|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
CÁC HUẤN ĐIỀU CỦA NHỮNG BẬC ĐẠO SƯ
(Precepts of the gurus)
Trích MƯU CẦU MINH TRIẾT
(SEEKING WISDOM) Tác giả N. SRI RAM Bản dịch: www.thongthienhoc.com |
|
CÁC HUẤN ĐIỀU CỦA NHỮNG BẬC ĐẠO SƯ
Hiển nhiển là có một số những bộ khảo luận Tây Tạng thuộc về sinh
hoạt tôn giáo và con đường đi tới Niết Bàn, mà họ bảo rằng đó là sự
giác ngộ chân thực, vốn không t́m đường đi vào thế giới của những
ngôn ngữ hiện đại khác. Một số bảy trong những thứ này được ông W.
Y. Evans-Wentz đă thu thập và biên tập cách đây vài năm rồi xuất bản
với tựa đề Khoa Yoga của Tây
Tạng và các Giáo lư Bí
nhiệm. Khi đọc một quyển sách như thế người ta chẳng bao giờ dám
chắc rằng bản dịch, cho dẫu của một học giả nổi tiếng là tài ba,
cũng hoàn toàn chính xác. Bản thân ông Evans-Wentz cũng ngộ ra được
sự khó khăn khi dịch chính xác những tư tưởng, đặc biệt là về những
đề tài triết học và siêu h́nh học, được bày tỏ bằng một ngôn ngữ đặc
thù, chuyển thành những thành ngữ và từ vựng của ngôn ngữ khác.
Một ngôn ngữ là một phương tiện vô cùng phức tạp hữu cơ diễn tả
những tư tưởng, phản ứng, xúc cảm nội tâm và quan điểm của dân tộc
đặc thù sử dụng ngôn ngữ ấy. Trong một ngôn ngữ có thể có một từ ngữ
mà ta coi như là đồng nghĩa với một từ ngữ khác trong một ngôn ngữ
khác. Nhưng chúng không thể có cùng một mùi vị và thị hiếu,
cùng một liên tưởng hay thậm chí hoàn toàn có nghĩa giống như nhau.
Lộ tŕnh tốt nhất khi người ta chuyển qua việc dịch từ một ngôn ngữ
có những ngữ căn cổ sơ, là cố gắng tự ḿnh t́m hiểu xem nó dường như
nói ǵ, hoặc khi một phát biểu nào đấy không dường như hoàn toàn
đúng hoặc có thể hiểu được, th́ cứ bỏ mặc nó hoặc kiến tạo nó theo
một cách thức có thể đúng và thỏa đáng cho ḿnh tự hiểu. Chúng ta có
thể đi lạc xa xôi nếu chúng ta thuyết giảỉ điều được nói trong một
ngôn ngữ cổ truyền mà ta không biết thành ra những kiểu cách khiến
cho nó có một ư nghĩa không thể thay đổi được. Một ví dụ điển h́nh
của việc các học giả lỗi lạc có thể hiểu lầm một từ ngữ xiết bao
chính là việc dịch Niết Bàn thành ‘tịch diệt’, vốn ngược hẳn với mọi
điều miêu tả về nó trong kinh sách Phật giáo.
Những bộ khảo luận gộp thành quyển sách nêu trên nghe đâu thuộc về
trường phái Phật giáo Đại thừa, vốn đặc biệt thịnh hành ở Tây Tạng,
nhưng cũng có một số biến thể; trong một chừng mực ít hơn ở Trung
Hoa và Nhật Bản. Nhưng ta phải nhớ rằng ở Tây Tạng cũng như ở những
xứ khác th́ các khái niệm biểu diễn triết lư Phật giáo được trộn lẫn
rất nhiều với những ư niệm từ những nguồn khác nữa.
Một trong những đặc trưng của giáo huấn Phật giáo là mọi đề tài mang
tính siêu h́nh hoặc tâm lư mà người ta bàn tới đều được phân tích tỉ
mỉ, đều được xếp nhóm lại và đánh số.
Điều được bàn luận được chia thành các phạm trù khác nhau và
được phân loại theo đó. Chẳng hạn như có Tứ diệu đế, Thập nhị nhân
duyên (cái gọi là những nguyên nhân tùy thuộc lẫn nhau, những qui
tŕnh và những sự phân chia tâm lư vốn cấu thành ṿng sinh tử luân
hồi), năm vị Thiền na Phật v.v. . .
Một trong những văn bản mà ông Evans-Wentz biên tập có tựa đề là
‘Các huấn điều của những bậc Đạo sư’ tức là những thầy dạy về tinh
thần đă xuất hiện và đă giảng dạy về những vấn đề này. Nó bao hàm
hai mươi tám phạm trù, theo như người ta gọi, một trong những phạm
trù ấy được gọi là ‘mười nguyên nhân đáng tiếc’. Người ta có thể
thắc mắc tại sao lại đúng là mười chứ không phải là mười một hoặc
chín? Thật khó cho bất cứ ai xác định được xem những sự vật nào là
đáng tiếc nhất hoặc đáng được hoan hỉ nhất. Thật dễ mà sưu tầm được
một danh sách, nhưng đó không phải là việc phân tích. Khi có sự phân
chia thành các phạm trù, các đề mục hoặc tiểu đề mục, th́ chúng
không nên chồng lấn lên nhau. Chúng nên bổ túc lẫn cho nhau, giống
như các màu sắc của một quang phổ, và mỗi màu sắc phải có ư nghĩa
chính xác cá biệt của ḿnh. C̣n một danh sách khác gồm ‘mười yêu
cầu’ đối với việc bước trên Thánh đạo. Có một tập hợp thứ ba gồm
mười Huấn điều biểu thị ‘những điều phải làm’; một tập hợp thứ tư,
‘mười điều cần phải biết’; một tập hợp thứ năm, ‘mười ba sự thất bại
nặng nề’ v.v. . . Tất cả những đề tài này đều có bản chất tổng quát
mà người ta có thể cố gắng t́m ra xem chính bản thân ḿnh sẽ phải
tŕnh bày nó trong những đề mục khác nhau ra sao, và phải nhớ mục
tiêu căn bản của tất cả mọi Huấn điều này chính là việc thành tựu
được kiến thức thật sự tức tri thức về Chân lư mới là quan trọng.
Những huấn điều nhấn mạnh tới tầm quan trọng của một sinh hoạt thật
sự tôn giáo. Tố chất ‘thật sự’ là cần thiết bởi v́ điều được biểu
thị không phải là một sinh hoạt chỉ tuân theo một vài qui tắc và
giới luật thực hành một vài nghi lễ v.v. . . mà là một sinh hoạt có
thể được coi là tôn giáo theo nghĩa căn bản. Xét theo nghĩa đen th́
từ ngữ ‘tôn giáo’ hơi có cùng ư nghĩa với từ ngữ ‘Yoga’; đó là ‘cái
ràng buộc’, và Yoga cũng có nghĩa là đạt tới một t́nh trạng nội tâm
hiệp nhất giữa con người và Thượng Đế, tức cái thấp với cái cao, để
thay thế cho sự xung đột và mâu thuẫn trong sinh hoạt phàm tục đời
thường, mà ta gọi là luân hồi, nghĩa đen là ‘chạy ṿng ṿng’.
Để dẹp bỏ được những sự xung đột như thế th́ người ta phải bỏ đi
những khoái lạc và hưởng thụ trần tục. Có lẽ đây không phải là cái
tốt nhất để diễn tả điều mà người ta ngụ ư, bởi v́ không có huấn
lệnh phải từ bỏ. Người ta phải ngộ ra được rằng mọi khoái lạc và
hưởng thụ ở bất cứ mức nào đều có bản chất nhạt nhẽo, được tính toán
để đánh bẫy cái trí, mà khi cái trí bị vướng mắc vào đó rồi th́ đâm
ra không thể di chuyển tự do thoát ra khỏi cái ma lực của những sự
liên tưởng hấp dẫn, những kư ức về các khoái lạc được tận hưởng và
những đau khổ bị trải nghiệm. Khi người ta ngộ ra được điều này, th́
một người nào đó cũng không cần phải tới bảo rằng y nên từ bỏ điều
này hoặc điều kia; y ắt tự nguyện từ bỏ bất cứ một điều ǵ mà tốt
hơn là nên từ bỏ.
Mọi giáo huấn của Phật giáo
đều làm cho người ta nhớ kỹ nhu cầu là phải chánh niệm về tư tưởng,
lời nói và hành vi, sao cho người ta không thể đi chệch hướng mà
người ta đang đi trên đó. Nhưng trước hết, điều được coi quan trọng
nhất là một tinh thần bao quát vị tha, và chánh nghiệp ắt té ra là
duy tŕ được tinh thần ấy.
Hầu hết các Huấn điều đều giống như những quan sát về những con
người đă đạt tới sự thực chứng cá nhân về những sự thật được phát
biểu, mặc dù có một số huấn điều dường như chỉ là những ngạn ngữ
thông thường, không có ǵ đáng ngoại lệ mà là sáo rỗng. Xét chung
th́ những Huấn điều này diễn tả bản chất của giáo huấn trung tâm của
Đại thừa Phật giáo dưới một dạng rất đẹp và có giá trị của riêng
ḿnh, mặc dầu những văn bản khác bao gồm trong quyển của ông
Evans-Wentz cũng bàn tới những phép thực hành t́m cách kiểm soát
những qui tŕnh sinh lư và dường như ít nhất thoạt đầu vốn dựa trên
những khái niệm hoang tưởng.
Những người nào đă đọc quyển
Tiếng Nói Vô Thinh đều biết rằng nó cốt ở ba phần khảo luận để
truyền đạt tinh túy của tư tưởng Đại thừa dưới một dạng rất sáng
sủa. Chúng được bao quát dưới dạng những bài thuyết tŕnh, trong đó
học tṛ hỏi thầy để xin được dẫn dắt và minh giải, c̣n thầy bảo cho
học tṛ biết những mục đích trên đường Đạo, đủ thứ đức hạnh cần phải
được phát triển, những nhược điểm cần phải tránh, và những sự thật
có liên quan tới mọi điều này. Thầy cũng phải làm rơ rằng ḿnh chỉ
có thể vạch đường, chứ không thể đưa học tṛ đi tới đích đă định.
Người học tṛ phải dùng trí tuệ của riêng ḿnh ở mỗi bước, thu thập
hết mọi nghị lực trong bản chất ḿnh, và chăm chú nghiêm trang đối
với nhiệm vụ. Nếu chỉ là vấn đề t́m ra một người thầy có thể dẫn dắt
ḿnh đi tới mục tiêu thỏa đáng, th́ khó khăn ắt chỉ ở nơi t́m ra
được người thầy đúng, c̣n sau đó học tṛ ắt chẳng có trách nhiệm ǵ.
Nhưng trường hợp này lại không phải như vậy. Học tṛ phải tự ḿnh
thực hiện cuộc hành hương, đối mặt với mọi khó khăn và chỉ có sự
hiểu biết của riêng ḿnh dẫn dắt.
Theo những Huấn điều này, trong số mười điều phải được thực hiện th́
điều quan trọng là t́m ra một bậc thầy mà ảnh hưởng của nhân cách và
tri thức của ngài có thể là vô giá, nếu học tṛ có thể lợi dụng được
nó. Người ta bảo rằng: ‘Hăy gắn bó với một bậc đạo sư được phú cho
quyền năng tinh thần và tri thức hoàn chỉnh’. Làm sao người ta t́m
ra được một bậc như thế? Để bắt đầu người ta phải hiểu ‘quyền năng
tinh thần’ nghĩa là ǵ. Đó không phải là năng lực tạo ra những mánh
khóe giống như hiện tượng lạ hoặc phép lạ. Tính linh chẳng liên quan
ǵ tới những sự diệu dụng thông linh. Như thế vậy th́ vấn đề là làm
sao phân biệt được một vị thầy dơm - có vô số những bậc thầy giả như
vậy - và một vị thầy thật. Quyển sách dạy rằng: ‘Để tránh sai lầm
khi chọn lựa một bậc đạo sư, th́ học tṛ phải đ̣i hỏi kiến thức biết
được những khuyết điểm và những đức hạnh của chính ḿnh’. Điều này
không có nghĩa là trước hết bạn phải đi t́m sư phụ, rồi ngài sẽ cho
bạn biết bạn có những khiếm khuyết và những công trạng ra sao. Phải
có một mức độ tự biết ḿnh và sự phân biệt sinh ra từ đó, để biết
được bậc thầy chân chính khi bạn đến với ngài, chứ không phải bị hấp
dẫn bởi một người nào đó thu hút những kẻ theo ḿnh bằng cách làm lơ
đi những khiếm khuyết của họ và đùa giỡn với sự ấu trĩ của họ.
Thật dễ mà tưởng tượng được rằng người ta có vài đức hạnh, cũng như
làm giảm thiểu tối đa những khiếm khuyết của ḿnh, ngay cả khi người
ta thực chứng. Khuynh hướng tự tha thứ cho ḿnh bằng cách bảo rằng
con người là có những khiếm khuyết như thế, vốn tự nhiên ở tŕnh độ
của ta, rồi không xem xét ǵ thêm nữa. Chính v́ thiên hạ không muốn
dẹp bỏ những khiếm khuyết mà ḿnh ưa thích cho nên họ mới mưu cầu
một vị Cha ở trên trời cho phép họ được sa đà theo những điều mà họ
muốn rồi rốt cuộc cứu chuộc họ bất chấp họ ra sao đi nữa. Khi ta
thấy có một khiếm khuyết nơi người khác th́ ta có thể thấy nó qua
một kính phóng đại, nhưng khi ta thấy cũng khiếm khuyết đó nơi bản
thân ta th́ ta ưa nh́n vào nó qua một thấu kính khác. Cũng vậy, khi
ta coi các đức hạnh của ta có thể không phải là đức hạnh ǵ hết mà
chỉ giống như thế. Một người có thể là ưa ân cần giúp đỡ và vui tính
về nhiều cách, và thiên hạ có thể nghĩ rất tốt về y do chuyện đó,
nhưng nếu ta t́m hiểu động cơ thúc đẩy của y th́ ta có thể thấy rằng
điều thúc đẩy y tỏ ra dễ chịu và dễ thương như vậy xuất phát từ ḷng
tự tư tự lợi. Người ấy phải dễ dăi với thiên hạ có lẽ v́ công việc
kinh doanh của y, hoặc có thể đang t́m kiếm một sinh hoạt dễ dăi;
chính lợi ích của y khiến cho y tỏ ra thuận buồm mát mái đến mức tối
đa. Nhưng đó không thật sự là tính dễ chịu. Để thật sự dễ thương và
tử tế th́ người ta phải không có động cơ thúc đẩy mưu lợi cho bản
thân. Nếu có mục đích, cho dẫu vô ư thức, là có được ư kiến tốt đẹp
của người khác, cho dẫu đó không phải là một lợi ích vật chất nào
đó, th́ nó cũng là trường hợp muốn chiếm hữu một tài sản có một công
dụng nào đó đối với ḿnh.
Tâm trí của con người cực kỳ phức tạp. H. P. Blavatsky có nhận xét
như vậy trong quyển 5 của bộ
Giáo lư Bí truyền là ‘cái trí có nhiều điều bí mật’. Ngay cả với
sự hiểu biết hạn hẹp của ḿnh th́ ta cũng có thể nhận thức được sự
vận hành của nó phức tạp xiết bao và ta dễ bị đánh lừa bởi nó xiết
bao. Người ta có thể đă nói cho ta biết rằng khi ta c̣n thơ ấu th́
ta không được đánh lừa người khác, nhưng ta lại thường xuyên đánh
lừa chính ḿnh. Chừng nào ta c̣n làm như vậy, th́ ta ắt đi theo
những đường lối sẽ đánh lừa người khác. Toàn thể xu hướng đánh lừa
chấp nhận những ảo ảnh dễ chịu ắt phải được trừ tuyệt tận rễ ra khỏi
ta nếu ta muốn chân thật xuyên suốt.
Có một số điều gợi ư thêm nữa về việc chọn một bậc đạo sư là: ‘Hăy
tránh một đạo sư nào mà tâm hồn lại cứ nhắm vào danh vọng thế tục và
những điều sở hữu trần gian. Ta có thể nhầm lẫn những vị lang băm là
những nhà hiền triết’. Ở Ấn độ và ngay hiện nay ở Tây phương nữa
cũng có một số cái gọi là đạo sư có mục đích là phải có một số khách
hàng lớn gồm những người hâm mộ ḿnh và xu nịnh ḿnh, họ có lẽ ủng
hộ cho các đạo sư về mặt tài chính, trong bất cứ trường hợp nào, th́
cũng mang lại cho họ tầm quan trọng mà họ muốn.
Cùng với lời khuyên phải chọn một bậc đạo sư, th́ kẻ muốn làm đệ tử
được bảo phải ‘nghiên cứu giáo huấn của các bậc thánh hiền thuộc đủ
mọi giáo phái một cách vô tư ’. Từ ngữ ‘giáo phái’ ở đây nghĩa là
trường phái tư tưởng. Thật hiếm khi nào trong các giáo huấn tôn giáo
mà ta lại có những lời khuyên khiến cho ta được tự do đi theo sự
hiểu biết của riêng ḿnh. Những người thật sự là các ‘bậc đại thánh
hiền’ không thuộc về một giáo phái hoặc tổ chức đặc thù nào, mặc dù
sau khi các ngài đă khuất núi th́ các ngài tất yếu được đồng nhất
hóa với một giáo phái hoặc một tôn giáo được gọi tên theo các ngài,
và sự thật mà các ngài tuyên bố đâm ra bị trộn lẫn với những ư niệm
của loại khác. Người ta phải xét tới các giáo huấn của mọi trường
phái với một tâm trí hoàn toàn cởi mở, không thiên lệch theo bất cứ
trường phái nào, nếu ta muốn đạt được Chân lư với tính cách là mục
tiêu căn bản.
Kinh sách Phật giáo nhấn mạnh tới nhu cầu cảnh giác về tư tưởng, xúc
động và hành vi của ḿnh, bao gồm cả ngôn ngữ, bởi v́ nếu không như
vậy người ta có thể bị cuốn hút đi bởi làn sóng của một xung lực
nhất thời. Sự cảnh giác như thế là cực kỳ gian nan. Nhưng người ta
không phải lúc nào cũng có thể duy tŕ ḿnh ở một trạng thái tỉnh
thức; bộ óc và cơ thể lại mệt mỏi đi thế rồi những xung lực trong
bản chất ḿnh sẽ tác động một cách máy móc ưa khoa trương theo đường
lối của ḿnh, sao cho trước khi người ta nhận thấy được điều ǵ đang
xảy ra th́ người ta đă chiều theo một điều ǵ đấy, có lẽ là một vài
tư tưởng không đáng mong muốn. Như vậy người ta phải học cách tỉnh
thức và đồng thời lại thư giản nữa. Y sẽ làm được như thế nếu y
không quá lo âu để có được những kết quả.
Người ta dạy học tṛ rằng:
‘Việc không ngừng cảnh giác và tỉnh thức về tâm trí, lại có đặc
trưng là khiêm tốn, th́ cần thiết để giữ cho cơ thể, ngôn ngữ và tâm
trí không bị điều ác làm ô nhiễm’.
Khi cái trí nhanh nhẹn và dễ dàng đạt tới những kết luận th́
người ta đôi khi ưa quá khẳng định và thậm chí giáo điều. Một người
dần độn cũng có thể hoàn toàn khẳng định khi y bị kích động. Khi
người ta suy nghĩ nhanh chóng và háo hức nhảy bổ vào điều mà ḿnh
coi là sự thật, th́ y thường thường không dừng lại để khảo sát nó
hoặc xét tới khả năng có những quan điểm khác hơn ngoài quan điểm
của ḿnh, và cái khuynh hướng ấy sẽ được nêu ra những ư tưởng của y
dường như thể chúng không c̣n cởi mở với vấn đề nữa. V́ vậy cái câu
‘lại có thêm đặc trưng là khiêm tốn’ th́ đặc biệt thích hợp để biểu
thị cái phẩm tính ắt tồn tại trong trạng thái tỉnh thức.
Trong mọi tôn giáo th́ khiêm tốn đều được coi là một đức hạnh căn
bản. Nó không phải là yêu cầu thứ yếu, mà là yêu cầu căn bản. Nếu
một người có phẩm tính khiêm tốn, và cùng với nó là sự tỉnh thức th́
sự ḥa lẫn chúng ắt tạo ra tính khí đúng đắn nơi chính y. Khiêm tốn
không cốt ở việc rao giảng hoặc rên rỉ về sự vô nghĩa của ḿnh.
Người ta có thể làm như vậy để phủ một bức màn che lên trên sự ngă
mạn của ḿnh. Tiếng Nói Vô
Thinh có dạy rằng: ‘Hăy khiêm tốn nếu con muốn đạt được minh
triết’. Khiêm tốn là tố chất cần thiết, bởi v́ không có khiêm tốn
th́ người ta không thể thật sự minh triết. Người ta có thể có học
hỏi nhưng đồng thời thiếu minh triết, ngu đần hoặc thậm chí điên rồ.
Sự khiêm tốn cũng không cốt ở nơi khoác lấy một phương thức ứng xử;
đó là một t́nh huống tự tại của tâm trí và tâm hồn ta. Thế rồi sau
đó là những từ ngữ: ‘Hăy khiêm tốn hơn nữa khi con đă quán triệt
được minh triết’. Ở đây từ ‘minh triết’ được dùng theo nghĩa là biết
được một vài sự thật cốt lơi hoặc những định luật hoặc để sống cuộc
đời của ḿnh một cách đúng đắn. Người ta quán triệt được một điều ǵ
đó khác hẳn và độc lập với chính ḿnh, nghĩa là một điều ǵ đó khách
quan đối với chủ thể nhận biết. Mục đích chính là nhận thấy những tư
tưởng và phản ứng của ḿnh để t́m ra đâu là đúng và đâu là sai đối
với chúng.
Trạng thái tâm trí và tâm hồn vốn tỉnh thức, thế nhưng khiêm tốn này
lại phải được thấm nhuần một tinh thần từ bi hoặc yêu thương, vốn là
một ánh sáng thuộc về bản chất sâu kín nhất của tâm thức. Bất cứ khi
nào trong việc suy tư, người ta tách rời khỏi cái thái độ hoặc tinh
thần ấy, th́ y phải trở nên tỉnh thức đối với sự kiện ấy ngay tức
khắc. Các Huấn điều bảo rằng: ‘Cái trí thấm nhuần t́nh thương và
ḷng từ bi trong tư tưởng và hành vi ắt bao giờ cũng hướng tới việc
phục vụ tất cả chúng sinh’. Trong quyển
Huyền bí học thực hành,
H.P. Blavatsky bảo rằng
‘Huyền bí học trước hết và sau cùng đều là vị tha’. Cái nốt vị tha
này chạy xuyên suốt qua toàn bộ tư tưởng của Phật giáo đại thừa.
Việc quan sát những tư tưởng và phản ứng của ḿnh là một dạng tham
thiền trong đó người ta nghiên cứu chính bản chất của cái trí và
t́nh huống của nó, nh́n sâu vào nó để thấy được những động cơ thúc
đẩy ẩn tàng và các lực, nhờ vậy đạt được việc hoàn toàn tự hiểu biết
ḿnh. Đây là điều mà H. P. B. nói tới bằng những từ ngữ khác nhau
khi bà đề cập tới việc nghiên cứu bản chất thấp hèn theo sự minh
giải của bản chất cao siêu. Cái trí và các xúc động phải được nghiên
cứu một cách hoàn toàn khách quan, coi chúng là tách rời khỏi chính
ḿnh. Điều này khó hơn nhiều so với việc suy tư từ một quyển sách
hoặc chọn ra một đức hạnh nào đó rồi xoay vần nó trong tâm trí ḿnh,
mặc dù điều ấy cũng tốt, nhất là đối với kẻ sơ cơ để dựng nền móng
cho sự chánh tinh tấn. Ta nên suy gẫm và chiêm niệm cái sự thật ngay
cả khi chúng ta biết nó, trong khi vẫn thăm ḍ hoặc phát hiện sự vận
hành của tâm trí chính ta. Điều sai lầm phải được nhận ra cùng một
lúc với hoặc có liên quan tới điều đúng đắn, cũng như điều đẹp đẽ
được nhận thức liên quan tới điều không đẹp đẽ.
Trong khi người ta cố gắng tham thiền, th́ có nhiều ư niệm lại xuất
hiện, và chúng hầu như cũng xuất hiện vào nhiều lúc khác. Nhưng đệ
tử rốt cuộc phải đạt được một trạng thái tâm trí sáng tỏ với mọi ư
tưởng, trong đó cái trí vẫn yên nghỉ trong bản chất chân thực của
chính ḿnh. Làm sao nó có thể trở nên sáng tỏ với mọi ư niệm? Khi có
một ư niệm xuất hiện, th́ liệu nó có thể dẹp ư niệm ấy hoàn toàn
sang một bên không? Mọi tư tưởng mà cứ mạnh mẽ bị gạt đi th́ sau đó
một lúc bèn trở lại. Có vô số ư niệm xuất hiện, dẹp chúng sang một
bên cũng giống như chiến đấu với một đạo quân bao gồm một số người
vô hạn. Phương thức để đối phó với t́nh huống này là phải hiểu được
một vài sự thật căn bản, sao cho có một bầu khí hậu khác, một bầu
không khí khác nơi bản thân, trong đó người ta nhận thức rơ rệt được
điều ǵ là đúng và thật sự đang mong muốn. Nghe đâu mọi ư niệm đều
xuất lộ từ một chuỗi nhân quả; chúng đều là những sản phẩm của những
ư niệm trước, là sự tương tục của những ư niệm đó. Chúng có thể
khoác lấy những dạng khác nhau, nhưng về cơ bản th́ chúng có cùng
bản chất như bậc tiền bối của chúng trong quá khứ. Hầu hết chúng đều
chỉ là biểu diễn lại do trí nhớ của ḿnh. Cái trí phải được giải
thoát khỏi cái tính tự động nhớ lại ấy nếu nó muốn hành động một
cách thông minh với sự hiểu biết chân thực.
Người ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra cái trí là rỗng tuếch khi nó
chỉ đang đứng im. Có thể có một căn pḥng bừa bộn các đồ vật nhưng
nó có thể trông là trống rỗng nếu người ở trong đó đang nằm bẹp
giường. Nhưng nếu có một biến cố nào đấy xảy ra khuấy động y, th́ y
ắt phản ứng theo một cách thông thường. Những phản ứng của y, cho dù
chậm chạp, ắt chỉ biểu diễn những ư niệm đă thâm căn cố đế trong tâm
trí y đến nỗi y vô ư thức về chúng. Ta không cần tới cái loại trống
rỗng ấy. Sự trống rỗng trong tâm thức giống như một cái trống (drum)
nhạy cảm có thể tạo ra những nhịp điệu thuộc đủ loại khác nhau với
nhiều mức độ cộng hưởng khác nhau. Cái trí mà vô ư thức về những ǵ
nó hấp thụ vào bản thân ḿnh th́ có thể trông như trống rỗng, nhưng
nó thật ra chỉ ù ĺ, giống như một con trăn đă nuốt nhiều hơn mức mà
nó có thể xử lư được. Theo tiếng lóng của nhà tâm lư học hiện đại,
th́ đó phần lớn là cái trí vô ư thức, những năng lượng của nó vận
chuyển một cách âm thầm và bùng nổ thành ra công khai chỉ khi có một
loại áp lực nào đó đă được kiến tạo nên hoặc một xúc động nào đấy đă
khẩn cấp cần được một lối thoát.
Sự trống rỗng của cái trí hàm ư thoát khỏi mọi loại gánh nặng hoặc
bận bịu. Nó cũng có nghĩa là thoát khỏi những sự dính mắc và xua
đẩy, và do đó là một t́nh huống b́nh tĩnh. Chỉ trong một t́nh huống
như thế th́ người ta mới có thể đối phó hữu hiệu được ngay cả với
những vấn đề đời thường, hoặc là nhận thức được ư nghĩa chân thực
của những sự vật xảy ra đối với ta. Một cái trí thật sự trống rỗng
chẳng những nội dung không có ǵ, mà nó c̣n không bám víu lấy bất cứ
thứ ǵ ngay cả là một loại giải pháp; không có một điều ǵ làm nhuộm
màu cái bản chất tinh khiết và thuần phác của nó. Trong cái trạng
thái vốn không bị biến đổi bởi những trải nghiệm trước kia ắt không
có kiểu mẫu, không có những thói quen được xác lập hoặc những lối
ṃn. Thói quen có địa vị của nó và giá trị của nó. Nếu ta phải nghĩ
ra mọi chuyện mà ta phải làm, bao gồm cả đủ thứ hành vi của thể chất
trong sinh hoạt hằng ngày, th́ ắt ta chẳng thể sống nổi. Những sự
vật mà ta cần phải làm ắt phải trở thành thông lệ để được bàn giao
cho tính tự động của cái trí và cơ thể hoặc cho bản năng của chúng.
Nhưng cái trí nên biết tới tính tự động này để không trở thành một
nô lệ cho bất kỳ quá tŕnh tự động nào xác định sự suy nghĩ và cảm
xúc của nó.
Khi người ta nói tới một thói quen tư tưởng, bao gồm cả những xúc
động, những điều ưa và không ưa, cái tác động là một tập khí nào đó
vốn đă an trụ trong cái trí. Nhưng để được ở một trạng thái tự do,
th́ nó phải bị trống rỗng mọi tập khí, nó cũng phải tẩy trược được
mọi điều ô uế đă làm cho cấu trúc của nó bị nghẹt. Khi cái trí hoàn
toàn thuần khiết, thoát khỏi mọi điều được chồng chất lên mà nó
tưởng lầm là bản chất chân thực của chính ḿnh, th́ nó trở thành
Manas chân thực. Từ ngữ
tiếng Anh ‘cái trí’ chỉ là dịch đại khái chữ
Manas, vốn giống như một
tia sáng thuần túy soi vào những sự vật khiến cho ta biết được sự
hiện diện và bản chất của các sự vật ấy. Người ta cũng đă bảo nó là
một loại lửa bởi v́ nó là một ḍng năng lượng. Nếu
Manas là một tia sáng và
đồng thời là một ḍng năng lượng thuần khiết th́ nó ắt thật sự vô
sắc tướng, nó không phải là một tập khí vốn đă bước vào tồn tại theo
thời gian, trong khi cái trí của ta lại tích chứa những ư tưởng vốn
đă được hấp thụ, và đă phát triển những phương thức và thói quen dựa
trên đủ thứ phản ứng trong quá khứ. Một cái trí như thế quả thật là
một mớ hỗ lốn đă bước vào tồn tại, được h́nh thành bởi đủ thứ lực
chẳng hạn như ganh tị, tham dục, ghét bỏ, tham lam v.v. . .
vốn chia chẻ tổng thể của bản chất nguyên thủy của nó.
Một trong các Huấn điều này có bảo rằng ‘cái trí của mọi chúng sinh
hữu t́nh đều không tách rời khỏi Cái Trí-Tổng Thể’. ‘Mọi sinh linh
hữu t́nh chẳng những có nghĩa là con người mà là con thú, con chim
và mọi tạo vật khác nữa, cho dù chúng thấp kém và không quan trọng
đến đâu đi nữa. Nếu ta dùng từ
Manas thay cho từ cái
trí, th́ ta có thể ngộ ra được rằng cùng một ánh sáng hiện diện
thành một tia nơi mỗi người cá thể, nơi một con chim sẻ và nơi một
con kiến nhỏ nhất. Tia này có thể sáng rực hay yếu ớt; nó có thể soi
sáng cho một diễn trường lớn hoặc chỉ soi sáng cho một điểm nhỏ xíu.
Ánh sáng là ánh sáng cố hữu của tâm thức, được gọi là
buddhi để phân biệt với
cái tia chiếu lên những sự vật đặc thù, và di chuyển giữa chúng.
Nghe nói Buddhi là không
thể bị ô nhiễm bởi v́ nó vẫn không bị dính mắc. Nó biểu diễn cái bản
chất cốt lơi của tâm thức, tính nhạy cảm và tính đơn nhất của nó,
không phải là cái bản chất mà nó biểu lộ khi nó đă bị biến đổi bằng
nhiều cách khác nhau. V́ vốn không vướng mắc, cho nên nó chẳng nắm
giữ cái ǵ và vô sắc tướng. Bản chất của nó khác với một cái trí
chất đầy nội dung thuộc đủ thứ khác nhau. Điều mà cái trí bao hàm
hoặc chiếm hữu cứ tiếp tục theo thời gian, nhưng nếu cái trí có thể
đạt được một trạng thái mà không có nội dung, th́ nó trở thành một
hoạt động của tâm thức xét về bản chất phi thời gian và nguyên thủy,
rồi được tích hợp với buddhi
vốn bao giờ cũng không bị ô nhiễm và thuần khiết.
Có một số Huấn điều bắt đầu như sau: ‘Thật là vui mừng xiết bao mà
ngộ ra …’. Chẳng hạn như một trong những Huấn điều bảo rằng: ‘Thật
là vui mừng xiết bao mà ngộ ra rằng con đường đi tới tự do mà chư
Phật đă đi theo bao giờ cũng tồn tại, chẳng bao giờ thay đổi và bao
giờ cũng mở ra cho những ai sẵn sàng bước vào đó’. Đây không phải là
cái loại niềm vui b́nh thường được ngụ ư, niềm vui ấy vốn phù du,
xuất phát từ một sự kích động tạm bợ, làm nảy sinh ra những khao
khát, và tiếp theo đó là các phản ứng. Nhưng đây là một niềm vui
trào dâng từ bên trong. Có một vài sự thực chứng vốn sâu xa về bản
chất đến nỗi chúng tràn đầy bản thể của ta và chạm tới cái lớp đá
gốc của nó, thế rồi niềm vui xuất lộ từ lớp đất thuần túy ấy giống
như nước trong mát xuất phát từ một cái suối. Đó không phải là niềm
vui do những ngoại duyên gây ra. Một số những sự thực chứng này nghe
ra mang tính giáo huấn, nhưng chúng nhằm nói tới những trạng thái
hiện tồn mà ta có thể gọi là thuộc tinh thần hoặc thuộc Thượng Đế.
Chẳng hạn như người ta có đề cập tới trạng thái ‘pháp thân
(dharma-kāya) trong đó tâm trí và vật chất không tách rời nhau’,
được đề cập tới trạng thái ‘báo thân tự phân thân (sambhoga-kāya) mà
không hề có tồn tại sự sống, sự chết, sự chuyển tiếp hoặc bất kỳ sự
biến đổi nào’ và đề cập tới ‘hóa thân thiêng liêng tự phân thân
(nirmāna-kāya) trong đó không có tồn tại xúc cảm về nhị nguyên’. Đây
là ba dạng của Chơn thần thiêng liêng tức biệt ngă tinh thần và
thường được gọi là ba thân của Đức Phật, bởi v́ chúng biểu diễn ba
trạng thái tự tại của ngài, tâm thức của ngài ở ba mức khác nhau.
Nghe nói trong ‘cái trí nguyên thủy’, nghĩa là sự mở rộng nguyên
thủy của tâm thức, vốn là nền tảng của cái trí của mọi cá thể,
‘không có tồn tại một qui tŕnh tư tưởng gây xáo trộn nào’. Bản chất
của cái trí này vốn là buddhi
và manas hiệp nhất được
phản ánh nơi những người nào đă thành tựu được một trạng thái nội
tâm mà ta có thể coi là toàn bích theo quan điểm của con người thật
sự, đó là các Chơn sư trong kho tài liệu Thông Thiên Học, tức là các
mahātmās (các đại hồn).
Tiến sĩ Annie Besant so sánh tâm thức của một Chơn sư khi nó yên
nghỉ giống như là đại dương đang tĩnh lặng được ánh trăng chiếu lên;
nghĩa là có một ánh sáng mềm mại xuất phát từ bên trong khiến cho
toàn thể tâm thức chói sáng lên; ngay cả khi yên nghỉ th́ nó cũng
tràn đầy sự sống, tịch lặng và sáng sủa. Đó là trạng thái nội tâm
của đấng đă đạt được việc hoàn toàn làm chủ được ḿnh.
Người ta nên tham thiền về những sự thật như vậy trong sự đơn độc,
ta hiểu điều đó cho chính ḿnh. Sự đơn độc không có nghĩa là nhất
thiết cô đơn về thể chất, mặc dù điều đó có thể giúp ích. Nó có
nghĩa là đơn độc trong tâm hồn. Nghe nói Đức Mẹ Mary, thân mẫu của
Chúa Giê su, th́ ‘suy gẫm về những điều này trong tâm hồn bà’. Người
ta nên tham thiền về những sự thật này vốn dường như quan trọng, nên
nhớ rằng tham thiền không thể tách rời khỏi cuộc sống.
Mọi điều này thật vô cùng thú vị và thực tiễn, không chỉ về mặt siêu
h́nh hoặc triết lư, theo nghĩa là những điều biện chứng xa rời với
sự sống, bổn phận và những điều quan tâm của ta. Nó biểu thị cái
phương thức sống tốt nhất.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS