|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
CHƯƠNG XXVI
CHƠN NGĂ VÀ PHÀM NGĂ
Trích quyển
ThỂ NGUYÊN NHÂN VÀ CHƠN NGĂ
(THE CAUSAL BODY AND THE EGO)
Tác giả: Arthur E. Powell
|
|
CHƯƠNG XXVI
CHƠN NGĂ VÀ PHÀM NGĂ
Trong quyển Thể Trí ta đă
quan sát mối quan hệ giữa Phàm ngă với Chơn ngă, chủ yếu theo quan
điểm của Phàm ngă. Giờ đây ta cần nghiên cứu sâu sắc hơn cũng mối
quan hệ giữa Chơn ngă và Phàm ngă, lần này theo quan điểm của Chơn
ngă.
Ta hăy ôn lại những sự kiện chính yếu liên quan tới cấu tạo của con
người trên cương vị là Chơn thần, Chơn ngă và Phàm ngă.
Một mảnh của Sự Sống của Thượng Đế mà ta gọi là Chơn thần biểu lộ
trên cơi Atma thành ra tinh thần tam bội (Xem Sơ đồ XII, trang 36).
Trong số ba khía cạnh này th́ khía cạnh thứ nhất là chính tinh thần
vẫn ở lại trên cơi của riêng ḿnh tức cơi Atma. Khía cạnh thứ nh́ là
trực giác hoặc lư trí thuần túy (đôi khi người ta gọi nó như vậy)
dấn thân thêm một bước nữa và biểu hiện qua vật chất của cơi Bồ đề.
Khía cạnh thứ ba tức trí tuệ lại giáng xuống tới hai cơi và biểu
hiện qua vật chất của cơi thượng trí.
Biểu hiện này của Chơn thần trên các cơi Atma, Buddhi và Manas chính
là Chơn ngă tức Biệt ngă.
Chơn ngă biểu hiện trên các cơi thấp thành Phàm ngă vốn cũng là một
biểu lộ tam bội, hơn nữa lại phản ánh chính xác sự bố trí của Chơn
ngă. Nhưng cũng giống như những sự phản chiếu khác, nó bị nghịch
đảo.
Trí tuệ tức thượng manas phản chiếu thành hạ manas. Lư trí thuần túy
tức Buddhi phản chiếu thành thể vía, và theo một cách thức nào đó
khó hiểu hơn nhiều, tinh thần tức Atma phản chiếu xuống cơi hồng
trần.
Bao giờ cũng có một mối liên kết hoặc đường liên lạc giữa Chơn ngă
cao siêu và Phàm ngă thấp hèn. Mối liên kết này được gọi là
antahkarana. Từ ngữ Bắc
phạn này ngụ ư là cơ quan bên trong hoặc khí cụ bên trong. Bà H. P.
Blavatsky bảo rằng nó là mối liên kết, là kênh dẫn hoặc cầu nối giữa
thượng manas với kama-manas trong lúc nhập thể. Khi nói về một người
có thể hợp nhất kama-manas với thượng manas thông qua hạ manas th́
bà có ư nói tới hạ manas khi
thuần khiết và không chịu ảnh hưởng của kama ắt đóng vai
antahkarana.
Ta có thể coi antahkarana là cánh tay vươn ra giữa một mảnh nhỏ của
Chơn ngă đă được khơi hoạt nối liền với bộ phận đă thọc xuống tức
bàn tay. Khi cả hai đă liên hợp hoàn chỉnh nghĩa là khi Chơn ngă và
Phàm ngă đă chỉnh hợp hoặc hợp nhất hoàn toàn th́ sợi chỉ mảnh mai
antahkarana không c̣n tồn tại nữa. Sự tiêu vong của nó hàm ư là Chơn
ngă không c̣n cần tới một khí
cụ mà tác động trực tiếp lên Phàm ngă: khi một ư chí duy nhất
tác động lên cả Chơn ngă lẫn Phàm ngă th́ không c̣n cần tới
antahkarana nữa.
Thuật ngữ antahkarana tức tác nhân bên trong c̣n được dùng theo một
nghĩa khác để biểu thị toàn thể Chơn ngă tam bội bởi v́ đây là kênh
dẫn hoặc cầu nối giữa Chơn thần và Phàm ngă.
Trong những giai đoạn sơ khai, sự tiến hóa của con người cốt ở việc
khai thông antahkarana này, tức đường lối liên lạc sao cho Chơn ngă
có thể càng ngày càng tự khẳng định được ḿnh thông qua đó và rốt
cuộc hoàn toàn khống chế được Phàm ngă khiến cho nó không thể có tư
tưởng hoặc ư chí riêng rẽ nào, mà có thể nói chỉ c̣n là một biểu
hiện của Chơn ngă trên các cơi thấp, dĩ nhiên trong chừng mực giới
hạn bởi các cơi thấp.
Mối liên kết gắn liền Phàm ngă với Chơn ngă thường được gọi là một
sợi chỉ - sợi chỉ bạc này thích hợp với sự biểu hiện trong sạch.
Tim là trung tâm của cơ thể dành cho tam nguyên thượng; atma,
buddhi, manas, sao cho khi tâm thức trụ vào tim trong lúc tham thiền
th́ nó thụ cảm nhiều nhất với ảnh hưởng của Chơn ngă. Đầu là vị trí
của con người trí tuệ-thông linh; nó có nhiều chức năng khác nhau
với bảy năo thất bao gồm cả tuyến yên và tuyến tùng. Kẻ nào định trí
mà có thể đưa tâm thức từ năo xuống tim ắt có thể hiệp nhất
kama-manas với thượng trí, thông qua hạ trí; thế mà hạ trí khi thuần
khiết và không chịu ảnh hưởng của kama lại chính là antahkarana. Lúc
bấy giờ y ắt ở vị thế thu lượm được một số lực thôi thúc của tam
nguyên thượng.
Kẻ nào hoàn toàn không được rèn luyện ắt hầu như không giao tiếp
được với Chơn ngă; mặt khác, Điểm đạo đồ lại giao tiếp được hoàn
toàn. V́ vậy ta ắt trông mong rằng sẽ t́m thấy những người thuộc đủ
mọi tŕnh độ trung gian giữa hai cực đoan này.
Đến đây học viên ắt đánh giá cao được tầm quan trọng ghê gớm của
việc thực hiện mối liên hệ này giữa Chơn ngă và Phàm ngă, và y ắt
làm hết sức ḿnh để có thể củng cố mối liên kết ấy sao cho Chơn ngă
và Phàm ngă dần dần bước vào tác động như một thực thể duy nhất. Có
lẽ loạt sách gồm bốn quyển này có thể được coi là động cơ thúc đẩy
lớn lao nhằm giúp y thực hiện nhiệm vụ ấy qua việc giải thích cấu
tạo của con người cùng với đủ thứ hiện thể mà y hoạt động thông qua
đó.
Trong khi cố gắng về nhiều mặt và nhiều phương tiện nhằm đánh giá
cao và ngộ ra được sự khác nhau lớn lao giữa quan điểm của Phàm ngă
và Chơn ngă th́ ta ắt phải luôn luôn nhớ rằng ta đă từng lập đi lập
lại chỉ có một tâm thức duy
nhất thôi; thế mà ta lại thường cảm thấy rơ rệt có hai tâm thức;
điều này khiến ta đâm ra thắc mắc liệu Chơn ngă có hoàn toàn tách
rời khỏi thể xác hay chăng. Tuy nhiên, ta phải ngộ ra được rằng chỉ
có một tâm thức duy nhất
thôi. Sự khác nhau biểu kiến là do những hạn chế của đủ thứ hiện
thể.
V́ vậy, ta không nên tưởng lầm rằng có hai thực thể nơi con người.
Chưa bao giờ có bất kỳ Phàm ngă nào là một thực thể cô lập mà như ta
từng thấy, Chơn ngă đầu tư một phần nhỏ xíu của ḿnh nơi phàm ngă để
trải nghiệm những rung động nơi các cơi thấp.
Ta phải luôn luôn tâm niệm rằng thượng manas và hạ manas căn bản là
đồng nhất. Ta phân biệt chúng ra để cho tiện lợi, nhưng sự khác nhau
chỉ là cách vận hành hoạt động chứ không phải khác nhau về bản chất.
Hạ manas chỉ là một đối với thượng manas; cũng giống hệt như tia
sáng mặt trời hiệp nhất với mặt trời.
Mảnh nhỏ xíu của Chơn ngă vốn được đầu tư vào Phàm ngă là điểm tâm
thức mà các nhà thần nhăn có thể thấy chuyển động ṿng ṿng xung
quanh con người. Theo một hệ thống biểu tượng th́ người ta thấy nó
là ‘con người màu hoàng kim có kích thước bằng ngón tay cái’ ngự nơi
tim. Tuy nhiên, những người khác thấy nó đúng ra có dạng một ngôi
sao; một ngôi sao ánh sáng chói lọi.
Người ta có thể giữ cho Ngôi sao Tâm thức của ḿnh ở bất cứ nơi đâu
ḿnh muốn, nghĩa là ở bất cứ nơi nào trong bảy luân xa chính tức
trung tâm lực trong cơ thể. Luân xa nào tự nhiên nhất đối với con
người th́ c̣n tùy thuộc phần lớn vào loại h́nh hoặc “cung” của y và
có lẽ cũng tùy thuộc vào giống dân chính và giống dân phụ của y.
Những người thuộc Giống dân Chính thứ Năm, hầu như luôn luôn giữ cho
tâm thức ở trong bộ óc, nơi trung tâm lực tùy thuộc vào tuyến yên.
Tuy nhiên, có những người thuộc các giống dân khác mà tự nhiên hơn
là nên giữ tâm thức theo thói quen ở trung tâm tim, họng hoặc nhật
tùng.
Như vậy, Ngôi sao Tâm thức là đại biểu của chơn ngă nơi các cơi thấp
và v́ nó biểu lộ qua các hạ thể, cho nên ta gọi nó là Phàm nhơn, tức
con người mà bạn bè y biết ở dưới đây.
Như ta đă thấy, mặc dù Chơn ngă chẳng qua chỉ là một mảnh của Chơn
thần, thế nhưng nó vẫn hoàn chỉnh là Chơn ngă ở trong thể nguyên
nhân ngay cả khi quyền năng của nó c̣n chưa được phát triển; trong
khi đó ở Phàm ngă chẳng qua chỉ có một nét chấm phá trong sinh hoạt
của nó.
Hơn nữa, trong trường hợp kẻ phàm phu, tâm thức của Chơn ngă trên
cơi của riêng ḿnh chỉ mang tính riêng phần và lơ mơ, thế nhưng
trong chừng mực mà nó hoạt động th́ nó luôn luôn ở về phía thiện,
bởi v́ nó mong muốn điều ǵ thuận lợi cho sự tiến hóa của chính nó
trên cương vị là linh hồn.
Thật vậy, mong muốn trước sau như một của Chơn ngă là tiến bộ, là
phát triển Chơn ngă và chỉnh hợp các hạ thể được dùng làm công cụ
của ḿnh.
Chơn ngă không thể có bất kỳ tư tưởng nào mà ta gọi là điều ác; bởi
v́ nơi Chơn ngă chỉ có sự thanh khiết trong chừng mực đă phát triển
được bất kỳ đức tính nào. Chẳng hạn như nếu có ḷng luyến ái th́ nó
hoàn toàn không bị nhuốm màu ghen tuông, ganh tị hoặc ích kỷ. Đó là
một tấm gương phản chiếu t́nh thương của Thượng Đế trong chừng mực
mà Chơn ngă có thể mô phỏng lại được ở tŕnh độ của riêng ḿnh.
Vả lại, Chơn ngă hầu như là chưa bao giờ sai lầm. Xét theo biểu
kiến, nó không bị lường gạt về bất cứ thứ ǵ nhưng nó có thể không
biết tới một vài vấn đề th́ điều này là rơ ràng, bởi v́ thật ra
chính mục đích của sự nhập thể là để loại trừ sự không biết ấy.
Nhưng như ta đă thấy, một mảnh của Chơn ngă được đầu tư xuống vật
chất thấp trở nên có ư thức sắc sảo và linh hoạt về loại vật chất ấy
đến nỗi nó suy nghĩ và hành động dường như thể nó là một thực thể
riêng biệt; nó quên mất rằng nó vốn thuộc về Chơn ngă kém phát triển
hơn nhưng có tầm ư thức nh́n xa trông rộng hơn; nó đă xác lập với sự
vụ sinh hoạt theo kiểu của riêng ḿnh và cố gắng muốn đi đâu th́ đi
hơn là theo mong muốn của Chơn ngă.
Hơn nữa, Chơn ngă mặc dù có mọi quyền năng dũng mănh nhưng lại kém
chính xác hơn nhiều so với hạ trí, cho nên Phàm ngă khi đánh giá khả
năng phân biệt của hạ trí cao hơn hết (khả năng mà nó dự tính phát
triển) th́ thường đi đến hậu quả là coi thường Chơn ngă vốn cao siêu
hơn nhưng lại lơ mơ hơn ḿnh; nó bèn có một thói quen nghĩ rằng ḿnh
là một bản ngă độc lập.
Ở đây, chúng ta có thể lưu ư thấy rằng trong suốt lộ tŕnh tiến hóa,
bao giờ cũng có nguy cơ người ta đồng nhất hóa chính ḿnh với cái
mức độ hoặc cái hiện thể mà ḿnh có ư thức đầy đủ nhất trong đó.
V́ thế cho nên, như ta đă thấy đôi khi dường như thể mảnh vụn hoạt
động chống lại tổng thể, nhưng người nào có hiểu biết đều từ chối
không chịu để cho ḿnh bị lừa gạt, vượt thoát qua cái ư thức sắc sảo
và tỉnh táo của mảnh vụn ấy để trở về với tâm thức chân thực ẩn đằng
sau mà cho đến nay vẫn c̣n kém phát triển xiết bao. Đó là điều mà
ông Sinnett gọi là “trung kiên với Chơn ngă”.
Ta đă thấy rằng xét theo bản chất của sự
việc th́ trong thể nguyên nhân tức trong Chơn ngă không có điều ác.
Nhưng bất cứ nơi đâu có một khoảng trống trong thể nguyên nhân th́
vẫn có khả năng là các hạ thể có thể lọt vào một dạng hành động ác
nào đó. Vậy là chẳng hạn như tinh linh của thể vía có thể chiếm hữu
con người và xô đẩy y phạm một tội ác. Trong trường hợp như thế,
Chơn nhơn không đủ tỉnh tào để can thiệp và ngăn chận hành động hoặc
có lẽ nó cũng chẳng hiểu cơn đam mê hoặc tham lam ấy của thể vía lại
có thể bắt buộc Phàm ngă phạm một tội ác. V́ vậy, điều ác không bắt
nguồn từ Chơn ngă mà bắt nguồn từ sự
thiếu sót trong Chơn ngă;
đó là v́ nếu Chơn ngă phát triển hơn th́ nó đă kiểm soát được con
người đang ở trên bờ vực của tư tưởng ác, và thế là y không phạm
phải tội ác nữa.
Nơi những kẻ phàm phu, Chơn ngă chưa kiểm soát được Phàm ngă khá
nhiều mà cũng chưa phóng chiếu xuống một quan niệm rơ ràng về chủ
đích của ḿnh; như ta đă thấy mảnh nhỏ thỏa măn được ta qua Phàm ngă
đều tăng trưởng theo những đường lối và ư kiến của riêng ḿnh. Nó
đang phát triển qua kinh nghiệm mà nó thu lượm được để rồi chuyển
giao điều này cho Chơn ngă; nhưng cùng với việc phát triển thật sự
ấy th́ nó cũng thường thu gom rất nhiều thứ khó ḷng mà xứng đáng
với tên gọi ấy. Nó chẳng những thu lượm kiến thức mà c̣n thu lượm
thành kiến vốn thật ra chẳng phải là kiến thức ǵ hết. Nó không hoàn
toàn giải thoát được các thành kiến ấy – xin lưu ư là có thành kiến
về tri thức, về xúc cảm và về hành động – chừng nào con người c̣n
chưa đạt tới quả vị Chơn sư. Dần dần th́ nó mới phát hiện được rằng
những điều này chỉ là thành kiến để rồi tiến bộ vượt qua thành kiến;
nhưng nó luôn luôn có rất nhiều hạn chế mà Chơn ngă lại hoàn toàn
không bị hạn chế.
Để giúp cho Chơn ngă kiểm soát được các hiện thể và giúp nó sử dụng
các hạ thể v́ mục đích của chính ḿnh, các bậc cha mẹ và thầy cô có
thể làm được rất nhiều điều trong thời kỳ nó c̣n ấu thơ và niên
thiếu. Đó là v́ việc mầm mống thiện nơi các hạ thể của đứa trẻ được
kích động trước hơn là mầm mống ác tạo ra một t́nh huống khác hẳn.
Nếu nhờ chăm sóc cực kỳ cẩn thận trước khi nó sinh ra và trong ṿng
nhiều năm sau khi nó chào đời mà cha mẹ chỉ kích thích những khuynh
hướng thiện th́ Chơn ngă tự nhiên là sẽ thấy ḿnh dễ biểu hiện theo
những đường lối ấy và một thói quen nhất định đă được tạo lập theo
hướng đó. Thế rồi khi một kích thích ác đến với nó th́ kích thích
này đụng phải một lực thôi thúc mạnh mẽ theo chiều hướng thiện mà nó
hoài công phấn đấu để khắc chế.
Tương tự như vậy, nếu khuynh hướng ác đă được kích động trước th́
những kích thích hướng thiện lại phải phấn đấu chống đối bẩm tính
hướng về điều ác. Trong trường hợp này Phàm ngă đă nếm mùi điều ác
cho nên sẵn sàng tiếp thu và buông thỏng theo điều ác. Tuy nhiên
cũng có trường hợp khác, khi tự nhiên có việc rất ghét điều ác khiến
cho công việc của Chơn ngă dễ dàng hơn nhiều.
Nơi kẻ phàm phu th́ có một sự căng thẳng dai dẳng tiếp diễn giữa thể
vía và thể trí, cũng lại có trường hợp các hạ thể này tuyệt nhiên
không chỉnh hợp với Chơn ngă hoặc đă sẵn sàng đóng vai tṛ hiện thể
của nó. Điều cần thiết là phải tẩy trược Phàm ngă cũng như mở rộng
kênh dẫn nối liền Phàm ngă với Chơn ngă.
Nếu chưa làm được điều này th́ Phàm ngă vẫn c̣n xem xét mọi chuyện
và mọi người theo quan điểm rất hạn hẹp của riêng ḿnh. Chơn ngă
không thể thấy được những ǵ đang thật sự tiếp diễn; nó chỉ nhận
thức được h́nh ảnh xuyên tạc của Phàm ngă; Phàm ngă giống như một
máy chụp h́nh có thấu kính bị hỏng làm cho các tia sáng bị méo mó và
một tấm kính ảnh đầy khuyết tật khiến cho ảnh chụp được bị mờ, không
rơ rệt và không đúng tỉ lệ.
V́ thế cho nên trong trường hợp hầu hết mọi người, Chơn ngă không
thể rút ra được từ Phàm ngă bất cứ điều ǵ thỏa đáng chừng nào c̣n ở
trên cơi trời. Bản thân Chơn ngă biết phân biệt đúng với sai: nó
nhận ra được khi nó nh́n thấy và bác bỏ điều sai trái. Nhưng thường
thường khi nó liếc mắt nh́n xuống Phàm ngă th́ nó thấy một mớ hỗn
độn những h́nh tư tưởng tiền hậu bất nhất, rối rắm đến nỗi mà nó
không thể phân biệt được một điều ǵ xác thật. Nó bèn quay mặt đi
thất vọng và quyết định phải chờ đến lúc thanh tịnh trên cơi trời
th́ mới toan tính lọc lựa được những mảnh sự thật ra khỏi cái mớ
dường như là hỗn độn này.
Trong t́nh huống yên tịnh hơn nơi cơi Devachan, khi những xúc động
và tư tưởng trong sinh hoạt trên cơi trần kiếp vừa qua lần lượt xuất
lộ từng thứ một; khi được xem xét dưới ánh sáng sinh động của cơi
Devachan th́ những xúc động và tư tưởng ấy mới được khảo sát bằng
một tầm nh́n sáng suốt cho nên nó mới vứt đi được những thứ cặn bă
và chỉ giữ lại kho báu.
Dĩ nhiên đệ tử nên cố gắng tạo ra t́nh huống ấy ngay khi c̣n sử dụng
xác phàm, tẩy trược Phàm ngă để cho nó ḥa hợp với Chơn ngă tức linh
hồn.
Mặc dù Chơn ngă chắc chắn là chỉ được biểu hiện phần nào qua thể
xác, thế nhưng cũng không chính xác khi bảo rằng nó cách ly với thể
xác. Nếu ta tưởng tượng Chơn ngă là một h́nh khối ba chiều, c̣n cơi
trần là một mặt phẳng (hai chiều) th́: nếu ta đặt h́nh khối ấy lên
trên mặt phẳng th́ rơ ràng cái h́nh phẳng biểu diễn sự tiếp xúc của
h́nh khối ấy với mặt phẳng ắt là một biểu diễn cực kỳ riêng phần của
h́nh khối. Hơn nữa, nếu ta lần lượt đặt nhiều cạnh khác nhau của
h́nh khối lên trên mặt phẳng th́ ta có thể thu được những ấn tượng
khác nhau khá nhiều. Tất cả những ấn tượng ấy đều bất toàn và riêng
phần bởi v́ trong mọi trường hợp th́ h́nh khối đều có phần mở rộng
theo một phương khác hẳn mà tuyệt nhiên ta không thể biểu diễn nó
lên trên mặt phẳng.
Trong trường hợp một kẻ phàm phu ta sẽ thu lượm được một hệ biểu
tượng gần chính xác về các sự thật nếu ta giả định rằng h́nh khối
chỉ có ư thức trong chừng mực mà nó tiếp xúc với bề mặt. Tuy nhiên
những kết quả thu được qua sự biểu diễn của tâm thức ấy vốn cố hữu
nơi h́nh khối xét chung và ắt hiện hữu trong bất kỳ biểu hiện nào
sau này của nó cho dẫu biểu hiện ấy có thể khác khá nhiều so với
những biểu hiện trước kia.
Khi Chơn ngă c̣n chưa phát triển th́ nó không thể hưởng ứng hơn mức
rất ít những rung động cực kỳ thanh bai của cơi thượng trí sao cho
những rung động ấy đi xuyên qua nó mà hầu như không ảnh hưởng ǵ đến
nó. Thoạt tiên, muốn ảnh hưởng đến nó th́ cần phải có những rung
động mạnh mẽ và tương đối thô trược, bởi v́ những rung động này
không tồn tại trên cơi của riêng nó cho nên nó phải đầu tư xuống các
mức thấp hơn để t́m kiếm những rung động ấy.
V́ thế cho nên, thoạt đầu nó chỉ đạt được ư thức trọn vẹn qua các
hiện thể thấp nhất và thô trược nhất; trong một thời gian dài, chú
tâm của nó chỉ tập trung vào cơi hồng trần; sao cho mặc dù cơi này
thấp hơn nhiều so với cơi của riêng nó và không hiến ra nhiều phạm
vi để cho nó hoạt động, thế nhưng trong giai đoạn sơ khởi nó lại cảm
thấy ḿnh linh hoạt hơn nhiều khi làm việc trên cơi trần.
Khi ư thức của nó gia tăng và mở rộng tầm hoạt động th́ nó dần dần
bắt đầu càng ngày càng làm việc qua vật chất ở một mức cao hơn,
nghĩa là vật chất cơi trung giới. Ở một giai đoạn măi sau này khi nó
đă đạt tới mức hoạt động sáng suốt trong vật chất cơi trung giới th́
nó bắt đầu cũng có thể biểu hiện qua vật chất của thể trí. Măi về
sau này hơn nữa, nó sẽ đạt mức chấm dứt nỗ lực hiện nay khi nó hoạt
động đầy đủ và sáng suốt trong vật chất của thể nguyên nhân trên cơi
thượng trí, cũng giống như giờ đây nó đang hoạt động trên cơi trần.
Khi một Chơn ngă đă phát triển đầy đủ để có thể được một Chơn sư ảnh
hưởng trực tiếp th́ ảnh hưởng ấy có thể được chuyển xuống cho Phàm
ngă với số lượng tùy thuộc vào mối liên kết giữa Phàm ngă và Chơn
ngă; điều này khác hẳn trong những trường hợp khác nhau: thật vậy
sinh hoạt đời người biến thiên vô hạn.
Khi lực tâm linh soi chiếu cho Chơn ngă th́ một điều ǵ đó của lực
này ắt phải chuyển xuống qua Phàm ngă bởi v́ Phàm ngă vẫn gắn liền
với Chơn ngă cũng như bàn tay gắn liền với cơ thể qua cánh tay.
Nhưng Phàm ngă chỉ có thể được điều mà nó có khả năng tiếp thu.
Cũng có một yếu tố quan trọng khác tác động vào đây. Chơn sư thường
tác động vào các đức tính của Chơn ngă bị Phàm ngă ngán trở nhiều
nhất sao cho trong trường hợp như thế rất ít thần lực có thể chuyển
xuống được Phàm ngă. Cũng giống như chỉ những kinh nghiệm nào của
Phàm ngă có thể được chuyển giao cho Chơn ngă khi nó tương thích với
bản chất và quyền lợi của Chơn ngă; cũng vậy, chỉ những lực thôi
thúc nào mà Phàm ngă hưởng ứng được th́ mới có thể biểu hiện qua
Phàm ngă. Chúng ta cũng phải luôn luôn tâm niệm rằng trong khi Chơn
ngă có khuynh hướng tiếp thu mặt tinh thần và loại bỏ mặt vật chất
th́, ít ra trong giai đoạn sơ khai, khuynh hướng chung của Phàm ngă
lại là tiếp thu khía cạnh vật chất và loại bỏ khía cạnh tinh thần.
Đôi khi một nhà thần nhăn có thể thấy các ảnh hưởng này tác động.
Vậy là vào một ngày nào đó, y có thể để ư thấy một đặc trưng nào đó
của Phàm ngă được tăng cường rất nhiều mà không có lư do ngoại lai
nào. Ta thường thấy nguyên nhân nơi điều diễn ra ở một mức nào đó
cao hơn, tức là sự kích thích đức tính ấy nơi Chơn ngă. Chẳng hạn
như một người có thể thấy ḿnh tràn đầy ḷng luyến ái hoặc sùng tín
mà hoàn toàn không thể giải thích được tại sao lại như vậy xét theo
cơi hồng trần. Nguyên nhân thường là sự kích thích Chơn ngă hoặc mặt
khác có thể là đang đặc biệt chú ư tới Phàm ngă trong nhất thời.
Mối quan hệ giữa đệ tử và Chơn sư đại khái cũng giống như giữa Phàm
ngă và Chơn ngă. Cũng giống như ta có thể coi Chơn ngă đầu tư một
mảnh nhỏ của chính ḿnh xuống Phàm ngă và biểu hiện – cho dù bất
toàn đến đâu đi chăng nữa – qua Phàm ngă; cũng vậy giống như cách
ấy, đệ tử chẳng những biểu diễn Chơn sư mà c̣n là chính Chơn sư theo
một nghĩa rất thực, nhưng Chơn sư đă chịu hạn chế ghê gớm; những hạn
chế này chẳng những là do t́nh huống nơi chính các cơi thấp mà dĩ
nhiên c̣n do Phàm ngă của đệ tử tuyệt nhiên chưa được siêu việt.
Hơn nữa, cho dẫu Chơn ngă của đệ tử đă hoàn toàn kiểm soát được các
hạ thể, th́ vẫn c̣n có sự khác nhau giữa
kích thước Chơn ngă của
đệ tử và Chơn ngă của Chơn sư, bởi v́ đệ tử dĩ nhiên là một Chơn ngă
nhỏ hơn Chơn sư mà ḿnh theo học, v́ vậy chỉ biểu diễn được Ngài một
cách bất toàn.
Tham thiền là một cách thu hút sự chú ư của Chơn ngă: song le ta nên
nhớ rằng khi thực hành tham thiền thay v́ cố gắng chận Chơn ngă lại
rồi thu hút nó xuống với Phàm ngă, th́ ta nên phấn đấu vươn lên tới
Chơn ngă đang hoạt động cao siêu. Những ảnh hưởng cao siêu chắc chắn
là sẽ được sự tham thiền chiêu mộ, chúng luôn luôn
hữu hiệu cho dẫu trên cơi
trần sự việc có thể dường như là rất tẻ nhạt và hoàn toàn không có
ǵ hăng hái. Thật vậy, cảm tưởng tẻ nhạt nơi Phàm ngă có thể là đang
vươn lên tới Chơn ngă, và kết quả là Chơn ngă thờ ơ không phóng năng
lượng xuống cho Phàm ngă nữa.
Tham thiền và nghiên cứu những đề tài tâm linh trong sinh hoạt thế
gian chắc chắn sẽ khác nhau rất nhiều trong sinh hoạt của Chơn ngă:
đó là v́ khi tham thiền được thực hiện một cách hữu thức ắt mở ra
kênh dẫn giữa Phàm ngă và Chơn ngă và duy tŕ cánh cửa ấy. Tuy nhiên
ta nên nhớ rằng tham thiền trên cơi trần không trực tiếp phục vụ cho
Chơn ngă mà chỉ để rèn luyện đủ thứ hiện thể trở thành một kênh dẫn
cho Chơn ngă. Thật vậy, trong khi tham thiền trên cơi trần, Chơn ngă
coi Phàm ngă cũng giống như bất kỳ lúc nào khác: thường thường th́
Chơn ngă hơi miệt thị Phàm ngă. Song le lực tuôn xuống bao giờ cũng
của Chơn ngă nhưng đó chỉ là một bộ phận nhỏ của Chơn ngă, nó có
khuynh hướng biểu kiến về sự việc.
Kẻ phàm phu chưa bao giờ tiếp thu những vấn đề tâm linh một cách
nghiêm túc vẫn có một sợi dây liên lạc giữa Phàm ngă và Chơn ngă;
thật ra th́ kênh dẫn này thường hẹp đến nỗi đôi khi nó có vẻ hầu như
là bị tắc nghẽn. Chỉ có vài dịp đặc biệt nào đó, chẳng hạn như lúc
“cải giáo” – th́ thần lực mới có thể đột phá trở lại qua nó. Đối với
những người phát triển nhiều hơn th́ trong một chừng mực nào đó
thường xuyên có sự lưu thông giữa Chơn ngă và Phàm ngă.
Những nhận xét này khiến cho ta ngộ ra được rằng tuyệt nhiên không
chính xác khi xét đoán Chơn ngă qua biểu hiện của nó nơi Phàm ngă.
Vậy là, chẳng hạn như Chơn ngă của một loại người vô cùng hấp dẫn có
thể tŕnh diễn màu mè nhiều hơn trên cơi trần so với Chơn ngă của
một người khác phát triển cao siêu hơn hẳn, nhưng năng lượng của y
lại hầu như toàn là tập trung vào cơi nguyên nhân hoặc bồ đề. V́ thế
cho nên những người nào chỉ xét đoán theo dáng vẻ bên ngoài trên cơi
trần thường hoàn toàn sai lầm khi đánh giá về mức phát triển tương
đối của những người khác.
Mỗi một lần Chơn ngă lần lượt giáng xuống hạ giới đều bị hạn chế một
cách khôn tả nơi con người đến nỗi người mà ta gặp trên cơi trần
cùng lắm cũng chỉ là mảnh vụn của một mảnh, và biểu hiện của Chơn
nhơn bất cập đến nỗi nó chỉ cung ứng cho ta một điều ǵ đó hơi giông
giống một quan niệm về điều mà Chơn nhơn sẽ thành hiện thực vào lúc
kết liễu chu kỳ tiến hóa.
Chừng nào ta chưa thấy được Chơn ngă th́ ta chẳng thể quan niệm được
nó thật sự cao cả xiết bao so với thực thể đang nhập thể, th́ nó vô
cùng minh triết và dũng mănh hơn. Thật vậy, mỗi Chơn nhơn đều vô
cùng tốt đẹp hơn mức mà nó dường như biểu hiện ra. Bậc thánh cao cả
nhất cũng chưa bao giờ biểu hiện được trọn vẹn Chơn ngă của ḿnh;
trên cơi cao ngài là một vị thánh c̣n cao cả hơn mức mà ngài đă từng
có thể đạt được dưới đây. Nhưng cho dù ngài thật là huy hoàng th́ ta
tạm có thể nói rằng ngài vẫn lơ mơ với sự huy hoàng ấy.
Thật ra có ba cách để cho Chơn nhơn có thể phát triển và ảnh hưởng
tới cuộc đời.
(1)- Cách thức của nhà khoa
học và triết học, các người này chẳng những phát triển hạ trí mà
c̣n phát triển thượng trí sao cho rất nhiều loại h́nh tư tưởng trừu
tượng và bao quát đă giáng xuống tâm thức của họ.
Nhờ vậy mà măi sau này mới có sự phát triển tâm thức bồ đề.
(2)- Phương pháp sử dụng các
xúc động cao cấp, chẳng hạn như ḷng luyến ái, sùng tín hoặc
đồng cảm sao cho nó khơi hoạt được nguyên khí bồ đề ở mức độ lớn lao
mà không đặc biệt phát triển thể nguyên nhân ở trung gian. Song le
thể nguyên nhân cũng chịu ảnh hưởng bởi v́ mọi sự phát triển thể bồ
đề đều có phản tác động rất mạnh tới thể nguyên nhân. Những người
này không nhất thiết phát triển được một hiện thể bồ đề mà họ có thể
sống đời trong đó; nhưng việc sử dụng các xúc động cao cấp chắc chắn
sẽ khơi dậy các rung động nơi vật chất bồ đề. V́ thế cho nên có một
sự xao xuyến trong hiện thể bồ đề cho đến nay vẫn chưa h́nh thành
sao cho nhiều rung động của nó giáng xuống phù hộ cho thể vía. Thế
là một người có thể tiếp thu được ảnh hưởng lớn lao từ cơi bồ đề
ngay cả trước khi hiện thể của nó đă được phát triển trọn vẹn.
(3)-
Phương pháp bí ẩn hơn trong
đó ư chí được khơi hoạt và thể xác hưởng ứng với vật chất của
atma theo một cách nào đó. Ta biết rất ít về phương pháp tác động
của cách thức này. Hầu hết học viên đều sử dụng phương thức sùng tín
và đồng cảm sâu sắc với đồng loại.
Một Chơn ngă khá tiên tiến đôi khi cũng có thể ít quan tâm tới cơ
thể, bởi v́ bất cứ thứ ǵ được đầu tư cho Phàm ngă đều có nghĩa là
Chơn ngă phải rút ra bấy nhiêu, và v́ vậy nó có thể dè xẻn trong
việc tiêu tốn thần lực như thế. Một Chơn ngă có thể khá ư sốt ruột
và bằng một cách nào đó triệt thoái ra khỏi Phàm ngă. Tuy nhiên
trong những trường hợp như thế, bao giờ cũng có một sự chu lưu giữa
Chơn ngă và Phàm ngă mà kẻ phàm phu không thể có được. Nơi kẻ phàm
phu, ta có thể nói rằng mảnh Chơn nhơn được đầu tư rồi đem con bỏ
chợ, mặc dù nó không hoàn toàn bị cắt đứt liên hệ. Song le ở giai
đoạn tiên tiến hơn mà ta vừa đề cập tới th́ có một sự giao tiếp
thường xuyên giữa đôi bên dọc theo kênh dẫn. V́ vậy, Chơn ngă có thể
triệt thoái bất cứ lúc nào mà ḿnh muốn bỏ lại một sự biểu diễn rất
tồi tàn của Chơn nhơn. Như vậy ta thấy mối quan hệ giữa Phàm ngă và
Chơn ngă biến thiên rất nhiều nơi những người khác nhau và những
tŕnh độ phát triển khác nhau.
Một Chơn ngă bận rộn với những vụ việc trên cơi của riêng ḿnh ắt
nhất thời quên đi việc chú ư đúng mức tới Phàm ngă, cũng giống như
một người tốt bụng và biết suy nghĩ do áp lực đặc biệt nào đó của sự
việc có thể nhất thời quên đi con ngựa hoặc con chó của ḿnh. Đôi
khi lúc việc này xảy ra th́ Phàm ngă lại nhắc nhở y về sự tồn tại
của ḿnh bằng cách lầm lẫn với một mức điên rồ nào đó gây ra sự đau
khổ nghiêm trọng.
Thỉnh thoảng người ta cũng có thể nhận thấy rằng sau khi đă hoàn tất
một phần công việc đặc biệt, vốn cần có sự hợp tác phần lớn là của
Chơn ngă, chẳng hạn như diễn thuyết cho một đoàn thính giả đông đúc
– th́ Chơn ngă đă rút hết năng lượng của mỉnh và bỏ mặc cho Phàm ngă
chỉ c̣n đủ năng lượng để cảm thấy ḿnh khá ư mất tinh thần. Có lúc
nó thừa nhận rằng công việc đă tỏ ra quan trọng theo một mức nào đó,
v́ vậy nó tuôn xuống thêm một chút bản thân ḿnh, nhưng sau đó nó bỏ
mặc cho Phàm ngă bất hạnh cảm thấy ḿnh khá ư chán nản.
Ta phải luôn luôn tâm niệm rằng Chơn ngă chỉ đầu tư cho Phàm ngă một
phần rất nhỏ của chính ḿnh, và v́ vậy bộ phận ấy thường xuyên dính
mắc vào những quyền lợi, mà v́ chúng riêng phần cho nên thường đi
men theo những đường lối khác với hoạt động chung của Chơn ngă. Chơn
ngă tuyệt nhiên không đặc biệt chú trọng tới kinh nghiệm của Phàm
ngă nếu như không có một điều ǵ đó bất thường xảy ra.
Trong sinh hoạt trên cơi trần của kẻ phàm phu, ít có điều ǵ khiến
cho Chơn ngă chú ư và chỉ thỉnh thoảng mới có xảy ra một điều thật
sự quan trọng, điều này có thể nhất thời thu hút sự chú tâm của Chơn
ngă sao cho từ đó nó rút ra được bất cứ thứ ǵ xứng đáng.
Kẻ phàm phu sống theo kiểu giật gấu vá vai, già nửa thời gian nó
chẳng thể thức tỉnh đối với sinh hoạt chân thực của Chơn ngă chút
nào. Nếu một người phàn nàn Chơn ngă chẳng chú ư bao nhiêu tới ḿnh
th́ y hăy tự hỏi xem ḿnh có chú ư nhiều tới Chơn ngă hay chăng.
Chẳng hạn như vào một ngày cho sẵn nào đó, liệu y có thường xuyên
nghĩ tới Chơn ngă chăng?
Nếu y muốn thu hút sự chú tâm của Chơn ngă th́ y phải khiến cho Phàm
ngă hữu dụng đối với Chơn ngă. Ngay khi y bắt đầu dồn phần lớn tư
tưởng của ḿnh cho những chuyện cao siêu – nói cách khác, ngay y bắt
đầu sống cao thượng – th́ Chơn ngă rất có thể sẽ chú ư nhiều hơn tới
y.
Chơn ngă thừa biết rằng có một vài bộ phận cần thiết trong cơ tiến
hóa của ḿnh chỉ thành tựu được thông qua Phàm ngă, qua các thể trí,
vía và xác. V́ vậy nó biết rằng ḿnh phải chú tâm tới Phàm ngă trong
một thời gian nào đó, phải kiểm soát được nó và chế ngự được nó.
Nhưng ta có thể hiểu rơ rằng nhiệm vụ này có lẽ dường như không hấp
dẫn đến nỗi một Phàm ngă cho sẵn nào đó có lẽ là một thứ ǵ vừa
không thu hút lại vừa chẳng có triển vọng. Nếu ta quan sát nhiều
Phàm ngă xung quanh ḿnh với thể xác chứa đầy ma túy và thuốc độc,
thể vía sặc mùi tham lam và đa dục, thể trí chẳng quan tâm tới điều
ǵ khác hơn là kiếm tiền, và có lẽ đùa giỡn với nhiều thứ thô kệch
hơn th́ chẳng khó hiểu khi ta thấy Chơn ngă giám sát từ trên cao vút
ắt quyết định tŕ hoăn nỗ lực nghiêm túc của ḿnh sang một kiếp
khác, với hi vọng rằng tập hợp các hiện thể kiếp sau có thể dễ chịu
ảnh hưởng của ḿnh hơn những hiện thể mà giờ đây nó đăm đăm nh́n một
cách khủng khiếp. Ta có thể tự nhủ là: “Lần tới ḿnh có thể có cơ
may được một thứ ǵ tốt hơn chứ không thể làm được ǵ với cái ngữ
như thế này, trong khi đó ḿnh c̣n nhiều việc quan trọng hơn cần
phải làm th́ tội t́nh ǵ phải chú ư tới chúng”.
Một t́nh trạng sự việc tương tự thường xảy ra trong những giai đoạn
sơ khai của một kiếp nhập thể mới mẻ. Như ta đă từng thấy, từ khi
đứa trẻ chào đời, Chơn ngă đă lượn lờ bên trên nó và trong một số
trường hợp bắt đầu cố gắng ảnh hưởng tới sự phát triển của nó trong
lúc nó vẫn c̣n rất non trẻ. Nhưng theo thông lệ, Chơn ngă ít quan
tâm tới nó cho đến khi đă đủ bảy tuổi; vào lúc ấy công việc của tinh
linh nghiệp quả hầu như đă kết thúc.
Như lũ trẻ con khác nhau nhiều đến nỗi cũng chẳng lấy ǵ làm lạ khi
ta thấy mối liên hệ giữa Chơn ngă và Phàm ngă hữu quan cũng khác
nhau rất nhiều. Một số Phàm ngă của đứa trẻ thật nhanh nhẩu ưa đáp
ứng c̣n một số lại đần độn bướng bỉnh. Khi sự đần độn và không đáp
ứng nổi bật lên th́ Chơn ngă thường rút lui sự quan tâm chủ định
nhất thời của ḿnh với hi vọng rằng khi cơ thể của đứa trẻ lớn lên
th́ nó có thể đâm ra khéo léo hơn và dễ đáp ứng hơn.
Đối với chúng ta th́ một quyết định như vậy có vẻ là không khôn
ngoan bởi v́ nếu Chơn ngă lơ là Phàm ngă hiện tại th́ cũng ít khả
năng Phàm ngă kế tiếp sẽ được cải tiến; và nếu nó bỏ mặc cho cơ thể
đứa trẻ phát triển mà không chịu ảnh hưởng của ḿnh th́ những phẩm
chất không đáng mong muốn ắt biểu lộ ra hoàn toàn có thể mạnh mẽ hơn
thay v́ bị tiêu tán đi. Nhưng chúng ta khó ḷng ở vị thế xét đoán
được điều này bởi v́ sự hiểu biết của ta về vấn đề ấy thật bất toàn
và chúng ta không hiểu chút nào về công tŕnh cao siêu mà Chơn ngă
dồn hết nỗ lực vào đó.
V́ vậy, ta thấy ḿnh không thể xét đoán một cách chính xác tŕnh độ
tiến hóa của bất cứ ngưởi nào mà ḿnh gặp trên cơi trần. Một mặt,
những nguyên nhân nghiệp quả có thể tạo ra một phàm ngă rất hấp dẫn
nhưng có một Chơn ngă ẩn đằng sau chỉ tiến bộ vừa phải thôi. Mặt
khác, cũng có những nguyên nhân làm nảy sinh ra một Phàm ngă khiếm
khuyết hoặc thấp kém nhưng lại thuộc về một Chơn ngă tương đối tiên
tiến.
Khi Chơn ngă quyết định dồn hết lực lượng đầy nghị lực của ḿnh cho
Phàm ngă th́ nó có thể tạo ra một sự chuyển biến rất lớn. Chẳng ai
đă từng đích thân ḿnh khảo cứu vấn đề này mà lại không tưởng tượng
ra sự thay đổi ấy mầu nhiệm, nhanh chóng và triệt để biết dường nào
khi t́nh huống thuận lợi, nghĩa là khi Chơn ngă tương đối dũng mănh
c̣n Phàm ngă có thói xấu hết thuốc chữa, nhất là khi về phần ḿnh
Phàm ngă cũng quyết tâm tinh tấn để trở thành một biểu hiện toàn
bích của Chơn ngă khiến cho ḿnh hấp dẫn được Chơn ngă.
Muốn hiểu được điều này có thể xảy ra như thế nào th́ dĩ nhiên ta
cần phải xem xét vấn đề này cùng một lúc theo hai quan điểm. Hầu hết
chúng ta nơi đây đều chủ yếu là Phàm ngă hoặc hoàn toàn suy nghĩ và
hành động như vậy; thế mà đồng thời ta cũng biết rằng thật ra ta là
Chơn ngă và những người nào trong chúng ta đă tham thiền nhiều năm
đều có thể khiến cho ḿnh nhạy cảm hơn với những ảnh hưởng thanh bai
và thường có ư thức được sự can thiệp của Chơn ngă.
Chúng ta càng có thói quen đồng nhất hóa ḿnh với Chơn ngă th́ chúng
ta càng xem xét được các vấn đề của cuộc đời một cách minh bạch và
lành mạnh hơn. Nhưng chừng nào ta c̣n cảm thấy ḿnh là Phàm ngă th́
rơ ràng ta c̣n phải có bổn phận và quyền lợi là cởi mở đối với Chơn
ngă, vươn lên tới tận nó và kiên tŕ xác lập trong bản thân những
rung động để cho Chơn ngă sử dụng được. Ít ra th́ ta phải chắc chắn
rằng ḿnh không kỳ đà cản mũi Chơn ngă mà luôn luôn làm hết sức ḿnh
v́ Chơn ngă theo sự sáng suốt của chính ḿnh. V́ ích kỷ là củng cố
Phàm ngă, cho nên bước đầu tiên là phải loại trừ thói xấu này. Kế đó
cái trí phải giữ cho tràn đầy tư tưởng cao thượng bởi v́ nó liên tục
quan tâm tới những vấn đề thấp kém – cho dẫu những vấn đề này có thể
hoàn toàn được đánh giá cao theo đường lối của chúng – cho nên Chơn
ngă không thể dễ dàng sử dụng cái trí làm phương tiện biểu hiện
ḿnh.
Khi Chơn ngă toan tính nỗ lực, ta có thể nói là khi nó đưa ra một
ngón tay chỉ dẫn giải thích th́ ta nên hăng hái tiếp nhận nó, và
ngay tức khắc tuân lệnh nó ra sao cho nó có thể càng ngày càng chiếm
hữu được cái trí, và thế là đă thừa hưởng di sản của ḿnh xét về các
cơi thấp. Có thể nói Phàm ngă nên nhường chỗ cho Chơn ngă chiến đấu
thay cho ḿnh.
Song le khi làm như vậy, Phàm ngă phải cẩn thận tận tụy với công
việc chứ không phải với phần hùn mà cá nhân ḿnh đóng góp vào đấy.
Con người phải chú ư khi Phàm ngă đang chạy lồng lên th́ lúc nào
cũng phải tâm niệm rằng Chơn ngă đang hoạt động nơi bản thân y.
Mặc dù sự lơ mơ của Chơn ngă – trừ phi nó đă phát triển – có lẽ ngăn
ngừa Chơn ngă không vạch ra được một đường lối đặc thù, thế nhưng
khi Phàm ngă vốn xác định hơn đă t́m ra việc cần phải làm th́ Chơn
ngă có thể và ắt đầu tư vào đấy khiến cho con người có thể làm việc
ấy tốt hơn nhiều với một tầm nh́n trí tuệ lớn lao hơn hẳn mà Phàm
ngă không thể đạt được nếu không được trợ giúp.
“Nhưng nếu con (Phàm ngă) không mưu t́m ngài (Chơn ngă), nếu con lơ
ngài luôn th́ con không được an toàn. Bộ óc con sẽ quay cuồng, tâm
hồn của con sẽ phân vân và trong khói bụi mịt mù trên băi chiến
trường tầm nh́n và nhận thức của con không đủ để cho con phân biệt
được đâu là bạn đâu là thù” (Ánh
Sáng Trên Đường Đạo). Đây là điều xảy ra khi Phàm ngă không mưu
t́m sự chỉ đạo cao siêu của Chơn ngă.
Đây là bước cần thiết phải bước đi, nhưng kẻ nào có ư định đặt chân
trên Thánh đạo dẫn tới sự Điểm đạo – bởi v́ khi Điểm đạo th́ Phàm
ngă và Chơn ngă hiệp nhất, hoặc nói cho đúng là bộ phận thấp kém hơn
được bộ phận cao siêu hơn hấp thụ khiến cho Phàm ngă chẳng c̣n ǵ,
vốn không là biểu diễn của Chơn ngă, th́ Phàm ngă chỉ c̣n là một
biểu hiện của Chơn ngă. Tuy nhiên ta sẽ bàn đầy đủ hơn tới vấn đề
này ở chương xxxi vốn chuyên bàn về sự Điểm đạo.
V́ vậy, rơ rệt là Phàm ngă phải cố gắng nhận biết được Chơn ngă muốn
điều ǵ và cung ứng những cơ hội mà nó đang cần. Như ta vừa nêu,
việc nghiên cứu những vấn đề trong nội giới và sống theo sinh hoạt
tâm linh ắt làm Chơn ngă thức tỉnh và thu hút sự chú tâm của nó. Lấy
ví dụ như, giả sử ta có một Chơn ngă mà phương pháp biểu lộ chính
yếu là qua ḷng luyến ái. Nó muốn Phàm ngă biểu lộ đức tính ấy, v́
vậy nếu Phàm ngă cố gắng cảm nhận được sự luyến ái tha thiết và
chuyên tâm vào đó th́ Chơn ngă sẽ nhanh chóng đầu tư thêm nữa cho
Phàm ngă bởi v́ nó thấy Phàm ngă có chính cái mà nó đang muốn.
Nơi kẻ dă man, Phàm ngă biểu hiện đủ thứ xúc động và đam mê mà Chơn
ngă không thể tán thành, nhưng nơi người đă phát triển th́ không có
xúc động nào mà y không thể tự nguyện có được. Thay v́ bị xúc động
lôi cuốn đi khiến cho ḿnh mất thăng bằng th́ y chỉ việc tuyển lựa
chúng. Chẳng hạn như y ắt tự nhủ: “Yêu thương là điều tốt và tôi sẽ
để cho ḿnh cảm nhận được yêu thương. Sùng tín là điều tốt và tôi sẽ
để cho ḿnh cảm nhận ḷng sùng tín. Đồng cảm thật là tốt đẹp, tôi ắt
để cho ḿnh cảm nhận được sự đồng cảm”. Y thực hiện điều này một
cách cố ư với đôi mắt mở to. Như vậy, xúc động bị cái trí chế ngự,
thế mà cái trí lại là một biểu hiện của thể nguyên nhân cho nên con
người tiến rất gần tới t́nh trạng hoàn toàn hiệp nhất được Chơn ngă
và Phàm ngă.
Mối liên kết giữa Chơn ngă và thể trí là quan trọng nhất, cho nên ta
phải cố gắng giữ cho nó hoạt động và linh động. Ấy là v́ Chơn ngă là
thần lực ẩn đằng sau, sử dụng những đức tính và quyền năng của Phàm
ngă. Muốn suy nghĩ bất cứ điều ǵ th́ ta cũng phải nhớ tới nó, mà
muốn nhớ tới nó th́ ta phải chú ư tới nó và khi ta
chú ư tới nó th́
Chơn ngă sẽ giáng xuống các
hiện thể để quan sát thông qua các hiện thể.
Nhiều người có thể trí lành mạnh và bộ óc hoạt động tốt lại ít sử
dụng tới chúng bởi v́ y ít chú tâm tới cuộc đời, nghĩa là bởi v́
Chơn ngă chỉ đầu tư chút ít xuống các cơi thấp cho nên các hiện thể
được thả rông tha hồ tự tung tự tác. Ta đă từng nêu rơ phương thuốc
chữa trị căn bệnh này: phải cung cấp cho Chơn ngă những t́nh huống
mà nó cần tới khi ta chẳng có lư do ǵ mà phàn nàn về việc nó đáp
ứng.
Dường như kinh nghiệm thật sự của Phàm ngă không thể truyền cho Chơn
ngă được, nhưng tinh hoa của những kinh nghiệm này có thể chuyển
giao cho Chơn ngă. Chơn ngă ít chú ư tới tiểu tiết mà chỉ cần tinh
hoa của kinh nghiệm. Xét v́ vậy mà hiển nhiên là kẻ phàm phu chẳng
có mấy thứ ǵ trong cuộc đời ḿnh hấp dẫn được Chơn ngă.
Cái hệ thống chuyển giao thành quả của công tŕnh cấp thấp nhưng
không chuyển giao những kinh nghiệm chi tiết vẫn c̣n tiếp diễn măi
cho đến khi người ta đạt quả vị Thánh sư.
Học viên nên tuân theo lời khuyên trong quyển
Ánh Sáng Trên Đường Đạo:
Hăy mưu t́m Chơn ngă để nó chiến đấu thông qua ḿnh; nhưng đồng thời
lại luôn luôn tâm niệm rằng ḿnh chính là Chơn ngă. V́ vậy, y đồng
nhất hóa ḿnh với Chơn ngă và khiến cho Phàm ngă phải nhượng bộ Chơn
ngă. Cho dẫu bạn bị ngă quị nhiều lần th́ cũng chẳng có lư do ǵ để
chán nản bởi v́ thất bại là mẹ thành công; nhờ thất bại ta mới học
được điều ǵ đó và như vậy ắt minh triết hơn để đối phó với vấn đề
kế tiếp. Cũng chẳng nên trông mong là ta lúc nào cũng thành công mà
chỉ cần ta luôn luôn làm hết sức ḿnh.
Vả lại, ta nên nhớ rằng Chơn ngă luôn luôn liên kết với Phàm ngă v́
nó khao khát (trishna) muốn trải nghiệm sống động. Khi Chơn ngă đă
phát triển th́ ḷng khao khát ấy từ từ giảm bớt đi và có khi nó tiến
bộ nên bén nhạy hơn với những hân hoan trong hoạt động trên cơi của
riêng ḿnh đến nỗi nó đi đến cực đoan kia bằng cách bỏ bê Phàm ngă;
Phàm ngă bị nghiệp quả câu thúc đắm ch́m vào hoàn cảnh giờ đây đầy
phiền năo v́ Chơn ngă đă nhàm chán ḿnh, v́ Chơn ngă cảm thấy ḿnh
đă vượt qua được những trải nghiệm thấp.
Sự giảm bớt ḷng khao khát này xảy ra khi Chơn ngă đă khiến cho Phàm
ngă phát triển theo ḿnh. Khi con người có ư thức trọn vẹn trên cơi
trung giới th́ cơi trần bắt đầu có vẻ buồn tẻ so với cơi trung giới;
khi y lên tới cơi hạ trí th́ lại thấy cơi trung giới có vẻ âm u và
ảm đạm; và khi bắt đầu nếm mùi sinh hoạt linh động và tươi sáng hơn
nữa của thể nguyên nhân th́ cả bốn cảnh giới của hạ trí lại mất đi
sự hấp dẫn.
Như ta đă nêu rơ ở trên, cần luôn luôn tâm niệm rằng tâm thức chỉ có
một. V́ vậy, thật hoàn
toàn sai lầm khi quan niệm Chơn ngă tức cái ta cao siêu là một cái
ǵ đó “ở bên trên”. Một cái ǵ đó có bản thể xa lạ đối với chúng ta,
v́ vậy khó ḷng đạt tới được. Ta thường bảo rằng muốn đạt tới Chơn
ngă th́ cần phải “tinh tấn ghê gớm”; có khi ta lại bảo sự linh hứng
v.v. . . từ Chơn ngă giáng xuống ta ở dưới đây. Trong tất cả những
trường hợp này, ta đều phạm sai lầm căn bản khi đồng nhất hóa ḿnh
với điều không phải là ḿnh, thay v́ với điều căn bản là ḿnh. Điều
kiện đầu tiên của sự thành tựu tâm linh là chắc mẫm không c̣n nghi
ngờ ǵ nữa rằng ta chính là Chơn ngă; điều kiện thứ hai là ta phải
tin chắc rằng Chơn ngă có những quyền năng của riêng ḿnh và ta có
đủ can đảm để thoải mái vận dụng chúng.
Do đó, thay v́ coi tâm thức của Phàm ngă là thông thường và b́nh
thường th́ ta nên tập thói quen coi tâm thức của Phàm ngă là bất
b́nh thường và không tự nhiên, c̣n sinh hoạt của Chơn ngă mới là
sinh hoạt chân thực của chính ta; thế mà ta lại liên tục ra sức ghẻ
lạnh đối với nó.
Trong sinh hoạt thực tiễn ta nên chọn theo thái độ này đối với đủ
thứ các hạ thể. Vậy là thể xác không nên được phép tùy tiện muốn làm
ǵ th́ làm mà phải được dứt khoát rèn luyện có ư thức tuân lệnh của
Chơn ngă. Bằng cách này ta ắt tạo ra cái mà các triết gia phái
Hermes gọi là việc “sinh ra lần thứ hai”. Đây là sự thay đổi thật sự
v́ khi hoàn thành nó sẽ đời đời đập tan ách nô lệ của tâm thức đối
với thể xác, khiến cho thể xác thay vào đó chỉ c̣n là một công cụ để
cho Chơn ngă sử dụng.
Một sự biến đổi tương tự cũng cần xảy ra đối với thể vía. Thay v́ để
cho thế giới xúc động ảnh hưởng tới ḿnh và ấn định hoạt động của
ḿnh, th́ Chơn ngă phải tự ḿnh quyết định xem loại xúc động nào cần
được duy tŕ và loại xúc cảm nào được phép tỏa ra từ thể vía của
ḿnh. Như vậy, tâm thức của Chơn ngă không c̣n vướng mắc vào thể vía
nữa, lúc bấy giờ thể này mới tuân chịu những mong muốn của Chơn ngă.
Có lẽ điều cốt yếu nhất trong mọi thứ là phải kiểm soát được thể
trí, bởi v́ tư tưởng là biểu lộ của Năng Lượng Sáng Tạo tối cao.
Chúng ta không bao giờ được phép để cho các h́nh tư tưởng kích động
ta từ bên ngoài; thay vào đó khi h́nh tư tưởng được tạo ra th́ chúng
phải được sáng tạo do tác động cố ư hữu thức của chính Chơn ngă.
Có một nguy cơ lớn lao nơi óc tưởng tượng đến mức vô kỷ luật. Nếu
không có óc tưởng tượng ấy th́ những đối tượng của ham muốn nơi
ngoại giới không có quyền năng ǵ chi phối ta. V́ vậy Chơn ngă phải
kiểm soát được trọn vẹn óc tưởng tượng, chỉ cho phép nó thực hiện
chức năng của ḿnh theo những chiều hướng mà ḿnh ấn định.
Tưởng tượng không bị kiểm soát cũng đóng vai tṛ quan trọng trong
việc làm phương hại và suy yếu ư chí. Rất thường khi, sau khi đă
quyết tâm thực hiện một điều ǵ đó, ta lại để cho óc tưởng tượng đùa
bỡn với những khía cạnh khó chịu về điều ta đă quyết tâm thực hiện
cho đến khi rốt cuộc nó có vẻ khó chịu đến nỗi ta bỏ luôn ư tưởng
thực hiện nó. Shakespeare đă phát biểu sự thật tâm lư sâu sắc này
khi ông để Hamlet tuyên bố: “Cái sắc thái nguyên thủy của quyết tâm
đă trở nên bệnh hoạn theo cái lề thói ảm đạm của tư tưởng”.
Phương thuốc chữa trị thói quen đáng tiếc này là rơ ràng: Ta phải
tập trung ư chí và chú tâm không ǵ đảo ngược được, chẳng phải vào
những khó khăn hoặc những khó chịu mà ta tưởng tượng ḿnh phải đương
đầu, nhưng ta phải tập trung vào nhiệm vụ cần hoàn thành. Emerson có
nói: “Ta hăy thu hết nghị lực để thường xuyên khẳng định”.
Khi tiếp tục phân tích như vậy thêm một chút nữa, ta mới từ bỏ được
cái ư tưởng phổ biến cho rằng ư chí làm nên sự việc, ta thực hiện
một điều ǵ đó nhờ vào một nỗ lực của ư chí. Việc thực hiện và thi
hành một điều ǵ đó không
phải là chức năng của ư chí mà là của một khía cạnh khác hẳn
thuộc Chơn ngă, đó là khía cạnh hoạt động sáng tạo.
Ư chí là kẻ Cầm quyền, là ông Vua phán bảo “Phải làm điều này”,
nhưng bản thân ông đâu có đi làm chuyện ấy. Nói về mặt tâm lư th́ ư
chí là quyền năng giữ cho tâm thức tập trung vào một điều duy nhất
và loại trừ mọi điều khác. Tự thân nó hoàn toàn thanh thản tịch
lặng, bất di bất dịch bởi v́ như ta đă nói, đó chỉ là quyền năng duy
tŕ một sự việc duy nhất và loại trừ mọi thứ khác.
Hầu như không thể qui định giới hạn cho quyền năng của ư chí con
người khi nó được điều khiển đúng mức. Nó có tầm vươn xa rộng lớn
hơn nhiều so với mức kẻ phàm phu giả định đến nỗi mà những thành quả
do nó thu hoạch được có vẻ là gây sửng sốt và siêu tự nhiên đối với
y. Việc nghiên cứu quyền năng của nó dần dần khiến cho ta ngộ ra
được rằng phát biểu nếu có đủ đức tin th́ ta có thể dời non lấp biển
ngụ ư ra sao, và ngay cả sự miêu tả như vậy theo Đông phương cũng
dường như không có ǵ ngoa ngoắc khi người ta khảo sát những ví dụ
đă được xác nhận về thành tựu của quyền năng mầu nhiệm này. Có lẽ
yếu tố quan trọng nhất trong việc vận dụng ư chí thành công là phải
hoàn toàn tin tưởng; dĩ nhiên ta có thể đạt được điều này theo nhiều
cách khác nhau tùy theo loại h́nh người hữu quan.
Ngay khi người ta ngộ ra được rằng có một thế giới nội tại và tâm
linh của Chơn ngă vốn xét về mọi mặt vô cùng quan trọng hơn những
thứ ở ngoại giới th́ người ta có thể theo thái độ của một diễn viên
đóng tuồng trên sân khấu cuộc đời chỉ v́ c̣n có sự thật hằng sống ẩn
đằng sau. Một diễn viên đóng nhiều vai khác nhau vào những lúc khác
nhau cũng chẳng khác nào chúng ta trở lại luân hồi trong những kiếp
khác và khoác lấy những loại hiện thể khác. Nhưng lúc nào diễn viên
cũng có cuộc sống thực của ḿnh là một con người cũng như là một
nghệ sĩ, và v́ vốn đă có cuộc sống của riêng ḿnh cho nên y muốn
đóng vai thật tốt trong sinh hoạt tạm bợ trên sân khấu. Cũng giống
như vậy, chúng ta muốn làm việc tốt trong sinh hoạt tạm bợ dưới đây,
bởi v́ ta có một thực tại vĩ đại ẩn đằng sau mà cuộc sống tạm bợ chỉ
là một mảnh rất nhỏ của nó.
Nếu ta đă ngộ ra rơ rệt được điều này th́ ta ắt thấy tầm quan trọng
tương đối của cuộc sống nơi ngoại giới: nó chỉ có giá trị đối với ta
ở chỗ ta sẽ đóng vai của ḿnh cho thật tốt dù vai tuồng ấy là ǵ đi
chăng nữa. Nó là loại vai tuồng ǵ và điều ǵ xảy ra cho ta trong
kiếp sống bắt chước ấy th́ đâu có chi quan trọng. Công việc của diễn
viên có thể phải trải qua đủ thứ chuyện giả vờ là phiền năo và khó
khăn, nhưng những thứ ấy tuyệt nhiên không làm y bối rối. Chẳng hạn
như mỗi đêm trong cuộc thách đấu y đều có thể bị giết chết, việc giả
chết th́ đâu có ǵ quan trọng đối với ḿnh? Điều duy nhất đáng cho y
chú ư là y phải làm tṛn nhiệm vụ.
V́ thế cho nên, thật ra không khó mà ngộ ra được rằng thế giới xung
quanh ta chỉ là một thế giới bắt chước và những kinh nghiệm xảy đến
cho ta thật ra cũng chẳng hề quan trọng. Mọi thứ xảy ra cho thiên hạ
nơi ngoại giới đều là quả báo của họ. Các nguyên nhân đă được lập ra
từ lâu rồi trong những kiếp trước và bây giờ không thể thay đổi
được. V́ vậy, thật là hoài công mà lo âu về những chuyện sẽ xảy ra:
người ta sẽ chịu đựng chúng với thái độ đầy triết lư. Cách thức cam
chịu những sự việc ấy mới uốn nắn tính t́nh cho tương lai và đó là
điều duy nhất quan trọng. Người ta nên dùng nghiệp quả để phát triển
tính can đảm, nhẫn nhục và nhiều đức tính khác nữa, rồi quên nó đi.
Như vậy khi cơ tiến hóa tiếp diễn th́ Tự ngă thiêng liêng ṃ mẫm
phấn đấu, đấu tranh trở thành người Quản trị chân thực, kẻ Quản trị
bất tử trong nội tâm. Người nào lĩnh hội được rằng bản thân ḿnh
chính là người Quản trị bất tử ấy ngự bên trong những hiện thể do
chính Ḿnh tạo ra ắt có một ư thức về tư cách và quyền năng càng
ngày càng lớn mạnh và càng ngày càng gây sức ép lên bản chất thấp
hèn. Việc biết được sự thật ấy khiến cho ta tự do.
Nhà Quản trị nội tâm có thể vẫn c̣n bị ngáng trở bởi chính những
h́nh tướng mà ḿnh đă uốn nắn để tự biểu hiện, nhưng v́ biết ḿnh là
người Cai trị cho nên y có thể kiên định làm việc để b́nh định lănh
thổ của ḿnh. Y biết ḿnh sinh ra đời v́ một chủ đích nào đó và phải
thích ứng để trở thành một người cộng tác với Ư chí Tối cao, y có
thể làm việc và chịu đựng tất cả những ǵ cần thiết v́ cứu cánh ấy.
Y biết ḿnh là thiêng liêng và sự thực chứng Chơn ngă của ḿnh chỉ
là vấn đề thời gian. Trong nội giới y đă cảm thấy thiên tính mặc dù
nơi ngoại giới th́ nó chưa được biểu hiện ra; nhiệm vụ của y là phải
biểu lộ được điều vốn là bản thể của ḿnh. Y là vị vua
hợp pháp nhưng chưa có
thực quyền.
Cũng giống như một Hoàng tử sinh ra để được đăng quang, phải kiên
nhẫn tuân theo kỷ luật uốn nắn ḿnh xứng đáng đội vương miện; cũng
vậy Ư chí tối cao nơi chúng ta đang tiến hóa tới lúc mà vương quyền
sẽ chuyển giao cho nó nắm giữ, và v́ vậy nó có thể kiên nhẫn tuân
phục kỷ luật cần thiết trong cuộc đời.
Việc hiểu chính xác được mối quan hệ giữa Chơn ngă và các Phàm ngă
liên tiếp cũng đủ xóa tan sự hiểu lầm liên quan tới giáo huấn của
Đức Phật. Đức Phật thường xuyên thuyết pháp phản đối ư tưởng vốn
hiển nhiên là thịnh hành vào lúc đương thời, đó là sự kế tục của
Phàm ngă. Nhưng trong khi
ngài dạy rằng không có bất cứ thứ ǵ mà người ta thường đồng nhất
hóa với lại trường tồn măi măi, th́ ngài cũng phát biểu dứt khoát về
những kiếp nối tiếp nhau của con người. Ngài nêu ra các ví dụ về
tiền kiếp và so sánh những kiếp liên tiếp cho tới ngày mà người ta
sinh ra ở làng này hoặc làng kia.
Thế mà Giáo hội Nam tông của Phật giáo bây giờ lại giảng dạy rằng
chỉ có nghiệp báo là trường tồn chứ không có Chơn ngă (tức linh
hồn); điều này dường như thể con người thuộc kiếp này tạo ra được
một mớ nghiệp nào đấy rồi chết đi và chẳng c̣n lại thứ ǵ nữa; thế
rồi lại một người khác sinh ra phải chịu nghiệp quả mà cái người
trước kia đă gây ra.
Tuy nhiên mặc dù phi lư một cách kỳ lạ như vậy, mặc dù giáo huấn
chính thống mang tính trái ngược,
thực tế người ta vẫn tin
là cá tính vẫn tiếp tục tồn tại, bởi v́ chẳng hạn như các tu sĩ Phật
giáo nói tới việc nhập Niết Bàn và thừa nhận rằng việc này phải mất
nhiều kiếp.
Ư nghĩa chân thực trong giáo huấn của Đức Phật vốn ở nơi ngài nhấn
mạnh tới bộ phận tạm bợ bên ngoài của con người
không thể trường tồn
được; điều đó hàm ư những bộ phận nào của con người không tạm bợ
thuộc về ngoại giới ắt c̣n sống sót dưới dạng Chơn ngă trường tồn
tức Chơn nhơn.
Song le giáo huấn của ngài c̣n sâu sắc hơn nữa. Có một đoạn trong
Shri Vakya Sudha cảnh báo thiện nam tín nữ rằng khi y lập lại công
thức vĩ đại: “Tôi là Cái Đó”, th́ y phải cẩn thận để ư xem ḿnh ngụ
ư cái ǵ khi xưng là “Tôi”. Người ta giải thích rằng phải hiểu cá
thể riêng rẽ gồm có ba mặt và
chỉ có bộ phận cao nhất trong ba mặt này mới hiệp nhất với
Brahman để có quyền tuyên bố rằng “Ngài là Cái Đó”, cũng như những
phát biểu khác. Chúng ta đă từng thấy rất nhiều lần rằng Phàm ngă
không phải là “Tự ngă” ấy, thậm chí “Ngài” ở nơi tôi cũng không phải
“Tự ngă” luôn; “Tự ngă” là một điều ǵ đó không thể phân biệt được
với Tự ngă trong vũ trụ khi Vạn thù và Nhất bổn đă hiệp nhất. Giáo
huấn của Đức Phật chối bỏ sự trường tồn của ngài mà con người gọi là
“Tôi”.
Trong thuật ngữ, xét về ngữ nguyên cũng bao hàm nhiều điều minh
triết. Như vậy chính thuật ngữ “con người” (person) được hợp thành
bởi hai từ ngữ la tinh per
và sona, do đó có nghĩa
là “điều mà thông qua đó (per) âm thanh (sona) xuất hiện”; tức là
cái mặt nạ mà diễn viên người La Mă đeo để biểu thị vai tṛ mà y
đang diễn trên sân khấu vào lúc đó. Như vậy ta đă thật đang nói tới
một mớ hạ thể tạm bợ mà Chơn ngă khoác lấy khi nó giáng xuống nhập
thể với vai tṛ “Phàm ngă” (Personality).
Những thuật ngữ cá thể và
cá tính hầu như cũng mang
nhiều tính giáo huấn và rất thích hợp để áp dụng cho Chơn ngă. Đó là
v́ cá thể ngụ ư là
không thể phân chia được mà
không bị mất đi thực tính tức là tồn tại dưới dạng nhất như, c̣n
cá tính được định nghĩa
là tồn tại riêng rẽ và
cá biệt. Tiến thêm một
bước nữa ta thấy từ ngữ tồn tại (exsist) có từ nguyên là ex nghĩa là
ra và sister nghĩa là
khiến cho đứng vững. Như vậy Chơn ngă tức
cá tính được
khiến cho đứng riêng ra
(tách rời ra khỏi Chơn thần) và biểu lộ
thông qua cái mặt nạ là
Phàm ngă.
Sơ đồ xxix là một toan tính nhằm minh họa một khía cạnh trong mối
quan hệ giữa Chơn ngă và các Phàm ngă liên tiếp.
ĐỒ H̀NH XXIX
Chơn Ngă và các Phàm ngă
Ta thấy trong sơ đồ này trước hết là Chơn thần có sự sống bắt nguồn
từ Đấng Vô Hiện, rồi phóng chiếu Chơn ngă xuống dưới ḿnh với ba đặc
trưng hoặc khía cạnh. Đến lượt Chơn ngă lại phóng chiếu ra khỏi ḿnh
một loạt các Phàm ngă liên tiếp nhập vào các cơi thấp. Trong h́nh
vẽ, những điều này được biểu thị bằng việc dần dần mở rộng ra khi
chúng phát triển cho đến khi rốt cuộc Phàm ngă cuối cùng là tam giác
đều v́ đă phát triển đầy đủ và đối xứng, do đó biểu hiện được bản
chất và quyền năng của Chơn ngă trọn vẹn đến mức tối đa mà những
giới hạn cố hữu của ḿnh cho phép.
Khi con người phát triển th́ tâm thức của Phàm ngă có thể hiệp nhất
với sự sống của Chơn ngă – đến mức tối đa – thế rồi chỉ có một tâm
thức duy nhất: ngay cả trong tâm thức Phàm ngă cũng chỉ có tâm thức
của Chơn ngă; Chơn ngă vốn biết hết những ǵ đang tiếp diễn. Nhưng
như ta đă từng nói, đối với nhiều người thời nay th́ giữa Chơn ngă
và Phàm ngă thường đối lập nhau đáng kể.
Một người đă thành công nâng được tâm thức lên tới mức thể nguyên
nhân và nhờ vậy hiệp nhất tâm thức của Phàm ngă với Chơn ngă, của
Phàm nhơn với Chơn nhơn th́ dĩ nhiên sẽ sử dụng được tâm thức của
Chơn ngă trong suốt quăng đời sinh hoạt trên cơi trần. Điều này
tuyệt nhiên không chịu ảnh hưởng khi thể xác bị chết, thậm chí cả
khi chết lần thứ nh́ và thứ ba lúc y lần lượt bỏ lại thể vía và thể
trí.
Thật vậy, tâm thức của y lúc nào cũng ngự nơi Chơn ngă và diễn tuồng
qua bất cứ hiện thể nào mà nhất thời y ngẫu nhiên sử dụng đến.
Đối với y trọn cả kiếp nhập thể gồm hàng loạt kiếp luân hồi chỉ là
một kiếp sống lâu dài duy nhất: cái mà ta gọi là một kiếp luân hồi
chỉ là một ngày trong kiếp nhập thể đối với y. Xuyên suốt qua cơ
tiến hóa, con người ấy, tâm thức của y đều hoạt động trọn vẹn. Nhân
tiện ta cũng nên chú ư rằng y tạo ra nghiệp quả trong thời kỳ này
cũng nhiều như thời kỳ khác; và trong khi t́nh cảnh của y và bất cứ
lúc nào cho sẵn đều là nghiệp quả của những nguyên nhân mà y đă phát
động trong quá khứ; thế nhưng không có một lúc nào mà y không làm
biến đổi thân phận của ḿnh bằng cách vận dụng tư tưởng và ư chí.
Trong nhận xét này áp dụng cho mọi người, thế nhưng ta vẫn thấy rơ
rằng người nào có được tâm thức của Chơn ngă ắt ở vào một vị thế
chuyển nghiệp một cách cố ư hơn với những nghiệp quả đă được tính
toán sẵn nhiều hơn so với kẻ chưa đạt được mức liên tục có tâm thức
Chơn ngă.
H. P. Balvatsky bảo rằng Chơn ngă là “đại Sư phụ”, mặc dù ở đây bà
dùng thuật ngữ Sư phụ theo nghĩa không b́nh thường, khác với nghĩa
mà hầu hết mọi người dùng hiện nay. Bà bảo rằng nó tương đương với
Quán Thế Âm (Avalokiteshvara), cũng giống như A Đề Phật (Adi Buddha)
đối với các huyền bí gia Phật tử, Atma đối với tín đồ Bà la môn và
Ki Tô (Christ) đối với phái Ngộ đạo thời xưa.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS