| 
			 | 
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
| 
			 | 
			
			
			C.W. LEADBEATER 
			
			CHIÊM BAO 
			
			
			(LES RÊVES) 
			
			Dịch giả 
			
			TRI THIỆN 
 | 
			 | 
 CHIÊM 
	BAO
	
	
	
	
	MỤC LỤC
	
	CHƯƠNG I      
	Lời tựa 
	
	CHƯƠNG  II   
	Cơ cấu 
	
	1 /- Cơ cấu thuộc xác thịt 
	
	2/- Cơ cấu thuộc cái Phách 
	
	3/- Cơ cấu thuộc cái Vía 
	
	CHƯƠNG  III. 
	CHƠN-NHƠN
	
	CHƯƠNG  IV . 
	-- Địa vị các yếu-tố trong lúc 
	ngủ 
	
	            
	1/- Óc xác thịt  
	
	            
	2/- Óc dĩ-thái   
	
	            
	3/- Thể 
	
	            
	4/- Chơn-Nhơn 
	
	                
	-- Trắc-định thời giờ một cách siêu-việt.
	
	                
	-- Những câu chuyện để thuyết-minh
	
	                
	-- Quyền năng phóng đại 
	
	                
	-- Khả năng tiên tri 
	
	                
	-- Mẫu chuyện ứng-dụng  
	
	                
	-- Tư-tưởng tượng trưng  
	
	          
	5/- Những yếu tố sanh ra mộng 
	
	
	CHƯƠNG  V . 
	– Những giấc mộng
	
	1/- Mộng đúng sự thật 
	
	2/- Mộng tiên-tri 
	
	3/- Mộng tượng-trưng 
	
	4/- Mộng rơ ràng và có mạch lạc
	
	5/- Mộng thường thấy 
	
	CHƯƠNG VI .  Thí-nghiệm về 
	trạng-thái chiêm bao (giấc mộng)
	
	CHƯƠNG VII .   Kết luận 
	
	
	
	CHƯƠNG MỘT
	LỜI TỰA
	
	
	       
	Phần lớn các vấn-đề mà Thông-Thiên-Học tŕnh bày, dường như xa xôi 
	đối với sự kinh-nghiệm và sự lợi ích trong đời sống hằng ngày,thế mà chúng 
	ta lại cảm thấy càng ngày nó càng hấp dẫn khi chúng ta càng hiểu nó nhiều 
	thêm.
	
	       
	Tuy nhiên, trong thâm tâm, chúng ta lại xem các vấn đề nầy có hơi hư 
	ảo, hơi giả tạo, không thể có được, vậy mà chúng ta lại chăm chú vào nó. Khi 
	chúng ta đọc những đoạn sách nói về sự thành lập Thái-Dương-Hệ, những 
	chu-kỳ, các cuộc tuần hoàn (rondes) của dăy hành-tinh của chúng ta th́ chẳng 
	thế nào chúng ta khỏi phải suy nghĩ, không cần kể đến sự được lợi ích nhờ 
	nghiên cứu huyền-học, không cần kể đến sự hữu dụng rơ ràng, một sự nghiên 
	cứu cho ta biết nhơn loại tiến bộ cách nào mà được như ngày nay, nó cũng 
	không ngăn được chúng ta suy nghĩ rằng tất cả các việc đó chỉ có gián tiếp 
	liên quan đến đời sống hằng ngày của chúng ta.       
	
	
	       
	Chúng ta không thể cải ǵ được việc đó, như 
	vấn đề chiêm bao của quyển sách nầy. Tất cả những ai đọc sách nầy 
	cũng đều đă có nằm mộng, có thể có người thường nằm mộng rất nhiều nữa. Họ 
	có thể lợi dụng các điều mà chúng tôi thử nói ở đây để giải thích những sự 
	lạ lùng của giấc mộng theo ánh sáng Thông-Thiên-Học nhờ các sự sưu tầm của 
	các Thông-Thiên-Học gia chân thành.
	
	       
	Phương pháp hay nhất để chúng ta có thể nghiên cứu được vấn đề nầy 
	là: trước hết phải xem xét kỹ lưỡng cách cấu tạo giấc mộng của xác thịt, của 
	cái Phách và của cái Vía, do sự trung gian nầy những mối cảm giác mới đi đến 
	ư-thức của chúng ta; tới phiên ư-thức phải xem coi nó làm thế nào để tạo 
	ảnh-hưởng và sử dụng cách cấu tạo nầy, kế đến ta quan sát ư-thức và các cơ 
	cấu nầy hành động trong lúc ngủ; sau cùng ta t́m hiểu các loại chiêm bao 
	thông thường của nhơn loại sanh ra bằng cách nào.
	
	        Nhơn v́ tôi 
	viết cho cho các học giả Thông-Thiên-Học, tôi thấy có bổn phận phải thừa dịp 
	nầy để dùng những danh từ Thông-Thiên-Học mà khỏi giải tỉ-mỉ, v́ chắc các 
	học giả đă hiểu rành định-nghĩa rồi. Nếu không vậy th́ quyển sách nhỏ nầy sẽ 
	vượt quá khuôn khổ của nó. Nếu quyển sách nầy lọt vào tay những vị nào thấy 
	các danh từ nầy c̣n khó khăn th́ tôi xin khuyên các vị ấy đọc lại những 
	quyển sơ đẳng như: MINH-TRIẾT CỔ-THỜI (La sagesse antique) và CON NGƯỜI VÀ 
	CÁC THỂ (L’Homme et ses Corps) do Bà A. Besant đă soạn. [[1]]
	
	
	
	CHƯƠNG HAI
	CƠ CẤU
	
	
	1-  
	
	
	CƠ CẤU THUỘC XÁC THỊT.
	
	       
	Trong thân thể của chúng ta có một hệ thống thần-kinh qui tụ về trung 
	khu là ÓC, và từ đây một màng lưới thần-kinh tủa ra khắp trong thân thể. 
	Theo định-thức của khoa học ngày nay th́ nhờ sự rung động mà màng lưới thần 
	kinh nầy chuyển về óc tất cả các ấn-tượng từ ngoài đến, rồi tức th́ óc liền 
	đổi nó thành cảm giác và ư-kiến.
	
	       
	Như thế nếu tôi rờ một vật ǵ và tôi biết nó nóng, đó chẳng phải là 
	bàn tay tôi nhận biết cảm giác nầy, sự thật là óc của tôi đă đáp lại sự 
	thông tin do những sự rung động chạy theo đường dây điện tín của màng lưới 
	thần-kinh.
	
	       
	Một điều cần thiết ta phải nhớ là trọn cả màng lưới thần-kinh của xác 
	thân đều được cấu thành giống như nhau. Bộ máy riêng biệt mà chúng ta gọi là 
	thị giác thần kinh đưa về óc những ấn-tượng động đến vơng mạc và nó làm cho 
	ta thấy, cũng chẳng khác ǵ màng lưới thần-kinh của bàn tay hay bàn chân 
	vậy. Nhờ trải qua lâu đời tiến hóa liên tiếp, sợi dây thần-kinh nầy được 
	chuyên luyện đặc biệt để thu nhận và chuyển lập tức một mớ rung động lẹ làng 
	riêng biệt, làm cho ta thấy được dưới h́nh thể ánh sáng. Các cơ quan cảm 
	giác khác cũng giống như thế. Những thính-giác thần kinh, khứu giác 
	thần-kinh, vị giác thần-kinh, chỉ khác nhau về chuyên môn, c̣n phần cốt yếu 
	th́ giống nhau và điều hành phận sự đều cùng một cách thế như nhau, trong 
	công việc chuyển các rung động về óc.
	
	       
	Vả lại, óc của chúng ta là trung khu chánh của bộ thần-kinh nên khi 
	chúng ta khỏe mạnh, nó dễ bị xáo trộn bởi cái ǵ làm thay đổi sự châu-lưu 
	của máu huyết. Khi máu trong tĩnh mạch ở đầu được sung túc b́nh thường và 
	điều-ḥa th́ óc và luôn cả thần-kinh hệ sẽ vận chuyển điều ḥa và hữu hiệu. 
	Nhưng nếu cuộc tuần-hoàn nầy bị thay đổi 
	hoặc nhiều hay ít, hoặc tốt hay xấu, hoặc chạy mau hay chạy chậm, tức 
	th́ sanh ra một ấn-tượng trong óc rồi lan ra đến thần-kinh của thân thể.
	
	       
	Thí dụ, nếu máu vào óc nhiều quá sẽ có bệnh sung huyết và sanh ra máu 
	chạy không điều ḥa, trái lại, nếu máu thiếu th́ óc, kế bộ thần-kinh bắt đầu 
	bị kích thích, xây xẩm, rồi bị hôn mê bất tỉnh. 
	
	        Cần 
	phải xem xét đặc tính của máu huyết. Khi nó châu lưu trong thân thể, máu 
	huyết phải làm hai phận sự: nó cung cấp dưỡng khí và đưa các chất bổ dưỡng 
	vào các cơ quan. Nếu nó không làm tṛn hai việc nầy th́ một sự xáo trộn sẽ 
	phát khởi.
	
	       
	Nếu số lượng dưỡng khí cung cấp cho óc không đầy đủ, nó sẽ chứa thán 
	khí thái quá, và sanh ra lừ đừ xây xẩm và ngất xiểu liền. Bởi thế, trong một 
	căn pḥng không khoảng khoát mà chứa nhiều người, ta sẽ cảm thấy khó chịu và 
	sanh ra buồn ngủ v́ trong pḥng thiếu dưỡng khí.
	
	       
	Hễ cái óc không nhận được đủ chất bổ dưỡng th́ nó không thể làm việc 
	được. Tốc lực của máu chạy trong huyết-quản cũng gây ảnh hưởng đến công tác 
	của óc. Khi nó chạy mau quá th́ sanh ra bệnh sốt rét, trái lại, nếu nó chạy 
	chậm quá th́ sanh ra bệnh ngất xiểu. 
	
	       
	Vậy th́ rơ ràng là tất cả cảm-giác thuộc xác thịt đều do cái óc nên 
	nó dễ bi quấy rối và bị những nguyên-nhân vô lư làm trở ngại ít nhiều trong 
	khi thi hành phận sự, những nguyên nhân mà lúc thức người ta thường không 
	chú ư để pḥng ngừa, c̣n lúc ngủ th́ hoàn toàn vô-ư-thức.
	
	       
	Trước khi t́m học xa hơn nữa, chúng ta nên quan sát một tánh đặc biệt 
	khác của cơ-cấu thuộc xác thịt là khuynh-hướng lập lại một cách tự động 
	những sự rung động nào mà nó thường quen đáp ứng. Chính là tại cái tánh đặc 
	biệt nầy mà có những bộ tịch (les gestes) và những thói quen ngoài ư-chí và 
	rất khó mà chiến thắng nó. Sự tự-động nầy giữ một vai tṛ hệ-trọng trong lúc 
	ngủ hơn là lúc thức, chúng tôi sẽ bàn đến sau đây.
	
	
	
	2-  
	
	
	CƠ-CẤU THUỘC CÁI PHÁCH.
	
	       
	Con người nhận được các cảm giác không phải chỉ do cái óc mà thôi. 
	Đồng thời với xác thịt c̣n có cái Phách (double éthérique) nữa. Sách 
	Thông-Thiên-Học từ lâu gọi nó là Linga Sharira. Các cảm giác cũng thâm nhập 
	vào Phách đúng y như vào xác thịt vậy. Nó cũng có một cái óc bằng vật-chất 
	như óc xác thịt, mặc dầu gồm chất tinh vi hơn chất hơi (matière gazeuse).
	
	       
	Xác thịt của đứa trẻ sơ-sinh, xem xét về phương-diện vật-chất, chẳng 
	những có chất thanh-khí (matière astrale)[[2]]
	đủ thứ mật-độ thâm nhập vào mà c̣n có chất dĩ-thái nữa 
	(matière éthérique) cũng đủ thứ mật-độ [[3]]. 
	Nếu chúng ta chịu khó để phăng lần đến nguồn gốc của các thể tinh vi nầy, 
	th́ chúng ta sẽ thấy “cái thể đôi” (le double) làm bằng chất dĩ-thái 
	là cái khuôn đúc do các Đức Nam-Tào Bắc-Đẩu tạo ra để cho xác thịt 
	h́nh-thành y theo khuôn đó. Chất thanh khí th́ được kết nạp do Chơn-Nhơn một 
	cách vô ư-thức và dường như tự-động, khi Chơn-Nhơn đi ngang qua cơi 
	Trung-giới. Tóm lại, nó chỉ là sự phát-triển ở cơi Trung-giới theo 
	khuynh-hướng của Chơn-Nhơn, những khuynh-hướng đă có sẵn mầm giống im ĺm 
	như ngủ trong ḷng khi Chơn-Nhơn ở cơi Thiên-Đàng (Monde Céleste ou 
	Dévachan) v́ nơi đây không hạp cho việc phôi thai.
	
	       
	Cái Phách thường được gọi là cái thể chứa Sự Sống nhơn-loại, tiếng 
	Phạn gọi là Prana (Sinh-lực) và ai đă mở được thần thông sẽ thấy đúng y vậy. 
	Người sẽ thấy cái “Bản-nguyên sự sống của mặt trời” (Jiva Principe de la Vie 
	solaire) gần như không có màu sắc, mặc dầu rất sáng chói và linh-hoạt luôn 
	luôn từ mặt trời tuôn xuống bầu khí huyển của Địa cầu không ngừng. Người 
	cũng  sẽ 
	thấy  cái lá lách thi 
	hành những                                                                                                                                                                       
	                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                            nhiệm 
	vụ phi thường, nó hút Sự Sống thế giới (la vie universelle) và biến đổi 
	thành Sinh-lực để dễ đồng hóa với xác thịt; người cũng thấy Sự-Sống dĩ-thái 
	nầy châu lưu khắp thân thể, theo màng lưới thần-kinh dưới h́nh thể những hột 
	tṛn nhỏ, màu hồng dịu dàng và tăng thêm sự mẫn-tiệp và sự sống vào mỗi 
	nguyên-tử của cái Phách; chót hết, người thấy sau khi những hột hồng cầu bị 
	hút rồi th́ phần c̣n thừa lại sẽ từ xác thịt túa ra xung quanh một ánh sáng 
	màu lam lợt.
	
	       
	Khi quan sát sâu xa hơn nữa động tác của Sinh-lực, người ta cũng thấy 
	sự truyền đạt những cảm giác đến cái óc tùy thuộc ở sự lưu thông điều ḥa 
	của phần dĩ-thái theo màng lưới thần-kinh hệ hơn là phần hữu h́nh như người 
	ta thường tưởng. Ở đây chúng tôi không tiện đi sâu vào tất cả chi tiết của 
	các kinh-nghiệm về học-thuyết nầy, chúng tôi chỉ nêu ra vài điều để giúp cho 
	có một ư-kiến.
	
	       
	Khi một ngón tay bị tê cóng v́ lạnh, nó không c̣n cảm giác nữa. Một 
	người biết thôi miên có thể tự ư tạo ra hiện-tượng nầy. Khi va truyền 
	từ-điện vào cánh tay một người thụ cảm, va có thể làm cho người đó không c̣n 
	cảm giác đau đớn khi kim chích hay lửa đốt nữa. Tại sao người 
	ta  mất 
	cảm giác trong hai trường hợp nầy ? Màng lưới thần-kinh vẫn c̣n đó và 
	nếu người ta có thể nói được th́ trong trường-hợp thứ nhứt, ngón tay bị tê 
	liệt v́ lạnh và máu không đầy đủ trong huyết-quản, và người ta không thế 
	viện dẫn lư do nầy cho trường hợp sau, v́ cánh tay vẫn ở nhiệt độ b́nh 
	thường và máu vẫn chạy điều ḥa tốt đẹp.
	
	       
	Khi nhờ cậy đến thần nhăn, chúng ta được lời giải đáp: Trong trường 
	hợp thứ nhứt, nếu ngón tay bị lạnh cóng như chết và máu không lưu thông 
	trong mạch máu v́ sinh-lực hồng cầu dĩ-thái không c̣n chạy theo màng lưới 
	thần-kinh. Chất dĩ-thái được tạo thành, mặc dầu là vô h́nh, nhưng nó cũng là 
	vật-chất nên sự lạnh và sự nóng có ảnh-hưởng đến nó.
	
	       
	Trong trường hợp thứ hai, khi nhà thôi miên truyền từ điện khiến cho 
	cánh tay mất cảm giác, sự thật là y đưa chất dĩ-thái của y (hay là từ-điện) 
	vào tay người thụ cảm và đùa chất từ-điện của kẻ thụ cảm ra ngoài. Cánh tay 
	vẫn c̣n nóng và sống v́ sự sống vẫn c̣n châu-lưu luôn luôn, nhưng v́ chất dĩ 
	thái nầy không phải của riêng cho cơ-quan của kẻ thụ cảm, nó không liên quan 
	đến cái óc nên nó không thể chuyển đến óc một cảm giác nào cả và v́ thế tay 
	không có cảm giác ǵ hết. Mặc dầu Sự-Sống dĩ-thái, (sinh-lực : Prana) không 
	hề có phận sự chuyển đến óc các cảm-giác, nhưng nó là nguyên-động-lực cần 
	thiết cho sự chuyển vận từ ngoài vào theo màng lưới thần-kinh.
	
	       
	Tất cả những biến đổi của cuộc tuần hoàn huyết-mạch cảm nhiểm đến năo 
	chất, sẽ biến đổi sức thâu nhận đúng đắn của nó. Cũng thế, chất dĩ-thái của 
	óc cũng bị ảnh-hưởng của các sự thay đổi về thể-tích hay vận-tốc của luồng 
	sinh lực.
	
	       
	Thí dụ: Khi số lượng dĩ-thái đi theo dây thần-kinh do lá lách đặc 
	biệt hút vào, v́ một lư do nào đó lại ít hơn số cần thiết th́ xác thịt bị 
	suy yếu, nếu trong lúc đó máu huyết lại chạy mau lên th́ con người sẽ dễ 
	giận, nóng nảy, có thể loạn thần-kinh nữa. Trong t́nh trạng nầy th́ xác thịt 
	nhạy cảm hơn lúc b́nh thường, v́ vậy những người đau khổ thấy những h́nh ảnh 
	hiện ra mà người mạnh khỏe không thấy được.
	
	       
	Trái lại, nếu thể-tích và vận tốc của sinh-lực đồng thời đều giảm, 
	con người sẽ đau khổ v́ suy nhược quá độ, trở thành kém nhạy cảm các 
	ảnh-hưởng từ ngoài đến và cảm thấy yếu đuối không c̣n quan tâm được những ǵ 
	sẽ đến cho ḿnh.
	
	       
	Cũng cần nhớ rằng chất dĩ-thái nói đây và chất thông thường đông đặc 
	hơn, tức là năo chất đều ở chung trong một cơ-thể xác thịt, thế nên khi một 
	tác động sanh ra ở chất nầy, th́ lập tức có phản-ứng ở chất kia. V́ thế, nếu 
	cơ cấu nầy không vận chuyển b́nh thường và đều đặn th́ không chắc là các 
	ấn-tượng được truyền đạt đúng đắn. Trạng thái bất thường nào trong một của 
	hai cơ quan cũng biến đổi sự thâu nhận và chỉ tạo ra những h́nh ảnh sai lệch 
	chớ không đúng thật. Vả lại óc dĩ-thái chính là nguyên-nhân các hiện-tượng 
	sai lầm trong lúc ngủ hơn lúc thức, sau sẽ giải rơ.
	
	
	
	3-  
	
	
	CƠ-CẤU THUỘC THỂ VÍA.  
	
	       
	Thể Vía, thường được gọi là DỤC-THỂ hay thể HAM MUỐN (Corps kâmique 
	ou corps du désir) c̣n là một cơ cấu cần phải để ư. Thể Vía làm toàn bằng 
	chất thanh-khí (matière astrale). Nó dùng để hoạt động ở cơi Trung-giới cũng 
	như Xác thịt dùng hoạt động ở cảnh thấp nhứt của cơi Hồng-trần.
	
	       
	Học giả Thông-Thiên-Học sẽ gặp nhiều khó khăn khi học tập quan sát 
	các thể nầy như là sự biểu lộ của CHƠN-NHƠN ở tại các cơi khác nhau. Thí dụ: 
	người ta sẽ thấy NHÂN-THỂ cũng gọi là CHƠN-THÂN hay THƯỢNG TRÍ (Corps causal 
	ou Karana Sharira) có khi cũng được gọi là Oeuf aurique : vầng hào quang 
	h́nh trứng, là thể chánh-thức của Chơn-Nhơn c̣n đi đầu thai, để cho 
	Chơn-Nhơn dùng khi ở tại trú sở chính tức là những cảnh cao của Thượng-giới. 
	Ta cũng sẽ biết rằng khi Chơn-Nhơn xuống thấp hơn tức là ở mấy cảnh thấp của 
	cơi Thượng-giới th́ Chơn-Nhơn phải rút chất khí mấy cảnh nầy bao ḿnh và làm 
	thành ra thể Hạ-Trí (Corps mental) nhờ vậy mới hoạt-động ở cơi Hạ-Thiên 
	được. Như thế, khi Chơn-Nhơn xuống thấp nữa, tới cơi Trung-giới th́ 
	Chơn-Nhơn phải rút chất Thanh-khí để tạo ra thể Vía (Corps astral), trong 
	khi ấy vẫn c̣n giữ các thể tinh-vi kia; đến khi xuống tới cơi thấp nhất là 
	cơi Hồng-trần, có Xác thịt được sanh ra ở giữa Nhân-thể (Oeuf aurique) bao 
	hàm con người trọn vẹn.
	
	       
	Thể Vía c̣n dễ cảm các ấn-tượng ngoại lai hơn cả Xác thịt và Phách 
	nữa, bởi v́ nó là trung-khu của các dục-vọng và mối cảm động, là môi giới 
	nhờ đó Chơn-Nhơn mới thâu thập được các kinh-nghiệm trong đời sống trần 
	gian. Nó rất dễ cảm nhứt là ảnh-hưởng của các luồng tư-tưởng đi ngang qua và 
	khi Hạ-trí không kiểm-soát nó. Nó nhận liên-tục những ấn-tượng của các sự 
	kích-thích ngoại lai và đáp ứng lại lẹ làng.
	
	       
	Cũng như mấy thể kia, nhứt là trong lúc ngủ, thể Vía dễ thâu nhận các 
	ảnh-hưởng. Điều nầy đă được chứng-minh trong nhiều cuộc quan-sát. Đây là một 
	câu chuyện mà người ta mới cho tác-giả biết: Người kia, lúc xưa đă say đắm 
	rượu chè, nay tỏ những nỗi khó khăn mà va gặp phải trên đường cải-thiện. Va 
	nói rằng sau khi từ bỏ rượu chè một thời-gian rất lâu, va đă trừ diệt được 
	ư-muốn uống rượu nên lúc thức va không nh́n đến rượu, ghê tởm rượu, vậy mà 
	thỉnh-thoảng va chiêm bao thấy uống rượu, và lúc đó va trở lại thấy uống 
	rượu thích thú vô cùng. 
	
	       
	Thật đúng như vậy, lúc ban ngày, ư-chí của va chế ngự sự muốn uống 
	rượu và các h́nh tư-tưởng ngẩu nhiên hay là những yếu tố vẩn vơ đi qua không 
	nhập vào va được, nhưng trong lúc ngủ, cái Vía được tự do, thoát khỏi sự 
	kềm-chế của Chơn-Nhơn một phần nào, và bản tánh dễ cảm của nó khiến nó trở 
	lại thiên về các ảnh hưởng xấu xa và tưởng tượng lại những thói xấu ty-tiện 
	cũ.
	
	
	CHƯƠNG BA
	CHƠN NHƠN
	
	
	       
	Tóm lại, tất cả các phần tử nầy của cơ cấu chỉ là những dụng cụ của 
	Chơn-Nhơn (Ego) và cho đến ngày nay Chơn-Nhơn cũng chưa hoàn toàn làm chủ 
	được các thể; thật vậy, ta phải nhớ rằng: chính Chơn-Nhơn cũng cần phải 
	phát-triển và hiện giờ, trong phần đông chúng ta, Chơn-Nhơn vẫn c̣n là một 
	cái mầm nếu so với một ngày kia, khi nó được toàn thiện.
	
	       
	Một đoạn của Thiên-Thơ Dzyan có nói rằng: “Người nào chỉ nhận được 
	một điểm linh-quang mà trơ trọi, không gom góp được thêm sự hiểu biết th́ 
	điểm linh-quang đó không bao giờ chiếu sáng ! và bà Blavatsky thêm 
	rằng:”Những kẻ chỉ thọ lănh một điểm linh-quang thông thường họp thành 
	nhơn-loại và họ c̣n phải thâu thập thêm trí-huệ trong kiếp tiến-hóa hiện 
	tại”. 
	
	(Doctrine secrète Vol.3).
	
	
	       
	Nơi phần đông thiên hạ, th́ điểm linh-quang nầy đương cháy chậm chạp 
	và c̣n phải cần nhiều thế kỷ nữa để phát triển mới trở thành một ngọn lửa 
	vững chắc và chói sáng.
	
	       
	Có lẽ trong sách Thông-Thiên-Học có những đoạn dường như nói 
	Chơn-Nhơn cao cả của chúng ta đă toàn-thiện, và giống như vị Thượng-Đế ở tại 
	cơi riêng của Ngài nên không cần tiến-hóa; nhưng nơi nào có những câu văn 
	đó, dầu dùng thuật-ngữ nào th́ ta cũng phải biết đó là nói về Atma, vị 
	Chơn-Thượng-Đế ấy ở trong ḷng ta, chắc chắn đă đến bực thật cao trên các 
	cuộc tiến-hóa cần thiết mà chúng ta hiểu.
	
	       
	Vị Chơn-Nhơn nào c̣n đầu thai chắc chắn phải tiến hóa, và sự tiến bộ 
	đó đă được thấy rơ ràng do những người nào mở được thần nhăn để học hỏi, xem 
	xét những sự việc ở các cảnh cao của cơi Thượng-giới.
	
	       
	Như người ta đă nói, ấy là vật-chất của cơi nầy—nếu chúng ta có thể 
	gọi nó là vật chất (matière)---hiệp thành một thể tương đối bất diệt
	
	
	
	[4](1) tên là Nhân-Thể (corps causal) và 
	vật chất nầy,Chơn-Nhơn mang theo để dùng, kiếp nầy sang kiếp kia cho đến khi 
	chấm dứt giai-đoạn làm người trên đường tiến-hóa. Tuy nhiên, người nào cũng 
	phải có một thể như thế, bởi v́ loài thú có được Nhân-thể mới tiến lên bực 
	Nhân-loại. Người có thần-nhăn thấy được Nhân-thể lờ mờ nơi những người 
	tiến-hóa bực trung, v́ Nhân-thể lúc nầy giống như một tấm màn hay nói đúng 
	hơn, một lùm mây mỏng, không màu sắc, vừa đủ sức để kết nạp làm người và tạo 
	thành một cá-nhân-tính để đi đầu thai, thế thôi [[5]]. 
	Nhưng nó sẽ biến đổi khi con người bắt đầu mở mang về tinh-thần, hoặc tiến 
	lên bực trí-thức cao hơn. Con người thật sự (véritable individu) bắt đầu có 
	một tính nết riêng biệt và vĩnh-cửu, khác xa với tính nết do sự giáo-dục 
	hoặc những cơ-hội sanh ra trong các Phàm nhơn liên tiếp và đặc-tính nầy phát 
	lộ ra màu sắc, sự sáng chói và sự minh bạch trong thể-tích của Nhân-thể; 
	đặc-tính của Phàm-nhơn cũng phát lộ như thế trong Hạ-Trí nhưng có sự khác 
	biệt là Nhân-thể thuộc cảnh cao, dĩ-nhiên là tinh-vi hơn và đẹp đẽ hơn 
	Hạ-trí. 
	
	       
	Về một điểm khác, tốt thay, nó khác với các thể thấp là không bao giờ 
	nó chứa một mảy ǵ xấu xa. Cái ǵ xảy đến cho người hèn hạ không thể phát 
	hiện nơi đây, cho nên dầu có say-mê điều đê-tiện trong nhiều kiếp cũng không 
	có một vết bẩn nào làm hoen-ố cái bao cao thượng nầy; nhưng như thế, con 
	người càng ngày càng khó phát-triển những hạnh-kiểm tốt đối-nghịch với các 
	tánh xấu xa đó.
	
	       
	Mặt khác, sự bền chí đi trên đường đạo-hạnh sẽ phát lộ lẹ làng trên 
	Nhân-thể, và trong trường-hợp một Đệ-tử có tiến bộ phần nào trên đường 
	Thánh-Đức th́ người ta thấy Nhân-thể là một quang cảnh tuyệt diệu và làm mê 
	mẫn tâm hồn không thể tả nổi; c̣n ở một vị Chơn-Tiên, ấy là một bầu tṛn 
	chói lọi hào quang linh-hoạt và phóng ra những tia sáng rực rỡ trên tất cả 
	các quan-niệm. Ai đă chứng-kiến được cái quang cảnh hoàn-mỹ như vậy và cũng 
	có thể xem được chung quanh ḿnh, những người khác đủ các bực tiến-hóa từ 
	một lùm mây mỏng và không màu sắc, biểu-thị chân-tướng của thường nhơn, đến 
	bầu hào quang rực-rỡ mà chúng tôi vừa mới tả, sẽ không c̣n chút nghi ngờ sự 
	thật về cuộc tiến-hóa của Chơn-Nhơn đi đầu thai lại.
	
	       
	Động tác của Chơn-Nhơn đối với các thể, trên đường tiến-hóa, lúc ban 
	đầu c̣n yếu kém. Hạ-trí cũng như các dục-vọng đều không phục tùng thế lực 
	của Chơn-Nhơn. Người thường th́ ít cố gắng để chế ngự các yếu-tố nầy, trái 
	lại, họ thường để cho nó chạy theo ḍng tư-tưởng và các dục vọng. V́ thế 
	trong lúc ngủ, các bộ phận của cơ cấu mà chúng ta đă nói, mỗi phần tự 
	hành-động, không theo mạng lịnh của Chơn-Nhơn, cho nên trong việc nghiên cứu 
	các chiêm-bao phải quan sát tŕnh độ tiến bộ của Chơn-Nhơn.
	
	       
	Chúng ta cần phải xem kỹ-lưỡng về phần nhận-định của Chơn-Nhơn đối 
	với các vật ở ngoài. Cần phải nhớ là những sự rung động của màng lưới 
	thần-kinh chỉ tŕnh bày cho óc những ấn-tượng, và phận sự của Chơn-Nhơn là 
	hành động trên Hạ-trí để chia môn loại, phối hợp và thu xếp chúng nó.
	
	       
	Thí dụ: khi nh́n ngang qua cửa sổ, tôi thấy một cái nhà, một bụi cây, 
	tôi biết chúng nó liền, mặc dầu cặp mắt tôi không bảo cho tôi biết như vậy. 
	Đây là điều đă xảy ra: Những tia ánh sáng, hay nói đúng hơn là những luồng 
	dĩ-thái chấn động với một vận-tốc nào đó, do sự phản chiếu của các đồ vật 
	nầy, nên dội vào vơng mạc của mắt tôi và màng lưới thần-kinh nhạy cảm, 
	chuyển y các ba động vào óc.
	
	       
	Nhưng  chúng 
	nó  phải 
	nói  thế 
	nào  cho đúng ? Chúng nó 
	cho biết ở đó có một vật thể nào ? có h́nh dáng ra sao, phản chiếu những 
	luồng sóng ánh sáng, nó ghi tác-động vào thị-giác để sanh ra một vài màu 
	sắc. Nhờ có kinh-nghiệm từ trước, Hạ-trí mới quyết định cái vuông trắng kia 
	là cái nhà, vật nọ tṛn và màu lục là một bụi cây, những vật nầy bao lớn và 
	ở cách đó bao xa.
	
	       
	Một người mù từ khi mới sanh, sau nhờ giải-phẩu thấy được mọi vật, 
	ban đầu va không biết những cái ǵ va thấy, và cũng không độ được vật đó ở 
	cách bao xa. Những đứa trẻ nhỏ quá cũng vậy, người ta thường thấy nó giơ tay 
	vói chụp một món đồ nó thích mà ở cách xa tầm tay của nó, như mặt trăng 
	chẳng hạn.
	
	       
	Lần lần trẻ con càng phát-triển, nó học từ lần những thí-nghiệm tái 
	diễn, tập ước-đạc theo bản năng khoảng cách và h́nh dáng đồ vật mà nó thấy. 
	Vậy mà cũng có khi, người đă trưởng thành rồi cũng không ước lượng được 
	khoảng cách các đồ vật mà họ không quen nh́n, cũng không biết thể tích, nhứt 
	là khi nh́n những vật nầy ở nơi thiếu ánh sáng.
	
	       
	Vậy th́ thị-giác chưa đủ để xác định một sự hiểu biết đúng đắn và cần 
	phải có thêm sự phân biện của Chơn-Nhơn, hoạt động trên Hạ-trí để xác-định 
	cái ǵ chúng ta thấy; hơn nữa, chúng ta thấy sự phân-biện nầy không phải là 
	một bản-năng thiên-nhiên của trí óc, và nó không hề toàn vẹn lúc ban đầu, 
	trái lại nó là kết quả của một sự so sánh vô-ư-thức, đă tập luyện trải qua 
	nhiều cuộc thí nghiệm. Cần nên nhớ kỹ tất cả những điều chúng tôi đă nói về 
	điểm nầy khi chúng ta bước qua phần khác của vấn-đề.
	
	
	
	CHƯƠNG BỐN
	ĐỊA VỊ CỦA CÁC YẾU TỐ NẦY
	TRONG LÚC NGỦ
	
	
	       
	Những sự quan sát của người có thần-nhăn chứng minh rằng khi con 
	người ngủ say, các nguyên-chất cao rút ra khỏi xác thịt và ở gần đó, trong 
	thể Vía. Tóm lại diễn sự rút lui về như vậy người ta thường gọi là ngủ.
	
	       
	Trong khi nghiên cứu hiện-tượng của chiêm bao, cần phải nhớ cách xếp 
	đặt nầy và xem coi nó cảm hóa Chơn-Nhơn và các cơ-cấu bằngcách nào. 
	
	       
	Trường hợp chúng ta định xem xét đây là một kẻ ngủ thật say và xác 
	thịt với bạn thiết bất ly của nó là cái Phách nằm yên trên giường. Chơn-Nhơn 
	ở trong cái Vía phất phơ êm thắm trên hai thể nầy. Trong t́nh trạng đó th́ 
	cách hoạt-động   và ư - 
	thức  của 
	các  phần 
	tử  nầy ra 
	sao?
	
	
	
	1-  
	
	
	CÁI  ÓC.
	
	       
	Khi Chơn-Nhơn tạm thời ngưng điều khiển cái óc th́ 
	ÓC không trở nên vô-ư-thức như người ta lầm tưởng đâu. Hiển nhiên là 
	thế, theo nhiều cuộc thí-nghiệm, xác thịt có một ư-thức riêng của nó 
	, ư-thức tối tăm lờ mờ, nhưng khác biệt với ư-thức Bản-Ngă (SOI) vốn 
	thực-tế, và cũng khác xa với tổng số ư-thức cấu thành do chính toàn-thể tế 
	bào của nó.
	
	       
	Tác giả quyển sách nầy quả nhiên có xem xét nhiều lần cái ư-thức nầy 
	trong khi người ta bị chụp thuốc mê để nhổ răng. Xác thịt bật ra một tiếng 
	mơ hồ không rơ ràng, hoảng hốt đưa tay lên miệng, tỏ ra là cảm thấy đau đớn 
	lắm, nhưng mà 20 giây sau, khi Chơn-Nhơn trở lại hiểu biết, va nói rằng 
	không có chút cảm giác ǵ lúc nhổ răng cả.
	
	       
	Tôi biết rơ là các cử động nầy thường là do sự phản ứng và người ta 
	chấp nhận thuyết nầy là một sự giải thích mà không để ư là ứng dụng vào 
	trường hợp nầy, th́ thuyết nầy không giải-thích ǵ cả.
	
	       
	Vậy th́ cái ư-thức nầy hoạt-động trong óc xác thịt, mặc dầu Chơn-Nhơn 
	nổi phất phơ trên đó nhưng tác động của óc tự-nhiên yếu ớt hơn chính con 
	người (tức là Chơn-Nhơn: Ego) và vậy th́ tất cả các nguyên nhân mà chúng tôi 
	nói ở trước là khả dĩ có ảnh hưởng đến cái óc, th́ lúc nầy chúng nó có thể 
	có ảnh-hưởng mạnh mẽ.                                
	Sự biến đổi nhỏ nhặt trong cuộc tuần huờn máu 
	huyết nghĩa là trong sự cung cấp máu cũng sanh ra những tác-động bất 
	thường quan-trọng và cũng như sự ăn không tiêu, khi làm rộn cuộc tuần-hoàn 
	huyết mạch, sẽ xáo trộn giấc ngủ và sanh ra mộng mị bậy bạ.
	
	       
	Cái ư-thức kỳ quái và tối tăm nầy cũng có những đặc tính lạ lùng 
	trong khi nó ở trạng-thái b́nh thường. Động tác của nó dường như trước nhứt 
	là tự động và những kết quả của nó thường là rời rạc không có chút ư-nghĩa 
	và đầy lộn xộn. Dường như nó không đủ sức nhận ra một ư niệm nếu không phải 
	là một lớp tuồng mà nó có đóng một vai tṛ trong cuộc, theo đó th́ tất cả 
	các sự kích thích của nó nhận được từ trong hoặc từ ngoài đều lập tức diễn 
	tả thành bức họa. Nó không thể nhận định những ư-tưởng trừu-tượng hay những 
	kư-ức đơn giản; tất cả cái đó đều trở thành những tri giác tưởng tượng. Tỷ 
	như ư-tưởng vinh hiển th́ hiện ra cho ư-thức nầy thấy một người sáng chói 
	trong mộng tưởng, trái lại mối oán ghét có h́nh dáng 
	người đóng tuồng đầy thù hận đối với đương sự.
	
	       
	Cũng thế, chỉ một ư-tưởng về địa phương cũng đưa người ngủ đến nơi 
	nầy. Nếu đang khi thức, chúng ta suy nghĩ đến nước Tàu, nước Nhật, tư tưởng 
	lập tức đưa ta đến các xứ nầy, nhưng chúng ta biết rơ ràng là xác thịt c̣n ở 
	đây như trước. Nhưng trong t́nh-trạng ư-thức mà ta quan sát th́ không có 
	Chơn-Nhơn để phân biẹt các ấn-tượng và v́ thế, các tư tưởng thoáng qua ở 
	nước Trung-Hoa hay Nhật-Bổn, chỉ phô diễn được nhờ sự di-chuyển tức khắc của 
	người mơ tưởng đến những xứ nầy và quả nhiên có đủ những t́nh-trạng mà các 
	quan-niệm về những xứ nầy có thể dẫn-khởi.
	
	       
	Người ta thường để ư thấy rằng dầu những t́nh-trạng tương phản hiện 
	ra trong giấc chiêm bao có lớn lao thế mấy th́ người chiêm bao cũng chẳng 
	có chút ǵ ngạc-nhiên.
	
	       
	Sự kỳ quái nầy dễ giải-thích, khi người ta xem xét nó theo phương 
	diện mà chúng ta đă quan sát, bởi v́ ư-thức của cái óc xác thịt không đủ sức 
	để có một cảm giác ngạc-nhiên, cái óc chỉ thấy các h́nh ảnh đi qua trước nó 
	mà không thể phán-đoán những điều ǵ phải tiếp nối, cũng như không biết cái 
	nào là phù hợp.
	
	       
	Một nguyên-nhân khác sanh ra sự quá lộn xộn được nhận ra trong cái 
	bán-ư-thức nầy đó là cái luật liên-kết các tư-tưởng ở trong cách 
	hành- động của nó. Chúng ta biết rằng trong khi thức, cái luật nầy hoạt động 
	lẹ làng. Chúng ta hiểu biết thế nào một tiếng nói, một câu hát cho đến mùi 
	thơm của một đóa hoa, có thể đem lại cho trí ta những kỹ-niệm xa xưa. 
	
	       
	Cái luật nầy cũng hoạt bát như thế trong cái óc dang ngủ, nhưng nó 
	hoạt động với một sự hạn-chế kỳ quái.
	
	       
	Mối liên-tưởng (association d’idées) đều trừu-tượng hay cụ thể, cũng 
	trở thành một tổ hợp đơn-giản các h́nh ảnh và v́ cái tổ hợp nầy thường 
	thường đồng hiện ra một lượt—như trường hợp các biến cố đă lần lượt xảy ra 
	dầu rất riêng biệt—có thể nó lại hiện ra những h́nh ảnh lộn xộn, rối-rắm, 
	không phân biệt, v́ kư-ức là sự tụ-hội vô số h́nh ảnh và cái nào có thể 
	trích ra được th́ nó hiện ra như một bức họa.
	
	        Cố nhiên, trí nhớ 
	ít khi vẽ lại các h́nh ảnh có thứ tự, cái nầy tiếp nối cái kia, v́ chúng nó 
	không có trật tự để giúp ta t́m lại cái nào trước cái nào sau.
	
	       
	Thật thế, trong lúc thức th́ cũng khá dễ dàng để nhớ lại một câu hay 
	một đoạn của một bài thơ, dầu chỉ nghe có một lần, trong khi không có một hệ 
	thống để giúp trí nhớ, th́ gần như không thế nào nhớ cho đúng một loạt tiếng 
	nói rời rạc, gom góp lại hổn độn.
	
	       
	Một đặc tính khác về ư-thức riêng của óc là: trong khi rất dễ cảm với 
	ảnh hưởng ngoại lai---thí dụ như xúc-giác hoặc thính-giác—nó lại phóng đại 
	và làm biến h́nh đến mức không tưởng nổi.
	
	       
	Các nhà văn đă nghiên-cứu vấn đề chiêm bao có nêu ra nhiều thí dụ. 
	Một câu chuyện thường được thuật lại là người kia chiêm bao thấy ḿnh bị 
	thắt cổ, nguyên nhân là v́ cổ áo sơ-mi của va chật quá. Một người khác chiêm 
	bao thấy bị một vết thương trí mạng trong cuộc quyết đấu, chỉ v́ bị một mũi 
	kim đâm trúng lúc ngủ; người khác bị véo nhẹ lại mộng thấy bị thú dữ cắn. 
	Ông Maury thuật lại là một đêm kia cây giăng mùng rớt và cọ nhẹ vào cổ ông, 
	vậy mà sanh ra một giấc chiêm bao kinh khủng, nó diễn lại cuộc cách-mạng 
	Pháp quốc, và ông thấy bị chém bằng máy chém.
	
	       
	Một văn sĩ khác lại nói với chúng tôi rằng khi thức dậy, ông luôn 
	luôn có cảm giác là đă nghe nhiều tiếng ồn ào, những âm thanh huyên náo và 
	những tiếng sấm sét một thời gian rất lâu, ông không hiểu tại sao; sau cùng 
	ông khám phá ra rằng: khi ông nằm mà đầu nghiêng qua úp trên lỗ tai th́ ông 
	nghe một tiếng ŕ rào giống như khi để một cái vỏ ốc vào tai. Thành thử theo 
	những điều đă kể ở trước th́ cái óc xác thịt là nguyên nhân của những lộn 
	xộn và làm cho ra quá đáng để giải-thích được một phần những hiện-tượng của 
	giấc mộng, nhưng óc chỉ mới là một trong các tác nhân (agent) cần phải 
	quan-sát.  
	
	  
	    
	
	
	2-  
	
	
	ÓC DĨ-THÁI. [[6]]
	
	       
	Hiển-nhiên là cái phần nầy của cơ-quan, trong lúc thức đă rất dễ cảm 
	bất kỳ ảnh-hưởng nào, th́ trong lúc ngủ nó lại càng nhạy cảm hơn nữa. Khi 
	một người có thần-nhăn quan sát nó th́ thấy các luồng sóng tư-tưởng đi ngang 
	qua nó không dứt, đây không phải là tư tưởng riêng của nó v́ nó không biết 
	tưởng-nghĩ, nhưng các tư-tưởng của người khác cứ phất phơ luôn luôn quanh 
	chúng ta. Các nhà nghiên-cứu huyền-bí học biết rằng:”Tư-tưởng là những vật 
	(choses)” bởi v́  mỗi tư-tưởng 
	in trên tinh chất để nặn h́nh (essence plastique élémentale) và cấu- thành 
	một thực thể sống tạm thời, thời gian lâu mau tùy theo sức xúc-động thuộc 
	Hạ-trí đă sanh ra nó.
	
	       
	Thức hay ngủ, chúng ta vẫn sống như ở giữa biển tư-tưởng do kẻ khác 
	tạo ra, và các tư tưởng nầy hiện đến không ngừng trước cái óc dĩ-thái của 
	chúng ta.
	
	       
	Nếu chúng ta biết suy tưởng sốt sắng và giữ cho cái óc dĩ-thái càng 
	có việc làm th́ càng ngăn chận được sự đột-kích của các tư-tưởng ngoại lai, 
	nhưng vừa khi nó nhàn rỗi th́ luồng tư-tưởng lộn xộn, không nhứt định, đang 
	bao quanh chúng ta liền xâm nhập vào. Phần nhiều tư-tưởng đi ngang qua cái 
	óc dĩ-thái chớ không dừng lại, thường thường th́ chúng ta cũng không hay 
	biết, nhưng thỉnh-thoảng nó lại khêu gợi các ba-động quen thuộc của óc 
	dĩ-thái và khi đó th́ óc giữ nó lại, tăng thêm sức mạnh cho nó và biến nó 
	thành tư-tưởng của ḿnh, rồi đến phiên các tư-tưởng nầy dẫn khởi những 
	tư-tưởng khác và từ đó cả một loạt tiếp nối sanh ra cho đến khi tất cả mất 
	hết sức mạnh mới thôi, và luồng tư-tưởng hổn độn lại đi ngang cái óc nữa.
	
	       
	Nếu ai muốn quan sát kỹ-lưỡng các tư-tưởng riêng của ḿnh, sẽ thấy 
	hầu hết đều do luồng tư-tưởng lộn xộn nầy sanh ra và ít khi thật là tư tưởng 
	của ḿnh, thường thường là những mănh tư-tưởng của kẻ khác. Người tầm 
	thường, hầu hết không hề kiểm soát được cái óc của họ, vào một lúc nào đó 
	có thể nói là họ có một điều để tưởng nghĩ hoặc tại sao họ có tư 
	tưởng nầy, th́ thay v́ dẫn dắt Hạ-trí đến mục-đích, họ để cho nó chạy rông 
	tùy thích, hoặc bỏ rơi nó tại một nơi nghỉ ngơi tai hại, đến nỗi một cảm 
	nghĩ có thể gieo các mầm vào để phát-triển và sanh bông trái ở đó.
	
	       
	Như vậy khi một Chơn-Nhơn muốn bảo tồn một tư tưởng có mạch lạc của 
	một vấn đề đă định cũng không được, bởi v́ đủ thứ tư-tưởng xuyên qua, và v́ 
	họ không tập kiểm soát Hạ-Trí, họ trở thành bất lực không xua đuổi nổi ḍng 
	suối tư-tưởng. Một kẻ như vậy,chưa biết định trí là ǵ, và v́ hoàn toàn 
	thiếu năng lực định-trí, v́ yếu kém tinh-thần và ư-chí, làm cho bước đầu 
	trên đường huyền-bí-học của kẻ tầm thường phải rất khó khăn. Vào tŕnh-độ 
	tiến hóa của nhơn loại hiện thời có nhiều tư-tưởng xấu hơn là tư-tưởng tốt, 
	cứ bay vởn vơ chung quanh chúng ta, và v́ yếu kém chúng ta phải chịu đựng 
	tất cả cám dỗ; nếu có chút ít cẩn thận và cố gắng ta có thể tránh bớt được 
	tai hại.
	
	       
	Trong lúc ngủ, óc dĩ-thái càng bị phơi bày, chịu đựng các luồng tư 
	tưởng hơn nữa, bởi v́ Chơn-Nhơn bớt liên-lạc mật thiết với nó. Một việc đáng 
	chú ư vừa được thực nghiệm là: khi nhờ một phương-tiện nào đó ta ngăn được 
	các ḍng suối tư-tưởng xâm nhập vào óc dĩ-thái th́ óc không chịu ở yên 
	thụ-động, nó bắt đầu phát-triển từ từ và không năng lực những h́nh ảnh rút 
	ra từ các kư-ức đă qua của nó. 
	
	       
	Chúng tôi sẽ nêu ra một thí dụ sau nầy khi tŕnh bày những thí-nghiệm 
	của chúng tôi.
	
	
	3-             
	
	
	THỂ VÍA
	
	        Như chúng 
	tôi đă nói, trong lúc ngủ th́ Chơn-Nhơn hoạt động trong thể Vía, nên người 
	có thần-nhăn có thể thấy nó lượn trên xác thịt đang ngủ. H́nh dáng nó tùy 
	theo bực tiến-hóa của Chơn-Nhơn đang dùng nó. Nếu là một người dốt nát và 
	chưa tiến-hóa th́ nó giống một lùm mây trôi nổi, h́nh trứng vừa mới 
	phác-họa, châu vi không đều đặn và không rơ ràng, c̣n diện mạo người trong 
	lùm mây (phần đối chiếu của xác thịt bằng chất thanh khí đông đặc nhất: la 
	contre-partie astrale la plus dense du corps phy-
	
	sique) th́ cũng lờ mờ nhưng thường nh́n biết được là ai.
	
	       
	Thể nầy chỉ rung động với các mối cảm kích thô bỉ nhứt và hung tợn 
	nhứt của dục vọng mà không đủ sức rời xa xác thịt quá hai thước. Nhưng lần 
	lần sự tiến hóa tăng lên, châu vi của lùm mây h́nh trứng cũng lần lần rơ 
	ràng thêm và diện mạo ở trong cũng càng giống hệt xác thịt. Lúc đó nó cũng 
	càng nhận đựơc thêm những ấn-tượng tốt hoặc xấu sanh ra ở cơi của nó.
	
	       
	Tuy nhiên, cũng cần phải thêm rằng, thể Vía của một người tiến-hóa 
	cao th́ không chứa đựng chất nào hơi thô-trược để ứng đáp những ba-động thấp 
	hèn. Năng lực hoạt-động của y cũng tăng lên rất nhiều và y có thể đi ra khỏi 
	xác thịt thật xa mà không có ǵ trở ngại và đem về những ấn-tượng ít nhiều 
	rơ ràng từ những nơi y đến viếng hoặc những người y gặp gỡ. Bất kỳ trường 
	hợp nào, cái vía nầy cũng luôn luôn bị cảm kích mạnh mẽ bởi các tư-tưởng 
	hoặc các dẫn khởi loại dục t́nh mặc dầu những ư muốn mà nó ứng đáp có thể là 
	cao thượng nhiều hay ít tùy theo hoàn cảnh.
	
	
	4- CHƠN-NHƠN
	
	       
	Sự tiến-hóa của con người về tinh-thần càng ngày càng tăng lên th́ 
	t́nh-trạng của Vía trong lúc ngủ càng thay đổi lớn lao và t́nh-trạng của 
	Chơn-Nhơn ngự trong Vía lại càng thay đổi nhiều hơn nữa.
	
	       
	Khi cái Vía c̣n là một lùm sương mù th́ Chơn-Nhơn cũng gần như ngủ 
	yên với xác thịt của nó ở dưới đó, nó như mù trước các quang cảnh, như điếc 
	đối với các âm-thanh ở cơi cao nầy, mặc dầu đó là cơi riêng của nó, đến nỗi 
	nếu có một quan-niệm mập mờ nào ở cơi nầy t́nh cờ xẹt đến th́ , v́ nó không 
	có sự kiểm-soát nào, không có một quyền lực nào đối với cơ cấu riêng của nó, 
	nên nó hoàn toàn bất lực, không ghi được quan-niệm nầy vô óc xác thịt để nhớ 
	lại khi thức dậy.
	
	       
	Nếu trong trạng thái tối sơ nầy, người nào nhớ một cái ǵ đă xảy ra 
	trong lúc ngủ, th́ hầu hết đều do sự xúc cảm từ trong hay từ ngoài của xác 
	thịt ghi vào óc, c̣n những thí-nghiệm của Chơn-Nhơn trong lúc ngủ đều quên 
	hết. Muốn hiểu rơ công việc nầy, chỉ cần quan sát những người ngủ, đủ hạng, 
	từ kẻ hoàn toàn quên tất cả, đến người có ư-thức hoàn toàn trọn vẹn về cơi 
	Trung-giới, mặc dầu hạng người nầy tương đối ít có. 
	
	       
	Dầu một người vừa tỉnh thức (theo nghĩa của tâm-linh) và có thể những 
	kinh-nghiệm quan trọng ở cơi cao năng vảng lai với y, mà thực ra lại thường 
	không thể chế-ngự được cái óc dĩ-thái để chận đứng ḍng tư-tưởng rời rạc 
	cấu-thành h́nh ảnh khi đi ngang qua và ghi tại đây thay v́ những điều mà y 
	muốn nhớ lại. Cũng vậy, khi xác thịt thức giấc, nó chỉ c̣n nhớ rất lộn xộn 
	hoặc nhớ không đúng điều ǵ thật đă xảy ra và đó là một sự thất lợi to v́ có 
	lẽ y đă tiếp xúc với những việc lợi ích tột bực và quan trọng bực nhứt. 
	
	       
	Chẳng những y có thể viếng những phong cảnh đẹp lạ thường ở phương xa 
	mà y c̣n có thể gặp những bạn thân c̣n sống hay đă chết, họ vẫn thức-tỉnh ở 
	cơi Trung-giới và y trao đổi ư-kiến với họ. Y có thể sung sướng được ở gần 
	những vị tiến bộ hơn y và hiểu biết rất cao xa, cùng được họ báo cho y biết 
	trước để pḥng ngừa hoặc y được họ dạy dỗ. Ngoài ra y có thể được hân-hạnh 
	giúp đỡ và làm vững mạnh những người c̣n dốt nát hơn y. Y có thể gặp đủ các 
	loài thực-thể không phải nhơn-loại, những vị ngũ-hành, những tinh-chất 
	nhơn-tạo hoặc những vị Thiên-thần nữa, mặc dầu hiếm lắm. Y sẽ chịu đựng đủ 
	thứ ảnh-hưởng, tốt hoặc xấu, ủy-lạo hoặc uy-hiếp.     
	
	
	
	
	TRẮC ĐỊNH THỜI GIỜ
	
	
	MỘT CÁCH SIÊU VIỆT
	
	
	       
	Khi thức dậy, dầu nhớ hay không những điều ta thấy, th́ Chơn-Nhơn, 
	nếu đă có ư-thức được một phần hay toàn vẹn ở cơi Trung-giới, bắt đầu thọ 
	lănh cái gia tài quyền năng quan-trọng hơn ở cơi Trần rất nhiều, bởi v́ cái 
	ư-thức được tự do ngoài xác thịt, có nhiều tư cách phi thường và nhiều tài 
	năng mới. Cách chia thời-gian và không gian th́ khác hẳn với cách mà chúng 
	ta dùng đang khi thức; dường như là không có thời-gian và không-gian đối với 
	nó.     
	       
	
	       
	Tôi không muốn bàn căi vấn đề nầy ở đây, mặc dầu nó rất thú vị, để 
	biết coi người ta có thể nói là thời gian có thật hay chỉ là giới hạn ư-thức 
	bực thấp của Chơn-Nhơn và, nếu cái ǵ mà chúng ta gọi là thời-gian—quá-khứ, 
	hiện-tại, hay vị-lai--- không phải chỉ là một ‘hiện-tại vô-tận’. Tôi chỉ 
	muốn tŕnh-bày là khi Chơn-Nhơn thoát khỏi các chướng-ngại vật-chất trong 
	lúc ngủ, trạng thái xuất-thần hoặc khi chết, th́ dường như nó dùng một loại 
	thời gian siêu-việt, không giống chút nào với quan-niệm thông thường và sinh 
	lư học của chúng ta áp dụng. Muốn chứng minh việc nầy, người ta có thể kể ra 
	cả trăm câu chuyện; đây chúng tôi xin kể ra hai chuyện: thứ nhứt, rất xưa, 
	tôi nhớ là của Addison thuật lại trong quyển The Spectator, chuyện kia là 
	một biến cố gần đây và chưa có công bố.
	
	
	
	NHỮNG CÂU CHUYỆN 
	
	
	ĐỂ THUYẾT MINH
	
	
	       
	Kinh Cô-Răn (Koran) chứa đựng riêng một bài kư-thuật lạ lùng, là 
	chuyện Đức Tiên-tri Ma-hô-mết (Mahomet) đi viếng cơi Trời. Trong cuộc viếng 
	thăm nầy, Ngài nhận xét đời sống của nhiều vùng khác nhau mà vạn-vật đă được 
	giải rơ ngọn ngành và Ngài có đàm phán lâu dài với nhiều vị Thiên-thần. 
	Nhưng khi Ngài trở về th́ chỗ Ngài nằm trước khi ra đi hăy c̣n nóng và từ 
	khi ra đi đến lúc trở về chỉ trong vài phút. Tôi lại tưởng, nếu một cái b́nh 
	nước đầy bị Ngài vô ư làm ngă khi bước ra đi viễn-du, chừng trở về tới th́ 
	nước trong b́nh chưa chảy ra hết.
	
	       
	Ông Addison thuật lại rằng có một vị Hoàng-Đế Ai-Cập không tin câu 
	chuyện trên, bèn đến tŕnh bày với vị 
	Sư huyền-bí-học của ông và cho đó là một chuyện tiểu thuyết. Người ta 
	đồn ông Sư nầy là người giải thích Thánh-Thơ (Doctrine de la loi) có tài 
	năng, nhiều phép mầu kỳ diệu, ông lập tức chứng minh cho ông vua hoài nghi 
	nầy thấy không phải là việc không làm được. Ông biểu đem đến một cái chậu 
	lớn đựng đầy nước và yêu cầu Hoàng-Đế cúi đầu nhúng vào chậu nước, và rất lạ 
	lùng, ông thấy đang ở một nơi hoàn toàn xa lạ, đứng trên mé biển vắng vẻ 
	quạnh-hiu, dưới chơn một ngọn núi cao. Ngạc nhiên thứ nhứt qua, ông có 
	ư-tưởng là bị tà thuật mê hoặc, đó là ư-tưởng tự nhiên của một vị Hoàng-Đế 
	Á-dông, và tiếp theo ông nguyền rủa ông Bác-học về sự phản bội quá khả ố. 
	Nhưng rồi thời gian qua, Hoàng-Đế bắt đầu thấy đói và tính thầm, trước hết 
	phải kiếm thế sanh nhai nơi địa phương xa lạ nầy. Sau khi đi lang thang một 
	lúc, ông gặp một nhóm người đang đốn cây, ông xin dự vào công việc. Họ bằng 
	ḷng cho ông giúp việc và dắt ông về châu thành của họ ở. Ông ở đó và làm 
	việc được vài năm, dành dụm được nhiều tiền, sau lại ông cưới một người vợ 
	giàu. Ông ở với vợ được hạnh phúc trong nhiều năm và sanh được 14 đứa con; 
	nhưng sau khi vợ ông chết, ông bị nhiều vận rủi nên phải bị túng thiếu và 
	đến tuổi già, trở thành một người gánh củi. Ngày kia, khi đi dựa mé biển, 
	ông cổi áo và lội xuống nước để tắm . Tắm xong ông chùi nước đang chảy trên 
	mắt, ông chưng hửng thấy ḿnh đang đứng trước triều-thần cũ của ḿnh, thầy 
	cũ ở bên cạnh, và trước mặt ông một chậu đầy nước . Ông ngẩn ngơ rất lâu 
	trước khi tin rằng những năm ngẩu nhiên đầy sự rắc rối chẳng qua là một giấc 
	mơ do sự bất-đồ dẫn-khởi thôi miên của thầy ông, chúng nó trải qua chỉ trong 
	một thời gian ngắn, đủ để nhúng đầu vào nước và lấy ra.  
	
	
	       
	Đó là một giai-thoại đẹp đẽ chứng thực cho lời nói của chúng tôi; 
	nhưng đành là chúng tôi không có bằng cớ để chứng minh sự thật, trong khi 
	đó, một sự t́nh xảy ra cho một nhà bác học quen thuộc, cách đây ít lâu. Ông 
	nhờ người ta nhổ hai cái răng. Người ta cho ông dùng thuốc mê như lệ thường 
	trong việc nầy. V́ ông rất ham thích nghiên-cứu những vấn đề của chúng ta 
	đang t́m đây nên ông định sẽ ghi nhớ kỹ-lưỡng tất cả những cảm giác trong 
	lúc giải-phẩu; nhưng, vừa khi ông hít thuốc mê th́ một sự an-lạc mơ hồ, một 
	giấc ngủ thiu-thiu khoái lạc đến với ông, làm cho ông quên cả ư-định và ngủ 
	liền. Ông tưởng là ông thức dậy vào buổi sáng hôm sau và tiếp tục việc 
	nghiên-cứu khoa học như thường lệ, diễn giảng trước những hội đoàn thông 
	thái v.v… và v.v… ,tất cả đều có một quan-niệm bằng ḷng đặc biệt và tăng 
	thêm quyền năng, mỗi kỳ diễn giảng là một công nghiệp phi thường, mỗi 
	thí-nghiệm đưa ông đến một phát minh mới và vinh-diệu.
	
	       
	Ngày tháng cứ tiếp tục qua như thế, đến một ngày kia, trong khi ông 
	diễn giảng trước một hội-đồng  
	hoàng-tộc, ông bị một thính giả phản-kháng vô lễ, chận lời và nói:”Bây giờ 
	xong rồi”. Ông quay lại để xem coi là chuyện ǵ th́ một người khác lại la 
	lên;” Đây, cả hai cái đều được nhổ hết”. Ông thấy lúc đó ông c̣n ngồi trên 
	ghế dựa của nha sĩ, và ông đă trải qua một đời sống nhiệt-liệt trong ṿng 40 
	giây.
	
	       
	Người ta sẽ nói: trong những trường hợp nầy không có trường hợp nào 
	là một chiêm bao thông thường, nhưng sự việc giống y như vậy, luôn 
	luôn xảy ra trong các chiêm bao thông thường, và cái đó có thể giải bày được 
	bởi nhiều bằng chứng.
	
	       
	Steffent, một trong các văn sĩ Đức chuyên nghiên-cứu vấn-đề nầy, 
	thuật lại rằng: khi ông c̣n nhỏ, ông ngủ chung với người anh, chừng chiêm 
	bao ông thấy đang ở nơi con đường vắng vẻ, bị một con thú rừng hung dữ rượt. 
	Ông hoảng hồn vụt chạy mà không la được tiếng nào, cho đến khi gặp cái thang 
	quây, ông liền leo lên. Đuối sức v́ quá sợ và chạy mau nên con thú theo kịp 
	và cắn vào bắp chân ông một vết thật sâu. Ông giật ḿnh tỉnh dậy, lúc đó, 
	ông gặp anh ông vừa mới  véo ông 
	đúng tại chỗ đó.
	
	       
	Richers, một văn sĩ Đức khác nói: một người kia tỉnh dậy v́ một tiếng 
	súng nổ gần đó trong lúc ông ngủ; ấy là lúc kết cuộc của một giấc mộng dài, 
	y thấy ḿnh là một quân nhân, rồi y đào ngũ, đau đớn v́ đói khát quá, y bị 
	bắt được, đem ra xử, y bị kết án và bị xử bắn. Thảm kịch lâu dài của y xảy 
	ra chỉ nội một giây ngắn ngủi khi tiếng súng nổ làm y tỉnh giấc gấp rút. 
	Chúng tôi cũng nghe câu chuyện một người ngủ trên ghế dựa đang lúc hút thuốc 
	và khi trải qua một giấc mơ cả một cuộc đời đầy tai họa và trong nhiều năm, 
	khi thức dậy th́ điếu thuốc c̣n cháy. Người ta có thể gia tăng tất cả những 
	bằng chứng xác thực nầy lên đến vô cùng.
	
	
	
	QUYỀN NĂNG PHÓNG ĐẠI
	
	
	       
	Một đặc biệt phi thường khác của Chơn-Nhơn có thể thêm vào với sự 
	trắc-định siêu-việt thời gian đă được vài câu chuyện dẫn khởi, ấy là năng 
	lực phóng đại lập tức các biến cố đáng lẽ chúng ta nên gọi là thói quen của 
	nó.
	
	        Người 
	ta có thể phân biệt được là trong trường hợp tiếng súng nổ và véo ở chân mà 
	chúng tôi đă kể, cái kết quả hữu h́nh là làm người tỉnh dậy, đi đến điểm tối 
	cao của giấc mộng, hiển nhiên rộng răi lâu đến nhiều năm liên tiếp, mặc dầu 
	sự dẫn khởi thật sự do chính cái kết quả hữu h́nh của nó.
	
	       
	Nay có thể nói rằng: lời bố cáo, tin tức mới, từ cái ấn-tượng 
	hữu-h́nh, sự đụng chạm, phải chuyển đến óc bởi sự chấn-động có cảm giác 
	tương xứng, dài theo màng lưới thần-kinh; cái đó chỉ cần một phần nhỏ giây 
	đồng hồ chớ không cần lâu hơn, nhưng đó là một thời gian xác-định, có thể 
	tính được, đo lường được bởi những dụng cụ tinh vi dùng trong cuộc t́m xét 
	hiện thời để ghi chép những sự chuyển đến óc các cảm giác bên ngoài.
	
	       
	Chơn-Nhơn một khi rời khỏi xác thịt, không cần dây thần-kinh, có thể 
	tri-giác mau lẹ tuyệt đối; nó được báo cáo có một biến cố liền khi xảy ra, 
	nghĩa là chỉ vừa vặn  trong thời 
	gian ngắn nhứt để cho tin tức đó đến óc xác thịt 
	
	       
	Trong khoảng thời gian cực ngắn nầy và vừa đủ để biết dường như nó 
	tạo thành được một loại kịch bản, gồm một loạt cảnh trí dẫn đến biến cố đánh 
	thức xác thịt và biến cố nầy là điểm tối cao, là mức cuối cùng của bản kịch 
	và, khi tỉnh giấc, v́ hạn chế bởi các cơ quan xác thịt, người chiêm bao 
	không phân biệt được chủ quan của mục tiêu trong kư-ức nên tưởng là va đă 
	thật sự hoạt-động như một diễn viên trong giấc mộng.
	
	       
	Vả lại, cái thói quen nầy chỉ riêng cho các Chơn-Nhơn kém mở mang. 
	Lần lần tiến bộ lên th́ con người thật hiểu biết được địa vị và trách-nhiệm 
	của ḿnh nên vượt lên cao khỏi các tṛ chơi ngây thơ lúc trước. Người c̣n 
	dă-man khi gặp một biến cố vật-chất th́ biến đổi thành thần-thoại; Chơn-Nhơn 
	kém tiến bộ cũng thế, nó biến đổi sự t́nh nào làm cho nó chú ư đó thành ra 
	kịch bản; nhưng người nào đến tŕnh-độ có ư-thức liên tục, bị thu hút trọn 
	vẹn vào công tác trên cơi cao, không c̣n dùng năng lực của ḿnh vào tṛ trẻ 
	con nữa, và v́ thế không c̣n thấy chiêm bao nữa.
	
	
	
	KHẢ NĂNG TIÊN-TRI
	
	
	       
	Do sự trắc-định thời-gian một cách siêu-thường mà Chơn-Nhơn có thêm 
	một kết quả khác là biết được việc hiện-tại, việc quá khứ và một phần việc 
	tương-lai nữa. Nếu Chơn-Nhơn biết cách đọc, sẽ thấy các việc trước mắt như 
	xem trong quyển sách đă lật ra rồi. Chơn-Nhơn cũng có thể thấy trước các 
	biến cố sẽ xảy ra có lợi ích hay quan trọng cho xác thịt, nên cố gắng làm 
	cho xác thịt biết trước. Chúng ta sẽ không lấy làm lạ v́ ít khi đi đến 
	kết-quả, nếu chúng ta biết được sự khó khăn phi thường mà Chơn-Nhơn gặp phải 
	trong trường hợp c̣n là thường nhơn, và khi Chơn-Nhơn mới có ư-thức được một 
	phần, nó gần như chưa có kiểm soát các thể mà nó sử dụng, v́ vậy nó không 
	thế ngăn ngừa cho tin tức nó đưa đi khỏi bị biến dạng hoặc khỏi bị tiêu diệt 
	bởi những dục-vọng quay cuồng dữ dội, bởi những triều lưu tư tưởng bất ngờ 
	của óc dĩ-thái, hoặc bởi một sự khó chịu nào đó của xác thịt.
	
	       
	Cũng có khi sự tiên-tri đầy đủ và hoàn hảo của một biến cố xác định 
	in sâu vào óc của người nằm chiêm bao, nhưng thường thường th́ h́nh ảnh bị 
	biến đổi và không c̣n hiểu ǵ được; nhiều khi chỉ là 
	một sự nhớ vô ư thức kéo dài măi, là một dự cảm mơ hồ có tai nạn đang 
	chực chờ ḿnh ;  thường hơn hết 
	th́ không có cái ǵ xâm nhập vào xác thể chúng ta. Người ta thường kết luận 
	rằng: khi một loại tiên tri đă xảy ra đúng y th́ đó là một việc t́nh cờ 
	giống nhau, bởi v́ nếu các biến cố có thể thấy trước được th́ nó phải được 
	quyết định trước rồi, nhưng nó không thể đúng, đối với người có tự do ư chí.
	
	       
	Trong khi đó, chắc chắn là con người có tự do ư chí và như tôi đă lưu ư ở 
	trước sự tiên-tri về tương lai chỉ thấy được một phần nào thôi .
	
	       
	Khi nói về đời sống của người kém mở mang th́ sự tiên-tri nầy có thể được 
	một tỷ lệ khá lớn, bởi v́ có thể nói là hạng người nầy chưa phát triển cái 
	ư-chí chắc chắn cho nên rất thường họ là người bị cảnh ngộ sáng tạo định 
	đoạt. Quả nhiên nghiệp báo đă định cho họ một số thân hữu, một địa vị trong 
	xă hội, giữa những biến cố và cảnh ngộ của họ là một yếu tố quan trọng trong 
	lịch sử của họ, nên tương lai của họ có thể tiên-tri được chắc chắn như tính 
	số học.
	
	       
	Khi chúng ta quan sát một phần lớn các biến cố nào mà không hề bị ảnh hưởng 
	bởi động tác nhơn loại cùng không có bị sự liên quan phức tạp và tăng trưởng 
	của các nhân và quả th́ chẳng có ǵ lạ; tại cơi nào mà người ta thấy được 
	kết quả của tất cả nguyên nhân th́ người ta có thể tiên-tri được rất nhiều 
	việc một cách đúng đắn, cho đến các chi tiết nữa.
	
	       
	Đă có cả ngàn lần được chứng minh, chẳng những do các chiêm bao tiên-tri, mà 
	c̣n do thấu thị giác (seconde vue ) của dân Highlanders ở Ecosse ( Tô- 
	cách-Lan ) và người có thần nhăn nữa; và lư luận của chiêm tinh thuật cũng 
	dựa trên sự tiên-tri những két quả sinh ra bởi các nguyên nhân đă có sẳn.
	
	       
	Nhưng khi nói về một người đă tấn-hoá, một người đă lịch lăm đạo đức và có ư 
	chí th́ sự tiên-tri có thể sai v́ người nầy chẳng c̣n bị cảnh ngộ định đoạt; 
	ít ra cũng trong một phần lớn, y là chủ của chúng nó. Đành rằng những biến 
	cố chánh trong đớ sống của y đă sắp đặt trước và đă tuyên bố bởi nghiệp quả 
	cũ; nhưng cách thức mà y phải chịu đựng, phương pháp đưa y đến vinh quang, 
	đều do y quyết định, chính là sự sáng tạo riêng của y và không thể nào thấy 
	trước được, ngoại trừ điều đại khái. Những hành động của y sẽ trở thành 
	những cái nhân (causes); và như thế những loạt kết quả sẽ tạo thành trong 
	đời sống của y không hề định trước trong việc xếp đặt nguyên sơ và v́ vậy 
	không thể tiên-tri thật đúng đắn được .
	
	       
	Một thí nghiệm đơn giản về cách cấu tạo để chúng ta so sánh. Một sức mạnh 
	tung ra để lăn một trái banh. Chúng ta không có cách nào huỷ mất cái sức 
	mạnh đó, hoặc làm giảm nó được khi trái banh đă lăn rồi, nhưng chúng ta có 
	thể chống trả lại được hoặc biến-đổi bằng một sức mạnh khác từ hướng 
	đối nghịch. Một sức mạnh tương đương từ hướng đối nghịch tung vào 
	trái banh sẽ làm nó ngưng hẳn lại; sức mạnh kém hơn sẽ làm nó lăn chậm lại; 
	bất luận một sức mạnh nào từ một hướng khác chạm vào trái banh cũng làm biến 
	đổi tốc lực và chuyển hướng trái banh.
	
	       
	Trong công việc định mạng cũng vậy. Đành rằng đến một lúc nào đó, một 
	số nguyên nhân phải phát động nếu không ngăn cản nó, tự nhiên nó sẽ tạo ra 
	một số kết quả không thể tránh được, và dường như đă hiện diện tại những cơi 
	cao hơn, như thế có thể miêu tả đúng được. Nhưng cũng có thể đúng là một 
	người có ư-chí mạnh mẽ, phóng ra những sức mạnh mới, biến đổi rất nhiều các 
	quả báo nầy và các sự biến đổi nầy không có sự tiên tri thông thường nào 
	thấy được, cho đến khi các lực mới nầy bắt đầu phát động.
	
	
	
	MẪU CHUYỆN ỨNG DỤNG
	
	
	       
	Tác giả biết được hai vụ rắc rối vừa xảy ra có thể dùng để miêu tả 
	đầy đủ về khả năng tiên tri và sự biến đổi do một ư-chí cương-quyết. Một ông 
	kia thường dùng bàn tay trong việc ‘chấp bút tự-động’, một ngày kia, cũng 
	theo phương pháp nầy ông nhận được tin báo cáo là có một người quen đến. 
	Người nầy cho ông biết mối tức giận và sự bất măn khi y đứng trongpḥng 
	trống lổng vào ngày y đă định trước cho buổi diễn giảng. Y thêm rằng y đă 
	phải bỏ cuộc nói chuyện như y đă định trước.
	
	       
	Vài ngày sau, ông nầy gặp người quen đă nói ở trên và tỏ lời chia 
	buồn về mối thất-vọng. Người nầy lấy làm ngạc nhiên và trả lời là y chưa 
	tổ-chức cuộc nói chuyện đó v́ đă dự định vào tuần tới và y hy-vọng sự báo 
	tin nầy không đúng như lời tiên-tri, chưa chắc là việc gọi là báo tin nầy 
	đúng là một việc tiên-tri, mặc dầu đến giờ đă định, không có ai vào pḥng để 
	dự thính. Buổi diễn giảng không thành, và diễn giả phiền chán và buồn rầu 
	quá đổi đúng như bản văn được chấp bút cáo tri. Người ta không thấy được 
	loại tinh linh nào đă cảm ứng viết ra,nhưng chắc là họ ở tại cơi nào đă hiện 
	ra điều tiên tri nầy; có thể chính họ đă làm cái việc mà họ muốn Chơn-Nhơn 
	của diễn giả đă muốn làm giảm bớt sự chán nản cho Phàm-nhơn nên sắp đặt 
	trước như vậy.
	
	       
	Người ta sẽ nói: nếu đúng vậy sao không nói ngay với Phàm-nhơn? –Có thể là 
	không đủ năng lực và mặt khác, có lẽ sự nhạy cảm của bạn va phải chăng là 
	con kinh phù hạp để nhận sự khuyến cáo. Những người nghiên cứu các vấn đề 
	nầy đều biết rơ rằng có nhiều thí dụ mà sự phát biểu bị lúng túng th́ chỉ có 
	phương tiện đă nói trên có thể áp dụng được mà thôi . Cũng ông nầy 
	nhận được tin bằng cách đó vào một dịp khác , một bức thư của một người bạn 
	gái, thuật lại một sự t́nh cờ dai dẳng và buồn thảm mới xảy ra. Bàgiải bày 
	rằng bà rất bối rối và tất cả sự khó khăn đều là do một cuộc đàm thoại 
	với bạn bè mà sanh ra, bà thuật tỉ mỉ: một người đă khuyến dụ bà nên 
	làm theo một lối hành động riêng biệt, mà nghịch ư bà. Bà giải bày tiếp. 
	Trong ṿng một năm sau, một loạt biến cố đă xảy ra, trực tiếp qui tội về bà 
	v́ bà thi hành theo đường lối đă thảo luận kết cuộc là một tội ác ghê gớm, 
	luôn luôn làm ảm đạm đời sống của bà.
	
	       
	Cũng giống như kỳ trước khi ông nầy gặp bà bạn đă gởi thư cho ông bằng cách 
	chấp bút ông thuật lại câu chuyện th́ bà nầy không biết chút nào về việc đó, 
	và dầu quá cảm động về các chi tiết , họ đồng ư kết luận là tạm thời coi như 
	không có chuyện ǵ đáng gọi là quan trọng.
	
	       
	Một thời gian sau, bà nầy gặp vô số sự bất ngờ, câu chuyện đàm thoại 
	tiên-tri trong bức thơ xảy ra đúng y, người ta cố nài biểu bà nhận lời quyết 
	định đưa đến kết quả tàn khốc đă ghi trong bức thư 
	chấp bút. Nếu bà không nhớ lời tiên-tri trong thơ, chắc chắn là bà 
	phải nhượng bộ theo sự xét đoán riêng của bà. Nhưng trong trí c̣n nhớ chuyện 
	nầy nên bà chống cự mạnh dạn , mặc dầu bà thấy thái độ của bà làm cho bạn 
	khó chịu và ngạc nhiên. Những công việc kế tiếp có ghi trong thơ không xảy 
	ra; thời gian tai họa tiên tri đến và qua tự nhiên không xảy ra sự rắc rối 
	bất thường nào.
	
	       
	Có thể người ta sẽ nói là trong các trường hợp đều sẽ như thế; có lẽ 
	là vậy. Nhưng trong khi chú ư phần đầu của lời tiên-tri kỳ sau và toàn thể 
	lời tiên tri kỳ trước đă xảy ra đúng y, người ta không thể không biết rằng : 
	cẩn thận đề pḥng điều đă ghi trong thơ th́ có thể tránh tội ác kéo dài ra 
	măi. Nếu đúng vậy th́ đó là một gương mẫu tuyệt-diệu để chỉ phương thế sửa 
	đổi việc tương lai bằng một hành động của ư-chí cương quyết và sáng suốt.
	
	
	
	TƯ TƯỞNG TƯỢNG TRƯNG
	
	
	       
	Một điểm khác đáng được chú ư, thích-hợp với địa vị của Chơn-Nhơn lúc 
	ra khỏi xác thịt trong khi ngủ, ấy là suy nghĩ bằng biểu-tượng, nghĩa là: 
	một ư tưởng ở cơi Trần phải dùng nhiều tiếng để diễn-tả mà Chơn-Nhơn chỉ 
	dùng một h́nh ảnh để tượng-trưng. 
	
	       
	Vậy, khi một tư-tưởng loại nầy in vào óc và chuyển như thế đến kư-ức 
	của ư-thức trong lúc thức, tự-nhiên nó cần phải phiên dịch lại. Thường 
	thường óc làm tṛn nhiệm vụ nầy, nhưng cũng thường khi người ta nhớ cái 
	biểu-tượng mà không mang về cái ch́a khóa nên kư-ức có biểu tượng không 
	phiên dịch và mất tích trong sự lộn xộn bực tức.
	
	       
	Tuy vậy rất nhiều người có thói quen nhớ những biểu-tượng không có sự 
	phiên dịch nào; họ t́m cho nó một ư nghĩa. Như thế, mỗi người dường như có 
	một hệ thống biểu-tượng riêng.
	
	       
	Bà Crowe, trong quyển ‘Night Side of Nature’ (trang 54) thuật rằng:” 
	có một bà luôn luôn chiêm bao thấy một con cá to khi bà sắp có chuyện buồn 
	phiền. Một ngày kia, bà chiêm bao thấy con cá to nầy cắn hai ngón tay đứa 
	con trai nhỏ của bà. Ít lâu sau, con bà bị bạn học gây thương tích bằng cái 
	ŕu nhỏ đúng ngay hai ngón tay đó. Bà thêm rằng: Tôi cũng nghe nói nhiều 
	người có kinh-nghiệm biết quan-sát vài điềm chiêm bao đặc biệt như là những 
	triệu bất tường sẽ đến. Tuy nhiên có vài điểm mà các người có chiêm bao đều 
	đồng ư thí dụ như chiêm bao thấy nước có nghĩa là gần kề sự nguy hiểm và 
	chiêm bao thấy hột ngọc là dấu hiệu có khóc than (đổ lệ).
	
	
	
	NHỮNG YẾU TỐ SANH RA MỘNG
	
	
	       
	Việc quan sát về địa vị của con người trong giấc ngủ cho chúng ta 
	thấy những phần tử quan-hệ sanh ra chiêm bao là:
	
	       
	
	
	       
	1/- CHƠN NHƠN , có thể ở trong bất kỳ t́nh-trạng ư-thức nào, 
	từ tŕnh-độ chưa biết điều khiển các năng lực cho đến khi có được đầy đủ vài 
	quyền lực thật cao siêu, hơn cả lúc đang thức.
	
	       
	2/- THỂ VÍA , rung động luôn luôn do ảnh-hưởng của cảm xúc và 
	dục-vọng.
	
	       
	3/- ÓC DĨ-THÁI , với loạt h́nh ảnh không liên-hệ nhau, tiếp 
	nối nhau đi ngang qua không dứt.
	
	       
	4/- ÓC XÁC THỊT , với cái bán ư-thức ngây thơ và cái thói quen 
	phô diễn tất cả cái ǵ bày ra dưới h́nh dáng tranh ảnh.
	
	       
	Khi chúng ta ngủ, Chơn-Nhơn càng lúc càng lùi sâu về cơi riêng của nó 
	và thế là nó để các thể tự do hành động theo sự kích thích riêng mà thường 
	thường chúng nó không có vậy. Nếu chúng tôi thêm rằng mỗi phần tử lúc nầy 
	rất nhạy cảm với các ấn-tượng bên ngoài hơn b́nh thường th́ ta sẽ không c̣n 
	ngạc nhiên khi các chuyện sực nhớ lại tạo thành một thứ tổng hợp đủ các loại 
	hoạt-động trong khi ngủ, và thường thường hơi lộn xộn. Khi thiết-định các 
	nguyên-lư rồi bây giờ chúng ta xem xét coi người ta phải quan-sát các loại 
	chiêm bao cách nào.
	
	
	CHƯƠNG NĂM
	NHỮNG GIẤC MỘNG
	
	
	
	1-  
	
	
	Mộng đúng sự thật 
	.
	
	       
	Nói đúng ra th́ việc nầy không thể kể là mộng, mà nên coi như một 
	trường hợp chính Chơn-Nhơn thấy được chuyện đó ở trên một cơi cao hoặc một 
	nhơn-vật tiến-hóa cao cho nó hiểu một biến cố mà nó cần phải biết, hay là 
	chỉ cho nó thấy một cảnh vinh-quang và cao quí để khuyến-khích và tăng thêm 
	năng lực cho nó. Hạnh phúc thay, người nào được một nhăn quang khá rơ ràng 
	để thấu triệt tất cả các chướng ngại và ghi đúng đắn trong kư-ức.
	
	
	
	2-  
	
	
	Mộng tiên tri 
	.
	
	       
	Chúng ta cũng phải qui về cho hành-vi của Chơn-Nhơn mà thôi; hoặc nó 
	có thể tự biết trước hoặc người ta dạy cho nó biết trước một sự t́nh để tập 
	luyện Phàm-nhơn của nó. Sự chiêm bao nầy có thể được tŕnh bày khá rơ ràng 
	và đúng đắn, đủ cỡ bực, tùy theo tài năng của Chơn-Nhơn đă thông hiểu công 
	việc và kế đó in sâu vào óc khi thức giấc.
	
	       
	Biến cố được báo cáo có khi rất trọng đại như sự chết hoặc tai biến, 
	và trong trường hợp nầy lư-do mà Chơn-Nhơn t́m cách in sâu vào óc của người 
	ngủ th́ thật rơ ràng minh bạch, nhưng trong những dịp khác, sự báo trước 
	không có một chút ǵ quan-trọng th́ khó mà hiểu tại sao Chơn-Nhơn cũng chăm 
	lo. Luôn luôn có lẽ là trong các trường hợp như thế, tự nhiên chỉ có một 
	phần nhỏ nhít được ghi vào kư-ức, c̣n phần lớn không đi đến óc xác thịt.
	
	       
	Sự tiên tri thường thường xảy ra với mục đích là khuyến cáo và các 
	thí dụ được xem xét th́ rất nhiều, đều là để pḥng ngừa cho người nằm mộng 
	tránh khỏi chết hoặc tai nạn nguy-hiểm. Tuy vậy, rất nhiều khi các lời 
	khuyến cáo nầy không được nghe theo hoặc không hiểu, chừng công việc xảy ra 
	rồi người ta mới biết được. C̣n có trường hợp khác nữa, sự khuyến cáo đă đưa 
	đến, tuy nhiên người nằm mộng không hề kiểm soát lại nên việc cứ xảy ra đúng 
	y như t́nh trạng đă tiên-tri.
	
	       
	Những giai thoại về chiêm bao linh ứng rất thông thường nên độc giả 
	rất dễ gặp trong hầu hết các sách nói về đề tài nầy. Tôi chỉ kể vài chuyện 
	mới đây do M.W.T.Stead thuật trong tập Real Ghost Stories trang 77.
	
	        Người hùng trong câu 
	chuyện là thợ rèn trong nhà máy xay chạy bằng thủy xa. Y biết rằng bánh xe 
	nầy cần phải sửa chữa, và một đêm kia, y mơ thấy chủ xưởng cầm y ở lại để 
	sửa khi hết ngày, rồi y trợt chân và bị kẹt giữa hai bánh xe, bị thương và 
	rồi bị cắt chân. Sáng hôm sau, y thuật lại cho vợ nghe, và tính trước chiều 
	đó sẽ về luôn, dầu người ta biểu ở lại để sửa máy. Trong ngày, ông chủ tuyên 
	bố máy thủy xa cần phải sửa ngay chiều đó sau khi các thầy thợ ra về. Người 
	thợ rèn định sẽ ra về trước giờ chỉ định. Y bèn lẻn ra đi và ẩn trong khu 
	rừng kế cận để trốn. Đi đến chỗ để cây ván của nhà máy, y bắt gặp một gả 
	gian-phi trộm mấy tấm ván. Kẻ nầy thấy y liền chạy trốn, y bèn rượt theo cốt 
	ư để lấy đồ bị trộm lại và hăng hái đuổi theo đến nỗi quên ư định của y và 
	trước khi nhớ lại th́ y đă về đến nhà máy, đúng lúc thầy thợ ra về. Y không 
	làm sao tránh cho khỏi người ta gặp và y là thợ rèn chánh, y phải bắt tay 
	vào việc sửa máy, và đinh ninh cố chú ư kỹ-lưỡng hơn ngày thường. Tuy nhiên, 
	mặc dầu vậy y cũng bị trợt chân và bị kẹt vào hai bánh xe như điềm chiêm bao 
	đă thấy. Y bị thương rất nặng, người ta chở y vào bệnh viện Bradford, và 
	chân bị cắt phía trên đầu gối, như thế điềm chiêm bao linh ứng thật trọn 
	vẹn.
	
	
	
	3-  
	
	
	Mộng tượng-trưng.
	
	       
	Thứ chiêm bao nầy cũng là công-tác riêng của Chơn-Nhơn, và có thể xác 
	nhận là một loại mộng tiên-tri, bởi v́ thứ chiêm bao nầy cuối cùng chỉ là 
	một thứ phiên dịch không trọn vẹn do Chơn-Nhơn chuyển đạt đến óc xác thịt 
	một báo cáo về tương lai. Một thí dụ hay về loại chiêm bao nầy do Sir Noel 
	Platon viết trong bức thơ gởi về cho bà Crowe và được bà cho in vào quyển 
	The Night of Nature trang 54. Đây là lời của nhà nghệ-thuật đă viết:
	
	       
	“Điềm chiêm bao nầy của mẹ tôi, như vầy: Mẹ tôi ở trong một căn nhà 
	dài, tối mờ và không có bàn ghế, một bên là cha tôi, và bên kia là chị tôi, 
	kế đó là tôi và tất cả gia quyến đều sắp hàng theo thứ tự tuổi tác. . . Tất 
	cả chúng tôi đều im lặng và không động đậy. Kế đó một cái ǵ kỳ quái không 
	tưởng tượng nổi xông vào, cái bóng của nó xẹt vào trước, có bao trùm một 
	không khí ghê rợn  đủ tất cả 
	điều vụn vặt như điềm chiêm bao trước. Nó vào, len lén đi xuống ba bậc thang 
	dẫn đến cửa pḥng, kinh-khủng, và mẹ tôi cảm tưởng là tử thần đi vào. Con ma 
	vác trên vai một cái ŕu nặng và đă đến, mẹ tôi nghĩ là nó đến để sát hại 
	tất cả con bà trong một lần. Khi nó vừa vào th́ em gái tôi, Alexes bước ra 
	khỏi hàng muốn đứng giữa mẹ tôi và con ma. Con ma giơ ŕu lên bổ vào chị 
	Cathérine của tôi, mà mẹ tôi, đang khủng khiếp, cũng không ngăn chận được, 
	mặc dầu bà đă thủ sẵn một cái ghế đẩu ba chơn với ư định chống lại. Bà cảm 
	nghĩ là không thế nào liệng ghế vào con ma mà không làm hại Alexes v́ Alexes 
	đứng ở ngoài hàng, giữa bà với con ma. Lưỡi ŕu hạ xuống và chị Cathérine 
	ngă gục. Con ma nghiêm-khốc (?) lại giơ ŕu lên và nhắm ngay đầu đứa em trai 
	của tôi đứng kế tiếp đó, nhưng Alexes đă biến mất nơi nào phía sau con ma, 
	mẹ tôi la lên một tiếng, đập ghế vào đầu con ma. Nó biến mất và mẹ tôi thức 
	dậy. 
	
	       
	Ba tháng sau, tất cả chị em chúng tôi đều phát bệnh tinh-hồng-nhiệt. 
	Chị Cathérine của  tôi bị 
	hy-sinh chết mau quá, nên mẹ tôi suy nghĩ tuyệt vọng, mối lo âu rất lớn v́ 
	bệnh em Alexes dường như là sự nguy hiểm cấp bách . Một phần giấc mộng đă 
	thành sự thật. Bệnh của tôi cũng nặng lắm, gần chết. Thầy thuốc đă bỏ lơ tôi 
	rồi, nhưng mẹ tôi cứ săn sóc và tin chắc là tôi sẽ hết bệnh. C̣n em trai tôi 
	th́ dường như  bệnh nhẹ không 
	nguy hiểm, nhưng mẹ tôi đă thấy lưỡi ŕu giơ ngay đầu em, nên mẹ tôi rất lo 
	ngại, v́ không nhớ được lưỡi ŕu có giáng xuống đầu của em chăng, khi con ma 
	biến mất. Em tôi b́nh phục, nhưng ít lâu sau bị trúng lại , và người ta phải 
	lắm khổ cực để cứu sống nó. Phần Alexes th́ không giống vậy. Trải qua 22 
	tháng gầy ṃn th́ em chết, khi nắm lấy tay tôi.
	
	       
	Thế là giấc mộng của mẹ tôi đúng với việc xảy ra. Thật là kỳ lạ trong 
	trường hợp nầy khi thấy các chi-tiết của biểu-tượng xảy ra đúng y cho đến sự 
	hy-sinh giả tưởng của chị Cathérine cho t́nh thương em gái Alexes và các 
	t́nh cảnh khác nhau trong cái chết của hai người. 
	
	
	
	4-  
	
	
	Mộng rơ ràng và có mạch lạc 
	.
	
	       
	Thứ chiêm bao nầy có khi là một kư-ức có ít nhiều đúng theo 
	thí-nghiệm của Chơn-Nhơn ở tại cơi Trung-giới trong khi nó đi ra khỏi xác 
	thịt đang ngủ. Thường thường là một bản kịch của Chơn-Nhơn tạo ra, có khi do 
	một ấn-tượng sanh ra bởi xác thịt, như một âm thanh hoặc một sự tiếp xúc, có 
	khi do một ư-tưởng nào đó xâm nhập khi đi ngang qua. 
	
	       
	Có nhiều câu chuyện thuộc về hai điểm sau đă được nêu ra , mà chúng 
	tôi c̣n có thể kể thêm một chuyện của ông Andrew Lang ghi trong quyển Dreams 
	and Ghosts trang 35 và do ông y sĩ người Pháp có danh tiếng , Bác sĩ Brierre 
	de Boismont kể lại , là những người ông có giao thiệp mật thiết.
	
	       
	“Miss C. một thiếu phụ lương tri chất phác , trước khi có chồng , 
	sống với chú là Bác sĩ D.y-sĩ được nhiều người biết , và là nhân viên của 
	Văn-học hội. Thời gian này , mẹ cô đau nặng nên ở đồng quê.
	
	       
	“Đêm kia, cô chiêm bao thấy mẹ , vẻ mặt xanh xao và hốc hác , dường 
	như sắp chết, đặc biệt phàn nàn là sự vắng mặt của hai con bà , con trai là 
	mục sư ở Tây Ban Nha và con gái , chính là cô Paris.
	
	       
	“Kế đó cô nghe gọi tên thánh của cô ‘Charlotte’ , và cô thấy những 
	người chung quanh mẹ cô đi qua pḥng kế bên bồng vô đứa cháu gái của cô và 
	là đứa con đỡ đầu cũng tên Charlotte. Nhưng người bệnh ra dấu cho biết không 
	phải bà cần đứa này mà là đứa ở Paris; rồi biểu lộ sự thất vọng tột bực đổi 
	sắc mặt và bà ngă xuống trút hơi thở cuối cùng .
	
	       
	“Bữa sau, cô Miss C. buồn thảm khiến ông chú để ư vàhỏi lư do; cô 
	thuật lại điềm chiêm bao và hai người kết luận chắc là mẹ cô chết 
	. Vài tháng sau, bác sĩ D vắng nhà , cô gái nhân dịp đó mới sắp xếp 
	giấy tờ của ông chú lại cho có thứ tự v́ ông không bằng ḷng để người ta rớ 
	tới nó khi ông ở nhà ; và bất ngờ cô gặp bức thư kể chuyện cái chết của mẹ 
	cô , tất cả chi tiết  đều giống 
	y như giấc chiêm bao ; và ông Bác sĩ đă giấu thơ để cô đỡ đau khổ”.
	
	       
	Đành rằng trong hai trường hợp này , người ngủ bị thu hút bởi những 
	tư tưởng thân ái và phiền muộn, trong lúc ngủ, họ được đưa thật sự đến gần 
	những người chú ư đến họ quá đổi và chỉ cho họ xem các sự t́nh của công việc 
	lần lượt xảy ra .
	
	       
	
	
	       
	5/- Mộng thường thấy .
	
	         
	Loại chiêm bao này người ta rất thường thấy và có thể bởi những lư do 
	khác nhau , như chúng tôi đă tŕnh bày . Thứ mộng này có thể chỉ là một 
	kư-ức ít nhiều rơ ràng của một loạt h́nh ảnh rời rạc và không thể biến đổi 
	tạo thành bởi hành vi tự động và không suy xét của óc xác thịt; 
	cũng có thể là do một sự tái phát sinh của một ḍng tư tưởng bất ngờ 
	đă xâm nhập vào óc dĩ thái ; nếu những h́nh ảnh nhục dục nào xen vào , đó là 
	chúng nó do lượng sóng đục vọng vật chất xao xuyến không ngừng đưa đến ,chắc 
	chắn nó bị khích lệ bởi một ảnh hưởng 
	ô uế nào của cơi Trung giới . Cũng có lẽ là một sự cố gắng vô hiệu 
	muốn tạo thành kịch bản của Chơn-Nhơn kém mở mang, hoặc là (và điều này rất 
	thường ) một sự hổn hợp rắc rối của vài ảnh hưởng, hay là do tất cả 
	ảnh-hưởng đến một lượt . Tại làm sao mà sanh ra được một sự hỗn hợp như thế 
	, sẽ được sáng tỏ thêm nhờ sự thuyết minh vắn tắt của vài cuộc thí nghiệm về 
	trạng-thái chiêm bao do mấy vị có thần nhăn làm thử tại trụ sở 
	Thông-Thiên-Học  Luân-Đôn.
	
	
	
	CHƯƠNG SÁU
	
	THÍ NGHIỆM VỀ
	TRẠNG-THÁI GIẤC MỘNG
	
	          
	
	
	       
	Mục đích đặc biệt của chúng tôi dự định trong sự sưu tầm mà chúng tôi sắp 
	tŕnh bày một phần nơi đây là để biết coi có thể nào cảm kích đủ sức cho 
	Chơn-Nhơn của một người đang ngủ để họ nhớ lại được khi thức giấc chăng? Và 
	người ta cũng muốn t́m biết có phải là chẳng thể nào hiểu được những chướng 
	ngại ngăn cản sự nhớ lại ? Thí nghiệm thứ nhất thử một 
	
	người dốt, có một sự giáo dục rất non nớt, bề ngoài thô bỉ-–một người 
	thuộc hạng mục đồng Úc-Châu—thể vía thấy phất phơ trên xác thịt chỉ là một 
	lùm sa-mù không đều đặn.
	
	       
	Người ta t́m thấy ư thức của xác thịt y th́ nặng nề và tối tăm, nhiều chất 
	thô sơ hơn là chất dĩ-thái. Phần thứ nhứt ứng đáp một phần nào về sự kích 
	thích bề ngoài, thí du, nhỏ vài giọt nước vào mặt sẽ đưa vào óc xác thịt 
	h́nh dáng một trận mưa rào to lớn, mặc dầu chậm chạp, c̣n óc dĩ-thái cũng 
	như lệ thường, là con kinh thụ động của một luồng tư tưởng không dứt, không 
	liên hệ nhau, nó thâu nhận những sự rung động mà ít khi nó đáp ứng hoặc khi 
	ngẩu nhiên nó đáp ứng th́ là một sự vô t́nh và không chút nào chính xác. 
	Chơn-Nhơn th́ kém mở mang, phất phơ trên xác thịt và trong một trạng thái 
	gần như vô ư thức; nhưng thể Vía mặc dầu không ra h́nh dáng ǵ và không rơ 
	ràng nhưng tỏ ra khá hoạt bát.
	
	       
	Cũng nhận thấy rằng có khi người ta hành động quá dễ dàng với cái Vía phất 
	phơ bởi một tư tưởng có ư thức của kẻ khác. Trong cuộc thí nghiệm nầy người 
	ta thử đưa cái Vía tách ra xa xác thịt, nhưng kết quả không tốt đẹp v́ khi 
	cái Vía rời xa hơn vài thước th́ một sự khó chịu quá lớn xảy ra cho cả hai 
	thể. Phải ngưng thí nghiệm liền v́ sợ đưa Vía ra xa nữa y sẽ giựt ḿnh thức 
	dậy và bị đặt vào một trạng thái thống khổ kinh khủng. Nhà thí nghiệm tưởng 
	tượng một quang cảnh, một cảnh tượng có tính cách hùng tráng, tại một đỉnh 
	núi miền nhiệt đới và h́nh ảnh sống động của tư tưởng chiếu thẳng vào ư thức 
	đang ngủ của Chơn-Nhơn; Chơn-Nhơn liền đồng hoá và xem xét cảnh tượng; nhưng 
	hờ hững và vô t́nh. Sau khi để nó xem cảnh trí nầy một lát rồi cho người đó 
	thức giấc với mục đích là để biết coi y có nhớ công việc đó là giấc mơ 
	chăng. Nhưng trí của y hoàn toàn trống lổng không biết chuyện đó; và chỉ có 
	vài cảm động mơ hồ về vật chất , kư ức không nhớ chút nào sự cảm kích trong 
	lúc ngủ.
	
	       
	Người ta thiết tưởng là có một luồng tư tưởng từ ngoài đến, cứ liên tiếp đi 
	ngang qua óc dĩ-thái, có thể gây trở ngại trong khi làm nó xao lăng đủ sức 
	để ngăn cản không cho nó tiếp xúc với 
	ảnh hưởng của các nguyên lư cao siêu. Người đó ngủ lại, người ta tạo 
	bức rào từ-điện bao chung quanh y để ngăn cản ngọn sóng tư tưởng và thí 
	nghiệm một lần nữa.
	
	       
	Thiếu vật thực thường lệ như thế , óc dĩ-thái bắt đầu chậm chạp và bơ thờ, 
	nhớ lại những cảnh tượng trong đời sống đă qua ; 
	mà một khi thức dậy th́ kết quả cũng vẫn như thế; kư ức không ghi lại 
	chút nào cảnh trí đă thấy mặc dầu y có một quan niệm mơ hồ là đă mộng thấy 
	một biến cố ǵ đă qua. Như vậy kỳ nầy tạm bỏ qua như không có chút kết quả 
	nào, bởi v́ Chơn-Nhơn quá kém mở mang và nguồn gốc nghiệp quả quá mạnh nên 
	không tạo kết quả.
	
	       
	Sau lại một kỳ thí nghiệm, cũng với người nầy không hoàn toàn thất bại; 
	quang cảnh đưa cho y xem là một đoạn chiến tranh rất thương tâm, chọn như 
	vậy chắc phải làm thức tỉnh dễ dàng loại trí óc nầy hơn là phong cảnh, quả 
	nhiên, Chơn-Nhơn chưa mở mang chấp nhận cảnh tượng nầy thích thú hơn cảnh 
	trước, tuy vậy, khi thức dậy th́ kư ức cũng biến mất, y chỉ c̣n một ư tưởng 
	lờ mờ là bị đánh ngă mà không biết ở đâu, và tại làm sao, c̣n bao nhiêu việc 
	khác đều quên hết.
	
	       
	Một người thứ nh́ được lựa để thí nghiệm là hạng tiến bộ hơn, một người có 
	phẩm hạnh tốt, có giáo dục hoàn toàn ,có trí thức, có tư tưởng rộng và từ 
	thiện, có chí cao thượng. Trong trường hợp nầy, xác thịt ứng đáp lẹ làng với 
	giọt nước nhỏ trên mặt là một cảnh tượng giông bảo kinh hồn xảy ra, rồi tới 
	phiên óc dĩ-thái sanh ra một nhóm tư tưởng cho cả một loạt quan cảnh rất 
	linh hoạt. Khi cuộc xáo trộn vừa dứt, th́ luồng tư tưởng thường lệ bắt đầu 
	lưu thông, nhưng người ta quan sát được là một phần lớn tư tưởng nầy đánh 
	thức một tiếng vang trong óc dĩ thái, và cũng như sự rung động tương ứng 
	cũng mạnh thêm lên và mỗi trường hợp, một nhóm tư tưởng khởi hoạt động; cũng 
	có khi nó ngăn cản không cho tư tưởng từ ngoài xâm nhập một thời gian khá 
	lâu.
	
	       
	Thể Vía của người nầy th́ rơ ràng với h́nh trứng c̣n cái Phách ở trong th́ 
	giống hệt xác thịt và trong khi cái Vía kém linh hoạt th́ Chơn-Nhơn có một ư 
	thức cao lên. Trong trường hợp nầy th́ cái Vía có thể rời khỏi xác thịt một 
	khoảng xa nhiều dặm mà không gây ra một cảm giác lo âu hay khó khăn ǵ cho 
	cả hai.
	
	       
	Khi phong cảnh miền nhiệt đới được phô bày trước mặt Chơn-Nhơn, nó liền biết 
	thưởng thức tự nhiên, ngắm nghía và hoan-hỷ định giá trị sự đẹp đẽ. Sau khi 
	để nó ngắm xem một lát rồi mới cho thức dậy, nhưng kết quả cũng không được 
	khích lệ . Y biết là đă trăi qua một giấc mộng đẹp đẽ nhưng không nhớ một 
	chi tiết nào; vài chuyện răi rác c̣n lại trong trí chính là những cái vẩn vơ 
	của cái óc. Người ta cũng làm một cái hàng rào từ điện bao quanh ḿnh y, như 
	thí nghiệm người trước và trong trường hợp nầy, óc dĩ-thái cũng bắt đầu nhớ 
	lại những h́nh ảnh cũ của nó như người kia. Chơn-Nhơn nhận được bức tranh 
	phong cảnh, hoan hỷ nhiều hơn lần trước, biết là cảnh ḿnh đă gặp rồi và 
	ngắm nh́n hết điểm nầy đến điểm kia với sự hâm mộ tột cùng các vẽ đẹp hiện 
	ra.
	
	       
	Trong khi nó chăm chỉ thưởng-ngoạn th́ óc dĩ-thái chơi đùa, nhớ lại 
	những cảnh tượng ưu-thế nhất trong đời sống học tṛ, vào một ngày mùa đông, 
	khi tuyết rơi đầy mặt đất và với một nhóm bạn học chơi giởn trong sân trường 
	liệng lộn nhau những cục tuyết .
	
	       
	Chừng thức dậy th́ kết quả lại quá lạ lùng. Y đă ghi nhớ cái kư-ức 
	hoạt-bát là đă ở trên đỉnh núi, thưởng thức một quang cảnh đẹp đẽ mà các chi 
	tiết c̣n rơ ràng trong trí, nhưng thay v́ cây cối sum-xuê miền nhiệt-đới, y 
	thấy đất đai chung quanh phủ đầy tuyết trắng. Dường như trong lúc y rất vui 
	thích tận hưởng cái xinh đẹp toàn cảnh ở trước mặt, th́nh ĺnh y bị một biến 
	thiên xen vào, rất thường xảy ra trong giấc chiêm bao là chơi liệng những 
	cục tuyết trong sân trường xưa với các bạn, câu chuyện đă quên mất từ lâu.
	
	
	
	CHƯƠNG BẢY
	KẾT-LUẬN
	
	
	       
	Tất cả những thí-nghiệm nầy giải bày rành rẽ tại sao những chiêm bao 
	trở thành rời rạc và mâu thuẩn. Nó cũng giải-thích tại sao có những người 
	khi Chơn-Nhơn kém mở mang và dục-vọng quá mạnh không hề thấy chiêm bao, và 
	tại sao nhiều kẻ khác, ngoại-trừ những hoàn-cảnh thuận tiện, th́ khi thức 
	dậy chỉ nhớ lộn xộn những ǵ đă xảy ra trong đêm . Theo các cuộc thí nghiệm 
	nầy, chúng ta cũng thấy rằng nếu chúng ta muốn thâu góp được trong ư-thức 
	khi thức dậy, cái lợi ích của Chơn-Nhơn đă học được trong lúc ngủ th́ chúng 
	ta cần phải tập kiểm-soát các tư-tưởng, chế ngự các dục vọng thấp hèn và 
	điều hoà Hạ-Trí với các việc cao thượng.
	
	       
	Lúc thức, người nào vui ḷng chịu khó định-trí và theo dơi tư-tưởng 
	của ḿnh sẽ sớm hiểu rằng: muốn được sự lợi ích nầy, không phải chỉ một 
	ngày, một tháng mà thành công. Y phải cầm giữ Hạ-Trí trong tay, phải tỏ ra 
	là chủ của nó cũng như chủ các sự ham muốn thấp hèn; y phải làm việc siêng 
	năng để kiểm soát được hoàn toàn các tư-tưởng; làm sao để y biết chắc luôn 
	luôn là y muốn tưởng nghĩ cái ǵ, và tại sao y phải suy tưởng như vậy, và 
	khi tập luyện để chỉ ứng đáp theo khuyến dụ của Chơn-Nhơn, y sẽ thấy cái óc 
	bất động khi Chơn-Nhơn không dùng nó, và nó sẽ từ chối không nhận những tư 
	tưởng bất thường từ đại dương tư-tưởng xẹt đến và sẽ tự cấm ứng đáp lại các 
	tư-tưởng nầy. Từ đó nó sẽ không c̣n ngỗ-nghịch đối với các ảnh hưởng đến từ 
	các cơi cao hơn, là nơi mà sự thấy bên trong càng linh-hoạt và sự xét đoán 
	càng đúng đắn hơn ở cơi Hạ-giới nầy.
	
	       
	Một hành-động ma thuật sơ-đẳng (magie élémentaire) có thể trợ giúp 
	được nhiều cho một vài người, giúp họ để rèn luyện óc dĩ-thái. Những h́nh 
	ảnh mà tự nó nhớ lại, khi luồng sóng tư-tưởng ngoại lai không xen vô 
	nữa,chắc chắn không đủ sức ngăn cản kư ức các thí-nghiệm của Chơn-Nhơn bằng 
	ngọn sóng náo nhiệt của luồng tư-tưởng ngoại lai; cũng thế, loại trừ được 
	luồng tư tưởng hổn tạp, vốn chứa đựng nhiều phần tử xấu hơn là tốt, là một 
	yếu tố quan-trọng để đạt đến mục đích đă định. Và cái đó có thể tập được , 
	không khó khăn lắm . Người nào sửa soạn ngủ mà suy nghĩ đến vùng hào quang 
	bao quanh ḿnh, y chí quyết muốn mặt ngoài của vừng hào quang nầy trở thành 
	một cái bao ngăn cản tất cả ảnh-hưởng ngoại lai và chất khí hào quang sẽ 
	vâng lời tư-tưởng của y; một cái vỏ thực sự sẽ sanh ra để bao quanh y và 
	luồng tư-tưởng bên ngoài tự nhiên bị chận đứng.
	
	       
	Một điểm khác được sáng tỏ nhờ sự t́m ṭi ở trước là sự quan-hệ trọng 
	đại của tư-tưởng chót ở trong trí, lúc ta sắp sửa ngủ, ấy là một việc mà 
	phần đông không ai để ư tới, vậy mà nó có hiệu lực mạnh mẽ hiệu năng trên 
	xác thịt cũng như trên Hạ-trí, cùng những hiệu lực về tinh-thần nữa.
	
	       
	Chúng ta đă thấy một người ngủ th́ t́nh-trạng thụ-động đến bực nào và 
	dễ bị ảnh hưởng tới bực nào; vậy th́ nếu y đang trong giấc ngủ mà tinh thần 
	chăm chú vào những việc cao thượng và đạo đức, y sẽ thâu hút mạnh mẽ những 
	tinh chất sanh ra bởi những tư-tưởng đồng loại; y sẽ nghỉ ngơi yên ổn, trí 
	hóa mở rộng để đón các cảm giác cao thượng, và ngăn cản các việc thấp hèn 
	bởi v́ y đang hành động trên đàng cao thượng. Nếu trái lại, y ngủ với những 
	tư tưởng phàm tục và không trong sạch đang vơ vẩn trong óc, y sẽ thu hút 
	những thực thể (entité) xấu xa và thô tục; chúng nó đến gần y và giấc ngủ y 
	bị xáo trộn bởi những cảm xúc rừng rú của t́nh-dục và ham muốn, làm cho y 
	không thấy được linh-ảnh, không nghe được thanh âm từ các cơi cao đến.
	
	       
	Vậy người Thông-Thiên-Học tâm đắc đúng đắn sẽ làm một phận sự đặc 
	biệt nâng cao tư-tưởng đến hết sức ḿnh trước khi để xácthịt ngủ. Vả lại, 
	chúng ta đừng quên rằng cái ǵ hiện ra cho ta thấy chỉ là ngưỡng cửa của 
	giấc mộng, có khi nó trở thành con đường đi vào các vùng chỉ có những 
	linh-ảnh thật sự mà thôi.
	
	       
	Nếu chúng ta bền chí hướng tâm hồn luôn luôn về cái thực tại cao siêu 
	th́ các cảm giác nội tâm sẽ bắt đầu phát-triển lẹ làng; ánh sáng ẩn-tàng sẽ 
	chiếu sáng lần lần thêm, cuối cùng, đến khi ư-thức được sung măn và liên 
	tục, và lúc đó chúng ta sẽ không nằm mộng nữa. Chừng đó ngủ không c̣n cái 
	nghĩa rơi vào chỗ quên lăng mà là đi một cách hớn hở, vui tươi, mạnh mẽ vào 
	đời sống trọn vẹn hơn và cao quí hơn, là nơi không có mệt nhọc, là nơi tâm 
	hồn học măi không ngừng mặc dầu luôn luôn bận rộn việc phụng-sự, bởi v́, đó 
	là làm việc cho các Đại Sư-phụ Minh-Triết và công tác vinh-quang mà các Ngài 
	giao phó là giúp đỡ các huynh-đệ tùy theo năng lực của ḿnh , dự vào công 
	tác mà các Ngài đeo đuổi không ngừng , đó là giúp đỡ và d́u-dắc cuộc 
	tiến-hóa nhơn-loại .
	
	
	Dịch giả : TRI THIỆN
			
			
			
			
			[1] 
			
			Hoặc sách tặng: Nguồn gốc nhơn loại số 18
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS