|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
CÁC THỰC THỂ CƠI TRUNG GIỚI
(Trích quyển THỂ VÍA VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG KHÁC CỦA CƠI TRUNG GIỚI)
Tác giả A. E. POWELL
|
|
CÁC THỰC THỂ CƠI TRUNG GIỚI
CHƯƠNG XIX
CÁC THỰC THỂ CƠI TRUNG GIỚI: NHÂN LOẠI
Liệt kê và miêu tả mọi loại thực thể trên cơi trung giới ắt là một nhiệm vụ
ghê gớm chẳng khác nào liệt kê và miêu tả mọi loại thực thể trên cơi hồng
trần. Ở đây ta chỉ thử vẽ thành bảng biểu những lớp thực thể chính yếu và
miêu tả rất ngắn gọn mỗi lớp ấy.
Các thực thể cơi trung giới
Nhân loại |
Phi nhân loại |
Nhân tạo |
|
C̣n sống trong thể xác |
Thể xác đă chết rồi |
|
|
Người thường |
Người thường |
Tinh hoa ngũ hành |
Các tinh linh được tạo ra vô ư thức |
Người thông linh |
U hồn |
Thể vía của loài thú |
Các tinh linh được tạo ra hữu thức |
Cao đồ hoặc đệ tử cao đồ |
Ma h́nh |
Tinh linh thiên
nhiên |
Tinh linh nhân tạo mang h́nh người |
Pháp sư tà đạo hoặc đệ tử |
Ma h́nh được cấp sinh lưc |
Chư thiên |
|
|
Người tự tử hoặc bất đắc kỳ tử |
|
|
|
Ma cà rồng và ma sói |
|
|
|
Pháp sư tà đạo hoặc đệ tử |
|
|
|
Đệ tử đang chờ được luân hồi |
|
|
|
Bậc ứng thân Nirmānakaya |
|
|
Để cho việc phân loại được hoàn chỉnh, ta cần nêu rơ rằng ngoài những điều
nêu trên ra đôi khi c̣n có xuất hiện những bậc Cao đồ rất cao từ các hành
tinh khác trong Thái dương hệ và thậm chí các Đấng tham quan c̣n uy nghi hơn
ở khoảng cách c̣n xa hơn nữa; nhưng mặc dù điều này là khả hữu ta hầu như
không thể quan niệm được những Đấng cao cả như thế lại biểu lộ trên một cơi
thấp như cơi trung giới. Nếu các ngài muốn làm như thế th́ các ngài ắt tạo
ra một thể tạm thời bằng chất trung giới của hành tinh này.
Hai là cũng có hai ḍng tiến hóa lớn khác tiến hóa trên hành tinh này mặc dù
dường như người ta không dự tính để cho các ḍng tiến hóa ấy hoặc con người
b́nh thường ư thức được lẫn nhau. Nếu ta bước vào tiếp xúc với các ḍng tiến
hóa ấy th́ có lẽ chỉ trên cơi hồng trần thôi v́ mối quan hệ của chúng với
cơi trung giới của chúng ta rất mong manh. Khả năng duy nhất để cho chúng
xuất hiện tùy thuộc vào một tai biến cực kỳ hăn hữu trong pháp thuật nghi lễ
mà chỉ một ít pháp sư cao tay ấn nhất mới biết cách thực hành; tuy nhiên
điều này đă thực sự xảy ra ít nhất là một lần.
LỚP NHÂN LOẠI:
(a) – những người c̣n mang xác đang
sống.
1 – Người thường. Lớp này bao gồm
những người khi thể xác đang ngủ bèn vân du trên cơi trung giới ở đủ thứ mức
độ ư thức như ta đă từng miêu tả đầy đủ ở chương 9 bàn về
Sinh hoạt trong lúc ngủ.
2 – Người thông linh. Một người
phát triển về mặt thông linh thường hoàn toàn có ư thức khi xuất ra khỏi thể
xác nhưng v́ không được rèn luyện đúng đắn cho nên y có thể bị lừa gạt về
điều mà ḿnh nh́n thấy. Y thường có thể lướt qua mọi cảnh trên cơi trung
giới nhưng đôi khi y đặc biệt bị cuốn hút vào một cảnh nào đó và hiếm khi
vân du vượt ra khỏi mức ảnh hưởng của nó. Việc y nhớ tới điều mà ḿnh đă
nh́n thấy dĩ nhiên có thể thay đổi từ sự hoàn toàn rơ ràng cho tới mức hoàn
toàn bị xuyên tạc hoặc quên bén đi mất. V́ người ta giả sử rằng y không được
Chơn sư dẫn dắt cho nên y luôn luôn xuất hiện trong thể vía bởi v́ y không
biết cách hoạt động trong thể trí.
3 – Bậc cao đồ và các đệ tử. Lớp
này thường sử dụng không phải là thể vía mà là thể trí, nó bao gồm vật chất
thuộc bốn cảnh thấp của cơi trí tuệ. Thể này có lợi ích là nó khiến cho ta
đi ngay từ cơi trí tuệ xuống cơi trung giới và ngược lại; nó cũng giúp cho
ta luôn luôn sử dụng được quyền năng lớn lao hơn và ư thức sắc sảo hơn của
riêng cơi trí tuệ.
Thần nhăn trung giới không nh́n thấy được thể trí, cho nên đệ tử hoạt động
trong thể trí phải học cách tụ tập xung quanh ḿnh một bức màn tạm thời bằng
vật chất trung giới, khi y muốn cho các thực thể trung giới nhận thức được
ḿnh. Mặc dù là một bản sao chính xác của con người xét về dáng vẻ bên
ngoài, một hiện thể như thể không chứa đựng vật chất trong thể vía của chính
y, mà tương ứng với nó cũng giống hệt như một sự hiện h́nh tương ứng với thể
xác.
Trong một giai đoạn phát triển trước kia, đệ tử có thể tỏ ra hoạt động trong
thể vía giống như bất cứ ai khác; nhưng cho dù đang sử dụng hiện thể nào th́
một đệ tử được sư phụ lăo thông dẫn dắt luôn luôn có ư thức trọn vẹn và có
thể hoạt động dễ dàng trên mọi cảnh giới.
4 – Pháp sư tà thuật và đệ tử.
Lớp này tương ứng ít nhiều với lớp Cao đồ và các Đệ tử, ngoại trừ việc phát
triển dành cho điều ác thay v́ điều thiện, các quyền năng thụ đắc được dùng
cho những mục đích ích kỷ thay v́ những mục đích vị tha. Trong hàng ngũ thấp
có những người da đen thực hành nghi thức của các trường phái Obeah và
Woodoo, cùng với những ông thấy mo ở các bộ tộc dă man. Các pháp sư tà thuật
Tây tạng có trí năng cao hơn và v́ vậy đáng chê trách hơn.
LỚP NHÂN LOẠI: (b) – đă chết và bỏ xác.
1 – Người thường sau khi chết.
Lớp này hiển nhiên là rất rộng lớn, bao gồm mọi cấp người ở đủ mọi tŕnh độ
ư thức khác nhau mà ta đă miêu tả rồi ở các chương từ 12 tới 15 bàn về
Sinh hoạt sau khi chết.
2 – U hồn.
Ở chương 23, ta ắt thấy rằng khi
sinh hoạt trên cơi trung giới của một người nào đó đă qua rồi th́ y chết đi
trên cơi trung giới và bỏ lại đằng sau cái thể vía đang tan ră, giống hệt
khi y chết đi trên cơi hồng trần bỏ lại đằng sau một xác chết đang tan ră.
Trong hầu hết mọi trường hợp, Chơn ngă không thể triệt thoái ra khỏi các
nguyên khi thấp toàn bộ nguyên khí trí tuệ manas của ḿnh; v́ vậy, một phần
vật chất của hạ trí vẫn c̣n móc ngoặc với xác chết của thể vía. Như vậy một
phần vật chất cơi trí tuệ c̣n lại bao gồm các thứ thô trược của mỗi cảnh mà
thể vía đă thành công trong việc giành giựt từ thể hạ
trí.
Xác chết của thể vía này được gọi là U hồn; đây là một thực thể tuyệt nhiên
không phải là cá thể chân thực theo bất kỳ nghĩa nào; song le nó có h́nh
dáng bên ngoài giống hệt về mặt phàm ngă, có trí nhớ và đủ thứ những thói
đặc dị lặt vặt. V́ vậy, người ta rất dễ dàng nhầm lẫn nó là phàm ngă, và quả
thật vào những buổi lên đồng th́ người ta thường nhầm lẫn như vậy. Nó không
hề có ư thức về bất kỳ hành vi nào mang tính cá thể, bởi v́ chừng nào trí
năng nó c̣n tác động th́ người ta tất yếu giả sử rằng nó là cá thể ấy chứ
thật ra nó chỉ là một mớ vô hồn mọi phẩm tính thấp nhất của y.
Tuổi thọ của một u hồn biến thiên theo lượng vật chất hạ trí làm linh hoạt
nó; nhưng bởi v́ hạ trí càng ngày càng mờ nhạt đi, trí năng càng ngày càng
suy giảm mặc dù nó có thể có nhiều loại quỉ quyệt nào đó của một con thú và
ngay cả lúc cuối đời sinh hoạt, nó vẫn c̣n có thể giao tiếp bằng cách vay
mượn tạm thời trí thông minh của người đồng cốt. Do chính bản chất ấy, nó
cực kỳ dễ chịu ảnh hưởng của đủ loại điều ác và bị tách rời khỏi chân ngă
cho nên trong thành phần cấu tạo của nó chẳng có ǵ hưởng ứng được với những
ảnh hưởng tốt đẹp. V́ vậy, nó dễ dàng tiếp tay cho đủ thứ mục đích nhỏ nhoi
của một số loại pháp sư tà thuật hèn hạ. Vật chất trí tuệ mà nó có được dần
dần tan ră để trả lại cho kho vật chất trí tuệ nói chung của riêng cơi này.
3 – Ma h́nh.
Ma h́nh là xác chết thể vía của một người trong những giai đoạn sau này khi
tan ră, lúc mọi hạt trí tuệ đă rời bỏ xác chết thể vía. V́ vậy, nó không có
một loại ư thức hoặc trí thông minh nào, và thụ động bèo giạt mây trôi theo
các ḍng thần lực của cơi Trung giới. Ngay cả khi ấy nó vẫn có thể được cấp
cho sinh lực nhất thời để nhại theo một kiếp sống ma quái nếu nó ngẫu nhiên
xâm nhập vào hào quang của một người đồng cốt. Trong t́nh huống ấy, nó vẫn
c̣n giống hệt như phàm ngă của người đă quá cố xét theo bề ngoài và thậm chí
có thể mô phỏng được đến một chừng mực nào đó những cách diễn tả hoặc chữ
viết tay quen thuộc của y.
Nó cũng có tính chất là vẫn c̣n mù quáng hưởng ứng với những rung động như
thế, thường thường thuộc loại thấp nhất mà người ta thường lập nên trong
giai đoạn tồn tại cuối cùng với tư cách là một u hồn.
4 – Ma h́nh được cấp sinh lực.
Nói cho thật đúng ra th́ thực thể này không thuộc loài người: tuy nhiên ta
xếp loại nó vào đây bởi v́ lớp vỏ bên ngoài của nó tức ma h́nh, thụ động, vô
tri vô giác, đă từng một lần thuộc quyền sở hữu của loài người. Một sinh
linh như thế vốn có trí thông minh, ham muốn và ư chí là của tinh linh nhân
tạo (xem trang 45) làm linh hoạt nó; bản thân tinh linh này do tư tưởng độc
ác của con người sáng tạo ra.
Một ma h́nh được cấp sinh lực luôn luôn có ác ư: nó quả thật là con quỉ cám
dỗ mà ảnh hưởng gian tà chỉ bị hạn chế bởi phạm vi quyền năng của nó mà
thôi. Giống như u hồn, nó thường được dùng trong các dạng thức pháp thuật
Voodoo và Obeah. Một số tác giả gọi nó là “âm ma”.
5 – Người tự tử và nạn nhân bị bất
đắc kỳ tử.
Ta đă miêu tả những người này rồi ở chương 15 bàn về
Sinh hoạt sau khi chết. Ta có thể
lưu ư thấy rằng lớp này cũng như các U hồn và Ma h́nh được cấp Sinh lực vốn
có thể được gọi là các ma cà rồng thứ yếu bởi v́ khi có cơ hội, chúng bèn
kéo dài mạng sống của ḿnh bằng cách rút rỉa sinh lực của những người mà
chúng có thể gây ảnh hưởng được.
6 – Ma cà rồng và Ma sói.
Hai lớp này ngày nay cực kỳ hiếm có; đôi khi người ta c̣n t́m được những ví
dụ chủ yếu ở những xứ có ḍng máu thuộc ḍng dơi Giống dân thứ tư chẳng hạn
như nước Nga hoặc nước Hung gia lợi.
Rất có thể một người sống một cuộc đời tàn bạo ích kỷ và đồi trụy đến nỗi
toàn thể hạ trí đâm ra đắm ch́m vào các ham muốn rồi cuối cùng tách rời khỏi
Chơn ngă. Điều này chỉ có thể xảy ra khi mọi tia le lói của ḷng vị tha hoặc
tính linh đă bị bóp nghẹt, và khi tuyệt nhiên không có đặc điểm cứu chuộc
nào.
Chẳng bao lâu sau khi nơi cơi trung giới mà bị cuốn hút không thể cưỡng lại
được với đầy đủ ư thức nhập vào “nơi chốn của riêng minh”, là cơi thứ tám
huyền bí, để rồi từ từ tan ră trong đó sau khi trải nghiệm những điều mà tốt
hơn ta không nên miêu tả ra đây. Tuy nhiên, nếu y chết v́ tự tử hoặc bất đắc
kỳ tử th́ trong một vài trường hợp, nhất là khi y biết một chút ǵ đó về tà
thuật, y có thể gh́m ḿnh lại trốn tránh số phận này qua kiếp sống ma quái
của một ma cà rồng.
V́ cơi thứ tám không thể túm cổ được y chừng nào thể xác y chưa chết cho nên
y bảo toàn mạng sống bằng một loại xuất thần cứng đơ thể xác qua việc truyền
máu vào nó được rút ra từ những người khác nhờ vào thể vía đă được hiện h́nh
một nửa; vậy là y tŕ hoăn được số phận cuối cùng của ḿnh bằng cách phạm
tội giết người hàng loạt. Trong trường hợp như ,hương thuốc chữa trị hữu
hiệu nhất theo giả định rất đúng đắn của “hói mê tín dị đoan” của dân gian
là hăy thiêu xác, khiến cho thực thể này bị
mất cứ điểm của ḿnh.
Khi người ta khai quật ngôi mộ th́ thể xác thường có vẻ rất tươi tắn và khỏe
mạnh, c̣n quan tài thường chứa đầy máu. Việc thiêu xác dĩ nhiên không thể có
loại ma cà rồng này được.
Ma sói trước hết chỉ có thể biểu hiện trong kiếp sống con người trên cơi
trần và nó luôn luôn hàm ư có hiểu biết chút ít về pháp thuật - dù sao đi
nữa cũng đủ cho y xuất vía được.
Khi một người hoàn toàn độc ác và tàn bạo làm như thế th́ trong một số t́nh
huống, thể vía của y có thể bị những thực thể khác trên cơi trung giới nhập
vào hiện h́nh, không phải dưới dạng người mà dưới dạng một con thú hoang nào
đó, thường là chó sói. Trong t́nh huống ấy nó sẽ đi rảo khắp vùng xung
quanh, giết chết những con thú khác và ngay cả giết người nữa để thỏa măn
chẳng những sự khát máu của chính ḿnh mà c̣n là sự khát máu của đám ma quỉ
thôi thúc nó.
Trong trường hợp này, cũng như ta thường thấy đối với những sự hiện h́nh
thông thường, một vết thương tác động lên thể vía ắt được mô phỏng lại trên
thể xác con người qua hiện tượng kỳ diệu là phản kích (xem trang 242). Nhưng
sau khi thể xác chết đi th́ thể vía vốn có lẽ tiếp tục xuất hiện dưới dạng
ấy ắt khó bị tổn thương hơn.
Tuy nhiên lúc bấy giờ nó cũng ít nguy hiểm hơn, v́ nếu nó không t́m được một
người đồng cốt thích hợp th́ nó ắt không thể hiện h́nh được hoàn toàn. Trong
những sự hiện h́nh như thế, có lẽ có nhiều vật chất của thể phách và thậm
chí cả một số thành phần cấu tạo thể lỏng và thể hơi của thể xác, giống như
trong trường hợp một số sự hiện h́nh. Trong cả hai trường hợp này th́ cơ thể
linh hoạt dường như có thể đi xa ra khỏi thể xác nhiều hơn mức có thể đạt
được trong t́nh huống khác chừng nào mà ta biết được là hiện thể ấy c̣n chứa
chất dĩ thái.
Những sự biểu lộ của cả ma cà rồng lẫn ma sói thường bị hạn chế ở vùng ngay
kế cận thể xác.
7 – Pháp sư tà đạo và Đệ tử.
Lớp
này tương ứng với sự thay thế cần
thiết đối với đệ tử đang chờ được luân hồi, nhưng trong trường hợp này
người ấy đang thách thức tiến tŕnh tự nhiên của cơ tiến hóa bằng cách ḱm
ḿnh lại trong sinh hoạt cơi trung giới nhờ vào pháp thuật - đôi khi có bản
chất rùng rợn nhất.
Ta thấy không nên liệt kê hoặc miêu tả đủ thứ cách tế phân của lớp này bởi
v́ một học viên huyền bí học chỉ nên tránh chúng đi thôi. Tất cả những thực
thể này muốn kéo dài mạng sống trên cơi trung giới vượt quá giới hạn tự
nhiên đều làm như thế bằng cách gây phương hại cho người khác, hấp thụ sinh
lực của người khác dưới một dạng nào đó.
8 – Đệ tử đang chờ được Tái sinh Luân
hồi.
Hiện nay đây cũng là một lớp hiếm có. Một đệ tử đă quyết tâm không
hưởng Tây phương Cực lạc, nghĩa
là không tiến nhập cơi thiên đường mà muốn tiếp tục hoạt động trên cơi hồng
trần th́ đôi khi được phép làm như thế chỉ nhờ sự cho phép của một bậc có
thẩm quyền rất cao, kiếp tái sinh luân hồi thích hợp này được Chơn sư dàn
xếp cho y. Ngay cả khi được phép, nghe đâu đệ tử cũng phải gh́m ḿnh hoàn
toàn vào cơi trung giới trong khi việc này đang được dàn xếp, bởi v́ y chỉ
chạm vào cơi trí tuệ một lúc thôi th́ y có thể bị một ḍng thần lực không
thể cưỡng lại cuốn hút vào ḍng tiến hóa b́nh thường để rồi tiến nhập vào
cơi thiên đường.
Đôi khi mặc dù rất hiếm hoi, đệ tử có thể được bố trí trực tiếp vào thể xác
của một người lớn mà người chủ thuê mướn trước kia của nó không c̣n sử dụng
nữa: nhưng hiếm khi có một thể xác có sẵn thích hợp.
Trong khi chờ đợi, dĩ nhiên đệ tử có ư thức trọn vẹn trên cơi trung giới và
có thể tiếp tục công việc mà Chơn sư giao phó, thậm chí c̣n hữu hiệu hơn khi
bị thể xác làm cho vướng víu.
9 – Đấng ứng thân Nirmānakaya.
Quả thật rất hiếm khi một đấng cao cả như Đấng ứng thân lại biểu lộ trên cơi
trung giới. Ứng thân là một đấng đă có quyền an dưỡng nơi cơi cực lạc khôn
tả trong hàng vô lượng thời, thế nhưng lại tự nguyện ở lại tiếp xúc với trần
thế, có thể nói lơ lững giữa hạ giới và cơi Niết bàn để sản sinh ra các
luồng thần lực tâm linh vốn có thể được dùng để trợ giúp cơ tiến hóa. Nếu
Ngài muốn xuất hiện trên cơi trung giới có lẽ ngài ắt tạo ra cho chính ḿnh
một thể vía tạm thời làm bằng vật chất nguyên tử của cơi này. Điều này là có
thể được bởi v́ một Đấng Ứng thân có giữ lại thể nguyên nhân của ḿnh cũng
như các nguyên tử trường tồn mà ngài đă mang theo trải qua ḍng tiến hóa sao
cho vào bất cứ lúc nào ḿnh muốn, ngài đều có thể làm cho các thể trí, thể
vía và thể xác hiện ra xung quanh các nguyên tử trường tồn.
CHƯƠNG XX
CÁC THỰC THỂ TRÊN TRUNG GIỚI: PHI NHÂN LOẠI
1 – Tinh hoa Ngũ hành.
Nhiều tác giả khác nhau đă sử dụng thuật ngữ “tinh linh” để ngụ ư nhiều loại
thực thể khác nhau. Ở đây ta dùng nó để biểu thị tinh hoa chơn thần trong
một vài giai đoạn tồn tại, đến lượt tinh hoa chơn thần có thể được coi là
tinh thần tuôn đổ ra hay thần lực nhập vào vật chất.
Thật là điều quan trọng cực kỳ khi học viên ngộ ra được rằng sự tiến hóa của
tinh hoa ngũ hành này diễn ra trên ṿng cung đi xuống (nó thường được gọi
như vậy): nghĩa là nó tiến về phía
sự dính mắc hoàn toàn vào vật chất như ta thấy nơi giới khoáng vật thay
v́ tiến xa khỏi vật chất; v́ vậy bảo rằng nó tiến bộ có nghĩa là
ch́m sâu vào vật chất thay v́ là
thăng lên hướng về các cơi cao.
Trước khi “luồng lưu xuất” đạt tới giai đoạn biệt lập ngă tính để cấp linh
hồn cho con người, nó đă trải qua việc cấp linh hồn (phú linh) cho sáu giai
đoạn tiến hóa trước kia, nghĩa là giới tinh hoa ngũ hành thứ nhất (trên cơi
thượng trí), giới tinh hoa ngũ hành thứ hai (trên cơi hạ trí), giới tinh hoa
ngũ hành thứ ba (trên cơi trung giới), giới khoáng vật, giới thực vật và
giới động vật. Đôi khi, người ta đă gọi nó là chơn thần động vật, chơn thần
thực vật hoặc chơn thần khoáng vật, mặc dù rơ ràng gọi như vậy là gây hiểu
lầm bởi v́ rất lâu trước khi nó đạt tới bất kỳ giới nào trong nhóm này, nó
đều đă trở thành nhiều chơn thần
chứ không phải một chơn thần duy
nhất.
Cố nhiên ở đây ta chỉ bàn tới tinh hoa ngũ hành thể vía. Tinh hoa này bao
gồm luồng lưu xuất của Thượng Đế vốn đă khoác lấy lớp màn vật chất tới cảnh
nguyên tử của cơi trí tuệ rồi từ đó lặn trực tiếp xuống cơi trung giới, tụ
tập xung quanh ḿnh một cơ thể bằng vật chất nguyên tử của cơi trung giới.
Một tổ hợp như thể là tinh hoa ngũ hành của cơi trung giới vốn thuộc về giới
tinh hoa ngũ hành thứ ba, tức là giới ngay trước giới khoáng vật.
Trong quá tŕnh có được 2.401 biến dị trên cơi trung giới, nó thu hút về
ḿnh biết bao nhiêu tổ hợp vật chất của đủ thứ cảnh giới. Tuy nhiên những
thứ này chỉ tạm bợ thôi và nó vẫn c̣n cốt yếu là một giới duy nhất.
Nói cho đúng ra th́ không có thứ ǵ là
một tinh linh liên quan tới nhóm
mà ta đang xét. Điều ta t́m thấy là một kho chứa khổng lồ tinh hoa ngũ hành,
cực kỳ bén nhạy với tư tưởng phù du nhất của con người; đáp ứng một cách vi
tế không thể tưởng tượng được (trong một phần cực kỳ nhỏ của một giây) với
rung động được lập nên do sự vận dụng hoàn toàn vô thức của ư chí hoặc ham
muốn của con người.
Nhưng ngay lúc chịu ảnh hưởng của tư tưởng hoặc ư chí ấy, nó bèn bị uốn nắn
thành một lực linh hoạt để trở thành một tinh linh thuộc vào lớp tinh linh
“nhân tạo” mà ta sẽ xét tới ở chương kết tiếp. Ngay cả lúc bấy giờ th́ sự
tồn tại riêng rẽ của nó cũng thường là phù du bởi v́ ngay khi xung lực của
nó đă được triển khai hết th́ nó ch́m đắm trở lại vào khối tinh hoa ngũ hành
chưa biến dị vốn là cội nguồn phát sinh ra nó.
Một khách đến tham quan cơi trung giới tất yếu sẽ chịu ấn tượng của những
h́nh dáng thiên biến vạn hóa của đợt sóng triều không ngừng tinh hoa ngũ
hành, bao giờ cũng xoáy lượn xung quanh y, thường hay đe dọa, thế nhưng bao
giờ cũng rút lui trước một nỗ lực quyết tâm đầy ư chí; và y ắt lấy làm khâm
phục trước đội quân hùng hậu những thực thể tạm thời được hiệu triệu từ đại
dương này thành ra được tồn tại riêng rẽ nhờ vào những tư tưởng và xúc cảm
của con người cho dù là tốt hay xấu.
Nói chung th́ tinh hoa ngũ hành có thể được xếp loại theo loại vật chất mà
nó cư trú trong đó, nghĩa là chất đặc, chất lỏng, chất hơi v.v… Đây là những
“tinh linh” của các nhà luyện kim đan thời trung cổ. Họ chủ trương chính xác
rằng một “tinh linh’ (nghĩa là một phần tinh hoa ngũ hành sống động đă được
đặc hữu) vốn cố hữu nơi mỗi “hành” (element) tức
thành phần cấu tạo của mọi chất
trên cơi hồng trần.
Mỗi một trong bảy lớp chính yếu tinh hoa ngũ hành này lại có thể được chia
nhỏ ra thành bảy tế phân, tạo thành bốn mươi chín tế phân.
Hơn nữa và hoàn toàn độc lập với phép phân chia theo
chiều ngang này, ta cũng có bảy
loại tinh hoa ngũ hành hoàn toàn riêng rẽ; sự khác nhau của chúng chẳng dính
dáng ǵ tới mức độ thể hiện vật chất, mà đúng hơn là dính dáng tới tính t́nh
và ái lưc. Học viên ắt quen thuộc với cách phân loại này coi đó là phân loại
“thẳng đứng” liên quan tới bảy “cung”.
Cũng có bảy tế phân của mỗi loại h́nh “cung”, tạo thành bốn mươi chín tế
phân theo trục thẳng đứng. Như vậy, số loại tinh hoa ngũ hành là 49x49 tức
2.401.
Phép phân chia theo trục thẳng đứng rơ ràng là thường trụ hơn và căn bản hơn
phân chia theo trục nằm ngang; bởi v́ tinh hoa ngũ hành trong lộ tŕnh tiến
hóa chậm chạp đều lần lượt trải qua đủ thứ lớp phân loại nằm ngang, nhưng
suốt dọc đường vẫn c̣n thuộc về phép tế phân theo trục thẳng đứng.
Khi bất cứ bộ phận nào của tinh hoa ngũ hành trong một vài lúc nào đó vẫn
c̣n hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của bất cứ ảnh hưởng ngoại lai nào – một
t́nh huống khó ḷng thực hiện được – th́ nó không có h́nh dáng xác định của
riêng ḿnh: nhưng khi có sự xáo trộn chỉ một chút thôi th́ nó lóe lên thành
ra một mớ lộn xộn rối rắm, những h́nh dáng cứ biến đổi luôn; h́nh dáng này
ùa ra rồi biến mất nhanh như những bọt nước trên bề mặt nước sôi.
Những h́nh dáng phù du này, mặc dù thường của những tạo vật sống động thuộc
một loại nào đó, cho dù của loài người hay loài khác, cũng không hề biểu
diễn sự tồn tại của những thực thể riêng biệt xét theo bản thể chẳng khác
nào những đợt sóng cũng đa dạng và thường biến đổi như vậy do một cơn gió
bất thường làm nổi lên trong một vài phút trên một mặt hồ trước kia là phẳng
lặng. Chúng dường như chỉ là phản ánh của kho chứa ánh sáng tinh tú rộng
lớn, thế nhưng chúng luôn luôn thích ứng với tính cách của luồng tư tưởng
đưa chúng vào tồn tại, mặc dù hầu như luôn luôn bị bóp méo lố bịch nào đó
với một khía cạnh gây khủng khiếp hoặc khó chịu.
Khi tinh hoa ngũ hành bị đẩy vào những h́nh thái thích hợp với luồng tư
tưởng vô ư và bán ư thức mà đa số mọi người để cho nó tuôn tràn lộn xộn qua
bộ óc ḿnh th́ trí thông minh tuyển lựa h́nh dáng thích hợp ấy rơ ràng không
bắt nguồn từ tâm trí chủ thể suy tư: nó cũng chẳng thể bắt nguồn từ chính
tinh hoa ngũ hành v́ nó thuộc về một giới c̣n cách xa mức biệt lập ngă tính
nhiều hơn cả giới khoáng vật, v́ hoàn toàn không có quyền năng trí tuệ đă
được khơi hoạt.
Tuy nhiên, tinh hoa ngũ hành có một sự thích ứng tuyệt vời vốn thường có vẻ
như rất gần với trí thông minh: chắc chắn là tính cách này đă khiến cho các
tinh linh được sách vở thời xưa gọi là “các tạo vật bán thông minh của ánh
sáng tinh tú”.
Tự thân các giới tinh hoa ngũ hành không thừa nhận các khái niệm như tốt và
xấu. Song le, có một loại thiên kiến hoặc khuynh hướng thấm nhuần hầu hết
mọi tế phân của chúng vốn khiến cho chúng thù nghịch hơn là thần hữu đối với
con người. V́ thế cho nên mới có kinh nghiệm thông thường về người đệ tử sơ
cơ trên cơi trung giới khi hàng đoàn lớp lớp những con ma thiên biến vạn hóa
tiến tới đe dọa y, nhưng luôn luôn triệt thoái hoặc tan biến không gây hại
ǵ khi y dũng cảm giáp mặt với chúng. Các tác giả thời trung cổ có nêu rơ
rằng thiên kiến hoặc khuynh hướng này hoàn toàn do lỗi của chính con người
và được gây ra do y lănh đạm với và thiếu thiện cảm với các sinh linh khác.
Trong thời đại “hoàng kim” của quá khứ th́ không hề như vậy cũng như trong
thời đại tương lai do thái độ thay đổi của con người, cả giới tinh hoa ngũ
hành cũng như giới động vật sẽ một lần nữa trở nên ngoan ngoăn và giúp ích
cho con người thay v́ làm ngược lại.
Như vậy rơ ràng là giới tinh hoa ngũ hành nói chung rất giống điều mà tư
tưởng tập thể của loài người tạo ra.
Có nhiều công dụng để cho các lực vốn cố hữu nơi đủ thứ biến thể của tinh
hoa ngũ hành có thể được vận dụng do một người lăo luyện trong việc cai quản
chúng. Đại đa số các nghi lễ pháp thuật đều phần lớn tùy thuộc vào việc vận
dụng nó hoặc là trực tiếp do ư chí của pháp sư đă trục triệu v́ mục đích ấy.
Cũng nhờ có nó người ta mới tạo ra hầu hết các hiện tượng vật lư trong
pḥng lên đồng, nó cũng là tác
nhân trong hầu hết trường hợp ném đá hoặc rung chuông trong các căn nhà bị
ma ám, những căn nhà này là kết quả của các nỗ lực sai lầm nhằm thu hút sự
chú ư do một thực thể con người quyến luyến ṿng tục lụy, hoặc do những tṛ
tinh nghịch chỉ mang tính đùa chơi của một số tinh linh thiên nhiên thứ yếu
thuộc về lớp thứ ba (xem trang 181). Nhưng “tinh linh” không bao giờ nên
được coi là nguyên động lực, nó chỉ là một tiềm lực cần có năng lượng ngoại
lai để phát động.
2 – Thể vía của Loài thú.
Đây là một lớp thật rộng lớn, thế nhưng nó không đóng một vai tṛ đặc biệt
quan trọng trên cơi trung giới, v́ các thành viên của nó chỉ ở đó một thời
gian rất ngắn. Đại đa số con thú cho đến nay chưa biệt lập ngă tính thường
xuyên và khi một trong các con thú chết đi th́ tinh hoa chơn thần đă biểu
hiện qua nó bèn chảy ngược trở lại vào hồn khóm vốn xuất phát ra nó, mang
theo sự tiến bộ hoặc trải nghiệm vốn đă đạt được trong khi sinh hoạt trên
cơi trần. Tuy nhiên, nó không thể làm như vậy ngay tức khắc; thể vía của con
thú bố trí lại cũng giống như trong trường hợp của con người, và con thú
thật sự tồn tại trên cơi trung giới; thời gian tuy nhiên không bao giờ kéo
dài lâu mà biến thiên tùy theo trí thông minh được con thú phát triển. Trong
hầu hết trường hợp, nó thường có vẻ không khá ǵ hơn việc có ư thức mơ màng
nhưng dường như hoàn toàn hạnh phúc.
Một số tương đối ít những con gia súc vốn đă đạt được mức biệt lập ngă tính
rồi và v́ vậy không c̣n tái sinh làm con thú trên thế giới nữa, ắt có một
sinh hoạt dài hơn nhiều và sống động hơn trên cơi trung giới so với các đồng
loại chậm tiến hơn.
Những con thú đă biệt lập ngă tính như thế thường vẫn ở gần cơi trần tục để
tiếp xúc mật thiết với người bạn đặc biệt và người che chở cho ḿnh. Thời kỳ
này được nối tiếp bởi một thời kỳ c̣n hạnh phúc hơn nữa vốn được gọi là tâm
thức ngủ gà ngủ gật kéo dài cho tới khi nó khoác lấy h́nh tướng con người
trong một thế giới tương lai nào đó. Trong thời kỳ ấy y ở vào t́nh trạng
tương tự như t́nh trạng một con người trên cơi thiên đường, mặc dù ở một mức
hơi thấp hơn.
Một lớp tế phân thú vị của lớp này bao gồm thể vía của những con khỉ nhân
h́nh mà Giáo Lư Bí Truyền (quyển
I trang 284) có đề cập tới, chúng đă biệt lập ngă tính rồi và sẽ sẵn sàng
nhập thể nơi h́nh người trong cuộc tuần hoàn sắp tới, hoặc có lẽ một số thậm
chí c̣n sớm hơn nữa.
Trong những quốc gia “văn minh” th́ thể vía của những con thú này góp phần
nhiều hơn vào cảm giác nói chung mang tính thù địch trên cơi trung giới, bởi
v́ việc giết thịt có tổ chức những con thú trong các ḷ sát sinh và do đi
săn bắn “thể thao” đă đẩy hàng triệu sinh linh lên cơi trung giới đầy khiếp
sợ, khủng khiếp và xa lánh con người. Trong những năm gần đây, những xúc cảm
này lại được tăng cường nhiều hơn nữa do việc thực hành sự giải phẫu sống.
3 – Đủ thứ Tinh linh Thiên nhiên.
Lớp này rộng lớn và biến thiên đến nỗi ở đây ta chỉ có thể tŕnh bày một ư
tưởng nào đó về những đặc trưng chung cho toàn thể loại này.
Tinh linh thiên nhiên thuộc về một ḍng tiến hóa khác hẳn ḍng tiến hóa của
chính chúng ta: chúng chưa bao giờ mà cũng sẽ chẳng bao giờ là thành viên
của giới nhân loại như chúng ta. Chúng chỉ liên quan tới chúng ta ở mỗi một
chỗ là tạm thời chung sống trên một hành tinh. Chúng dường như tương ứng với
những con thú trong một ḍng tiến hóa cao hơn. Chúng được chia thành bảy lớp
lớn, cư trú trong cũng bảy trạng thái vật chất được thấm nhuần bởi đủ thứ
biến thể tương ứng của tinh hoa ngũ hành. Do đó, ta có các tinh linh thiên
nhiên của đất, nước, gió, lửa (hoặc hư không) - có các thực thể xác định,
thông minh thuộc cơi trung giới cư ngụ và hoạt động trong mỗi một môi trường
này.
Chỉ có thành viên của lớp gió thông thường cư trú nơi cơi trung giới nhưng
số lượng của chúng quá đông đến nỗi chúng hiện diện khắp mọi nơi trên cơi
trung giới.
Trong kho tài liệu thời trung cổ, tinh linh của đất thường được gọi là thổ
địa, tinh linh của nước được gọi là thủy thần, tinh linh của gió được gọi là
phong thần và tinh linh của lửa được gọi là hỏa thần. Trong ngôn ngữ dân
gian, người ta thường gọi chúng bằng nhiều danh từ như tiên, thần lùn, quỉ
lùn, tiên lùn, tiên nữ, djinns, trolls, thần dê, thần dân giả, kobolds, tiểu
yêu, yêu tinh, thiện thần v.v…
Chúng có h́nh dáng thay đổi rất nhiều nhưng thường nhất là mang h́nh người
với kích thước hơi nhỏ một chút. Cũng giống như hầu hết các thực thể trung
giới, chúng có thể tùy ư khoác lấy bất cứ h́nh dáng bên ngoài nào mặc dù
chắc chắn chúng có những h́nh tướng được ưu ái mà chúng khoác lấy khi không
có mục đích đặc biệt nào nhằm khoác lấy h́nh tướng khác. Chúng thường vô
h́nh đối với mắt phàm, nhưng chúng có khả năng khiến cho mắt phàm thấy được
ḿnh bằng cách hiện h́nh khi chúng muốn người ta thấy ḿnh.
Đứng đầu mỗi một trong các lớp này là một Đấng cao cả, Đấng thông tuệ điều
khiển và dẫn dắt toàn thể bộ môn thiên nhiên được quản trị và cấp năng lượng
bởi lớp thực thể dưới quyền kiểm soát của ḿnh. Người Ấn độ gọi các đấng này
là (1) – Indra, tinh quân Akasa
tức hư không; (2) – Agni, tinh
quân lửa; (3) – Pavana, tinh quân
gió; (4) – Varuna, tinh quân
nước; (5) – Kshiti, tinh quân
đất.
Giới tinh linh thiên nhiên rộng lớn như nêu trên chủ yếu là một giới thuộc
cơi trung giới, mặc dù phần lớn của nó cũng thuộc về các cảnh dĩ thái của
cơi hồng trần.
Có vô số những tế phân hoặc giống ṇi trong đám tinh linh thiên nhiên với
những cá thể biến thiên về trí thông minh và tính khí cũng giống như con
người vậy. Hầu hết chúng đều hoàn toàn né tránh con người: những thói quen
và tia phóng phát của con người làm chúng ghê tởm; các ḍng thần lực trung
giới thường xuyên ùa ra do những ham muốn lăn xăn và không kềm chế được của
con người, làm phiền và gây rối cho chúng. Tuy nhiên, thỉnh thoảng chúng
cũng kết bạn với con người và thậm chí c̣n trợ giúp con người.
Thái độ trợ giúp thật hiếm hoi: c̣n trong hầu hết trường hợp chúng phơi bày
hoặc là sự thờ ơ hoặc là không thích hoặc là rất thích thú tinh nghịch khi
lừa gạt và gài bẫy được con người. Ta có thể thấy nhiều ví dụ của trường hợp
này nơi những vùng sơn cước hẻo lánh và ở trong
pḥng lên đồng.
Những mánh khóe lừa gạt của chúng được trợ giúp rất nhiều bằng khả năng kỳ
diệu gây hăo huyền mà chúng có được, sao cho nạn nhân chỉ nh́n thấy và nghe
thấy những ǵ đám tiên này gây ấn tượng lên ḿnh, giống hệt như trường hợp
những người bị thôi miên mesmer. Tuy nhiên, đám tinh linh thiên nhiên không
thể khống chế được ư chí của con người, ngoại trừ trường hợp những người rất
yếu bóng vía hoặc những người để cho sự khiếp sợ làm tê liệt ư chí của ḿnh.
Chúng chỉ có thể lừa gạt được các giác quan thôi và người ta đă từng biết
chúng gây hăo huyền cho một số lớn người trong cùng một lúc. Một số những
thành tích giống như phép lạ nhiều nhất của các thuật sĩ Ấn độ được thực
hiện bằng cách triệu thỉnh chúng giúp đỡ gây ra ảo giác tập thể.
Chúng thường có vẻ có ít ư thức trách nhiệm và có ư chí nói chung là kém cơi
hơn người b́nh thường. V́ vậy, chúng dễ dàng bị thôi miên mesmer khống chế
và được dùng để thi hành ư chí của pháp sư. Chúng có thể được sử dụng cho
nhiều mục đích và sẽ thi hành nhiệm vụ trong phạm vi khả năng của ḿnh một
cách trung kiên và chắc chắn.
Ở những vùng sơn cước, chúng cũng chịu trách nhiệm về việc làm mà mắt một
khách lữ hành lỡ bước, sao cho y thấy chẳng hạn như những căn nhà và người
ta ở nơi mà y biết thật ra chẳng có nhà cửa người ngợm ǵ hết. Những điều
hăo huyền này thường không chỉ mang tính tạm thời mà có thể được duy tŕ
trong một thời gian đáng kể, con người hoàn toàn trải qua một loạt lâu dài
những cuộc phiêu lưu tưởng tượng nhưng nổi bật để rồi bất chợt thấy rằng mọi
phong cảnh xung quanh đang sáng lạn bỗng biến mất và rồi y bị bỏ mặc đứng
trong một thung lũng hoang vắng hoặc trên một b́nh nguyên gió lộng.
Để làm quen kết bạn với chúng th́ con người phải không phóng phát ra những
tia mà chúng ghét, chẳng hạn như hơi hám thịt, rượu, thuốc lá và nói chung
là dơ dáy, cũng như không dâm dục, giận dữ, ganh tị, ghen tuông, hà tiện và
chán nản, nghĩa là y phải trong sạch hết mức về mặt thể chất lẫn thất t́nh
lục dục. Những xúc cảm cao siêu và thanh khiết bốc cháy đều đều không trồi
sụt hoang dại tạo ra một bầu hào quang mà các tinh linh thiên nhiên thích
thú tắm ḿnh trong đó. Hầu hết mọi tinh linh thiên nhiên cũng thích âm nhạc:
thậm chí chúng có thể vào một căn nhà để thưởng thức âm nhạc, tắm ḿnh trong
những làn sóng âm thanh, mạch động và lắc lư hài ḥa với những âm thanh đó.
Các tinh linh thiên nhiên cũng bị gán cho một phần lớn cái gọi là hiện tượng
lạ nơi các buổi lên đồng của thần
linh học: thật vậy nhiều buổi lên
đồng được thực hiện hoàn toàn do những tạo vật nghịch ngợm này. Chúng có
thể trả lời những câu hỏi, đưa ra những thông điệp giả tạo bằng cách gơ hoặc
kéo, phô bày những ánh sáng “tinh linh”, mang tới những vật từ nơi xa xôi,
đọc tư tưởng trong trí bất cứ ai có mặt, phóng hiện chữ viết hoặc h́nh vẽ và
thậm chí hiện h́nh nữa. Dĩ nhiên, chúng có thể sử dụng khả năng làm mà mắt
của ḿnh để bổ sung cho những tṛ lừa gạt khác.
Chúng có thể tuyệt nhiên không ngụ ư muốn làm hại hoặc lừa gạt mà chỉ ngây
thơ vui mừng khi thành công đóng vai tṛ của ḿnh gây ra sự kính sợ, sùng
tín và luyến ái mà thiên hạ ào ạt dâng lên cho chúng với vai tṛ các tinh
linh “thân thương” và các “thiên thần trợ lực”. Chúng chia sẻ niềm vui của
người ngồi đồng và cảm thấy ḿnh làm một chuyện tốt lành qua việc an ủi kẻ
đang khốn khó.
Đôi khi chúng cũng giả trang thành những h́nh tư tưởng mà con người tạo ra
và nghĩ rằng đó là một tṛ đùa thú vị khi tha hồ mọc sừng, tḥi đuôi chẻ ra
làm đôi, thổi ra lửa khi chúng ùa vào. Đôi khi một đứa trẻ nhạy cảm bị khiếp
sợ bởi những dáng vẻ như thế, nhưng nói cho công tâm đối với tinh linh thiên
nhiên th́ ta phải nhớ rằng bản thân nó không biết sợ do đó không hiểu được
tầm mức quan trọng của kết quả, có lẽ nghĩ rằng đứa trẻ chỉ giả vờ khiếp sợ
giống như đóng tṛ chơi.
Không có tinh linh thiên nhiên nào mang cá tính luân hồi thường trụ. V́ vậy,
dường như trong cơ tiến hóa của chúng một phần lớn trí thông minh đă phát
triển trước khi biệt lập ngă tính xảy ra.
Thọ mạng của đủ thứ lớp tinh linh biến thiên rất nhiều, một số chết yểu, một
số khác thọ nhiều hơn thọ mạng của con người. Nói chung th́ kiếp sống của
chúng thật đơn giản, vui vẻ, vô trách nhiệm cũng giống như một đám con nít
hạnh phúc có thể tụ tập chơi đùa trong những hoàn cảnh thuận lợi đặc biệt
trên cơi trần.
Trong đám tinh linh thiên nhiên không có giới tính, không có bệnh tật, không
có đấu tranh để sinh tồn. Chúng có tính luyến ái sâu sắc và có thể tạo lập
những t́nh bạn thân thiết và bền vững. Chúng có thể ghen tuông và giận dữ
nhưng những thứ ấy dường như nhanh chóng mờ nhạt đi trước sự hân hoan lớn
lao trong mọi thao tác của thiên nhiên vốn là đặc trưng nổi bật nhất của
chúng.
Cơ thể của chúng không có cấu trúc nội tạng sao cho chúng không thể bị xé
toạc ra hay bị thương, lạnh và nóng cũng không ảnh hưởng ǵ tới chúng. Chúng
dường như hoàn toàn không sợ sệt.
Mặc dù nhiều mánh khóe và thủ đoạn, chúng hiếm khi có ác ư nếu không bị cố
t́nh khiêu khích. Nói chung th́ chúng không tin vào con người và thường bực
ḿnh khi thấy một người mới đến xuất hiện trên cơi trung giới, khiến cho
chúng thường xuất hiện dưới dáng vẻ khó chịu hoặc gây khiếp sợ để đối đầu
với người ấy. Tuy nhiên, nếu y không chịu để chúng bắt nạt th́ chẳng bao lâu
chúng đương nhiên sẽ chấp nhận y là người khách, không chú ư tới y nữa, thậm
chí một số c̣n có thể kết bạn với y nữa.
Một trong những thú vui sắc sảo nhất của chúng là chơi giỡn đùa nghịch theo
cả trăm cách khác nhau với đám con nít trên cơi trung giới mà ta gọi là “đă
chết”.
Một số tinh linh ít ấu trĩ hơn và có tư cách hơn đôi khi được kính nễ là
thần rừng hoặc thành hoàng. Những vị thần này đánh giá cao sự xu nịnh mà
người ta dâng cho họ và chắc chắn sẵn ḷng phục vụ những chuyện lặt vặt mà
ḿnh có thể làm được để báo đáp.
Chơn sư biết cách sử dụng các dịch vụ của đám tinh linh thiên nhiên và
thường giao phó cho chúng nhiều công việc; nhưng một pháp sư thông thường
chỉ có thể làm được như vậy bằng cách triệu thỉnh, nghĩa là thu hút sự chú ư
của chúng qua sự cầu khẩn và tiến hành một loại mặc cả với chúng, hoặc bằng
cách trục triệu nghĩa là bắt buộc chúng vâng lời ḿnh. Cả hai phương pháp
này đều cực kỳ bất hảo, việc trục triệu cũng cực kỳ nguy hiểm bởi v́ người
thao tác có thể mua thù chuốc oán vốn có thể khiến y thiệt mạng. Không một
đệ tử Chơn sư nào được phép toan tính làm bất cứ điều ǵ giống như vậy.
Loại tinh linh thiên nhiên cao cấp nhất gồm các phong thần tức tinh linh vốn
có thể vía là thể thấp nhât. Chúng có trí thông minh ngang bằng với người
thường. Phương pháp thông thường để cho chúng đạt mức biệt lập ngă tính là
liên kết với và yêu thương những thành viên thuộc tŕnh độ kế cận cao hơn
chúng - tức các thiên thần cơi trung giới.
Một tinh linh thiên nhiên muốn trải nghiệm kiếp người có thể nhập xác một
người đang sống trên cơi trần.
Cũng có khi một lớp tinh linh thiên nhiên nào đó đă hiện h́nh trên cơi trần
rồi bước vào những quan hệ bất hảo với đàn ông và đàn bà. Có lẽ do sự kiện
này mới có những câu chuyện về thần dân dă và thần dê mặc dù đôi khi những
thần này nhằm nói tới một ḍng tiến hóa hoàn toàn khác dưới nhân loại.
Nhân tiện xin nói, ta nên lưu ư mặc dù giới tinh linh thiên nhiên khác hẳn
giới nhân loại – không giới tính, không biết sợ, chẳng đấu tranh sinh tồn –
thế nhưng kết quả cuối cùng trong sự phát triển của chúng xét về mọi mặt đều
tương đương với mức loài người đạt được.
4 – Các Thiên thần
Những sinh linh mà dân Ấn độ gọi là chư thiên th́ ở các nơi khác được gọi là
thiên thần, con của Thượng Đế v.v… Họ thuộc về một ḍng tiến hóa khác hẳn
ḍng nhân loại, một ḍng tiến hóa trong đó ta có thể coi họ là một giới kế
cận cao hơn loài người.
Trong kho tài liệu Đông phương, từ ngữ chư thiên thường được dùng mơ hồ ngụ
ư bất cứ loại thực thể phi nhân loại nào. Ở đây, nó được dùng theo nghĩa
giới hạn như nêu trên.
Họ chưa bao giờ là người bởi v́ hầu hết đă vượt qua giai đoạn làm người rồi,
nhưng có một số thiên thần trong quá khứ đă từng là người.
Cơ thể của thiên thần linh hoạt hơn cơ thể của con người, kết cấu hào quang
của họ có thể nói là lỏng lẻo hơn; hào quang ấy có thể mở rộng ra và co rút
lại rất nhiều, có một tính cách bốc lửa nào đó rơ ràng là phân biệt hẳn với
hào quang của người b́nh thường. H́nh tướng bên trong hào quang một thiên
thần (vốn hầu như luôn luôn là h́nh người) ít xác định hơn nhiều so với h́nh
người: thiên thần sống ở ngoại biên trên khắp vùng hào quang so với con
người tập trung vào nơi giữa. Chư thiên thường hiện ra thành những con người
có kích thước khổng lồ. Họ có ngôn ngữ màu sắc vốn có lẽ không xác định như
ngôn ngữ của chúng ta, mặc dù xét về một số phương tiện nó có thể diễn tả
được nhiều hơn.
Chư thiên thường kề cận trong tầm tay và sẵn ḷng xiển dương cũng như làm
gương cho những đề tài theo đường lối của riêng ḿnh nhằm cho bất cứ người
nào đă tiến hóa đúng mức thẩm định được các đề tài này.
Mặc dù có liên quan tới trái đất nhưng chư thiên tiến hóa theo một hệ thống
rộng lớn gồm bảy dăy hành tinh, toàn thể bảy thế giới của ta chỉ là một thế
giới duy nhất đối với họ. Rất ít người trong đám nhân loại chúng ta đạt tới
mức có thể gia nhập ḍng tiến hóa thiên thần. Hầu hết những người mới được
tuyển mộ trong giới thiên thần đều bắt nguồn từ những nhân loại khác trong
thái dương hệ, một số thấp hơn và một số cao hơn nhân loại chúng ta.
Mục đích của ḍng tiến hóa thiên thần là nâng cao mức tiên tiến nhất của
ḿnh lên mức cao hơn nhiều so với mức được dự tính cho nhân loại trong thời
kỳ tương ứng.
Ba bộ phận lớn thuộc loại thấp của thiên thần là (1) – Kāmadevas, có cơ thể
thấp nhất là thể vía, (2) – Rūpadevas, có cơ thể thấp nhất là hạ trí, (3) –
Arūpadevas, có cơ thể thấp nhất là thượng trí tức thể nguyên nhân.
Muốn cho Rūpadevas và
Arūpadevas biểu lộ trên cơi trung giới th́ ít ra điều này cũng hiếm hoi như
muốn cho một thực thể cơi trung giới hiện h́nh trên cơi hồng trần.
Bên trên ba lớp này là bốn phân bộ lớn khác, và bên trên vượt quá tầm với
nữa so với giới thiên thần là đội quân vĩ đại các Chơn linh Hành tinh.
Ở đây, ta chỉ quan tâm chủ yếu tới các Kāmadevas. Nói chung th́ người b́nh
thường trong nhóm họ cũng cao siêu hơn nhiều so với người thường trong nhóm
chúng ta, bởi v́ tất cả những ǵ dứt khoát là gian ác đều đă bị họ loại trừ
từ lâu rồi. Họ khác nhau rất nhiều về bẩm tính và một người thực sự có tính
linh có thể tiến hóa cao hơn một số những vị ấy.
Họ chỉ chú ư tới một vài lời triệu thỉnh pháp thuật, nhưng ư chí duy nhất
của nhân loại có thể khống chế được họ là ư chí của một lớp cao siêu nào đó
các bậc cao đồ.
Theo thông lệ, họ dường như ít có ư thức về cơi hồng trần, mặc dù đôi khi
một trong những người ấy có thể trợ giúp nhiều như bất kỳ người nào trong
chúng ta trợ giúp một con thú đang mắc nạn. Tuy nhiên, họ hiểu rằng ở giai
đoạn hiện nay th́ bất kỳ sự can thiệp nào vào những sự vụ con người cũng rất
có thể gây hại hơn là mang lại điều lợi ích.
Ở đây, ta nên đề cập tới Tứ đại Thiên vương (Devarājas),
mặc dù các ngài nói cho nghiêm xác không thuộc về bất cứ thứ nào trong các
lớp của chúng ta.
Bốn đấng này đă trải qua một cơ tiến hóa chắc chắn là chẳng có ǵ tương ứng
với nhân loại của chúng ta.
Người ta gọi các ngài là những Đấng cai quản Trái đất, Thiên thần Tứ phương
hoặc Tứ đại Thiên vương. Chẳng những các ngài chỉ huy các thiên thần mà c̣n
quản lư tứ “đại” là đất, nước, gió, lửa, cùng với các tinh linh thiên nhiên
và tinh hoa ngũ hành ở trong đó. Để cho tiện lợi, ta lập thành bảng biểu
những mẩu thông tin khác liên quan tới các ngài như sau:
Tên gọi |
Phương thích hợp
trên la bàn |
Đội quân tinh linh |
Màu sắc
biểu tượng |
Dhritarāshtra
Virūdhaka
Virūpaksha
Vaishrāvana |
Phương Đông
Phương Nam
Phương Tây
Phương Bắc |
Gandharvas
Kumbhandas
Long thần
Dạ xoa |
Màu trắng
Màu xanh lơ
Màu đỏ
Màu hoàng kim |
Giáo lư Bí truyền
đề cập tới các ngài là “những bầu có cánh và những bánh xe rực lửa”, c̣n
trong Kinh thánh Kitô giáo Ezekiel ra sức miêu tả các ngài bằng những từ ngữ
rất giống như vậy. Biểu tượng hệ của mọi tôn giáo đều có nhắc tới các ngài
và người ta luôn luôn tôn kính các ngài nhất, coi đó là các đấng bảo vệ cho
loài người.
Các ngài là tác nhân Nghiệp quả của con người trong khi họ c̣n sống trên
trần thế, và như vậy, các ngài đóng vai tṛ cực kỳ quan trọng trong vận mệnh
con người. Các đấng thần linh coi về Nghiệp quả của Càn khôn, tức Lipika,
cân nhắc các hành vi của mỗi phàm ngă khi có sự phân ly tối hậu của các
nguyên khí diễn ra vào lúc kết thúc sinh hoạt trên cơi trung giới của nó, và
có thể nói nó là cái khuôn được cung cấp cho thể dĩ thái chính xác thích hợp
với Nghiệp báo của con người trong kiếp tới. Nhưng chính các đấng Tứ đại
Thiên vương v́ điều khiển tứ “đại” phải cấu thành thể phách cho nên mới sắp
xếp tỉ lệ của chúng sao cho hoàn thành chính xác được ư định của các đấng
Lipika.
Suốt đời các ngài thường xuyên
ḥa giải những sự thay đổi du nhập vào thân phận con người do tự do ư chí
của chính y và của những người xung quanh y sao cho Nghiệp báo có thể được
thanh toán một cách chính xác và công bằng. Trong
Giáo lư Bí truyền, quyển I, trang
122 – 126, ta thấy có một phần tiểu luận uyên bác về những đấng này. Các
ngài có thể tùy ư khoác lấy h́nh tướng vật chất của con người và người ta đă
ghi lại những trường hợp các ngài làm như thế.
Mọi tinh linh thiên nhiên cao cấp hơn và đội quân tinh linh nhân tạo này
đóng vai tṛ tác nhân của ngài trong công tŕnh vĩ đại này, nhưng mọi manh
mối đều nằm trong tay chính các ngài và các ngài chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Các ngài ít khi biểu lộ trên cơi trung giới, nhưng khi biểu lộ th́ các ngài
chắc chắn là những cư dân phi nhân loại đáng chú ư nhất.
Thực ra ắt phải có bảy Thiên vương chứ không phải tứ Thiên vương, nhưng
ngoài ṿng các giới Điểm đạo th́ người ta chẳng biết ǵ mấy và ta hầu như
không thể nói ǵ liên quan tới ba đấng cao hơn.
CHƯƠNG XXI
CÁC THỰC THỂ TRUNG GIỚI: NHÂN TẠO
Các thực thể nhân tạo hợp thành lớp lớn nhất và cũng hầu như quan trọng nhất
đối với con người. Chúng bao gồm một khối khổng lồ sơ khai những thực thể
bán thông tuệ. Trong đám họ khác nhau cũng giống như tư tưởng con người khác
nhau, cho nên thực tế ta không thể phân loại và bố trí chi tiết. V́ hoàn
toàn do chính con người sáng tạo ra cho nên chúng có liên quan tới con người
theo những mối nhân quả mật thiết nhất, tác động của chúng đối với con người
là trực tiếp và không ngừng.
1 – Những tinh linh được tạo thành một cách vô thức.
Cách thức mà các h́nh tư tưởng dục vọng này bước vào tồn tại đă được miêu tả
ở Chương VII. Ham muốn và tư tưởng của con người chộp lấy tinh hoa ngũ hành
mềm dẻo rồi ngay tức khác uốn nắn nó ra thành một sinh linh sống động có
h́nh dáng thích hợp. H́nh tư tưởng này tuyệt nhiên không chịu sự kiểm
soát của người sáng tạo ra ḿnh mà sống cuộc đời của riêng ḿnh, thọ mạng
của nó tỉ lệ với cường độ của tư tưởng sáng tạo ra nó và có thể vào khoảng
từ vài phút tới nhiều ngày. Muốn có thêm những chi tiết đặc biệt xin học
viên hăy tham chiếu trở lại Chương VII.
2 – Các tinh linh được tạo thành một cách hữu thức.
Rơ ràng là các tinh linh được tạo thành một cách hữu thức do những người
đang cố t́nh tác động và biết chính xác điều ḿnh đang làm; những tinh linh
này có thể mạnh hơn vô cùng so với những tinh linh được tạo thành một cách
vô thức. Các huyền bí gia của
cả trường phái chánh đạo lẫn trường phái tà đạo đều thường dùng tinh linh
nhân tạo trong công việc của ḿnh, và ít nhiệm vụ nào nằm ngoài tầm quyền
năng của những tạo vật như thế khi nó được điều chế một cách khoa học và
điều khiển một cách đầy hiểu biết và tài năng. Người nào biết cách làm như
vậy có thể duy tŕ mối quan hệ với tinh linh của ḿnh và điều khiển nó sao
cho nó thực tế sẽ đóng vai tṛ dường như thể được phú cho trí thông minh
trọn vẹn của chủ.
Ta không cần lập lại ở đây những lời mô tả về loại tinh linh này v́ nó đă
được tŕnh bày rồi ở Chương VII.
3 – Những con người nhân tạo.
Đây là một lớp rất đặc thù, chỉ bao hàm một vài cá thể, nhưng có tầm quan
trọng vượt ngoài tỉ lệ về số lượng, bởi v́ nó có liên quan mật thiết tới
phong trào thần linh học.
Để giải thích sự phát nguyên của nó, ta cần trở lại Châu Atlantis thời xưa.
Trong số các chi bộ nghiên cứu Huyền bí học, trước khi được Điểm đạo, do các
Cao đồ Chánh pháp lập nên, có một chi bộ vẫn c̣n tuân thủ cùng một nghi thức
như thời cựu thế giới và vẫn dạy cũng ngôn ngữ Atlante, là một ngôn ngữ linh
thiêng và ẩn tàng như thời Atlantis.
Các huấn sư trong chi bộ này chưa đạt tới mức Cao đồ và chi bộ không trực
tiếp là một phần của Huyền giai Huynh đệ Hi mă lạp sơn, mặc dù có một số Cao
đồ Hi mă lạp sơn có liên quan tới nó trong những kiếp trước.
Vào khoảng giữa thế kỷ 19, những người lănh đạo chi bộ này v́ thất vọng
trước chủ nghĩa duy vật hoành hành ở Âu châu và Mỹ châu đă quyết định chiến
đấu chống lại nó bằng những phương pháp mới và cung cấp cơ hội cho bất cứ
người nào có lư trí có thể đạt được bằng chứng về cuộc sống bên kia cửa tử
không cần có thể xác.
Phong trào được tạo dựng như vậy tăng trưởng thành ra mạng lưới rộng lớn
thần linh học hiện đại với số tín đồ lên tới cả triệu người. Cho dù người ta
có thể theo đuổi những kết quả khác th́ chắc chắn rằng nhờ vào thần linh
học, một số lớn người ta đă đạt được niềm tin dù sao đi nữa cũng có một loại
kiếp sống tương lai nào đó. Đây là một thành công rực rỡ, mặc dù một số
người nghĩ rằng người ta đă đạt được điều ấy mà phải trả giá quá đắt.
Phương pháp được chọn dùng là chọn một người b́nh thường sau khi chết, làm y
thức tỉnh hoàn toàn trên cơi trung giới, huấn luyện cho y đến một chừng mực
nào đó có được quyền năng và khả năng thuộc về cơi trung giới, rồi để cho y
phụ trách một nhóm thần linh học. Đến lượt y lại “phát triển” những phàm ngă
đă quá cố khác theo cùng đường lối ấy, tất cả đều tác động lên những kẻ
ngồi đồng để “phát triển” họ
thành đồng cốt. Các lănh tụ của phong trào này chắc chắn là đôi khi cũng
biểu lộ qua h́nh tướng trên cơi trung giới ở các nhóm lên đồng, nhưng trong
hầu hết mọi trường hợp, họ chỉ điều khiển và dẫn dắt theo mức họ xét thấy là
cần thiết. Chắc chắn là phong trào đă gia tăng nhiều đến mức chẳng bao lâu
nó vượt ngoài tầm kiểm soát của họ; v́ vậy đối với nhiều sự phát triển sau
này th́ họ chỉ chịu trách nhiệm gián tiếp thôi.
Sự gia tăng sinh hoạt trên cơi trung giới của những “người kiểm soát” chịu
trách nhiệm về các nhóm lên đồng rơ rệt là làm tŕ hoăn sự tiến bộ tự nhiên
của họ, và mặc dù người ta nghĩ rằng việc đền bù cho những mất mát ấy là do
kết quả của nghiệp báo tốt qua việc dẫn dắt người khác tiến tới sự thật,
nhưng chẳng bao lâu sau người ta thấy rằng không thể sử dụng một “vong linh
hướng dẫn” trong bất cứ thời gian lâu dài nào mà không gây ra cho y sự thiệt
hại thường xuyên nghiêm trọng.
Trong một số trường hợp, những “người hướng dẫn” ấy được rút lại và được
thay thế bằng những người khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp khác,
người ta xét thấy không nên thay đổi như vậy, thế là một mưu lược đáng chú ư
được chọn dùng làm nảy sinh ra cái lớp kỳ lạ tạo vật mà ta gọi là “người
nhân tạo”.
Các nguyên khí cao của “người hướng dẫn” nguyên thủy được phép vượt qua ḍng
tiến hóa bị tŕ hoăn lâu dài tiến nhập vào cơi thiên đường, nhưng u hồn (xem
trang 170) mà y bỏ lại bèn bị chiếm hữu, nuôi dưỡng rồi tác động lên sao cho
nó có thể xuất hiện nơi nhóm lên đồng thực tế cũng giống như trước kia.
Thoạt tiên th́ các thành viên của chi bộ dường như đă thực hiện điều này,
nhưng cuối cùng th́ người ta quyết định rằng vong linh người quá cố được bổ
nhiệm để nối tiếp “vong linh hướng dẫn” cũ nên làm như thế, rồi chiếm hữu u
hồn hoặc ma hồn của vong linh hướng dẫn cũ, và quả thật chỉ khoác lấy dáng
vẻ của y. Đây là điều được gọi là một thực thể “người nhân tạo”.
Trong một số trường hợp, có khá nhiều thay đổi dường như đă được thực hiện
mà không gây ra sự nghi ngờ, nhưng mặt khác một số người nghiên cứu thần
linh học đă quan sát thấy rằng sau một thời gian đáng kể th́ những sự khác
nhau đột nhiên xuất hiện trong cách thức và phong thái của một “vong linh”.
Không một thành viên nào của Hội đoàn Huynh đệ Hi mă lạp sơn đă từng đảm
nhiệm việc tạo ra một thực thể nhân tạo loài này, mặc dù họ cũng không thể
can thiệp khi có bất cứ ai nghĩ rằng nên tiến hành lộ tŕnh ấy.
Ngoài việc gây ra sự thất vọng, việc dàn xếp như vậy c̣n có nhược điểm là
những người khác ngoài ṿng chi bộ nguyên thủy cũng có thể bắt chước nhái
theo cách đó và chẳng có ǵ ngăn cản những nhà pháp thuật tà đạo cung cấp
các vong linh tiếp điển mà quả thật họ đă từng được biết là chơi tṛ ấy.
-----------------------------
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS