể có sự chống đối trong trường hợp mượn xác đệ tử, nhưng chỉ trong trường hợp rất ít đệ tử th́ các Chơn sư mới làm như vậy.

Khi điều này xảy ra ư thức của bà Hội trưởng cũng hoạt động trọn vẹn trong óc phàm của bà như thông lệ, nhưng thay v́ điều khiển cơ quan phát âm th́ chính bà lại lắng nghe trong khi Chơn sư sử dụng cơ quan ấy. Ngài tạo ra các câu nói trong bộ óc của chính ngài rồi chuyển chúng sang bộ óc của bà. Trong khi điều này được thực hiện th́ bà có thể sử dụng năng lực trí óc của chính ḿnh, có thể nói là một cách thụ động để lắng nghe, hiểu rơ và ngưỡng mộ; nhưng tôi nhận thức rằng bà khó ḷng có thể cũng trong lúc đó nghĩ ra một câu về một đề tài khác hẳn nào đấy. Tôi giả định rằng h́nh thức cao nhất của việc kiểm soát, thần linh học có thể ít nhiều tương tự như vậy, nhưng có lẽ rất hiếm có và khó ḷng mà được hoàn chỉnh.

Ảnh hưởng của Chơn sư mạnh đến nỗi nó có thể tỏa sáng qua bất kỳ khoảng cách nào và bất cứ ai dự thính đều thật sự bị ấn tượng, đều có thể biết được sự hiện diện của ngài thậm chí tới mức thấy được những đặc điểm của ngài hoặc nghe được giọng nói của ngài thay v́ của đệ tử. Rất có thể là không có sự thay đổi nào trên cơi vật lư diễn ra sao cho những khán giả không nhạy cảm có thể thấy rơ được. Trong thần linh học, tôi quả thật đă thấy những trường hợp trong đó giọng nói và phong cách của người đồng cốt thậm chí chính những đặc điểm của y cũng thật sự thay đổi hoàn toàn về mặt thể chất, nhưng điều đó luôn luôn ngụ ư là thực thể nói thông qua y đă đè nén bản ngă của y, điều này hoàn toàn xa lạ đối với hệ thống rèn luyện mà các Chơn sư chọn dùng.

C̣n có một giai đoạn thứ ba thậm chí hiệp nhất mật thiết hơn nữa khi đệ tử trở thành cái gọi là ‘Con’ của Chơn sư. Điều này chỉ được ban tặng sau khi Chơn sư đă trải qua đáng kể về kẻ nhận làm đệ tử thực thụ khi ngài hoàn toàn chắc chắn rằng không điều ǵ có thể xuất lộ trong tâm trí hoặc thể vía của đệ tử mà cần phải bị cách ly. Ấy là v́ đây có lẽ là sự khác nhau chính yếu mà ta có thể dễ dàng giải thích trên cơi vật lư giữa địa vị đệ tử thực thụ và ‘Con’ của Chơn sư. Đệ tử thực thụ mặc dù quả thật là một phần tâm thức của Chơn sư vẫn c̣n có thể bị cách ly khi dường như nên như vậy, trong khi ‘Con’ của Chơn sư bị thu hút vào sự đẹp nhất và linh thiêng đến nỗi ngay cả quyền năng của Chơn sư cũng không thể hóa giải điều mà đă được thực hiện đến mức tách rời hai tâm thức này ngay cả chỉ trong một khoảnh khắc.

Thế th́ đây là ba giai đoạn trong mối quan hệ giữa đệ tử với Chơn sư: một là giai đoạn dự bị trong đó y tuyệt nhiên không đúng thực là một đệ tử; hai là giai đoạn đệ tử thực thụ; ba là giai đoạn ‘Con’ của Chơn sư. Ta phải hiểu rơ rằng những mối quan hệ này chẳng dính dáng ǵ tới những cuộc điểm đạo hoặc những bước tiến trên Thánh đạo; điều này thuộc một phạm trù khác hẳn và là bằng chứng không phải của mối quan hệ của con người với Chơn sư mà là quan hệ với Quần Tiên Hội và Thủ lĩnh của nó. Người ta có thể thấy một biểu tượng hay ho của những mối quan hệ riêng rẽ nêu trên nơi địa vị của một sinh viên đại học đối với hiệu trưởng của trường cao đẳng và đối với trường đại học nói chung. Trường đại học đ̣i hỏi người ta phải trải qua một bài kỳ thi kiểm tra và những phương pháp chính xác để cho sinh viên chuẩn bị thi, nói một cách tương đối không quan trọng đối với trường đại học. Chính trường đại học chứ không phải ông hiệu trưởng trường cao đẳng bố trí kỳ thi và cấp đủ thứ học vị; công việc của ông hiệu trưởng trường cao đẳng chỉ là xem xét coi ứng viên đă chuẩn bị đầy đủ chưa. Trong qui tŕnh chuẩn bị như thế với tư cách riêng ông có thể tạo lập mối quan hệ xă hội hoặc bất cứ quan hệ nào khác mà ông xét thấy là thích hợp với người sinh viên; nhưng mọi chuyện đó không phải là việc của trường đại học.

Cũng giống hệt như vậy, Quần Tiên Hội chẳng dính dáng ǵ tới mối quan hệ giữa Chơn sư và đệ tử, đây là vấn đề chỉ để cho chính Chơn sư cân nhắc riêng tư. Bất cứ khi nào Chơn sư xét thấy rằng đệ tử thích hợp cho cuộc điểm đạo thứ nhất th́ Chơn sư lưu ư sự kiện ấy và giới thiệu đệ tử, Quần Tiên Hội chỉ hỏi hỏi xem liệu đệ tử đă sẵn sàng được điểm đạo chưa chứ không cần biết y có quan hệ như thế nào với bất cứ Chơn sư nào. Đồng thời quả thật là ứng viên điểm đạo phải được đề cử và bảo trợ bởi hai thành viên cao cấp của Quần Tiên Hội nghĩa là hai đấng đă đạt quá vị Chơn sư. Chắc chắn là Chơn sư ắt không đề cử một người được trắc nghiệm để điểm đạo nếu ngài không tin chắc rằng y thích hợp điều này chỉ có thể xảy ra khi có sự đồng nhất mật thiết như vậy giữa tâm thức của đôi bên như tôi đă từng nói.

Khi một học viên nghe nói hết mọi điều đó th́ tự nhiên là trong tâm trí y xuất hiện thắc mắc: “Bằng cách nào tôi có thể trở thành đệ tử Chơn sư? Tôi có thể làm ǵ để thu hút sự chú ư của ngài?” Bởi v́ các Chơn sự bao giờ cũng giám sát những người mà các ngài có thể trợ giúp để hữu dụng cho các ngài trong đại sự mà các ngài phải thực hiện và ta tuyệt nhiên không cần lo lắng là ḿnh sẽ bị bỏ sót.

Tôi nhớ rất kỹ một diễn biến vào thời kỳ đầu khi chính tôi có quan hệ Đấng Cao Cả cách đây một phần tư thế kỷ. Trên cơi vật lư, tôi có gặp một người rất nhiệt t́nh với tính t́nh rất thánh thiện, người này hoàn toàn tin tưởng vào sự tồn tại các Chơn sư và dành trọn đời ḿnh tận hiến trong mục tiêu duy nhất là làm sao đủ tư cách để phục vụ các ngài. Đối với tôi, xét về mọi mặt th́ người này dường như hoàn toàn thích hợp để được làm đệ tử, y rơ rệt hay hơn tôi về nhiều mặt đến nỗi tôi không hiểu tại sao y chưa được làm đệ tử thực thụ. Thế là v́ c̣n ấu trĩ trong công tác và vô minh, một ngày kia khi có dịp thuận lợi, tôi rất khiêm tốn ấp úng như thể xin lỗi nhắc tới tên y với gợi ư là Chơn sư có lẽ có thể chứng minh y là một công cụ tốt cho ḿnh. Chơn sư nở nụ cười hóm hỉnh và tử tế rạng rỡ trên khuôn mặt khi ngài bảo rằng: “Con không cần phải sợ bạn con bị bỏ qua, không ai có thể bị bỏ qua, nhưng trong trường hợp này c̣n có một nghiệp quả nào đó cần phải được thanh toán, điều này khiến cho vào lúc bây giờ ta không thể chấp nhận gợi ư của con. Chẳng bao lâu nữa bạn con sẽ từ trần rồi chẳng bao lâu nữa y sẽ trở lại cơi trần, thế là mới chuộc hết tội và lúc đó mới có thể thỏa măn điều con mong muốn cho y”.

Thế rồi với sự tử tế dịu dàng bao giờ cũng là đặc trưng nổi bật nơi ngài, ngài ḥa lẫn tâm thức của tôi với tâm thức của ngài một cách mật thiết hơn nữa và nâng nó lên tới một cơi cao hơn hẳn so với mức tôi có thể đạt được lúc bấy giờ và từ đỉnh cao ấy ngài chỉ cho tôi thấy cách thức Chơn sư nh́n ra thế gian. Toàn thể trái đất xuất hiện trước mắt chúng tôi với hàng triệu linh hồn hầu như c̣n chưa phát triển, do đó chỉ sáng lờ mờ; nhưng bất cứ nơi đâu trong đám đó mà có người nào thậm chí gần đạt tới mức ngay cả c̣n cách rất xa tŕnh độ mà các ngài có thể dứt khoát sử dụng được th́ y nổi bật lên so với đám c̣n lại giống như ánh đèn hải đăng sáng quắc trong đêm đen.

Chơn sư bảo rằng: “Bây giờ con ắt thấy rằng tuyệt nhiên không thể có bất kỳ ai bị bỏ qua khi y thậm chí ở trong khoảng cách đo lường được so với khả năng chấp nhận làm đệ tử dự bị”.

Về phần ḿnh, chúng ta chẳng thể làm được điều ǵ ngoài việc đều đều làm việc để cải thiện tính t́nh của chính ḿnh và nỗ lực theo mọi cách có thể được, nghiên cứu các tác phẩm Thông Thiên Học, tự phát triển bản thân và tận tụy bất vị kỷ v́ quyền lợi của những người khác để cho chính chúng ta thích hợp với vinh dự mà ta mong muốn, tin chắc rằng ngay khi ta sẵn sàng được nhận làm đệ tử thực thụ th́ điều ấy chắc chắn sẽ xảy ra. Chúng ta chẳng làm được ǵ ngoài việc tự thích ứng bản thân và tin chắc rằng ngay khi ḿnh đă sẵn sàng th́ ḿnh sẽ được chấp nhận bởi v́ chúng ta biết nhu cầu về những người cứu trợ lớn biết chừng nào. Nhưng chừng nào ta c̣n chưa có thể sử dụng một cách tiết kiệm chính bản thân ḿnh - nghĩa là chừng nào thần lực phóng xuống cho ta c̣n chưa mang lại nhiều kết quả hơn so với lúc đầu tiêu tốn vào bất cứ đường lối nào khác căn cứ vào hành động của ta th́ chừng đó Chơn sư ắt vi phạm bổn phận của ḿnh khi thu hút ta quan hệ mật thiết với ngài.

Chúng tôi có thể hoàn toàn tin chắc rằng thật ra không có ngoại lệ nào đối với qui tắc này cho dẫu đôi khi chúng tôi nghĩ rằng ḿnh đă thấy có một số ngoại lệ. Một người có thể trở thành đệ tử dự bị của Chơn sư trong khi y vẫn c̣n có một số khuyết điểm rơ rệt, nhưng ta có thể tin chắc rằng trong trường hợp như thế bên dưới bề mặt có những đức tính hóa giải được nhiều hơn những điều xấu trên bề mặt. C̣n một điều nữa mà ta phải nhớ kỹ đó là cũng giống như tất cả chúng ta, các đại Chơn sư Minh Triết đều có nhiều tiền kiếp và trong những kiếp này cũng giống như người khác các ngài đă tạo ra một vài mối liên hệ nhân quả; v́ vậy đôi khi có xảy ra việc một cá nhân đặc thù có quyền đ̣i hỏi các ngài trả ơn một dịch vụ nào đó được cung ứng lâu rồi trong quá khứ xa xưa. Theo đường lối tiền kiếp mà chúng tôi đă khảo sát, đôi khi chúng tôi bắt gặp những ví dụ về mối liên hệ nghiệp báo như thế.

Có một trường hợp nổi tiếng là một thành viên nào đó, khi c̣n là một quư tộc đầy quyền lực ở Ai Cập cách đây 6.000 năm đă sử dụng ảnh hưởng của ḿnh đối với những nhân vật có thẩm quyền ở một trong những đền thờ lớn để tiến dẫn vào đó làm học viên ưu ái một thanh niên đă bộc lộ sự quan tâm sâu sắc nhất tới những vấn đề huyền bí. Học viên trẻ tuổi này tiếp thu huyền bí học đầy tâm huyết và thực hiện sự tiến bộ đáng ngạc nhiên nhất đến nỗi trong mọi kiếp sau đó y cứ tiếp tục nghiên cứu những ǵ bắt đầu ở thời kỳ Khem cổ truyền. Từ đó đến nay học viên trẻ ấy đă đạt quả vị Chơn sư và như vậy tiến xa so với người bạn lúc bấy giờ tiến dẫn ḿnh vào đền thờ. Trong công việc mà ngài phải thực hiện thời cận đại ngài cần một người nào đó để đưa ra cho thế gian một vài sự thật cần phải được công bố, bởi v́ đă đến đúng lúc bộc lộ điều đó. Ngài t́m kiếm một công cụ mà ḿnh có thể dùng được và t́m ra người bạn cũ đă giúp ḿnh cách đây 6.000 năm để đưa vào vị trí có thể sử dụng người này trong công tác nêu trên. Ngay tức khắc ngài nhớ ra món nợ cũ và trả lại nó bằng cách ban cho người bạn cũ đặc quyền kỳ diệu là kênh dẫn đưa sự thật ra cho thế giới.

 Quả thật những trường hợp như thế cũng khá nhiều, tất cả chúng ta đều biết vào một thời kỳ c̣n xa xưa hơn nữa, một trong những vị sáng lập ra Hội Thông Thiên Học đă cưu mang một người khác; vào lúc bấy giờ người này là con trai trưởng của đấng giờ đây là Chơn sư dạy dỗ cả hai người. Thế là một sự đ̣i hỏi nhân quả đă thu hút cả ba người này vào một mối quan hệ mật thiết hơn bao giờ hết. Lại nữa có một việc khác trong quá khứ xa xưa bà Hội trưởng của ta đă cưu mang một vị thầy hiện nay của bà khi đó có âm mưu muốn ám sát ngài; và trong một ví dụ khác nữa kẻ vừa mới bước qua cửa điểm đạo đă cứu mạng được Đức Bồ Tát, chính là Đức Di Lặc.

 Thế mà tất cả những điều này đều chắc chắn là những mối liên hệ nhân quả và chúng tạo thành những món nợ sẽ được hoàn trả đầy đủ. Như vậy có thể xảy ra việc bất cứ ai trong chúng ta ở một kiếp nào đấy đă được tiếp xúc với đấng giờ đây là Chơn sư hoặc phụng sự cho ngài một việc nhỏ nhặt nào đấy; nếu đúng như thế th́ điều này có thể chứng tỏ là sự bắt đầu một mối liên kết chín muồi thành giai đoạn đệ tử đối với chúng ta. Thường xảy ra việc thiên hạ được thu hút lại với nhau do cùng quan tâm mạnh mẽ tới huyền bí học và trong những kiếp sau này khi một số người vượt xa những người khác th́ những kẻ đă từng một lần là bạn bè và bạn học thường tự nhiên lập nên mối quan hệ thầy tṛ. 

 Chắc chắn người ta có thể thu hút sự chú tâm của các Chơn sư bằng nhiều cách; y có thể tự ḿnh bước vào đường đạo theo cách liên kết với những người tiến hóa hơn y bằng lực suy tư cực lực thuần túy, bằng ḷng sùng tín hoặc bằng nỗ lực tâm huyết làm điều thiện; xét cho cùng th́ tất cả những điều này chỉ là biết bao nhiêu phân đoạn của cùng một Thánh đạo, bởi v́ tất cả đều ngụ ư là y đang dọn ḿnh để thích hợp với một trong những bộ môn công tác cần phải được thực hiện. Thế là khi nhờ vào bất kỳ phương pháp nào, y đạt tới một tŕnh độ nào đó th́ tất yếu y thu hút được sự chú ư của các Chơn sư Minh Triết và bằng một cách nào đấy bước vào giao tiếp với các ngài, mặc dù có lẽ không phải trên cơi vật lư. Thông thường th́ Chơn sư có kế hoạch liên hệ y với một trong những đệ tử xuất sắc của ngài, đây là phương cách an toàn nhất bởi v́ đối với người thường v́ y không thể bảo đảm rằng việc giao tiếp trên cơi trung giới là đáng tin cậy.

Nếu một người chưa có kinh nghiệm rộng răi về thuật đồng cốt th́ y ắt thấy thật khó ngộ ra được có bao nhiêu người hoàn toàn tầm thường trên cơi trung giới đang cháy bỏng ư muốn đóng vai các bậc đại đạo sư của thế gian. Họ thường hoàn toàn có ư định ngay thẳng và thật sự nghĩ rằng ḿnh có những giáo huấn được ban ra để cứu nhân độ thế. Giờ đây khi đă chết rồi họ mới hoàn toàn ngộ ra được sự vô nghĩa và vô giá trị của những sự vật thuần túy thế gian và họ cảm nhận hoàn toàn đúng rằng chỉ cần ḿnh gây ấn tượng lên nhân loại nói chung những ư tưởng mà giờ đây ḿnh đă thấm thía th́ toàn thể thế giới ắt ngay tức khắc trở thành một nơi chốn khác hẳn. Họ cũng hoàn toàn tin chắc rằng chỉ cần ḿnh công bố những phát hiện ấy trên cơi vật lư sao cho ngay tức khắc thuyết phục được mọi người về tính hợp lư cố hữu của chúng, thế là họ bèn tuyển lựa một mệnh phụ nào đấy dễ bị gây ấn tượng rồi bảo cho bà biết rằng họ đă chọn bà trong số tất cả mọi người trên thế gian để làm phương tiện cho sự khai thị hoành tráng.

Thế là kẻ phàm phu vốn cảm thấy được hănh diện khi nghe nói ḿnh là phương tiện duy nhất trên thế giới dành cho một thực thể đại hùng đại lực nào đấy, kênh dẫn duy nhất cho một giáo huấn độc quyền và siêu việt nào đấy; và cho dẫu thực thể muốn giao tiếp chối bỏ bất cứ sự vĩ đại đặc biệt nào (mà y thường không có được) th́ điều này vẫn được nêu ra để khen thưởng sự khiêm tốn của y; người ta bèn miêu tả y ít ra cũng là một tổng lănh thiên thần cho dẫu không là một biểu lộ c̣n trực tiếp hơn nữa của Thượng Đế. Điều mà một thực thể muốn giao tiếp như vậy quên bẳng đi mất đó là ở chỗ khi y c̣n sống trên cơi vật lư, những người khác cũng đưa ra những chuyện giao tiếp tương tự thông qua đủ thứ đồng cốt, và lúc bấy giờ chẳng bao giờ quan tâm một chút nào tới họ và tuyệt nhiên chẳng chịu ảnh hưởng của những ǵ họ nói ra; thế là y không vỡ lẽ ra được rằng cũng giống như bản thân y khi đắm ch́m trong những sự việc thế gian, từ chối bị tác động của những lời giao tiếp ấy, cũng giống như vậy, cả thế giới giờ đây tiếp tục tự măn với công việc của riêng ḿnh và chẳng thèm chú ư ǵ tới y.

 Những thực thể như thế thường khoác lấy những danh xưng nổi bật cho điều có thể được gọi là những động cơ thúc đẩy đáng tha thứ v́ họ thừa biết bản chất con người đến nỗi biết rằng nếu John Smith hoặc Thomas Brown từ bên kia cửa tử trở về phát biểu một giáo lư nào đấy th́ nó rất ít có cơ may được chấp nhận cho dù nó có thể hoàn toàn đúng đắn và tuyệt vời; trong khi đó cũng những lời lẽ ấy do George Washington, Julius Caesar hay Tổng Thiên thần Michael thốt ra th́ ít ra cũng được cân nhắc kính cẩn và rất có thể là được chấp nhận một cách mù quáng.

Bất cứ ai hoạt động trên cơi trung giới đều có một mức độ thấu ngộ nào đấy về tư tưởng và xúc cảm của những người giao tiếp với ḿnh, và v́ vậy chẳng lấy ǵ làm lạ khi những người đó tiếp xúc với các nhà Thông Thiên Học thấy tâm trí họ đầy ḷng kính cẩn đối với các Chơn sư Minh Triết, họ bèn đôi khi đóng vai chính những Chơn sư Minh Triết này để được dễ dàng chấp nhận bất cứ ư tưởng nào mà họ muốn truyền bá, và cũng không được quên rằng có những người không có hảo ư đối với các Chơn sư và muốn gây thiệt hại cho các ngài qua điều nằm trong khả năng của ḿnh. Cố nhiên họ không thể hại các Chơn sư trực tiếp do đó thỉnh thoảng họ ra sức hại những đệ tử mà các Chơn sư yêu mến. Một trong những cách dễ nhất để cho họ có thể gây khó khăn là khoác lấy h́nh tướng của Chơn sư mà nạn nhân rất sùng bái; trong nhiều trường hợp việc bắt chước ấy hoàn hảo đến nỗi xét về dáng vẻ bên ngoài th́ rất giống, ngoại trừ việc tôi thấy dường như luôn luôn họ chưa bao giờ có được biểu lộ chính xác qua đôi mắt. Một người đă phát triển được tầm nh́n của các cơi cao không thể bị lừa gạt như vậy, v́ bất cứ thực thể nào cũng không bắt chước được thể nguyên nhân của Chơn sư.

 Chắc chắn ta cần mẫn chú ư tới huấn điều minh triết trong Tiếng Nói Vô Thinh: “Đừng t́m kiếm Sư phụ ở những cơi hăo huyền này”. Ta không chấp nhận bất cứ giáo huấn nào của một huấn sư tự xưng tự mọc như vậy trên cơi trung giới, mà hăy tiếp nhận mọi điều thông báo và khuyên răn xuất phát từ đó, y hệt như tiếp nhận lời khuyên răn hoặc nhận xét tương tự của một kẻ xa lạ trên cơi vật lư. Hăy tiếp thu chúng theo đúng giá trị của chúng và chấp nhận lời khuyên hay bác bỏ nó theo tiếng nói của lương tâm ḿnh chứ không chú ư tới nguồn thông tin tự nhận. Tốt hơn ta hăy mưu t́m giáo huấn thỏa măn được trí năng rồi ứng dụng sự trắc nghiệm của kỹ năng và lương tâm đối với bất kỳ lời rêu rao nào được nêu ra.

Ta không bao giờ được quên rằng đường lối của ḿnh không phải là đường lối duy nhất. Hai Chơn sư có liên kết mật thiết nhất với công tŕnh của Hội Thông Thiên Học đại diện cho hai cung khác nhau hoặc hai đường lối giáo huấn khác nhau; nhưng ngoài các cung này ra c̣n có những cung khác nữa. Mọi trường phái giáo huấn cao cấp đều rèn luyện sơ khởi để tu tâm dưỡng tính, nhưng những giáo huấn đặc biệt được ban ra cùng với phép thực hành được khuyến dụ khác nhau tùy theo loại đạo sư. Nhưng mọi đạo sư thuộc về Quần Tiên Hội đều nhấn mạnh tới việc thành tựu điều cao nhất chỉ thông qua Thánh đạo và làm dịu ham muốn bằng cách chinh phục nó chứ không phải chiều theo nó.

 Chơn sư ắt sử dụng đệ tử theo nhiều cách khác nhau. Một số đệ tử bắt đầu phải tiếp thu đường lối làm việc được chỉ định trong quyển sách Các nhà pḥ trợ vô h́nh; những đệ tử khác được đặc biệt sử dụng để giúp đỡ riêng Chơn sư trong một số phần việc mà các ngài ngẫu nhiên phải đảm đương; một số đệ tử được sử dụng trên cơi trung giới để thuyết tŕnh cho thính giả gồm những linh hồn kém tiến hóa hơn, hoặc giúp đỡ và dạy dỗ những linh hồn khác tạm thời thoát xác trong khi ngủ hay thoát xác lâu dài tức là những cư dân trên cơi trung giới đă bỏ xác. Khi ban đêm một người đệ tử ngủ thiếp đi th́ y thường báo cáo cho Chơn sư, bấy giờ y được cho biết liệu có phần việc xác định nào mà y có thể làm chăng. Nếu ngẫu nhiên không có điều ǵ đặc biệt th́ y sẽ tiếp tục công tác thông thường ban đêm cho dù nó có thể là ǵ đi chăng nữa. Mọi nhà pḥ trợ vô h́nh đều cai quản một số trường hợp hoặc bệnh nhân chính qui được đặt dưới quyền trách nhiệm của ḿnh y hệt như các bệnh nhân của một bác sĩ trên cơi vật lư; bất cứ khi nào có công tác bất thường để cho y làm th́ nếu không có ǵ khác y cứ tiếp tục trường hợp trực b́nh thường, đến thăm những trường hợp bệnh này và phục vụ họ tốt nhất. Điều này khiến cho y luôn luôn có nhiều việc thuộc loại này để chu toàn trong thế gian trực khi không đặc biệt có ǵ cần thiết, chẳng hạn có một đại họa đột ngột nào đấy khiến cho một số lớn linh hồn đồng thời hồn ĺa khỏi xác bị tống lên cơi trung giới trong một t́nh huống khiếp đảm. Hầu hết việc rèn luyện công tác trên cơi trung giới theo nhu cầu của đệ tử thường do một trong các đệ tử trưởng tràng của Chơn sư đảm nhiệm.

Nếu cần cho đệ tử đảm nhiệm bất cứ hệ thống phát triển thần thông nào đặc biệt trên cơi trần th́ Chơn sư ắt chỉ thị nó trực tiếp cho đệ tử học thông qua một trong những đệ tử đă được công nhận. Điều được qui định theo kiểu này khác nhau tùy theo tính t́nh và nhu cầu của đệ tử; và thường thường th́ tốt nhất là ta nên chờ đợi cho đến khi được dạy bảo dứt khoát trước khi toan tính thực hành bất cứ loại nào. Ngay cả khi được dạy bảo, tốt nhất ta nên để bụng chứ không đem ra bàn bạc với những người khác v́ rất có thể là điều này không thích hợp với bất cứ ai khác. Ở đây, Ấn Độ có nhiều các bậc đạo sư thứ yếu, mỗi vị thầy đều có phương pháp của riêng ḿnh, sự khác nhau một phần tùy thuộc vào các trường phái triết học khác nhau của các vị thầy, một phần là do họ có quan điểm khác nhau về cùng một sự việc. Nhưng cho dù phương pháp ra sao đi nữa th́ các vị thầy thường giữ bí mật để tránh trách nhiệm bị thiên hạ sử dụng sai lạc.

 Điều tai hại có thể được thực hiện qua việc công bố không phân biệt bất kỳ hệ thống rèn luyện thể chất nào đă được tiêu biểu rất rơ ràng ở Mỹ nơi một quyển sách của một vị đạo sư Ấn Độ đă được lưu hành rộng răi. Vị đạo sư thận trọng nói tới một vài phép thực hành, nói trước phần giáo huấn của ḿnh qua lời cảnh báo được phát biểu cẩn thận về việc cần phải dọn ḿnh bằng cách tu tâm sửa tính, nhưng mà điều ông viết ra đă gây nhiều đau khổ v́ thiên hạ nhất tề bỏ qua lời cảnh báo của ông trước khi rèn luyện, rồi bất cẩn cố gắng tiến hành những phép thực hành mà ông miêu tả. Cách đây vài năm khi đi một ṿng quanh nước Mỹ, tôi có gặp nhiều người do toan tính nghe theo chỉ dẫn của ông nên đă chuốc họa vào thân. Một số người đă trở nên điên rồ, một số người phải chịu những cơn mắc kinh phong, c̣n những người khác rơi vào nanh vuốt của đủ thứ thực thể ám ảnh. Để cho những phép thực hành như thế có thể được thử làm một cách an toàn th́ hoàn toàn cần thiết là người ta phải tiến hành chúng (ở Ấn Độ luôn luôn như vậy) với việc có mặt thật sự của một vị thầy, vị thầy giám sát kết quả và can thiệp ngay khi ông thấy rằng có bất cứ điều ǵ trục trặc. Thật vậy, ở xứ này đệ tử thường gần gũi thầy về mặt thể chất, bởi v́ ở đây thiên hạ hiểu điều mà tôi có đề cập cách đây ít lâu  -  đó là công việc đầu tiên và lớn nhất mà một bậc thầy phải làm là chỉnh hợp hào quang của đệ tử với hào quang của chính ḿnh - để ḥa giải tác dụng của những t́nh huống quấy nhiễu b́nh thường thịnh hành trên thế giới, để cho y thấy cách từ bỏ các thứ ấy và sống trong một thế giới hoàn toàn b́nh an. Qua một trong bức thư trước kia, một trong các Chơn sư có dạy: “Các con hăy ra khỏi thế giới của ḿnh để bước vào thế giới của chúng tôi”; điều này dĩ nhiên không nói tới một nơi chốn mà là một tâm trạng.

 Nên nhớ rằng mọi người tham thiền về Chơn sư đều tạo ra một mối liên kết nhất định với ngài, người có thần nhăn thấy nó là một loại quang tuyến tức đường ánh sáng. Trong tiềm thức Chơn sư luôn luôn cảm nhận được tác động của quang tuyến ấy và để đáp lại ngài phóng ra dọc theo nó một luồng từ điển đều đều tiếp tục tác động lâu dài sau khi đă qua buổi tham thiền. Việc đều đặn thực hành tham thiền và định trí như thế giúp ích rất nhiều cho người tầm đạo. Tính đều đặn là một trong những yếu tố quan trọng nhất để tạo ra kết quả. Hằng ngày ta nên thực hành như vậy vào cùng một giờ và ta nên kiên định, kiên tŕ làm như thế cho dẫu chưa thấy tác dụng rơ rệt nào, khi chưa thấy tác dụng ta phải đặc biệt cẩn thận tránh việc buồn nản, v́ buồn nản khiến cho ảnh hưởng của Chơn sư càng khó tác động lên ta và nó cũng chứng tỏ rằng ta đang nghĩ tới bản thân nhiều hơn nghĩ tới Chơn sư.

 


 HOME T̀M HIỂU  NHẬP MÔN  sách  TIỂU SỬ   BẢN TIN   H̀NH ẢNH   thIỀN  BÀI VỞ  THƠ   gifts  TẾT 2006  NỮ THẦN ISIS