|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
CHƯƠNG
VIII
CĂN CHỦNG THỨ TƯ
Trích từ CON
NGƯỜI: Từ đâu tới, Sinh hoạt ra sao và rồi sẽ Đi về đâu
(MAN: Whence, How
and Whither)
Tác giả C. W. Leadbeater - Bản
dịch www.thongthienhoc.com |
|
CĂN CHỦNG THỨ TƯ
Hầu như ngay sau khi giáng lâm, vị lănh đạo
Quần tiên hội đă sắp xếp để thành lập Căn chủng thứ tư, sử dụng Đức
Bàn Cổ tương lai để lượm lặt các loại h́nh người Lemuria sẵn có nhỏ
nhất, rắn chắc nhất và tốt nhất, trong khi việc thành lập và làm
tăng trưởng nền văn minh của các vị Minh vương đang tiếp diễn trong
đám người Lemuria th́ Đức Bàn Cổ của Giống dân sắp tới cần mẫn mưu
t́m những chơn ngă nào phù hợp với mục đích của ḿnh để tuyển lựa
chúng nhằm có những sự nhập thể thích hợp. Có trường hợp Ngài tụ tập
lại cả ngàn người rồi rốt cuộc chỉ tuyển lựa được một người sau khi
đă trắc nghiệm trải qua nhiều năm, hiển nhiên là Ngài cũng nếm mùi
khó khăn gian khổ mới t́m thấy được những tổ tiên đang mong muốn
dành cho giống dân của Ngài. Các bộ tộc được cách ly để cho các
thành viên của nó kết hôn lẫn nhau trong những thời kỳ dài và giúp
Đức Bàn Cổ chọn ra được những kiểu mẫu đầy triển vọng để rồi lại
ghép chúng; Ngài và các đệ tử lại nhập thể nơi đám con cháu những
kiểu mẫu này để nâng cao tŕnh độ thể chất của chúng. Ngài tiến hành
đủ thứ cuộc thí nghiệm đồng thời ở
các đỉnh của Ngôi sao, sử dụng sự khác nhau về khí hậu. Thoạt tiên
th́ đây có vẻ là một nhiệm vụ tuyệt vọng, dường như thể người da đen
và người lai đen trắng kết hôn với nhau để tạo ra giống dân da
trắng; nhưng, sau hằng thế hệ tuyển trạch trong nội bộ của một bộ
tộc, Ngài cũng lọc lựa ra được một hai người rồi ghép cặp nó với một
người khác cũng được tuyển lựa tương tự từ một bộ tộc khác. Đức Bàn
Cổ của Giống dân thứ ba đă triển khai ra một loại h́nh nước da xanh
lơ cho phân chủng thứ sáu của Ngài và nước da trắng hơi xanh xanh
cho phân chủng thứ bảy, mặc dù đại khối dân Lemuria vẫn là da đen;
một số người thuộc phân chủng thứ tư cũng trộn lẫn với giống dân màu
xanh lơ và loại h́nh Lemuria nói chung được cải tiến chậm chạp, rất
từ từ. Ta có thể lưu ư thấy rằng khi ở nơi nào khác trên thế giới có
xuất hiện một loại h́nh tốt hơn hoặc nước da màu lợt hơn th́ nó bèn
được gởi tới cho Đức Bàn Cổ và Ngài cố gắng t́m cho nó một người
phối ngẫu (môn đăng hộ đối); chúng tôi quan sát thấy một người đă
được gửi như vậy xuất phát từ đô thị ở Madagasca và những người khác
cũng đến đó tương tự từ nơi khác.
Sự tiến bộ trở nên nhanh hơn sau khi các
Điểm đạo đồ tới nơi mà ta đă đề cập ở cuối chương vừa qua, những cơ
thể tốt nhất được người ở trong đó cải tiến bèn được Đức Bàn Cổ tiếp
thu để h́nh thành nên phân chủng thứ nhất của Ngài, như vậy rốt cuộc
là Giống dân thứ tư có được một nền tảng ươm trồng rất tinh vi do
một số lớn những người tiên tiến lănh đạo và hối thúc sự việc. Cuối
cùng th́ Đức Bàn Cổ có thể tiếp thu các cơ thể của phân chủng thứ
bảy (được các Điểm đạo đồ cải tiến sau khi sử dụng) dùng làm hạt
nhân của phân chủng thứ nhất, giống dân Rmoahal của Căn chủng thứ
tư. Tất cả những vị được tiếp thu vào Căn chủng thứ tư đều là Điểm
đạo đồ và các đệ tử ở trong những cơ thể ấy và không một ai ở tŕnh
độ này lại được tiếp nhận từ những người trước kia đă tiến hóa trên
Dăy Địa cầu.
Subba Rao phân biệt dân Lemuria da màu xanh
lơ đen, dân Atlant da màu đỏ vàng, c̣n dân Aryan da màu nâu trắng.
Chúng tôi thấy Đức Bàn Cổ của Giống dân thứ tư loại bỏ màu xanh lơ
ra khỏi màu da của dân tộc ḿnh, trải qua màu đỏ tía để biến thành
màu đỏ của phân chủng Rmoahal, để rồi bằng cách trộn lẫn với màu
trắng xanh lơ của phân chủng thứ bảy Căn chủng Lemuria; Ngài thu
được phân chủng thứ nhất vốn dường như trọn vẹn là con người mà ta
có thể tưởng tượng là c̣n sống động trà trộn giữa chúng ta. Sau khi
loại h́nh của giống dân đă được xác lập trọn vẹn, vậy là Ngài đă có
vật liệu cho màu đỏ nâu rực rỡ của dân Toltec, tức phân chủng thứ
ba, phân chủng huy hoàng nhất thuộc vương tộc của giống dân Atlant
vốn cai trị thế giới trong cả chục ngàn năm. Sau một thời kỳ dài
kiên nhẫn làm việc phải mất vào khoảng một triệu năm chăm sóc và mất
công rất nhiều th́ Ngài mới đạt được một mức độ giống như loại h́nh
mà Ngài đảm nhiệm việc tạo ra; bấy giờ Ngài mới dứt khoát lập nên
Giống dân ấy, bản thân Ngài cũng nhập thể, hiệu triệu các đệ tử cùng
nhập thể trong gia đ́nh của chính Ngài. Vậy là đám hậu duệ của Ngài
đă tạo thành Giống dân ấy. Theo sát nghĩa đen nhất th́ Đức Bàn Cổ
của một Giống dân là Thủy tổ của nó v́ toàn thể Giống dân ấy nhận
Đức Bàn Cổ là tổ tiên về h́nh dáng của ḿnh.
Tuy
nhiên, ngay cả các hậu duệ trực hệ của Đức Bàn Cổ cũng là một đám
người chẳng lấy ǵ hấp dẫn lắm xét theo tiêu chuẩn hiệnnay của ta,
mặc dù dân chúng quanh đó đă được cải thiện nhiều. Họ nhỏ con
hơn nhưng không có tổ chức thần kinh đáng kể và thể cảm dục của của
họ chưa có h́nh tướng. Thật là phi thường khi Ngài tạo cho chính
ḿnh một h́nh thể, uốn nắn và định h́nh nó theo thể vía và thể trí
của chính ḿnh, biến đổi màu da cho đến khi Ngài biến chế nó thành
ra một màu đáng mong muốn dành cho Giống dân của ḿnh.
Sau đó th́ nhiều thê hệ trải qua trước khi
Giống dân c̣n non trẻ chiếm hữu lục địa của nó là Châu Atlantis,
nhưng từ mức này trở đi th́ các chuyến tàu chở các Chơn ngă bắt đầu
cập bến xuất phát từ cơi Niết Bàn Liên hành tinh để cư ngụ trong các
thể xác của Giống dân thứ tư. Đức Bàn Cổ dàn xếp với Đức Căn Bàn Cổ
để gửi tới cho Ngài một số lớn Chơn ngă đă sẵn sàng nhập thể: những
người xuất phát từ bầu D của Dăy Nguyệt tinh đă có thể Thượng trí
hoàn chỉnh và đă biệt lập ngă tính trong Cuộc tuần hoàn thứ tư và
thứ năm của Dăy Nguyệt tinh. Một số người đến nhập vào phân chủng
Tlavatli, c̣n một số đến sau nhập vào phân chủng Toltec, khi nó đă
tiến hóa rồi; sau đó Ngài lại nhập thể trong phân chủng Toltec lập
nên Kim môn thành, vốn là thành thị đầu tiên trong số nhiều thành
thị liên tiếp mang tên đó. Sự thành lập ấy bắt đầu từ một triệu năm
trước đây, tức là một trăm năm mươi ngàn năm trước khi đại thảm họa
thứ nhất xé toạc Châu Atlantis ra.
Vào
lúc đó người Toltec là Giống dân thống trị v́ họ rất ưu việt. Đó là
một giống dân chinh chiến, đi khắp nơi trên thế giới để chinh phục
các cư dân, song những loại người thuần chủng của nó chẳng bao giờ
làm giai cấp hạ lưu ở bất cứ nơi đâu. Ngay cả ở Kim môn thành th́
chỉ có giai cấp quí tộc và giai cấp trung lưu là người Toltec, c̣n
giai cấp hạ lưu th́ mang ḍng máu lai, phần lớn bao gồm những người
nam nữ bị bắt làm tù binh cùng với những phân chủng khác và bị những
kẻ chinh phục đẩy xuống hàng nô t́.
Vào lúc đó có một
chuyến tàu cập bến Trái đất chở các Chơn ngă theo một nhóm (hầu hết
vẫn c̣n quây quần bên nhau) mà chúng tôi dặc biệt chú ư v́ nó bao
gồm nhiều người bạn cũ: Sỉrius, Orion, Leo và những người khác; một
số những người này khi đến nơi được Đức Bàn Cổ Vaivasvata (Bàn Cổ
của Giống dân thứ năm) dành riêng làm một phần cho vật liệu tương
lai của ḿnh. Chính v́ thế mà H. P. Blavatsky, bảo rằng việc sáng
lập Giống dân thứ năm xảy ra cách đây một triệu năm, mặc dù nó chỉ
được dẫn dắt đào thoát khỏi châu Atlantis vào năm 79.997 trước Công
nguyên. Sau này th́ những người ấy tạo thành một nhóm có khoảng cách
trung b́nh giữa lúc chết và lúc tái sinh từ 1.000 tới 1.200 năm
[[1]].
Vào lúc này thời
khoảng giữa lúc chết và lúc tái sinh dĩ nhiên là khá ngắn hơn v́ vật
liệu thu thập được trong các kiếp nguyên thủy không đủ để tạo ra
thời khoảng dài cho dù nó được dàn trải mỏng đi. Người ta chưa có
được những xúc cảm sâu sắc mặc dù vẫn đào luyện ra được một thứ ǵ
đó từ sinh hoạt trên cơi trời. Các Chơn ngă này qui tụ lại với nhau
trên cơi trời và những thực thể có dạng màng mỏng liên kết với chúng
trên cơi trực giác tỏ ra có ái lực mạnh với nhau. Ở các cơi thấp
hơn, xét theo biểu kiến th́ có một ư thức “thiếu thốn”, ṃ mẫm một
cách tẻ nhạt dường như thể họ cũng lờ mờ cảm thấy sự vắng mặt của
những người bạn cũ trong những kiếp trước kia và thời khoảng vẫn c̣n
trong cơi Niết Bàn liên hành tinh v́ vẫn c̣n yên ngủ nơi đó chưa
chịu giáng lâm xuống Trái đất trong ṿng 400.000 năm. Ở cơi trực
giác, những người thuộc nhóm 700 năm này có tiếp xúc với nhóm 1.200
năm, nhưng chỉ khi nhóm 700 năm giáng lâm xuống Trái đất th́ mới có
một lúc nói chung là hân hoan trong đám các Chơn ngă trên cơi Thượng
trí chủ yếu là do có sự giáng lâm của những người được yêu kính sâu
sắc nhất tức là các Chơn sư tương lai. Những vị này ngay tức khắc
liên lạc với một số người trong nhóm trước kia vẫn c̣n ở cơi Niết
Bàn, mặc dù những người khác đă giáng lâm xuống Trái đất cùng với
nhóm 1.200 năm, trong số đó có hai vị Chơn sư tương lai hiện nay
mang xác người Anh [[2]].
Người ta đă phải cầu viện tới việc để cho có
nhiều sự tái sinh hơi chậm trễ hoặc hơi sớm hơn một chút để giữ cho
nhóm này cùng nhau nhập thể.
Trong một kiếp
trước kia, Corona [[3]].
– một chiến sĩ rất thiện nghệ - đă từ Kim môn thành tới chinh phục
bộ tộc Tlavatli mà các bạn của chúng tôi đă nhập thể ở trong đó. Mặc
dù không có ư thức về mối liên hệ giữa những người này, Corona vẫn
chịu ảnh hưởng của nó và đối xử tử tế với bộ tộc ấy: thay v́ bắt
chúng đi làm nô lệ th́ y lại du nhập đủ thứ sự cải tiến rồi sáp nhập
bộ tộc ấy vào Đế quốc Toltec. Sirius tái sinh nhiều lần trong phân
chủng Tlavatli, rồi chuyển sang phân chủng Toltec. Khi liếc nh́n về
tương lai th́ chúng tôi thấy y đă từng một lần nhập thể trong đám
dân Rmoahal để sống chung với Ursa và những người khác, rồi có nhiều
kiếp chuyển sang giống dân Tourania, tức là phân chủng thứ tư (giai
đoạn người Trung hoa) rồi một số kiếp là dân Akkad, tức phân chủng
thứ sáu; người ta c̣n giám sát thấy y buôn bán trong đám người giống
như người Phœnicia
sau này. Y không sinh trưởng trong các phân chủng theo một thứ tự
đặc biệt nào cho nên hiện nay thật khó mà tổng quát hóa vấn đề ấy.
Các chuyến tàu chở Chơn ngă tiếp tục đến và
nguyên nhân chính phân cách nhau dường như là phương pháp biệt lập
ngă tính. Các Chơn ngă thuộc đủ mọi Cung tức mọi tính khí có mức
phát triển chung giống nhau đều được trộn lẫn lại, nhưng các Chơn
ngă có thời khoảng giữa lúc tái sinh khác nhau vẫn không được trộn
lẫn. Thậm chí cũng chẳng có sự ḥa lẫn nào giữa các giai cấp lớn là
Người trên Dăy Nguyệt tinh và Người Thú. Nếu một cá nhân không trải
qua cuộc Nội Tuần Hoàn để chịu sự chín dú đặc biệt nhằm chuyển sang
lớp người tiến bộ ngay trước ḿnh th́ những đường phân giới tổng
quát ấy vẫn c̣n và một lớp người này không tiếp quản lớp người kia.
Ngay cả khi nhóm Rỗ lưới đă hoàn chỉnh thể Thượng trí của ḿnh th́
ta vẫn c̣n có thể phân biệt được nguồn gốc Rỗ lưới.
Chuyến tàu đầu
tiên chở nhóm 700 năm cập bến Trái đất vào khoảng 600.000 năm trước
Công nguyên, tức là chừng 250.000 năm sau khi đại thảm họa thứ nhất
đă xé toạc châu Atlantis ra. Chuyến tàu đó đưa tới các Chơn sư tương
lai là Mars và Mercury, và những người khác; Mars sinh ra ở mièn Bắc
trong Căn chủng Tlavatli có bố mẹ là Surya và Mercury, Herakles cũng
thuộc về gia đ́nh này với vai tṛ là chị cả. Surya là tù trưởng của
bộ tộc, c̣n Mars là con trai cả của Surya, chẳng bao lâu trở thành
chiến sĩ tiên tiến của bộ tộc
[[4]].
Khi mới được 15 tuổi, y đă bị bỏ mặc chờ chết nơi chiến trường,
nhưng được chị ḿnh đi t́m và kiếm thây, người chị này đă tận tụy
hết ḷng v́ y, nuôi dưỡng y cho đến khi khỏe mạnh trở lại. Y kế vị
cha làm thủ lĩnh tù trưởng và đó là kinh nghiệm đầu tiên cai trị
trên trần thế.
Có một nhóm nhỏ thôi nhưng thật thú vị, chỉ
105 người giáng lâm cũng vào thời kỳ 600.000 năm trước Công nguyên,
nhưng không xuất phát từ Mặt trăng. Đó là một nhóm người đặc biệt
dàn xếp bởi vị thủ lĩnh của Quần tiên hội. Và dường như bao gồm một
số người khi c̣n ở Kim tinh đă từng là những con thú cưng của các
Hỏa đức Tinh quân đă đặc biệt quyến luyến các Ngài đến mức nếu không
có các Ngài th́ họ không tiến hóa được. Họ đă biệt lập ngă tính trên
Kim tinh và được đưa xuống đây để cho Ngài bố trí tất cả vào Cung
một và Cung hai. Có những nhóm nhỏ khác tiến hóa bất b́nh thường.
Chẳng hạn như một nhóm nhỏ thuộc về Cuộc tuần hoàn thứ ba được biệt
phái sang Thủy tinh để được huấn luyện đặc biệt chỉ khả hữu trong
t́nh huống của Thủy tinh để rồi lại được đưa trở về đây. Một số được
huấn luyện theo kiểu này để chuẩn bị cho Căn chủng thứ năm. Ta có
thể lưu ư thấy rằng H. P. Blavatsky có nói một số người từ Thủy tinh
giáng lâm xuống Trái đất.
Kiếp sống thứ ba của Herakles trên Trái đất
cũng thuộc về bộ tộc ấy nơi mà nhiều thành viên trong nhóm được tái
họp với nhau. Họ đă đạt được một mức độ văn minh nào đó nhưng nhà
cửa vẫn lụp xụp và quần áo thiếu thốn (thời tiết lại ấm áp). Kiếp
này được đánh dấu bởi việc nối lại mối liên hệ bất hảo với Scorpio
và do đó có tầm quan trọng nào đó với kẻ hữu quan. Bộ tộc mà
Herakles là chiến sĩ bị một bộ tộc rất dă man (Scorpio thuộc về bộ
tộc này) tấn công; kế hoạch của bộ tộc Scorpio là đánh úp bộ tộc kia
và tàn sát nó để hiến tế cho thần linh, c̣n nếu thất bại th́ sẽ tự
tử để nhờ vậy có được quyền năng hành hạ kẻ thù ḿnh từ bên kia cửa
tử. Họ cử hành những nghi thức pháp thuật có bản chất giống như
Obeah và mặc dù làm lén lút nhưng dường như Herakles cũng biết kế
hoạch cuối cùng tự tử vốn cốt yếu cho sự thành công của trọn cả kế
hoạch hoạt động bên kia cửa tử, v́ lúc bấy giờ những loại bùa quái
đản với nhiều “lời nguyền rũa” và “thề thốt” khủng khiếp mới có hiệu
lực: xét theo biểu kiến th́ kết quả ấy càng khủng bố được kẻ thù bao
nhiêu th́ càng được họ đánh giá cao bấy nhiêu. Cuộc tấn công thất
bại cho nên họ xúc tiến việc thi hành phương án thay thế cho sự
chiến thắng tức là tự tử tập thể với những nghi thức dễ sợ. Một phần
v́ tôn giáo của ḿnh không cho phép tự tử, một phần v́ xúc động với
những nỗi sợ hăi mê tín dị đoan, một phần v́ nghĩ rằng đám người dă
man ấy có thể trở thành những kẻ nô lệ vạm vỡ, đắc lực, cho nên
Herakles đă can thiệp cứu được một số người bắt làm nô lệ cho ḿnh.
Về sau này th́ đám người ấy lại âm mưu ám sát Herakles, cho nên y
phải đem chúng ra hành huyết; thế là lại bắt đầu một chuỗi dài những
sự chống đối nhau của những kẻ thù truyền kiếp lần này diễn ra trên
trái đất.
Xét về sự mật thiết trong mối liên hệ giữa
các cá nhân kéo dài trong nhiều trăm kiếp, ta có thể lưu ư thấy rằng
từ lúc này trở đi, một số người trong nhóm lớn hơn nhóm 1.200 năm và
nhóm 700 năm (số người mà ta có thể gọi là “Thị tộc” để phân biệt
với nhóm lớn hơn); trong khi đă đi khắp mọi xứ sở trên thế giới th́
nói chung vẫn tụ tập với nhau và nhất là Sỉrius th́ ta thấy hiếm khi
nào chịu kết hôn bên ngoài ṿng nhóm nhỏ ấy. Xét tổng quan th́ ta
lưu ư thấy rằng đôi khi có sự qui tụ của trọn cả Thị tộc ấy chẳng
hạn như ở Kim môn thành khi Mars làm vua, ở Peru khi Mars là Hoàng
đế, ở vùng lục địa gần Bạch đảo dưới quyền cai trị của Đức Bàn Cổ,
trong các phân chủng thứ hai và thứ ba lúc khởi nghiệp và lúc di dân
– ta chỉ kể ra vài ví dụ trong số nhiều ví dụ, Herakles té ra là một
loại người ưa chinh chiến đeo bám theo Mars; Sirius là loại người
hiếu ḥa hơn liên tục theo gót Mercury, Alcyone cũng giống như vậy
cùng với Mizar. Tuy nhiên có nhiều người thuộc về nhóm lớn hơn mà
chúng ta rất quen thuộc trong thời sơ khai th́ dường như đă bị rơi
rớt dọc đường cho nên chúng tôi không gặp họ trong kiếp này; một số
người có thể hiện nay c̣n đang ở trên cơi trời. Hội Thông Thiên Học
là một ví dụ khác về việc qui tụ cũng các Thị tộc này, những người
nào đến với nó vào mọi lúc th́ đều là bạn cũ. Lại có một số người
như Corona măi tới nay c̣n đang chờ dịp thuận tiện để được lâm phàm.
Các chuyến tàu tiếp tục cập bến trong một
thời gian dài, chỉ ngưng lại khi xảy ra thảm họa năm 75.000 trước
Công nguyên; như vậy việc phát biểu đóng cửa không cho loài thú ngoi
lên thành người chỉ hiển nhiên áp dụng cho trường hợp chúng chưa
phát triển được thể Thượng trí. Những con khỉ có h́nh người mà H. P.
Blavatsky bảo là vẫn c̣n được phép nhập vào xác người vốn thuộc về
giới động vật của Mặt trăng chứ không phải giới động vật của Trái
đất; chúng chiếm hữu những cơ thể do loài người “không có trí gây ra
tội lỗi”, chúng chính là những con khỉ đột, hắc tinh tinh, đười ươi,
khỉ lớn và vượn. Ta có thể t́m thấy chúng ở châu Phi và chúng có thể
nhập thể nơi những giống dân thuộc loại Lemuria rất thấp kém hiện
nay vẫn c̣n tồn tại.
Khi trở về tới năm 220.000 trước Công nguyên
nơi Kim môn thành th́ ta thấy Mars cai trị ở đó trên cương vị là
Hoàng đế được kế thừa tước hiệu “Minh Vương” vốn được truyền thừa từ
các bậc đại Điểm đạo đồ thời sơ khai đă cai trị trong quá khứ.
Mercury là bậc Đạo trưởng đứng đầu Quốc giáo. Thật đáng lưu ư khi ta
thấy hai đấng này cùng bên nhau trải qua nhiều thời đại; người luôn
luôn là nhà Cai trị, Chiến sĩ, người kia luôn luôn là nhà Giáo dục,
Tu sĩ. Có một sự kiện cũng rất đáng lưu ư là chúng tôi chưa bao giờ
thấy Mars chiếm một xác nữ trong khi Mercury thỉnh thoảng có mang
xác nữ.
Vào lúc đó Thị tộc đă qui tụ được nhiều
người. Hoàng thái tử bây giờ là Vajra, c̣n quan chỉ huy đội Cấm vệ
quân là Ulysses, xưa kia đă từng thành công khi trấn đóng nơi biên
ải. Đội cấm vệ quân này là một đạo binh được ưu tuyển ngay cả lính
thường cũng thuộc giới thượng lưu và có trách nhiệm bảo vệ cung
đ́nh; người ta giả định rằng chúng không phải đi xa chinh chiến mà
đúng hơn là chỉ nghênh ngang trong những bộ đồng phục lộng lẫy, hộ
tống bậc quân vương trong khi có nghi lễ để cho thêm phần huy hoàng.
Tuy nhiên sau này khi Ulysses chết đi th́ Vajra lại trở thành thủ
lĩnh của Cấm vệ quân, y thuyết phục vua cha cho phép ḿnh đem quân
đi tuần tiểu và tham gia chiến dịch; vốn luôn luôn là một kẻ hiếu
động, ngồi yên một chỗ không được, y không bằng ḷng sống cảnh xa
hoa phô trương cho nên đám lính dưới quyền y vốn ngưởng mộ y v́ ḷng
can đảm và máu phiêu lưu cũng sẵn ḷng đánh đổi những tấm hộ tâm
kính bằng vàng lấy những chiếc áo giáp chinh chiến hà khắc hơn.
Trong số đó ta thấy có một nhóm người thuộc Thị tộc: Herakles có mặt
cùng với Pindar, Beatrix, Gemini, Capella, Lutetia, Bellona. Apis,
Arcor, Capricorn, Theodoros, Scotus và Sappho. Herakles có ba tên
thị đồng là ba thanh niên Tlavatli bị cha của ḿnh bắt làm tù binh
và giao cho y coi sóc là Hygeia, Bootes và Alcmene. Đám lính rơ rệt
là rất quậy, buông thả trong những cuộc chè chén hoan lạc, rồi phá
phách khắp thành thị, nhưng chúng có công là biết tôn trọng học
thức, biết kính trọng các vị tu sĩ và hộ pháp cho những nghi lễ tôn
giáo coi đó là một phần trong bổn phận đối với Cung đ́nh. Chúng có
một bộ luật danh dự nào đó trong nội bộ và giữ rất nghiêm nhặt, bao
gồm cả việc bênh vực người yếu. Nhà chúng cũng thanh nhă theo kiểu
thời thượng mặc dù chưa xứng hợp với các ư tưởng thời nay. Cái chết
của Ulysses tức thủ lĩnh đội Cấm vệ quân không thể diễn ra mà không
ai chú ư, v́ nó liên quan tới những sự ràng buộc không thể xóa bỏ
được giữa ba nhân vật chính yếu hữu quan. Hoàng đế Mars đă giao phó
cho vị thủ lĩnh Cấm vệ quân việc chăm sóc con trai của ḿnh là
Vajra, một chàng trai liều mạng và táo bạo; lúc bấy giờ ở Kim môn
thành đă chín muồi những âm mưu nguy hiểm và việc bắt cóc được bản
thân Hoàng Thái tử ắt là một chiến công hiển hách đối với những kẻ
âm mưu. V́ thế cho nên Ulysses không cho phép Hoàng Thái tử đi ra
khỏi phạm vi Cung đ́nh, điều mà chàng thanh niên này rất ghét. Có
một ngày, vị thủ lĩnh Cấm vệ quân và Hoàng Thái tử đang ngồi cách
không xa Cung đ́nh bao nhiêu th́ một nhóm kẻ âm mưu rất liều lỉnh ḅ
vào núp đằng sau một số bụi rậm và đột nhiên nhảy bổ vào hai người
trên. Hoàng Thái tử bị đánh cho bất tỉnh, nhưng Ulysses đứng giang
chân chiến đấu dũng cảm chống lại những kẻ tấn công rồi kêu cứu.
Người ta đă nghe thấy tiếng kêu của y cho nên khi y máu me đầm đ́a
gục xuống trên xác của người chủ c̣n trẻ tuổi sau khi bị đâm nhiều
vết thương th́ một số lính trong đám Cấm vệ quân ùa tới và đám âm
mưu co gị bỏ chạy. Hai cái xác mê man được để lên cáng khiên vào
ngay trước tận Ngai vàng trong Cung điện nơi Hoàng đế đang ngự và
đặt dưới chân ngài. Vị thủ lĩnh Cấm vệ quân đang hấp hối nhướng mắt
lên nh́n Hoàng đế thều thào: “Tâu bệ hạ, xin tha lỗi cho tôi, thần
đă làm hết sức ḿnh”.
Đức Vua cúi xuống, nhúng ngón tay vào máu
đang trào ra từ ngực của người thủ lĩnh Cấm vệ quân, ngài dùng ngón
tay thấm máu ấy dí vào trán của người đang hấp hối, vào trán của
chính ḿnh và bàn chân của ḿnh rồi vang vang thốt lên lời nói sau
đây trong im lặng : “Nhờ vào máu đă được chảy ra phục vụ cho ta và
con của ta, sự ràng buộc giữa chúng ta sẽ chẳng bao giờ bị cắt đứt.
Hỡi kẻ tôi tớ và người bạn trung thành, ngươi hăy an tâm ĺa trần”.
Những lời ấy khi lọt đến tai của người hấp
hối đă trở thành nghễnh ngăng
cũng đủ làm cho
Ulysses mỉm cười từ giả cơi đời. Hoàng Thái tử c̣n trẻ tuổi chỉ bị
bất tỉnh cho nên sau đó lại hồi sinh. Và sự ràng buộc ấy đă kéo dài
hết thiên niên kỷ này tới thiên niên kỷ khác để trở thành sự ràng
buộc giữa Chơn sư và đệ tử, măi măi không thể chia ĺa được.
Trong một thời kỳ dài th́ cuộc đời của
Herakles chẳng có ǵ đáng chú ư.
Khi y mang xác đàn
ông th́ đó là những cuộc đời đầy chinh chiến, c̣n khi mang xác đàn
bà th́ cuộc đời ấy sinh đẻ biết bao nhiêu đứa con.
Việc tà thuật lan
tràn ở châu Atlantis đă dẫn tới cuộc đại thảm họa thứ nh́ vào năm
200.000 trước Công nguyên, chỉ để lại di tích là một ḥn đảo khổng
lồ Ruta và Daitya của một đại lục đă từng nối liền châu Âu, châu Phi
với châu Mỹ. Các ḥn đảo này c̣n tồn tại măi cho tới tai biến vào
năm 75.025 trước Công nguyên, tai biến ấy đă nhận ch́m chúng dưới
mặt nước của đại dương mà giờ đây ta gọi là Đại tây dương.
[[5]].
Trong ṿng 100.000 năm sau thời điểm 200.000
năm trước Công nguyên, châu Atlantis rất thịnh vượng, xây dựng nên
một nền văn minh hùng mạnh nhưng rất xa hoa. Trung tâm của nó ở Kim
môn thành – tên này vẫn c̣n được duy tŕ – nhưng nó đă bành trướng
ra khắp thế giới tới cả tận Phi châu lẫn phương Tây. Khốn
thay, tiếp
theo cùng với sự bành trướng văn minh này cũng có sự phổ biến kiến
thức giúp người ta kiểm soát được thiên nhiên mà khi được dùng vào
mục đích ích kỷ th́ lại trở thành tà thuật.
Các thành viên của Thị tộc cũng ít nhiều
giáng lâm trong giống dân này, đôi khi sinh ra trong những gia đ́nh
dính mắc sâu vào đó rồi lại ly khai, đôi khi nấn ná cùng với nó để
bị ô nhiễm thêm một chút. Ở đây ta có thể ghi chép lại một số kinh
nghiệm của Alcyone đă thường làm cho y đau khổ dưới dạng những giấc
mơ trong những kiếp sau này
[[6]].
Chúng xảy ra vào một kiếp ở thời điểm khoảng 100.000 năm trước Công
nguyên. Lúc bấy giờ Corona là Minh vương ở Kim môn thành; Mars là
tướng dưới quyền của Corona, c̣n Herakles là vợ của Mars. Người ta
có âm mưu một cuộc nổi loạn, một người có kiến thức kỳ lạ độc ác –
một vị Hắc diện Tinh quân kết bè với đám Tinh linh hắc ám trên Trần
thế tạo thành “Vương quốc Pan”
gồm những sinh linh nửa người nửa
thú vốn là nguyên bản của thần Dê trong thần thoại Hi Lạp – dần dần
tụ tập được xung quanh ḿnh một đội quân hùng hậu tôn y lên làm Vua,
Vua của Mặt trời Nửa đêm, Vua U minh nổi loạn chống lại Minh vương.
Tục thờ cúng mà y lập nên với bản thân y là ngẫu tượng trung tâm –
những ảnh tượng lớn của chính y được đặt trong đền thờ vốn đầy tham
dục và quậy phá khiến cho người ta tha măn được những cơn đam mê đầy
thú tính. Ngược lại với Hang động Chính đạo để được Điểm đạo nơi Kim
môn thành, y lại lập nên Hang động Tối đen để cử hành những bí pháp
của Pan, tức là vị thần Trần tục. Tất cả đều diễn ra hướng tới một
cuộc đại thảm họa khác.
Cách đây chừng 120 kiếp, Alcyone là con của
một người theo những nghi thức quái đản ấy của phái thờ cúng hắc ám,
nhưng bản thân Alcyone lại lănh đạm v́ cảm thấy dội lại trước những
cuộc hoan lạc đầy thú tính đă ràng buộc đa số những tín đồ. Nhưng
tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, y lại rơi vào cái bẫy mồi chài do sắc đẹp
của phụ nữ và chuốc lấy một số phận bi thảm. Ta có thể tường thuật
lại câu chuyện ấy v́ nó soi sáng cho t́nh huống sau này khi Quần
tiên hội đă tuyên cáo một số phận nặng nề cho châu Atlantis.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS