|
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS
|
CÁC GIAI ĐOẠN
HIỂU BIẾT, MINH TRIẾT VÀ THỰC HIỆN.
Tác giả : I.
K. TAIMNI Trích SELF CULTURE |
|
CÁC GIAI ĐOẠN
HIỂU BIẾT, MINH TRIẾT VÀ THỰC HIỆN.
Chúng ta đă nghiên cứu qua toàn bộ
thể chất của Chơn Thần. Chúng ta thấy rằng tự nó biểu lộ ở các cơi
tâm linh dưới h́nh thức Chơn Nhơn trường tồn và ở ba cơi thấp nhất,
như là một phàm nhơn vô thường. V́ phàm nhơn chỉ là một biểu hiện vô
thường
dùng để thu thập kinh nghiêm
và khai mở các khả năng trí tuệ và tâm linh của Chơn nhơn, và biến
mất hoàn toàn ở mỗi kiếp người sau khi đă chuyển giao tinh hoa của
kiếp sống cho Chơn nhơn. Nó không được coi như tiến hóa, mặc dầu nó
trở nên phong phú hơn, phức tạp và hữu hiệu hơn, khi sự tiến hóa
tiếp tục. Nó chỉ được xem như một dụng cụ tạm thời của Chơn nhơn
thôi. Chơn nhơn hay Jivātmā
tồn tại từ kiếp này sang kiếp khác, lần hồi tiến hóa, phát triển các
khả năng trí tuệ và tâm của nó được coi như là một dụng cụ trường
tồn của Chơn Thần.
Chúng ta biết rằng Chơn nhơn tự biểu lộ
xuyên qua ba nguyên lư mang tên là Atma-Budhi-Manas và cả ba nguyên
lư này thấy biểu lộ nổi bật theo thứ tự ở các cơi Niết Bàn, Bồ Đề và
Thượng Trí. Đúng là sự khai mở của ba nguyên lư này, xuyên qua các
thể riêng của chúng, tạo thành sự tiến hóa của con người và là điều
mà người chí nguyện hằng quan tâm đến. Sự tiến hóa của ba thể, xác,
vía, trí của phàm nhơn chỉ là để phục vụ cho sự tiến hóa cao hơn. Ít
nhất, trong công việc Thực Hiện Chơn Ngă, chúng ta chú trọng nhiều
nhứt đến ba thể cao và những nguyên lư này, mặc dầu đương nhiên,
chúng ta cũng không thể xem thường ba hạ thể của ḿnh.
Một điểm quan trọng chúng ta nên ghi
chú về ba nguyên lư cao và những thể là sự khai mở của ba nguyên lư
này và sự tiến hóa của ba thể tương ứng tiến hành một cách tổng
quát, từ dưới lên trên, nghĩa là theo thứ tự: Thượng Trí, Bồ Đề,
Niết Bàn. Đường lối, hay kiểu mẫu cơ
bản nào của cá nhân, cũng là một yếu tố trong thứ tự của sự tiến hóa
này, nhưng một cách tổng quát chúng ta có thể nói rằng, chính Thượng
Trí sẽ khai mở trước, kế đó là thể Bồ Đề và sau cùng là thể Niết
Bàn. Trên thực tế, chúng ta phải theo thứ tự vừa kể để cố gắng khai
mở đến mức có thể được những nguyên lư này.
Chúng ta phải khởi sự nghiên cứu những
quan niệm, lư thuyết liên quan đến bản chất của Thực Tại và sự biểu
hiện của nó, cũng như các phương pháp được áp dụng để t́m ra Thực
Tại này bên trong ta. Sự cố gắng để t́m hiểu và nắm lấy các quan
niệm triết lư này liên quan đến các thực tại ẩn tàng của sự sống, sẽ
thúc đẩy và làm phát triển Thượng Trí của chúng ta.
Ở giai đoạn kế, chúng ta phải cố gắng
chuyển đổi các lư tưởng của đời sống tâm linh, đặt nền tảng trên các
quan niệm này thành hành động cụ thể và như thế chuyển hóa sự hiểu
biết tâm linh chúng ta thành Minh Triết. Chúng ta cũng phải cố gắng
phát triển ḷng sùng tín hay t́nh thương cùng một lúc, và biến nó
thành một phần của toàn bộ tánh t́nh ḿnh, bởi v́ đó là phương pháp
quyền lực nhứt để khai mở khả năng Bồ Đề Tâm và thu đạt Minh Triết
thật sự. Sự hiểu biết thu thập liên quan đến các lư tưởng của đời
sống tâm linh và cố gắng chuyển đổi các lư tưởng tâm linh này thành
nếp sống thực tế, sẽ giúp chúng ta khai mở khả năng Bồ Đề Tâm và
thêm Minh Triết vào sự hiểu biết. Đây là giai đoạn thứ nh́ và là
giai đoạn cần thiết trong vấn đề Thực Hiện Chơn Ngă một cách có hệ
thống và hữu hiệu.
Cố nhiên lư
do khiến tại sao sự phát triển của Bồ Đề Tâm xuyên qua ḷng sùng tín
và việc Tu Dưỡng Bản Thân phải được thực hiện đến một mức độ đầy đủ,
trước khi chúng ta bước sang giai đoạn thứ ba, nơi đây các màn che
lấp của ảo ảnh và che đậy Thực Tại được vén lên lần hồi, cái này kế
tiếp cái kia, và những thực tại của đời sống cao cả được nhận thức
trực tiếp, lên đến mức tột đỉnh là sự Thực Hiện Chơn Ngă. Lư do thứ
nhứt là ngay ở buổi đầu, chúng ta phải t́m ra Ánh sáng có khả năng
d́u dắt chúng ta đi trên Đường Đạo một cách chắc chắn, an toàn và
thẳng bước đến mục tiêu. Chỉ có Bồ Đề Tâm mới ban cho Ánh Sáng này.
Lư do thứ hai là chúng ta phải tự trở nên Đầy Đủ với chính ḿnh và
không tùy thuộc vào các nguồn hạnh phúc từ bên ngoài. Chỉ có T́nh
Thương Thượng Đế hay ḷng sùng tín mới có thể cho chúng ta sự đầy đủ
này. Sự từ bỏ bản ngă và tạo thành công một sự trống không nội tâm,
xảy ra trong một loạt cô đơn đến cô đơn, th́ không dễ ǵ chịu đựng,
trừ khi chúng ta có được một nguồn an lạc nội tâm đang xuất hiện.
Nhiều người chí nguyện quay đầu lại, trở về với công việc, gắn bó
với đời sống thế gian, bởi v́ họ không có những phương tiện chống đỡ
bên trong ở những giai đoạn
trung gian này. Lư do thứ ba là chỉ có Minh Triết mới có khả năng
ban cho một cá nhân tất cả những cá tính cần thiết để đi trên con
Đường Đạo một cách an toàn và vững chắc, ấy là một cái nh́n đúng
đắn, một phán đoán và một quan điểm chín chắn, không bị ảnh hưởng
của những khuynh hướng thấp kém lôi cuốn con người xuống và đôi khi
làm hư hỏng đời sống của y, khi y bước chân vào những lănh vực mới
mẻ của kinh nghiệm, hiểu biết và quyền lực.
V́ thế, ở giai đoạn thứ hai, Minh Triết là
điều kiện tiên quyết và phải được phát triển càng triệt để càng tốt.
Nên nói đến nơi đây rằng Minh Triết thật sự, ở vào một mức độ khả
quan, chẳng những cần thiết mà c̣n là một bằng chứng cho biết đó là
một giai đoạn khá cao trong giải đáp vấn đề Thực Hiện Chơn Ngă.
Trước hết, bởi v́ nó đ̣i hỏi một cố gắng khá mạnh mẽ và liên tục để
đạt được nó, và có lẽ điều này là điều phần lớn người chí nguyện có
thể hy vọng thành tựu trong một kiếp sống. Điểm thứ hai, bởi v́
thành quả của Minh Triết không đáng kể. Bất hạnh thay, những ư tưởng
của chúng ta về Minh Triết không hoàn toàn đúng, v́ bị ảnh hưởng của
những ư tưởng b́nh dân ngoài đời. Một cách tổng quát, chúng ta cho
rằng đó là một sự phán đoán già dặn và khả năng sắp xếp đời sống của
ḿnh một cách có trật tự, nhờ một kinh nghiệm đa dạng và lâu dài.
Nhưng theo quan niệm Huyền Bí Học có một định nghĩa hoàn toàn khác.
Đó là một trạng thái của cái trí, khi mà nó được trọn vẹn soi sáng
do ánh sáng của khả năng tâm linh được gọi là Bồ Đề Tâm. Không một
ai có thể hiểu được sự an tịnh ngoài tầm hiểu biết; một cái nh́n bên
trong có thể xuyên qua các ảo ảnh của cuộc đời, một sự hiểu biết
chính xác bắt đầu tuôn vào trí chúng ta từ bên trong; một niềm thông
cảm êm dịu với cuộc sống, một cái cảm tưởng thanh cao cảm thấy ḿnh
là một với tất cả mọi sinh vật; một nguồn an lạc reo vui bên trong
chúng ta không vần điệu hay lư do; một sự an toàn mà chúng ta cảm
thấy khi ḿnh nhận thức rằng ḿnh sống, cử động và hiện hữu trong
Ngài; một sự vững ḷng khi ḿnh, dù mơ hồ, cảm thấy rằng chính Ngài
một cách êm dịu nhưng hùng dũng đang điều khiển mọi vật; một sự hài
ḥa nội tâm trong đó chúng ta đang sống với tất cả người khác, mặc
dầu trong khi, ở bên ngoài, chúng ta có thể đang chống đối họ; không
một ai có thể hiểu được điều này cho đến khi y kinh nghiệm được sự
soi sáng thể trí do ánh sáng Bồ Đề Tâm. Và các lợi lộc ấy thật to
tát để đền bù lại những hy sinh và cố gắng mà chúng ta phải trả để
phát triển Minh Triết. Thực tế là trạng thái này có bản chất làm măn
nguyện, khiến cho một số người chí nguyện tỏ ra bằng ḷng hoàn toàn,
ở măi giai đoạn này, không muốn cố gắng hơn nữa để tiến thêm. Chúng
ta đă đến rất gần ư tưởng của một đời sống tâm linh giác ngộ. Nhưng,
đây chưa phải là mục đích mà chỉ là một giai đoạn của cuộc hành
tŕnh, cái nền tảng trên đó kiến trúc thượng tầng của một đời sống
tâm linh giác ngộ được xây dựng, đời sống tâm linh của một Đấng Đă
Thực Hiện Chơn Ngă và Giải Thoát, đó mới là mục đích của Cơ Tiến Hóa
nhân loại.
Bởi thế, bây giờ chúng ta phải xem qua giai
đoạn kế, và cũng là giai đoạn chót trong đó Minh Triết được chuyển
hóa thành Sự Thực Hiện Chơn Ngă, khi mà chúng ta chẳng những “nhận
thức” Thực tại xuyên qua khả năng Bồ Đề Tâm, mà c̣n “biết” Thực tại
một cách trực tiếp xuyên qua Atma (thể Niết Bàn) của chúng ta, bằng
cách ḥa hợp tâm thức chúng ta với Nó, và do đó trở thành một với
Nó. Sự thực hiện có thể được định nghĩa là “biết bằng cách trở
thành”. Đây là một lănh vực của Yoga thực sự. Chúng ta sẽ bàn luận
một khía cạnh của Yoga trong chương nghiên cứu về ḷng sùng tín.
Chúng ta sẽ thấy rằng ở trong những trạng thái cao nhứt của ḷng
sùng tín, tâm thức của hành giả càng lúc càng nhập một với tâm thức
của Ishta-Devata (Đấng được tôn thờ), hoặc Đối tượng sùng bái, và do
đó tại sao con đường sùng tín cũng được gọi là Bhakti Yoga. Sau đó
chúng ta sẽ xem qua kỹ thuật của Yoga thật sự, được gọi là Raja
Yoga, hay Yoga Vương giả, được phác thảo trong quyển Yoga Sutras của
Patanjali. Hệ thống Yoga này đặt nền tảng trên Ư chí, và chính xuyên
qua việc sử dụng của Ư Chí tâm linh mà cái trí được thanh lọc và đặt
dưới sự kiểm soát, và khi ấy các sự biến đổi của nó đều được kềm chế
hoàn toàn trong Samadhi (Đại Định). Chừng đó tâm thức của người Yogi
vượt qua mọi mức độ khác nhau của cái trí, kết hợp với các thể khác
nhau, cho đến khi bức rào chót của cơi Niết Bàn được vượt qua và tâm
thức hiện rơ ngoài lĩnh vực của cái trí và trở thành một với tâm
thức của Chơn Thần Vĩnh Cửu, hay là Purusha. Đó là cách nh́n của
tiến tŕnh, từ phía dưới, từ quan điểm của phàm nhơn. Nếu chúng ta
nh́n vấn đề từ phía trên, từ quan điểm của Chơn Thần, chúng ta có
thể nói rằng Chơn Thần tự giải thoát ḿnh ra khỏi các mức độ thấp
của cái trí, cái này sau cái kia, cho đến khi tâm thức của nó được
tự do khỏi thể Niết Bàn, và nó đứng tự do trong bản chất Thiêng
Liêng đích thực của nó. Tự Thực Hiện Chơn Ngă, nhưng vẫn có tất cả
các thể của nó ở các cơi thấp để nó điều khiển. Đó là Jivanmukti –
Sự Giải Thoát – Nirvana (Niết Bàn) hay bất cứ một từ ngữ nào dùng để
diễn tả trạng thái tâm thức cao cả mà hành giả Yogi
đạt được, khi y hoàn thành cơ tiến hóa nhân loại của y.
Ở giai đoạn thứ ba, trong đó kỹ thuật Raja
Yoga được sử dụng để có sự Tự Thực Hiện Chơn Ngă, chính Ư Chí Tâm
Linh của thể Atma được sử dụng để đi đến mục tiêu cuối cùng; cũng
như ở giai đoan hai, T́nh Thương được sử dụng để đạt Minh Triết. Đó
là nguyên lư cao nhứt hoạt động trong Chơn Nhơn.
Như thế, chúng ta thấy bằng cách nào ba
nguyên lư của con người được khai mở, cái này tới cái kia, trong ba
giai đoạn: Trí Thông Minh ở giai đoạn đầu, T́nh Thương ở giai đoạn
thứ hai, trong giai đoạn ba là Ư Chí Tâm Linh. T́nh thương thêm vào
Trí Thông Minh phát triển Minh Triết. Ư Chí Tâm Linh được Minh Triết
d́u dắt mang lại sự Thực Hiện Chơn Ngă. Sự liên quan của ba nguyên
lư này, những chức năng và phương pháp phát triển có thể được tượng
trưng như sau đây:
Đă hiểu qua vị trí của Bhakti Yoga và
RajaYaga trong công cuộc khai mở tâm linh, bây giờ chúng ta có thể
tiến đến việc bàn luận một cách vắn tắt và tổng quát về hai hệ thống
Yoga quan trọng này.
HOME T̀M HIỂU NHẬP MÔN sách TIỂU SỬ BẢN TIN H̀NH ẢNH thIỀN BÀI VỞ THƠ gifts TẾT 2006 NỮ THẦN ISIS